Tải bản đầy đủ (.doc) (80 trang)

Thực trạng và giải pháp thị trường bán lẻ hàng hoá ở nước ta trong những năm gần đây

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (408.41 KB, 80 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Thị trường là phạm trù của sản xuất và lưu thông hàng hoá. Còn sản xuất
và lưu thông hàng hoá thì còn thị trường và ngược lại chính thị trường lại thúc
đẩy sản xuất và lưu thong hàng hoá phát triển.
Kinh tế thị trường là quá trình phát triển tất yếu của sản xuất hàng hoá. Sản
xuất hàng hoá trong kinh tế thị trường được phát triển theo đúng quy luật
khách quan. Sự tương tác của sản xuất hàng hoá-thị trường –kinh tế thị trường
tạo ra tam giác quyền lực kinh tế quyết định sự phát triển của xã hội hiện đại.
Trong tam giác ấy sản xuất hàng hoá và thị trường là hai điểm đáy, nền tảng
cho cho phát triển kinh tế thị trường -điển hình của tam giác.
Trong một thời gian dài trước đây, chúng ta đã coi thường sản xuất hàng
hoá, thị trường chỉ là hình thức Đổi mới tư duy lý luận về kinh tế phải coi
trọng sản xuất, lưu thông hàng hoá và thị trường , một mặt tôn trọng các quy
luật khách quan của sản xuát hàng hoá, lưu thông hàng hoá và thị trường, mặt
khác phải có sự điều tiết, quản lý của nhà nước để định hướng sản xuất hàng
hoá và thị trường theo những mục tiêu nhát định, hạn chế tính tự phát của thị
trường.
Thị trường hàng hoá bán lẻ là thị trường cơ bản đáp ứng mọi yêu cầu của
sản xuất và đời sống xã hội của nhân dân, xét về lịch sử thì đây là thị trường
được hình thành sớm nhất, xét về quy moothif nó rộng lớn nhất, xét về kinh tế
nó có ảnh hưởng lớn nhất đến sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Thị trường hàng hoá bán lẻ ở nước ta đã có bước phát triển trong những năm
qua. Thị trường có sự phát triển cả chiều rộng lẫn chiều sâu, bước đầu có sự
liên thông với thị trường khu vực và quốc tế.
Tuy nhiên quy mô, trình độ còn thấp, tính tự phát đang tiềm ẩn, sự phát
triển không đồng đều giữa các khu vực, thị trường còn nhiều bất ổn.. .Nghiên
cứu thị trường hàng hoá bán lẻ, trong tổng thể thị trường xã hội là vấn đề cấp
thiết cả lý luận và thực tế hiện nay.
Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn:GS.TS Đặng Đình Đào và TSNguyễn
Anh Tuấn đã tận tình qiúp đỡ và điều chỉnh cho em hoàn thành đề án môn học
này.




Thực trạng và giải pháp Thị trường bán lẻ hàng hoá ở nước ta trong những năm gần đây

CHƯƠNG I:THỊ TRƯỜNG HÀNG HOÁ BÁN LẺ TRONG NỀN KINH
TẾ QUỐC DÂN
1. THỊ TRƯỜNG HÀNG HOÁ BÁN LẺ TRONG NỀN KINH TẾ QUỐC DÂN
1.Quan niệm về thị trường hàng hoá bán lẻ trong nền kinh tế quốc dân
1.1. Quan niệm về hàng hióa và cơ sở ra đời của thị trường hàng hoá .
1.1.1. Quan niệm về hàng hoá
Theo C.Mác, hàng hoá sở hữu là hàng hóa, bởi vì hàng hoá là những vật hai
mặt: vừa là đối tượng sử dụng vừa là cái mang giá trị. Như vậy sản phẩm của
lao động chừng nào có giá trị sử dụng và có giá trị thì nó là hàng hoá C.Mác,
Angghen, V.I.Lênin trong tác phẩm của mình viết về hàng hoá, đã nhiều lần
nhấn mạnh rằng hàng hoá là sản phẩm của lao động, được sản xuất ra không
phải trực tiếp để tiêu dùng mà là để bán. Đã gọi là sản phẩm của lao động, thì
nó luôn có công dụng nhất định, cho dù đố là công dụng cho bản thân người
sản xuất sản phẩm đó hay cho những người khác.
Một vật C.Mác viết “ Có thể có ích và là sản phẩm của lao động mà lại
không phải là hàng hoá. Người nào làm ra để thoả mãn nhu cầu của bản thân
thì chỉ tạo ra một giá trị sử dụng cho cá nhân mình mà thôi, muổn sản xuất ra
hàng hoá thì người đó phải sản xuất ra những giá trị sử dụng, mà phải là
những giá trị sử dụng xã hội “ Sau đoạn văn này sau này Anggen có bổ xung
và làm rõ ý của C.Mác như sau: “Không chỉ nói một cách đơn giản là cho
những người khác người nông dân thời trung cổ sản xuất thóc tô cho lãnh chúa
phong kiến, sản xuất thóc thuế thập phân cho nhà chung. Nhưng không phải
sản xuất cho những người khác mà cả thóc tô lẫn thóc thếu đều chở thành
hàng hoá. Muốn chở thành hàng hoá sản phẩm phải được chuyển cho người
khác bằng con đường tao đổi để người đó dùng làm giá trị sử dụng”.
Nếu không có đoạn bổ xung và giải thích này của Angghen thì người ta

tưởng nhầm rằng bất cứ một sản phẩm nào được một người khác ( Ngoài gưòi
sản xuất ) tiêu dùng đều được C.Mác coi là hàng hoá .
Sinh viên: Nguyễn Công Tuyến
Trường ĐH Kinh Tế Quốc Dân Hà Nội

Lớp TM43A

2


Thực trạng và giải pháp Thị trường bán lẻ hàng hoá ở nước ta trong những năm gần đây

Như vậy theo quan điểm của các nhà theo chủ nghĩa Mác _ Leenin về hàng
hoá đã là cơ sở lý luận và phương châm chỉ đạo thực tiễn của NNXHCN trong
thời kỳ dài. Trước hết những thứ không phải là sản phẩm của lao động bị gạt
ra khỏi danh mục hàng hoá như: đất đai, tài nguyên, lao động, sở hữu trí
tuệ...Tiếp theo những tư liệu sản xuất quan trọng như máy móc, thiết bị,
nguyên vật liệu, điện,săng dầu ... là hàng hoá đặc biệt Thực chất đã thủ tiêu
quan hệ hàng hoá tiền tệ, thửu tiêu tiền tệ Đây cũng là nguyên nhân làm phát
sinh thị trường tự phát ngoài sự kiểm soát của nhà nước.
Sự phát triển của sản xuất xã hội đã đưa lại cho chúng ta những nhận thức
mới về hàng hoá.Phạm trù hàng hoá đã được mở rộng cả về lượng và chất.
Hàng hoá bao gồm cả hàng hoá hữu hình và hàng hoá vô hình. Theo truyền
thống hàng hoá là tổng hợp các đặc tính cơ học, hoá học, lý học có thể đo
lường được và được tập hợp trong một hình thái đồng nhất của hai thuộc tính
giá trị và giá trị sử dụng. Hiện nay hàng hoá được hiểu là một hệ thống nhất
các yếu tố có liên quan chặt chẽ với nhau nhằm thoả mãn nhu cầu đồng bộ của
khách hàng bao gồm yếu tố vật chất tạo thực thể hàng hoá và các yếu tố không
tạo thực thể như: tên gọi, nhãn hiệu, màu sắc, hìnhdáng, kích thước, bao bì,
các dịch vụ kèm theo... ngày nay người tiêu dùng hiện đại khi mua sắm sản

phẩm không chỉ chú ý tới giá trị sử dung(hình thái, hiện vật) mà rất quan tâm
đến khía cạnh phi vật thể của hàng hoá.
Sự phát triển của khoa học, công nghệ đã làm biến đổi cả sản xuất và tiêu
dùng. Nhiều khía cạnh mới của sản phẩm được phát hiện chúc năng của hàng
hoá được mở rộng. Nhiều thứ từ vô dụng trở thành hữu ích. Ngày nay người ta
không chỉ mua bán những thứ là sản phẩm của lao động. Những thứ ẩn dấu
trong lòng đất, trên mặt đất, trên không trung đều có thẻ trở thành hàng hoá.
Ơ đây cần phân biệt giữa bản chất hàng hoá với mức độ quản lý sự mua bán
hàng hoá và phương thức mua bán hàng hoá. Theo đó từ hàng hoá tiêu dùng
thông thường đến đất đai, lao dfoongj, tài nguyên, sản phẩm trí tuệ...đều trở
thành hàng hoá nếu đem ra trao đổi mua bán
Sinh viên: Nguyễn Công Tuyến
Trường ĐH Kinh Tế Quốc Dân Hà Nội

