Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Những giá trị, hạn chế của phật giáo và ảnh hưởng của nó ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.21 KB, 18 trang )

A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Đạo Phật là một trong những học thuyết Triết học - một trong ba tôn giáo lớn
nhất trên thế giới hiện nay và tồn tại từ rất lâu đời (từ khoảng thế kỷ VI trước công
nguyên). Hệ thống giáo lý rất đồ sộ và số lượng Phật tử đông đảo được phân bố trên
nhiều nước.
Lĩnh vực nghiên cứu Phật giáo hiện nay được mở rộng, ngoài việc nghiên cứu
giáo lý, kinh điển, lịch sử… Phật giáo ra còn đề cập đến các lĩnh vực Triết học, Tâm lí
học, Khảo cổ học, Xã hội học… Phật học đã trở thành một khoa học tương đối quan
trọng trong khoa học xã hội. Hay như Tôn Trung Sơn nói: “Phật học là mẹ của triết
học, nghiên cứu Phật học có thể bổ khuyết cho khoa học” [7]. Mặc dù Phật giáo có
những giá trị sâu sắc như vậy nhưng cũng có những mặt hạn chế, không phù hợp cần
hoàn thiện.
Trong công cuộc xây dựng đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa Mác
– Lênin là tư tưởng chủ đạo, là vũ khí lý luận nhưng bên cạnh đó, bộ phận kiến trúc
thượng tầng của xã hội cũ vẫn có sức sống dai dẳng, trong đó giáo lý nhà Phật đã ít
nhiều ăn sâu vào tư tưởng tình cảm của một bộ phận lớn dân cư Việt Nam. Vì vậy,
nghiên cứu lịch sử, giáo lý và sự tác động của đạo Phật vào thế giới quan, nhân sinh
quan là rất cần thiết.
Đạo Phật được truyền bá vào nước ta khoảng thế kỉ II sau công nguyên và đã
nhanh chóng trở thành một tôn giáo có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống tinh thần của
con người Việt Nam, bên cạnh đạo Nho, đạo Lão, đạo Thiên Chúa. Vậy nên có thể nói
quá trình Phật giáo phát triển, truyền bá ở Việt Nam gắn liền với quá trình hình thành,
phát triển tư tưởng, đạo đức của con người. Vì vậy, khi nghiên cứu lịch sử, tư tưởng,
đạo đức Việt Nam không thể không đề cập đến Phật giáo và những ảnh hưởng, mối
quan hệ, tác động qua lại giữa chúng.
Tóm lại, nghiên cứu: “Những giá trị, hạn chế của Phật giáo và ảnh hưởng của
nó ở nước ta hiện nay” là rất cần thiết và quan trọng, ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống
tinh thần của đại bộ phận người Việt Nam trong nước cũng như ngoài nước.

1



B. NỘI DUNG

1. Sự hình thành và triết lý về bản thể nhân sinh của Phật giáo:
1.1 Sự hình thành của Phật giáo:
Đạo Phật ra đời vào thế kỷ VI trước công nguyên. Người sáng lập là Siddharta
(Tất Đạt Đa), sinh ra vào khoảng năm 623 trước công nguyên, con trai của
Suddhodana (Trịnh Phạn Vương) vua nước Trịnh Phạn, một nước nhỏ thuộc Bắc Ấn
Độ (nay thuộc Nepan). Sau này ông được người đời tôn vinh là Sakyamuni (Thích Ca
Mâu Ni), là Buddha (Phật)… [8]
Sau khi Siddharta mất, Phật giáo đã chia thành hai bộ phận: Thượng tọa và Đại
chúng. Phái Thượng tọa bộ (Theravada) chủ trương duy trì giáo lý cùng cách hành đạo
thời Đức Phật tại thế; phái Đại chúng bộ (Mahasamghika) với tư tưởng cải cách giáo
lý và hành đạo cho phù hợp với thực tế. [14,31]
Sau một vài thế kỷ nữa, Phật giáo được phân chia thành hai tông phái lớn là tiểu
thừa giáo và đại thừa giáo. Tiểu thừa giáo phát triển về phía Nam Ấn Độ rồi truyền bá
sang Xerilanca, Philippin, Lào, Campuchia, Nam Việt Nam… Đại thừa giáo phát triển
mạnh ở Bắc Ấn Độ, truyền bá vào Tây Tạng, Trung Hoa, Nhật Bản, Bắc Việt Nam…
Tư tưởng triết lý Phật giáo được tập trung trong một khối lượng kinh điển rất lớn,
được tổ chức thành ba bộ kinh lớn gọi là tam tạng gồm: [13]
- Tạng Luật: Gồm toàn bộ những giới luật của Phật giáo quy định cho cả năm bộ
phái Phật giáo như: “Tứ phần luật” của Thượng tọa bộ, “Maha tăng kỷ luật” của Đại
chúng bộ, căn bản nhất “Thiết hữu bộ luật”… Sau này còn thêm các Bộ luật của Đại
thừa như “An lạc”, “Phạm võng”.
- Tạng Kinh: Chép lời Phật dạy, trong thời kỳ đầu tạng kinh gồm nhiều tập dưới
dạng các tiền đề, mỗi tập được gọi là một Ahàm.
- Tạng Luận: Gồm những bài bình chú, giải thích về giáo pháp của Phật giáo.
Tạng luận gồm bảy bộ thể hiện một cách toàn diện các quan điểm về giáo pháp của
Phật giáo.


2


1.2 Triết lý về bản thể nhân sinh của Phật giáo:
Triết lý về bản thể nhân sinh của Phật giáo là một trong hai vấn đề cơ bản của
triết học Phật giáo nguyên thủy (sơ kỳ).
Cũng như nhiều trường phái khác của triết học Ấn Độ cổ đại, Phật giáo đặt vấn
đề tìm kiếm mục tiêu cứu cánh nhân sinh ở sự “giải thoát” khỏi vòng luân hồi, nghiệp
báo để đạt tới trạng thái tồn tại Niết Bàn. Tính quần chúng của luận điểm nhân sinh
Phật giáo thể hiện ở chỗ nâng cao tinh thần “bình đẳng giác ngộ”, tức là quyền thực
hiện sự giải thoát là cho tất cả mọi người mà cao hơn nữa là của mọi “chúng sinh”.
Điều này mang tính nhân bản sâu sắc, vượt qua giới hạn đẳng cấp khắc nghiệt. Nó nói
lên khát vọng “tự do cho tất cả mọi người”. Nhưng đó không phải kêu gọi gián tiếp
cho quyền bình đẳng về mặt chính trị mà là bình đẳng trong sự mưu cầu giác ngộ.
Nội dung triết học nhân sinh của Phật giáo tập trung ở bốn luận điểm (gọi là “tứ
diệu đế” hay “tứ chân đế”, “tứ thánh đế”). Tứ đế là đạo lý căn bản của Thanh Văn
Thừa, đồng thời cũng là cơ sở của các thuyết khác trong giáo lý Phật. Tứ đế được Phật
giáo coi là bốn chân lý vĩ đại về cuộc sống nhân sinh cho bất cứ cuộc sống nhân sinh
nào thuộc đẳng cấp nào. Tứ đế gồm có: Khổ đế, Tập đế, Diệt đế, và Đạo đế.
- Luận điểm thứ nhất - Khổ đế (Duhkha – satya): Sự thật nơi cuộc sống nhân sinh
không có gì khác ngoài sự đau khổ, ràng buộc hệ lụy, không có tự do. Đó là tám nỗi
khổ (bát khổ) trầm luân bất tận mà bất cứ ai cũng phải gánh chịu: 1/