Lớp TM43A

3


Thực trạng và giải pháp Thị trường bán lẻ hàng hoá ở nước ta trong những năm gần đây

1.1.2. Cơ sở ra đời của thị trường hàng hoá.
Thị trường là phạm trù kinh tế tổng hợp gắn liền với quá trình sản xuất và
lưu thông hàng hoá. Thừa nhận sản xuất hàng hoá không thể phủ đặnh sự tồn
tại khách quan của thị trường. Lịch sử hình thành và phát triển của thị trường
là bộ phận của phát riển kinh tế xã hội. Ngay cuối giai đoạn tan giã của công
xã nguyên thuỷ, khi các bộ tộc đã snar xuất ra một khối lượng sản phẩm vượt
mức nhu cầu một cách ngẫu nhiên thì nhu cầu trao đổi sản phẩm xuất hiện,
mầm mống thị trường được hình thành từ đây. Thị trường thực sự phát triển
khi tiền tệ ra đời làm cho quá trình rao đổi sản phẩm mang hình thái mới là lưu

thông hàng hoá.
Trong lịch sử phát triển các học thuyết kinh tế vấn đề thị trường luôn được
đề cập đến như là một phạm trù trung tâm. Tư tưởng thị trường đầu tiên của
các kinh tế gia tư sảnlà chủ nghĩa trọng thương, Những người theo chủ nghĩa
trọng thương chủ trương xây dựng một thị trường tiền tệ mạnh. Họ cho rằng
hàng hoá chỉ là phương tiện là khâu trung gian để đạt được mục đích là tiền tệ,
một đất nước có nhiều vàng lsf một đất nước hưng thịnh. Chủ nghĩa trọng
thương coi thường khâu sản xuất. Đó là bất hợp lý và phi thực tế. Chủ nghĩa
trọng nông lại thien về khâu sản xuất và tuyệt đối hoá lĩnh vực sản xuất nông
nghiệp. Những đại biểu của phái trọng nông cho rằng sự phát trỉên của kinh tế
thị trường là quá trình tự nhiên phụ thuộc vào những quy luật nhất định và
không phụ thuộc vào ý trí con người.
Người ghi dấu ấn ấn đậm nét trong nghiên cứu thị trường của trường phái
kinh té học cổ điển là A.mit. Trong các tác phẩm của mình ông đã phân tích
phân công lao động xã hội đa tạo ra thị trường. Mục đích của thị trường là thu
lợi nhuận. Thị trương chính là bàn tay vô hình điều khiển nền kinh tế thị
trường và Amits đã tuyệt đối hoá sự điều tiết của thị trường. Ông đã phân tích
các nhân tố của thị trường như : người mua, người bán, cung cầu, giá cả...và
mối quan hệ giữa các nhân tố đoa lần đầu tiên có một kinh tế gia đã phân chia
thị trường thành nhiều dạng khác nhau để nghiên cứu thị trường hàng hoá, thị
Sinh viên: Nguyễn Công Tuyến
Trường ĐH Kinh Tế Quốc Dân Hà Nội

Lớp TM43A

4


Thực trạng và giải pháp Thị trường bán lẻ hàng hoá ở nước ta trong những năm gần đây


trường lao động, thị trường đất đai, thị trường tư bản. Song chủ yếu ông đã
phân tích thị trường hàng hoá và lao động. Lý thuyết về thị trường được phát
triển trong học thuyết kinh tế của J.Keynes chủ trương đẩy mạnh mọi hình
thức đầu tư kể cả đầu tư sản xuất vũ khí, phương tiện chiến tranh, mục đích là
làm sao mở rộng đầu tư để tăng cường tiêu dùng, chống khủng hoảng và thất
nghiệp. Đồng thời qua đó tăng lợi nhuận cho tư bản. Học thuyết Keynes mở ra
giai đoạn mới cho sự can thiệp của nhà nước vào thị trường thông qua việc sử
dụng các công cụ kinh tế vĩ mô. Các nhà kinh tế học tư sản sau này tiếp tục
phát triển lý thuyết thị trường của J.Keynes theo chiều hướng khác nhau.
Lý luận của chủ nghĩa Mác-Leenin về thị trường trên cơ sở kế thừa có phê
phán các lý thuyết cũ để xây dựng một học thuyết mới về thị trường. C.Mác đã
nghiên cứu và trình bày sự hình thành, phát triển của thị trường, vai trò của thị
trường, các quy luật và phạm trù kinh tế gắn với thị trường.C.Mác đã chỉ rõ:
thị trường là lĩnh vực của trao đổi và cao hơn là khâu lưu thông hàng hoá. Mác
đã phân tích sâu sắc quan hệ giữa cung cầu, giá cả thị trường và vai trò của
cạnh tranh đối với việc hình thành giá cả thị trường. Lenin là người kế thừa và
phát triển một cách toàn diện và sáng tạo chủ nghĩa Mác.
Lý luận về thị trường của Lênin được trình bày chủ yếu trong tác phẩm
“Bàn về cái gọi là vấn đề thị trường”. Theo Lênin: Khái niệm thị trường không
thể tách rời khái niệm phân công lao động xã hội được. Hễ ở đâu và khi nào có
phân công lao động xã hội và sản xuất hàng hoá thì ở có có thị trường. Quy
mô của thị trường gắn chặt với trình độ chuyên môn hoá của lao động xã hội.
Phân công lao động xã hội sẽ phát triển vô cùng tận bởi vậy phát triển của thị
trường cũng là vô cùng tận .
Qua nghiên cứu và phân tích lý thuyết về thị trường hàng hoá của các nhà
kinh điển ta thấy một vấn đề cần lưu ý sau:
Một là: thị trường gắn với thị trường hàng hoá. Sản xuất hàng hoá là cơ sở
kinh tế quan trọng của thị trường, thị trường phản ánh trình độ và mức độ của
nền sản xuất xã hội.
Sinh viên: Nguyễn Công Tuyến

Trường ĐH Kinh Tế Quốc Dân Hà Nội

Lớp TM43A

5


Thực trạng và giải pháp Thị trường bán lẻ hàng hoá ở nước ta trong những năm gần đây

Hai là : mối quan hệ giữa thị trường trong nước và ngoài nước ngà càng
nhận thức đầy đủ và đứng đắn. Từ chỗ chỉ đề cao thị trường trong nước hoặc
ngoài nước đến chỗ thấy được quan hệ thống nhất hữu cơ của hai loại thị
trường này. Phải có giải pháp để biến thị trường trong nước thành bộ phận của
thị trường thế giới.
Ba là : vai trò điều tiết của nhà nước đối với thị trường là cần thiết và tất
yếu. Điều tiết thị trường phải theo các quy luật kinh tế và sự vận động khách
quan của thị trường.
Bốn là : ngày nay không tồn tại thị trường dưới dạng thuần tuý đơn giản,
trong nền kinh tế mội nước đều tồn tại nhiều dạng thức, nhiều thể loại và
nhiều tốc độ.
Thị trường và kinh tế thị trường là những vấn đề phức tạp. Từ những
nghiên cứu sơ lược cổ xưa cho đến nhưng nghiên cứu quy mô học ngày nay
phạm trù thị trường luôn được đưa thêm những nội dung mới tuỳ từng điều
kiện và góc độ nghiên cứu. Một số khái niệm cầ chú ý khi nghiên cứu 6thị
trường hàng hóa là:
Khái niệm cố điền cho rằng thị trường là nơi diễn ra các hoạt động trao đổi,
mua bán hàng hoá. Theo nghĩa này người ta đẫ đồng nhất thị trường với chợ
và những địa điểm mua bán hàng hoá cụ thể.
Khái niệm hiện đại về thị trường thì khác rất nhiều họ cho rằng thịu trường
là quá trình người mua và người bán tác dộng qua lại với nhau để giải quyeét

giá cả và số lượng hàng hoá dịch vụ mua bán. Theo quan điểm này tác động
và hình thành thị trường là một quá trình không thể chỉ thời hay thời gian cụ
thể. Theo nội dung nghiên cứu chúng ta có thể quan niệm: thì trường là tổng
thể các quan hệ và lưu thông hàng hoá, vá lưu thông tiền tệ, tổng thể các giao
dịch mua bán các dịch vụ. Như vậy thị trường vừa có yếu tố ảo vừa có yếu tố
thực, bản chất của thị trường là giải quyết các quan hệ .
Thị trường còn có nhiều khái niệm khác tuỳ thuộc và mục đích nghiên cứu
ứng xử.
Sinh viên: Nguyễn Công Tuyến
Trường ĐH Kinh Tế Quốc Dân Hà Nội

Lớp TM43A

6


Thực trạng và giải pháp Thị trường bán lẻ hàng hoá ở nước ta trong những năm gần đây

1.2. Quan niệm về thị trường hàng hoá bán lẻ:
Mỗi hành vi trao đổi thông qua mua và bán bao giờ cũng có người mua và
người bán. Vì vậy người ta phân loại lưu chuyển hàng hoá theo hai tiêu thức:
Người bán và người mua. Theo hai tiêu thức đó hoạt dông trao đổi hàng hoá
được phản ánh qua sơ đồ sau.

Người
TDSX
Thương
nghiệp

Thương

nghiệp

Người sản
suất 1
3

5

4

Dân cư
6

2

Theo sơ đồ trên thì thị trường hàng hoá bán lẻ bao gồm dân cư và các tổ
chức mua để tiêu dùng không sản xuất (2+6) Phạm trù lưu chuyển hàng hoá
bán lẻ: phản ánh khối lượng mua hàng hoá về thoả mãn nhu cầu cá nhân hay
phản ánh. Khối lượng hàng hoá không còn cơ hội quay lại thị trường và
không bị tính trùng.
Lưu chuyển hàng hoá bán lẻ cho phép ta tính toán các chỉ tiêu nghiên cứu
tiêu dùng và mức sống dân cư, các chỉ tiêu để tính tiêu dùng khi tính GDP
theo phương pháp sử dụng theo quan điểm vật chất.
Từ nghiên cứu trên ta đi tới kết luận: Thị trường hàng hoá bán lẻ là thị
trường mà người mua và người bán tác động qua lại lẫn nhau để xác định lên
giá cả và khối lượng hàng hoá không còn cơ hội quay trở lại thị trường”.
Từ đó ta thấy dối với thị trường hàng hoá bán lẻ thiof người mua, mua
hàng hoá để tiêu dùng ngay, mà do đó hàng hoá không còn cơ hội để quay lại
thị trường và người dùng chính là người tiêu dùng cuối cùng.
Sinh viên: Nguyễn Công Tuyến

Lớp TM43A
Trường ĐH Kinh Tế Quốc Dân Hà Nội

7


Thực trạng và giải pháp Thị trường bán lẻ hàng hoá ở nước ta trong những năm gần đây

2.Phân loại về thị trường hàng hoá bán lẻ
Thị trường được nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau. Vì vậy sự phân loại
thị trường có ý nghĩa lý luận và thực tế sâu sắc. Một số chỉ tiêu để phân loại
thị trường hàng hoá bán lẻ như sau:
2.1 Phân loại hình thức bán :
2.1.1 Bán lẻ qua mạng
Đại hội VI đánh dấu bước ngoặt trong đổi mới chính sách và cơ chế quản
lý kinh té nói chung, thị trường và thương mại nói riêng. Đại hội đảng lần thứ
VI năm 1986 đã chỉ rõ: nước ta chuyển từ nền kinh tế quản lý tập trung quan
liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Hội
nhập kinh tế nước ta với nền kinh tế thé giới để tiếp thu tinh hoa của của khoa
học và công nghệ từ các nước phát triển, mà đặc biệt la là hệ thống công nghệ
thopong tin.
Tuy nước ta mới áp dụng hệ thống công nghệ thông tin trong những năm
gần đây nhưng nước ta đã ứng dụng nó một cách linh hoạt, rộng rãi và đã đem
lại cho nền kinh tế nước ta những kết quả to lớn, điều đó đã được thực tế
chứng minh.
ứng dụng công nghệ thông tin: Trong giao dịch hàng hoá thì người bán hangf
chỉ thiét kế cho mình một trang web trên mạng và bằng các hình thức, phương
tiện thông tin đại chúng thì người bán quảng bá cho sản phẩm của mình và địa
chỉ wwebside mà khách hàng quan tâm và khách hàng có thể truy cập mạng
vào địa chỉ webside đó để tìm và truy cập các thông tin cập nhật, chính xác,

đầy đủ và toàn diện nhất. Khi khách hàng có được đầy đủ những thông tin mà
mình cần mà sản phẩm đó đáp ứng nhu cầu của khách hàng thì khách hàng có
thể giaao dịch tực tiếp với người qua mang.
2.1.2 Bán lẻ qua điện thoại.
Dịch vụ bưu chính viễn thông trước thời kỳ đổi mới chưa phải là dịch vụ
đại chúng, đặc biệt là dịch vụ viễn thông thì mới chỉ dừng ở mức phục vụ cho
các cơ quan, các doanh nghiệp nhà nước và một số cơ sở sản xuất lớn. Đối với
nhân dân, máy điện thoại khi đó còn là một thứ xa xỉ, một phần là do mức
Sinh viên: Nguyễn Công Tuyến
Lớp TM43A 8
Trường ĐH Kinh Tế Quốc Dân Hà Nội


Thực trạng và giải pháp Thị trường bán lẻ hàng hoá ở nước ta trong những năm gần đây

sống của dân cư còn hạn chế, nhưng mặt khác là do cung không đủ cầu, mạng
lưới cho đáp ứng được nhu cầu của xã hội. Đến hết năm 1990 mới có 114
nghìn máy điện thoại, với mật độ 0.17 maý/100 dân.
Từ 1991 đến nay cùng với chính sách mở cửa, thu hút và huy động mọi
nguần tiềm lực cho sự phát triển chỉ trong một thời gian ngắn mạng lưới bưu
chính viễn thông Việt Nam đã được thay đổi căn bản từ hệ Analog lạc hậu
sang kỹ thuật số hiện đại, rút ngắn khoảng cách cập nhật kỹ thuật và công
nghệ hiện đại, rút ngắn khoảng cách truy cập kỹ thuật và công nghệ hiện đại
của thế giới. Đảm bảo thông tin tự động trong nước và quốc tế cũng như liên
lạc cho các vùng nông thôn, miền núi, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa
góp phần tích cực cho sự nghiệp đổi mới và phát triển kinh tế xã hội của đất
nước.
Ngành bưu chính viễn thông bước đầu dã xây dựng được một hệ thống cơ
sở vật chất kỹ thuật, mạng lưới tiên tiến, hiện đại và đang tiếp tục phát triển
nhanh, bền vững. Đến cuối năm 2002 cả nước đã có gần 5.6 triệu máy điện

thoại gấp

44.5lần so với năm 1991. Mật độ bình quân đạt đạt 6.9

máy/100dân.
Đến nay Việt Nam là một trong 30 nước trên thế giới có tổng số thuê bao
đạt 2 triệu máy và là nước có tốc độ phát triển viễn thông đứng thứ 2 thế giới
trong mấy năm qua. Với tốc độ phát triển rất nhanh như vậy và những ứng
dụng rộng rãi của điện thoại thì nó đã trở thành một phương tiện giao dịch
được áp dụng một cách phổ biến hiện nay
Khách hàng có thể thông qua điện thoại gọi trực tiếp đến người cung ứng hàng
hoá mà người tiêu dùng cần để giao dịch, troa đổi mua bán khi những điều
kiện giao dịch giữa người cung ứng và khách hàng có thể đến tận nơi nhận
hàng hoặc có thẻ bằng những dịch vụ của nhà cung ứng mà hàng hoá có thể
đến tận tay người tiêu dùng.
2.1.3 Bán lẻ thông qua hội chợ , triển lãm và cửa hàng của doanh
nghiệp
Sinh viên: Nguyễn Công Tuyến
Trường ĐH Kinh Tế Quốc Dân Hà Nội

Lớp TM43A

9


Thực trạng và giải pháp Thị trường bán lẻ hàng hoá ở nước ta trong những năm gần đây

Hội chợ và triển lãm cũng là hình thức bán lẻ hàng hoá, được một số nước
trên thế giới ứng dụng rộng rãi và phát triển từ rất lâu ở nước ta thì hội chợ và
triển lãm chỉ được áp dụng nhưng do đòi hỏi của nền kinh tế thị trường thì hội

chợ và triển lãm cũng được quan tâm và phát triển một cách nhanh chóng.
Thông qua qua các cuộc hội chợ và triển lãm thì nhà cung ứng muốn quảng
cáo cho sản phẩm mới ra đời của mình và đồng thời có thể bán lẻ ngay những
hàng hoa đáp ứng được tính chất cơ lý, hoá học mà người tiêu dùng cần khi họ
tham gia hội chợ và triển lãm.
2.2 Theo đối tượng bán
2.2.1 Đối tượng bán là nhà sản xuất
Nước ta là nước mới bước vào nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, là một nước có nguồn nhiên vật liệu tương đối rẻ và là một nước có
nguồn lao động dồi dào và rất rẻ , nhưng những sản phẩm hàng hoá được sản
xuất trên thị trường nội địa và bán tại thị trường nội địa có giá tương đối cao
so với ngững sản phẩm hàng hoá của các nước khác. Điều đó là do rất nhiều
nguyên nhân: có thể do chúng ta nhập Apec, GáT, AFTA...quy trình sản xuất
ra sản phẩm hàng hoá đó và chi phí vận chuyển của nước ta cao... Do đó mà
người tiêu dùng có thể đến tận nơi sản xuất ra hàng hoá ớiẽ mua được với giá
thấp hơn ( với khối lượng hàng hoá lớn ).
2.2.2 Đối tượng bán là các cửa hàng, đại lý và nhà phân phối
Đây được coi là hình thức bán lẻ hàng hoá phổ biến nhất ở nước ta hiện
nay. Nước ta từ khi bước vào nền kinh tế thị trường thì các doanh nghiệp, các
cá nhân, hộ gia đình và các tổ chức thành lập các cửa hàng, các đại lý một
cách đồng bộ và dầy đặc, rộng khắp ở các vùng, miền và các khu đân cư.
Những đại lý này có thể đáp ứng được những nhu cầu mà khách hàng cần

Sinh viên: Nguyễn Công Tuyến
Trường ĐH Kinh Tế Quốc Dân Hà Nội

Lớp TM43A 10


Thực trạng và giải pháp Thị trường bán lẻ hàng hoá ở nước ta trong những năm gần đây


II. VAI TRÒ, VÀ NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN THỊ TRƯỜNG HÀNG
HOÁ BÁN LẺ TRONG NỀN KINH TẾ QUỐC DÂN.
1. Vai trò của thị trường hàng hoá bán lẻ
Thị trường là khâu tất yếucủa quá trình tái sản xuất hàng hoá. ở đâu có sản
xuát hàng hoá thì ở đó có thị trường. Vai trò của thị trường hàng hoá được thể
hiện trên các mặt sau:
Thứ nhất: thị trường là sống còn đối với sản xuất và kinh doanh, mục đích
của sản xuất hàng hoá là đẻ bán, để thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng.
Trên thị trường hàng hoá bán lẻ thì mặt hàng phong phú, đa dạng. Do đó
người tiêu dùng có thể lựa chọn được mặt hàng mà mình cần một cách dễ
dàng. Bởi vậy bán hàng là khó hơn mua, mua là hành vi đơn giản còn bán là
bước nhảy vọt nguy hiểm chết người
Bởi thế còn thị trường là còn còn sản xuất, còn kinh doanh hàng hoá, mất
thị trường thì sản xuất, kinh doanh bị đình trệ.
Thứ hai: thị trường hàng hoá bán lẻ phá vỡ ranh giới sản xuất tự nhiên Tự
cấp, Tự túc giữa các vùng, Các miền tạo thành thể thống nhất trong toàn bộ
nền kinh tế quốc dân. Nhờ có sản xuất và kinh doanh hàng hoá nói chung và
kinh doanh hàng hoá bán lẻ nói riêng mà hàng hoá có thể tràn ngập trên thị
trường bất kỳ một vùng, miền nào
Thứ 3: với thị trường hàng hoá bán lẻ, hàng hoá đó được người tiêu dùng,
mua về dể tiêu dùng ngay, hàng hoá không còn cơ hội quay lại, xuất hiện trên
thị trường. Dựa vào cung, cầu và giá cả trên thị trường hàng hoá này mà người
sản xuất quyết định sản xuất, kinh doanh cái gì , số lượng bao nhiêu, chủng
loại ra sao. Qua thị trường hàng hoá bán lẻ mà nhà nước điều tiết hướng dẫn
sản xuất, kinh doanh.
Thứ 4: Thị trường hàng hoá bán lẻ nó phản ánh tình hình sản xuất, kinh
doanh, mức sống của của dân cư trong xã hội. Thị trường hàng hoá bán lẻ nó
như chiếc “phong vũ biểu ” đo thời tiết. Nhìn vào mức lưu chuyển hàng hoá
bán lẻ ta có thể thấy được tình hình sản xuất kinh doanh cũng như mức sống

của dân cư trong xã hội.
Sinh viên: Nguyễn Công Tuyến
Trường ĐH Kinh Tế Quốc Dân Hà Nội

Lớp TM43A 11


Thực trạng và giải pháp Thị trường bán lẻ hàng hoá ở nước ta trong những năm gần đây

Thứ 5: thị trường hàng hoá bán lẻ là nơi quan trọng để đánh giá kiểm
nghiệm chứng minh tính đúng đắn của chủ trương chính sách kinh tế của nhà
nước, các nhà sản xuất kinh doanh. Thị trường hàng hoá bán lẻ còn phản ánh
các quan hệ xã hội, hành vi giao tiếp của con người, đào tạo và bồi dưỡng cán
bộ.
2 . Những yếu tố tác động đến thị trường hàng hoá bán lẻ trong nước
và su thế phát triển của thị trường hàng hoá bán lẻ.
2.1. Chính sách của nhà nước đối với thương nhân
Đây là chính sách rất quan trọng của nhà nước trong lĩnh vực thương
mại . chính sách này quy định các điều kiện thủ tục đăng ký kinh doanh và
phạm vi hoạt động của thương nhân .Đối với thương nhân Việt Nam theo
chính sách hiện hành quy định : Cái nhân đủ 18 tuổi trở lên có năng lực
hành vi dân sự đầy đủ pháp nhân ,tổ hợp tác hộ gia đình có đủ điều kiện để
kinh doanh thương mại thì được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp
giấy chứng nhận kinh doanh và trở thành thương nhân. Chính sách này đã
khuyến khích rộng rãi các tổ chức cái nhân hoạt động thương mại đem lại
sự phồn vinh cho đất nước .
Chính sách thương nhân quy định việc đăng ký kinh doanh được thực
hiện tại các cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật .
theo quy định của chính phủ cơ quan đăng ký kinh doanh được tổ chức ở
tỉnh ,thành phố trực thuộc trung ương bao gồm: Phòng đăng ký kinh doanh

trong sở kế hoạch và dầu tư và phòng đăng ký kinh doanh các tỉnh uỷ ban
nhân dân huyện, phòng đăng ký kinh doanh các tỉnh ,cấp huyện có con dấu
riêng . Trình tự thành lập và đăng ký kinh doanh được quy định cụ thể từng
loại hình doanh nghiệp thương mại.
Thẩm quyền của các cơ quan được quy định cụ thể như sau :
- Giải quyết việc đăn ký kinh doanh và cấp giấy chứng nhận kinh
doanh theo quy dịnh của pháp luật

Sinh viên: Nguyễn Công Tuyến
Trường ĐH Kinh Tế Quốc Dân Hà Nội

Lớp TM43A 12


Thực trạng và giải pháp Thị trường bán lẻ hàng hoá ở nước ta trong những năm gần đây

- Xây dựng hệ thống thông tin về quản lý doanh nghiệp cung cấp thông
tin cho các cơ quan nhà nước tổ chức và các cái nhân theo yêu cầu của
pháp luật
- Yêu cầu các doanh nghiệp báo cáo tình hình kinh doanh của mình khi
xét thấy cần thiết cho việc thực hiện nhiệm vụ theo quy định của
pháp luật .Đôn dốc các doanh nghiệp thực hiện chế độ báo cáo.
- Trực tiếp kiểm tra hoặc đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiểm
tra theo các hồ sơ đã đăng ký kinh doanh.
- Sử lý các quy định về đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật.
Thu

hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và yêu cầu doanh

nghiệp giải thẻ theo quy định .

Chính sách thương nhân quy định rõ quyền hạn và nghĩa vụ của thương
nhân. Với mỗi loại hình kinh doanh thương mại như : Doanh nghiệp thương
mại nhà nước ,công ty cổ phần ,công ty trách nhiệm hữu hạn đều được quy
định quyền và nghĩa vụ cụ thể là tự do lựa chọn lĩnh vực và ngành kinh
doanh ,tổ chức hoạt động kinh doanh , quản lý và sử dụng có hiệu quả các
nguồn lực, tuyển chọn và thue lao động, quyết định việc sử dụng phần thu
nhập còn lại khi hoàn thành nghĩa vụ với nhà nước trong khuôn khổ quy định
của pháp luật .
Các doanh nghiệp có nghĩa vụ kinh doanh đúng pháp luật : Đảm bảo
quyền lợi của người lao động , chấp hành các quy định của nhà nước ,bảo vệ
môi trường .giữ ginf an ninh chính trị và thực hiện an toàn xã hội nơi doanh
nghiệp hoạt động , thành lập quỹ dự trữ theo quy định của nhà nước, thực
hiện đầy đủ và trung thực chế độ ké toán và thống kê theo pháp lệnh ké
toán thống kê của nhà nước. Chính sách thương nhân còn quy định những
ngành và lĩnh vực thương nhân không được kinh doanh.
Đối với tư nhân nước ngoài hoạt động tại Việt Nam phải theo đúng pháp
luật Việt Nam . Tư nhân nước ngoài có đủ diều kiện theo quy định của pháp
luật Việt Nam được phép đặt văn phìng đại diện , chi nhành tại Việt Nam.
Sinh viên: Nguyễn Công Tuyến
Trường ĐH Kinh Tế Quốc Dân Hà Nội

Lớp TM43A 13


Thực trạng và giải pháp Thị trường bán lẻ hàng hoá ở nước ta trong những năm gần đây

Tổ chức hoạt động cảu văn phòng đại diện ,chi nhánh và tư nhaan nước
ngoài tại Việt Nam được quy định tại mục 4 chương 1 luật thương mại và
các văn bản pháp luật của chính phủ và bộ thương mại.
2.2. Chính sách của nhà nước đối với thị trường.

Chính sách thị trường có tầm quan trọng đặc biệt cho sự phát triển của nền
kinh tế và dẫn dắt các doanh nghiệp hoạt động , hạn ché rủi ro.
Đối với thi trường trong nước phải đảm bảo tập trung nguồn lực để thúc
đẩy sản xuất hàng hoá, quy hoạch và cơ cấu lại để có những vùng chuyên
canh nsanr xuất hàng hoá lớn; bảo đảm hệ thống lưu thông hàng hoá thông
suất giữa các vùng, các địa phương. Chính sách thị trường trong nước phải bảo
đảm cho sản xuất, lưu thông vào tiêu thụ hang hoá cân đối trránh những khủng
hoảng bất ổn trên thị trường.
Chính sách thị trường nội địa phải thúc đẩy để hình thành đồng bộ các loại
thị trường, thực hiện chính sách nhất quán ổn định để các chủ thể kinh doanh
chủ động các tình thế trên thị trường. Xây dựng thị trường thống nhất trong
phạm vi toàn quốc với nhiều cấp độ thị trường và chủ trương phát triển các thị
trường trọng điển quốc gia, vùng lãnh thổ.
Một nội dung quân trọng của chấm dứt thị trường là hoạt động nghiên cứu
thị trường và các thông tin về thị trường. Nước ta thì chính sách này còn yếu.
Do đó tác động không nhỏ đến thị trường hàng hoá bán lẻ trong nước. Người
tiêu dùng trong nước với tâm lý sính hàng ngoại, mặt khác công tác nghiên
cứu thị trường và các thông tin còn yếu. Do đó thị trường hàng hoá bán lẻ
trong nước không đáp ứng được một cách đầy đủ nhu cầu của người tiêu dùng.
Vì vậy: nhà nước còn đổi mới và nâng cao hiệu quảcông tác nghiên cứu, dự
báo thị trường trong nước và thị trường quốc tế của các cơ quan quản lý, bảo
đảm kinh thông tin thường xuyên , thông xuất, nhiều chiều giữa các bộ nhành
và với doang nghiệp
Trong nước và quốc tế. Kết hợp chặt chẽ mạng lưới thu nhập thông tin
chuyên ngành và đa ngành, mạng thông tin trong nước và mạng thông tin
Sinh viên: Nguyễn Công Tuyến
Trường ĐH Kinh Tế Quốc Dân Hà Nội

Lớp TM43A 14



Thực trạng và giải pháp Thị trường bán lẻ hàng hoá ở nước ta trong những năm gần đây

ngoài nước. Đặc biệt nâng cao trách nhiệm của các tham tan, tuỳ viên thương
mại ở nước ngoài trong việc cung cấp thông tin, tìm kiếm thị trường.
Chính sách của nhà nước đối với thị trường , đối với nông thôn là một
chính sách quan trọng, ảnh hưởng đến giá cả thị trường hàng hoá bán lẻ nói
riêng và thị trường hàng hoá bán lẻ nói chung.
N ước ta gần 80% dân số là nông dân sống ở khu vực nông thôn. Chính
sách thương mại đối với nông thôn là một bộ phận của chính sách nông
nghiệp, nông thôn của đảng và nhà nước. Nếu chính sach thương mại đối với
thị trường nông thôn được đảm bảo một cách đồng bộ thì sẽ đảm bảo tiêu thụ
hàng hoá cho nông nghiệp và nông thôn, sản xuất ra, từ đó sẽ nâng cao thu
nhập của người nông dân do đó người nông dân sẽ mua lẻ được hàng hoá
dùng cho nhu cầu sinh hoạt và sản xuất từ đó sẽ làm tăng GDP của nèn kinh tế
quốc dân.
*.Chính sách đối với thị trường miền núi.
Để phát triển kinh tế xã hội miền núi, những năm qua Đảng và nhà nước
đã ban hành nhiều chính sách quan trọng, trong đó những chính sách của
chính phủ về khuyến khích phát triển thương mại miền núi, chính sách trợ giá,
tợ cước một số mặt hàng chính... đã phát huy tác dụng tích cực t. tuy nhiên
khu vực miền núi nước ta vẫn khó khăn. Chính sách thương mại miền núi cần
giải quyết một số vấn đè sau:
- Phát triển thị trường miền núi để đáp ứng nhu cầu hàng hoá thiết yếu của
nhân dân; thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, giúp đông bào dân tộc, định
canh định cư ổn định cuộc sống, xoá đói giảm nghèo, bảo đảm thị trường tiêu
thụ sản phẩm ở các địa phương
- Phát triển hệ thống chợ và trung tâm thương mại huyện và cụm xã, đầu tư
cơ sở vật chất và phát triển hệ thống giao thông để mở rộng giao lưu kinh tế ở
miền núi , hải đảo và vùng sâu, vùng xa

- Chính sách thương mại đường biên và cửa khẩu cần được tăng cường và
đúng hướng. Đầu tư phát triển một số khu kinh tế cửa khẩu cũng cần
Sinh viên: Nguyễn Công Tuyến
Trường ĐH Kinh Tế Quốc Dân Hà Nội

Lớp TM43A 15


Thực trạng và giải pháp Thị trường bán lẻ hàng hoá ở nước ta trong những năm gần đây

được chú trọng để tạo raddooij ngũ cán bộ thương mại có trình độ ngày
càng cao cho miền núi.
2.3. Chính sách của nhà nước đối với mặt hàng:
Chính sách mặt hàng là nền tảng của chính sách thương mại. Trên cơ sở
chính sách mặt hàng để xác định đầu tư và cơ cấu lại sản xuất hàng hoá hợp lý
. Chính sách hàng hoá cấp quốc gia còn giúp các doanh nghiệp định hướng sản
phẩm của mình. Chính sách hàng hoá bao gồm các nội dung chính sau:
- Chính sách mặt hàng cấp quốc gia: đây là những mặt hàng quan trọng đưa
vào cân đối của nhà nước và do nhà nước quản lý tập trung. Danh mục mặt
hàng này bao gồm tư liệu sản xuất và hàng tiêu dung có ý nghĩa quyết định
đến an ninh quốc gia, những mặt hàng xuất khẩu quan trong của nhà nước, các
mặt hàng cạnh tranh cấp quốc gia. Các vùng các địa phương, các bộ ngành
cùng xây dựng chính sách mặt hàng của mình .Chính sách mặt hàng bao gồm
nhiều tầng, vừa bảo đảm tính đa dạng, phong phú về chủng loại, vừa có mũi
nhọn.
- Chính sách thay thế mặt hàng nhập khẩu: đây là những mặt hàng ma sản
xuất trong nước đã đáp ứng được yêu cầu về số lượng, chất lượng và đủ sức
cạnh tranh, nhưng đối với nước ta có thể thấy: do quy trình công nghệ máy
móc thiếu tính đồng bộ do đó các mặt hàng trong nước sản xuất ra chưa đáp
ứng nhu cầu người tiêu dùng và không có tính cạnh tranh cao dẫn đến các

doanh nghiệp trong nước chỉ sản xuất cầm chừng.
2.4. Chính sách đầu tư phát triển thị trường
Đây là một chính sách rất quan trọng ảnh hưởng đến thị trường bán lẻ hàng
hoá. một mặt chính sách đầu tư phát triển thị trường tạo thuận lợi cho doanh
nghiệp kinh doanh thương mại, nâng cao khả năng cạnh tranh, mặt khác bảo
đảm nguồn vốn cho đầu tư cho đầu tư phát triển thị trường, cơ sở vật chất, tạo
điều kiện mở rộng hàng hoá. nếu nhà nước quan tâm đến đàu tư phát triển thị
trường một cách đúng hướng, có hiệu quả thì sẽ có đủ vốn trong quá trình tổ
chức thực hiện quy hoạch, kế hoạch phát triển thương mại ở Việt Nam. Từ đó
Sinh viên: Nguyễn Công Tuyến
Trường ĐH Kinh Tế Quốc Dân Hà Nội

Lớp TM43A 16


Thực trạng và giải pháp Thị trường bán lẻ hàng hoá ở nước ta trong những năm gần đây

tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam thuộc mọi thành phần kinh tế tổ
chức hoạt ddoongjkinh doanh hàng hoá có hiẹu quả, từ đó có thẻ đáp ứng
được nhu cầu hàng hoá của nhân dân.
2.5. Chính sách của nhà nước đối với thuế xuất nhập khẩu và thuế đối
với hàng hoá trong nước .
a. Thuế quan hay thuế xuất nhập khẩu (XNK). Là loại thuế gián thu
đánh vào hàng hoá XNK khi qua lãnh vực thuế quan của một nước. Nhà nước
sử dụng công cụ thuế quan nhăm hai mục dích
- Một là: quản lý XNK, nâng cao hiệu quả hoạt động thương mại, góp phần
bảo vệ sản xuất và hướng dẫn tiêu dùng.
- Hai là: tăng thu ngân sách. Mặc dù trong những năm gần đây vai trò của
thuế trong thương mại quốc tế đang bị giảm dần trong các nước chậm phát
triển, song khoản thu về thuế trong thương mại quốc tế vẫn chiếm vị trí đáng

kể.
Cho đến nay ttheeu quan nhập khẩu vẫn là một công cụ được sử dụng rất
rộng rãi trong chính sách thương mại của các chính phủ trên thế giới. Đối với
một nền kinh tế quy mô nhỏ khi đánh thuế nhập khẩu sẽ không làm ảnh hưởng
đén giá cả thế giới. Thông thường thuế quan nhập khẩu dẫn đến giá nội địa
cao nên làm cho mục tiêu dùng đồ nội giảm đi, sản xuất trong nước có điều
kiện tăng nên do đó khối lượng hàng nhập khẩu giảm đi. Thuế nhập khẩu tạo
ra sự phân phối lại thu nhập từ người tiêu dùng nội địa(vì phải mua hàng với
mức giá cao hơn) đồng thời cũng có sự phân phối lại từ các nhân tố dư thừa
của một quốc gia sang các nhân tố khan hiếm của các quốc gia khác, chính
phủ nhận được khoản thu về thuế, còn gánh nặng của thuế do ngưòi tiêu dùng
phải chịu.
Thuế quan nhập khẩu cũng dẫn đén tổn thất cho nền kinh tế do hạn chế tự
do hoá thương mại, tổn thất này gọi là chi phí bảo hộ. Hình thức phổ biến nhất
để hạn chế thương mại tự do là thuế quan hay là thuế nhập khẩu. Thuế quan

Sinh viên: Nguyễn Công Tuyến
Trường ĐH Kinh Tế Quốc Dân Hà Nội

Lớp TM43A 17


Thực trạng và giải pháp Thị trường bán lẻ hàng hoá ở nước ta trong những năm gần đây

yêu cầu người nhập khẩu hàng hoá phải trả tỷ lệ phần trăm cụ thể theo giá cả
quốc tế cho nhà nước .
Như vậy, thuế quan có nhiều ưu điểm và nhiều nhược điểm . nó tuỳ thuộc
vào hoàn cảnh ở từng nước ở từng giai ddoanjkhacs nhau mà có mức thuế
quan cho phù hợp. ậ nhiều nước đang phát triển thông thường thuế XNK chỉ
áp dụng rất ít các mặt hàng xuát khẩu, nhằm bổ xung nguồn thu ngân sách,

điều chỉnh thu nhập một cách hoẹp lý. Giữa các nghành và các tổ chức kinh
doanh XNK. Thuế nhập khẩu có ý nghĩa quan trọng nhằm bảo vệ nền sản xuất
trong nước nhất là các ngành công nghiệp còn non trẻ, tăng thu nhập cho ngân
sách và thực hiện chính sách ngoại thương; đồng thời khuyến khích trong
nước. Tuỳ theo điều kiện cụ thể, nhà nước miễn thuế nhập khẩu hay áp dụng
mức thuế thấp đối với những mặt hàng máy móc , thiết bị , nguyên liệu hoặc
hàng tiêu dùng thiết yếu. Việc thực hiện thuế nhập khẩu như đã trình bày ở
trên nó dẫn đến xu hướng tăng giá , giảm số lượng tiêu thụ, nhập khẩu và tăng
sản lượng sản xuất trong nước.
b. Hạn nghạch (Quota) han nghạch là một công cụ kinh tế và là mọt công
cụ phổ biến của hàng rào phi thuế quan phục vụ cho công tác điều tiết, quản lý
nhà nước về xuất nhập khẩu, vừa cải thiện cán cân thanh toán. Tính chất
chung của hạn nghạch là nhằm quy định số lượng( hoặc giá trị) nhập khẩu đối
với từng nước cho từng mặt haqngf.
Hạn ngạch được hiểu là quy định của nahf nước về số lượng ( hay giá trị)
của một mặt hang hay nhóm mặt hàng được phép xuất khẩu sang hoặc nhập
khẩu từ một thị trường nhất định trong một thời gian nhất định, thông qua hình
thức cấp giấy phép ( quota XNK). Quota nhập khẩu là hình thức phổ biến hơn,
còn Quota xuất khẩu ít được sử dụng và nó cũng tương đương với biện pháp “
hạn chế xuất khẩu tự nguyện”. Hạn chế xuất khẩu tự nguyện là một biện pháp
hạn chế xuất khẩu, mà theo đó, một quốc gia nhập khẩu đòi hỏi quốc gia xuất
khẩu phải hạn chế bớt lượng hàng xuất khẩu sang nước mình một cách “ tự
nguyện” nếu không họ sẽ áp dụng biện pháp trả đũa kiên quyết.
Sinh viên: Nguyễn Công Tuyến
Trường ĐH Kinh Tế Quốc Dân Hà Nội

Lớp TM43A 18


Thực trạng và giải pháp Thị trường bán lẻ hàng hoá ở nước ta trong những năm gần đây


Hạn ngạch thường là những quy định hạn chế về số lượng đói với những
mặt hàng dễ đo đếm và có giá trị cao, hạn chế trị giá đối với mặt hàng khó đo
đếm.
Xét về ý nghĩa bảo vệ lợi ích quốc gia, hạn ngạch cũng có tác động như thuế
quan. Hạn ngạch nhập khẩu là công cụ quan trọng đẻ thực hiện chiến lược sản
xuất thay thế nhập khẩu, hạn ngạch cho biết trước số lượng hàng nhập khẩu.
đối với thuế quan, lượng hàng nhập khẩu phụ thuộc vào mức độ linh hoạt cua
cung, cầu và thường không thể biết trước được. Như vậy xét về mặt bảo hộ,
không có sự khác biệt chủ yếu giữa thuế quan và hạn ngạch. Tuy nhiên, sự tác
động của hạn ngạch nhập khẩu khác với sự tác động của thuế quan ở hai mặt.
Mức thuế quan tối thiểu ít nhất cũng mang lại thu nhập cho chinh phủ cho
phép có thể giảm các loại thuế khác và do đó bù đắp một phần nào cho những
người tiêu dùng trong nước . Một hạn ngạch nhập khẩu lại đưa lại lợi nhuận có
thể rất lớn xin được giấy phép hạn ngạch nhập khẩu. Sự khác biệt thứ hai là
hạn ngạch có thể có thể biến một doanh nghiệp duy nhất thành một nhà độc
quyền có thể đặt mức giá bán cao để họ thu được lợi nhuận tối đa. Để khắc
phục tình trạng thất thu ngân sách nhà nước và tiêu cự nẩy sinh do phân bổ
hạn ngạch, chính phủ một số nước đã áp dụng phương pháp bán đấu giá hanh
ngạch.
Để quản lý xuất khẩu, các nước cũng áp dụng hạn ngạch xuất khẩu. Hạn
ngạch xuất khẩu được quy định theo mặt hàng, theo nhà nước và theo thời
gian.

Hạn ngạch xuất khẩu mang tính chủ động và thường là biện pháp tự

bảo vệ thị trường trong nước và tài nguyên trong nước
c. Hàng rào phi thuế quan:
Đó là những quy định hành chính phân biệt đối xử nhằm chống lại hàng
hoá nước ngoại và ủng hộ sản xuất nội địa. Nhà nước tuyên truyền quảng cáo

khuyên người tiêu dùng hoặc ra lệnh cho các viên chức dùng hàng nội địa.
Như vậy, chúng ta có thể khái quát hàng rào phi thuế quan là những khác biệt
trong những quy định hoặc tập quán của các quốc gia làm cản trở sự lưu thông
Sinh viên: Nguyễn Công Tuyến
Trường ĐH Kinh Tế Quốc Dân Hà Nội

Lớp TM43A 19


Thực trạng và giải pháp Thị trường bán lẻ hàng hoá ở nước ta trong những năm gần đây

tự do của các hàng hoá dịch vụ và các yếu tố sản xuất với các nước. Biên pháp
hạn chế xuất khẩu tự nguyện cũng là một trong những hình thức của hàng rào
mậu dịch phi thuế quan. Thực chất đấy là những cuộc thương lượng mậu dịch
giữa các bên để hạn chế bớt sự xâm nhập của hàng ngoại , tạo công ăn việc
làm cho thị trường trong nước.
Hạn chế xuất khẩu tự nguyện mang tính miễn cưỡng và gắn với những
điều kiện nhất định. Hính thức này thường được áp dụng cho các nước có khối
lượng xuất khẩu quá lớn về một mặt háng nào đó, nhất là những mặt hàng có
sức cạnh tranh cao và có su hướng mở rộng nhanh thị phần trên thị trường của
nước bị xâm nhập.
2.6. Vấn đề hàng giả và gian lận thương mại:
Hiện nay, hàng giả đang có mặt trên thị trường Việt Nam dưới đủ mọi hình
thức: Hàng nội giả hàng nội, hàng nội giả hàng ngoại (chủ yếu là sản phẩm
may mặc, mỹ phẩm, da dầy, phụ tùng xe máy), hàng ngoại giả hàng
ngoại( nhiều nhất là nhóm hàng thực phẩm, mỹ phẩm, văn phòng phẩm ),
hàng ngoại giả hàng nội (hàng vải, bóng đèn, phích nước..), chúng có mặt ở
những mặt hàng cao cấp đắt tiền lẫn những mặt hàng tiêu dùng thông thường.
Không chỉ có tư thương mà cả nhiều loại hình doanh nghiệp cúng tham gia
nhập khẩu , sản xuất buôn bán hàng giả, bên cạnh đó các thủ đoạn, kỹ thuật

làm hàng giả ngày càng tinh vi hơn, địa điểm tiêu thụ mở rộng hơn.
Hàng năm các lực lượng kiểm tra kiểm soát thị trường phát hiện xử lý,
hàng chục ngàn vụ sản xuất, kinh doanh trái pháp luật, vụ sản xuất buôn bán
hàng giả. Hình thức giả nhãn hiệu nước ngoại chiếm tỷ lệ cao nhất khoảng 7080% hàng giả. Hiện nay sản xuất buôn bán hàng giả tập trung vào mỹ phẩm,
thuố c tân dược, rượu, nước uống sản xuất công nghiệp ..đặc biệt là hễ có một
mặt hàng sảm xuất trong nước, hoặc một mặt hàng nhập ngoại được người tiêu
dùng ưa chuộng là lập tức trên thị trường xuất hiện loại hàng giả mạo giống
thứ hàng đó. Điều đáng chú ý hiện nay việc sản xuất hàng giả là các mặt hàng
thuộc nhóm thực phẩm có ưu thế trong việc sử dụng công nghệ hiện đại, sử
Sinh viên: Nguyễn Công Tuyến
Trường ĐH Kinh Tế Quốc Dân Hà Nội

Lớp TM43A 20


Thực trạng và giải pháp Thị trường bán lẻ hàng hoá ở nước ta trong những năm gần đây

dụng bao bì chính phẩm hoặc bao bì nhập ngoại. Cùng với sự phát triển, công
nghệ hiện đại thì kỹ thuật, thủ đoạn làm hàng giả ngày càng tinh vi hơn như sử
dụng kỹ thuật vi tíng in công nghệ cao vào sản xuất hàng giả. Ngay những
siêu thị được coi là điểm sáng của văn minh thương ngiệp bời hai yếu tố chất
lượng hàng hoá và phương thức phuc vụ đã phát hiện không ít các siêu thị bán
hàng giả, hàng không đúng trọng lượng.
Bên cạnh tính trạng sản xuất, buốn bán hàng giả là gian lận thương mại.
Hiện nay hoạt động gian lận thương mại diễn ra ngày càng tinh vi, số vụ gian
lận ngày càng tăng, đặc biệt là khấu trừ, hoàn thành thuế GTGT.
Các đối tượng buôn lậu thường lợi dụng danh nghĩa, tư cách pháp nhân của
các doanh nghiệp hoặc các Công ty TNHH để làm thủ tục xuất khẩu hoặc
nhập khẩu khống. Khai báo sai tên hàng, số lượng, chủng loại, xuất xứ của
hàng hoá để hưởng thuế xuất thấp hoặc thuế xuất bằng không để trốn thuế

nhập khẩu, lợi dụng hoàn thuế GTGT để chiếm đoạt thuế hoặc cất dấu những
hàng nhập khẩu, hàng cấm nhập trong lô hàng được nhập, dấu hàng có giá trị ,
hếu xuất cao trong lô hàng cồng kềnh ..
Đặc biệt thời gian qua là hành vi gian lận trong hoàn thuế GTGT. Sau bốn
năm thực hiện luật thuế GTGT , việc vi phạm trong lĩnh vực hoàn thuế liên tục
xảy ra với chiều hướng ngày càng gia tăng với mức báo động .Lợi dụng sự
thông thoáng của luật doanh nghiệp , hàng loạt các công ty “ma” đã ra đời ,
chủ yếu để mua bán hoá đơn tài chính rồi đem bán lại , tiếp sức cho những đối
tượng khác hoạt động kinh doanh trốn thuế hoặc lập hồ sơ xin hoãn thuế
GTGT rút tiền nhà nước với trị hàng trăm tỷ đồng .
Kết quả kiểm tra hoàn thuế ở 1.302 doanh nghiệp trong nước năm 2001
của nghành thuế cho thấy cứ hoàn 14 tỷ đồng thuế GTGT . Nhà nước bị DN
ăn không 400 triệu đồng . Trong ba năm 1999 đến 2001số DN sai phạm trong
hoàn thuế GTGT chiếm tới 38%tổng số DN được kiểm tra hoàn thuế (933
đơn vị /2.553 đơn vị ). Theo thống kê chưa từng đầy đủ , đến hết tháng

Sinh viên: Nguyễn Công Tuyến
Trường ĐH Kinh Tế Quốc Dân Hà Nội

Lớp TM43A 21


Thực trạng và giải pháp Thị trường bán lẻ hàng hoá ở nước ta trong những năm gần đây

4/2002, lực lượng cảnh sát kinh tế đã phát hiện 203 vụ vi phạm hoàn thuế
GTGT với tổng số tiền chiếm đoạt trên 300 tỷ đồng .
Các nguyên chính của tệ nạn hàng giả và gian lận thương mại là : một bộ
phận dân cư còn mang nặng nối suy nghĩ chỉ nhìn thấy cái lợi thiển cận , vhir
vì lợi ích của mình mà sẵn sàng làm hàng giả ảnh hưởng đến tính mạng , sức
khoẻ của bao nhiêu người khác .Một số DN làm việc chưa theo đúng quy tắc

thị trường, lợi dụng sự thông thoáng của pháp luật tìm mọi thủ đoạn rút tiền
tuef “hầu bao” của nhà nước . Thêm vào đó là cơ chế thị trường chấp nhận sự
cạnh tranh là một điều kiện cho tệ nạn làm hàng giả và gian lạn thương mại
phát triển. Việc quản lý sản xuất kinh doanh của các DN và các cấp và các
nghành quản lý sản xuất , kinh doanh có liên quan còn lỏng lẻo thiếu sự kiểm
tra kiểm soát hoặc kiểm tra kiểm soát không chặt chẽ , đặc biệt là đối với sự
bùng ra của các công ty TNHH. Hệ thống pháp luật của nhà nước ta về đấu
tranh chống sản xuất , kinh doanh hàng giả và gian lận thương mại chưa thực
sự đi vào cuộc sống . Một số quy định chưa chặt chẽ còn nhiều sơ hở , thậm
chí còn chồng chéo gây khó khăn, cản chở cho công việc kiểm tra xử lý .
Việc các cơ quan bảo vệ pháp luật chưa quan tâm đúng mức và xét xử
không kịp thời các vụ án thương mại , việc nâng cao chất lượng hàng hoá cùng
loại với hàng ngoại , tuân thủ các quy định về nhãn mác hàng hoá , chế độ hoá
đơn chứng từ .. chưa được xem xét chính xác trung thực và bên cạnh đó có
một số cán bộ thoái hoá biến chất từ các nghành chức năng đã tiếp tay , giúp
đỡ cho các đối tượng buôn bán hàng giả và đối tượng thương mại .
2.7. Những bất cập của pháp luật thương mại Việt nam.
a.Pháp luật thương mại Việt Nam thiếu tính hệ thống, mang tính tản
mạn, chắp vá và bị chia cắt một cách manh mún.
Pháp luật thương mại là tổng thể tất cả các quy tắc điều chỉnh các hoạt
động thương mại nhăm thu lợi nhuận. Nếu hiểu như vậy thì hoạt động kinh
doanh, mọi hoạt động thương mại nhằm mục đích thu lợi nhuận đều chịu sự

Sinh viên: Nguyễn Công Tuyến
Trường ĐH Kinh Tế Quốc Dân Hà Nội

Lớp TM43A 22


Thực trạng và giải pháp Thị trường bán lẻ hàng hoá ở nước ta trong những năm gần đây


điều chỉnh của pháp luật thương mại theo những nguyên tắc pháp lý cơ bản,
theo các chuẩn mực pháp lý thống nhất.
Một cách hệ thống hoá ở mức đọ cao nhất thì tất cả các nguyên tắc , chuẩn
mực, chế định pháp lý cơ bản về thương mại phải được tập hợp trong một văn
bản pháp luật thống nhất được gọi là Bộ luật thương mại hoặc Đạo luật thương
mại.

Tuy nhiên , ở Việt Nam hiện nay đang tồn tại rất nhiều văn bản manh

mún.
VD: cũng là thực hiện các hoạt động thương mại nhằm mục đích thương
mại có vốn đầu tư, nhưng các doanh nghiệp có vốn đầu tư trong nước chịu sự
điều chỉnh của luật khuyến khích đầu tư trong nước, còn các doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài lại do luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam điều chỉnh.
Các hoạt động thương mại như tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, kiểm toán, kế
toán, tư vấn pháp luật... là những hoạt động thương mại đóng vai trò ngày
càng quan trọng trong nền kinh tế quốc dân nhưng lại không thuộc đối tượng
điều chỉnh của luật thương mại năm 1997 - Đạo luật cơ bản đầu tiên của Việt
Nam về thương mại- mà do nhiều văn bản luật và dưới luật khác nhau điều
chỉnh... Việc “ chia cắt” các hoạt động này đã dẫn đến sự “ chia cắt” luôn cả hệ
thông pháp luật thương mại hiện hành ở Việt Nam ở trong tình trạng tản mạn,
chắp vá, chồng chéo, thậm chí mâu thuẫn với nhau. Tình trạng này phản ánh
khách quan của các hoạt động thương mại ở Việt Nam, trong thời gian vừa
qua.
Tuy nhiên bước vào giai đoạn mới hiện nay, tình hình kinh tế thương mại
nói chung và các quan hệ thương mại quốc tế của Việt nam nói riêng, đã có
nhiều thay đổi: Việt Nam đã gia nhập Asean, APEC... đã phê chuẩn hiệp định
thương mại Việt- Mỹ đã và đang tích cực chuẩn bị gia nhập WTO, tích cực hội
nhập với thế giới về thương mại. Vì vậy, sự thiếu hệ thống , sự tản mạn, chắp

vá của pháp lustj thương mại Việt Nam sẽ là bất cập lớn , cản trở quá trình
Việt Nam hội nhập với nền kinh tế thế giới.

Sinh viên: Nguyễn Công Tuyến
Trường ĐH Kinh Tế Quốc Dân Hà Nội

Lớp TM43A 23


Thực trạng và giải pháp Thị trường bán lẻ hàng hoá ở nước ta trong những năm gần đây

b.pháp luật thương mại Việt Nam còn thiếu nhiều chế độ , nhiều quy
định cơ bản điều chỉnh hoạt động thương mại hiện hành.
Trong số chế định cơ bản chưa thuộc đối tượng điều chỉnh của pháp luật
thương mại là các vấn đề thương mại của quyền sở hữu trí tuệ, chế định
thương mại, dịch vụ... ở Việt Nam hieej nay, các quy định về sở hữu công
nghiệp, các vấn đè về nhãn hiệu hàng hoá , kiểu dáng công nghiệp... thuộc
phạm vi điều chỉnh của pháp luật dân sự, được quy định cụ thể trong bộ luật
dân sự Việt Nam. Hoạt động dân sự là các hoạt động nhằm thoả mãn nhu cầu
tiêu dùng phi lơi nhuận của công dân, trong khi đó theo su hướng phát trieer n
của thương mại quốc tế hiện nay, cũng như thoe quy định của pháp luật quốc
gia và quốc tế thì sở hữu trí tuệ cũng có thể là các hoạt động thương mại, nếu
đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ được đua vao kinh doanh vì mục đích sinh
lời.
Việc pháp luật thương mại Việt Nam chưa có chế định về sở hữu trí tuệ ,
về thương mại dịch vụ và do đó chưa có những nguyên tắc hay quy tắc được
coi như chuẩn mực chung điều chỉnh các hoạt động thương mại. Trong hai
lĩnh vực cơ bản này “cũng là bất cập” trở ngại lớn đến tiến trình tự do hoá
thương mại giữa Việt Nam với khu vực và thế giới.
c. Vị trí của pháp luật thương mại Việt Nam chưa được định hình rõ

trong hệ thông pháp luật hiện hành của Việt Nam.
Phần lớn các nước có nền kinh tế thị trường sớm hình thành và phát triển,
đặc biệt ở các nước theo CIVILLAW như Pháp và các nước lục địa Châu Âu
hoặc Nhật Bản ( ở châu á) pháp luật thwong mại được coi là ngành luật độc
lập trong hệ thống pháp luật hiện hành. Với việc phân định như vậy mọi hoạt
động kinh doanh thương mại được điều chỉnh bởi pháp luật thương mại còn
mọi hoạt động dân sự thì chịu sự điều chỉnh của pha[s luật dân sự với những
nguyên tắc và quy địng riêng. Việc phân định như vậy tạo nên sự hệ thống
hoaa, sự rõ ràng và giúp nhà nước sử dụng công cụ pháp luật để điều chỉnh vĩ
mô nên kinh tế một cách hiệu quả tránh được sự chồng chéo, lãng phí... Tất cả
Sinh viên: Nguyễn Công Tuyến
Trường ĐH Kinh Tế Quốc Dân Hà Nội

Lớp TM43A 24


Thực trạng và giải pháp Thị trường bán lẻ hàng hoá ở nước ta trong những năm gần đây

các quy tắc pháp luật điều chỉnh hoạt động thương mại được tập hợp lại thành
luật, bộ luật, văn bản . Theo tôi đay là sự phân định khoa hoccj và logic, giúp
cho chúng ta có cơ sở để xác định được vị trí của pháp luật thương mại ở mỗi
nước.
Tuy nhiên, ở Việt Nam khoa học pháp lý vẫn chưa đi đến một kết luận cuối
cùng là pháp luật thương mại có vị trí như thế nào trong pháp luật hiện hành.
Pháp luật thương mại hiện hành có phải là ngành luật độc lập hay không.
Việc chưa khẳng định được vị trí pháp luật ở Việt Nam hiện nay đã và đang
làm cho giới luật gia lúng túng trong việc phân định mối quan hệ giữa pháp
luật thương mai với pháp luật kinh tế và khoa học pháp lý Việt Nam hiện
đang ở trong tình trạng bế tắc.
điều này cũng đang làm cho pháp luật Việt Nam nói chung và pháp luật

thương amị Việt Nam nói riêng, đang có sự khác biệt so với luật thương mại
các nước cũng như luật thương mại quốc tế.
d.

Luật thương mại Việt Nam năm 1997- Đạo luật thương mại cơ bản
đầu tiên ở Việt Nam- hiện nay đã và đang có nhiều điểm bất cập.

Luật thương mại ( gọi tắt là luật sau đây) được quốc hội thông qua ngày
10/5/1997 (có hiệu lực từ 1/1/1998) là đạo luật đầu tiên của Việt Nam về
thương mại. Sự ra đời của luật là mốc quan trọng trong công tác lập pháp ,
đánh dấu một bước phát triển trong việc thông nhất các nguyên tắc cơ bản, các
chế định, quy luật điều chỉnh hoạt động thương mại ở Việt Nam trong giai
đoạn từ 1998 trở lại đây.
Tuy nhiên, trải qua hơn 5 năm thực hiện cùng với những thay đổi cơ
bantrong các hoạt động thương mại ở trong nước cũng như với nước ngoài ,
luật thương mại năm 1997 cũng đang tỏ rõ những bất cập sau:
Một là: theo phạm vi điều chỉnh của luật thương mại năm1997 còn quá
hẹp. Luật chỉ diều chỉnh 14 hành vi thương mại ( điều 45). Trong 14 hành vi
này chỉ có một hành vi được coi là thương mại hàng hoá, 13 hành vi còn lại
chủ yếu là các hoạt động dịch vụ, gắn liền với hành vi thương mại hàng hoá
Sinh viên: Nguyễn Công Tuyến
Trường ĐH Kinh Tế Quốc Dân Hà Nội

Lớp TM43A 25


×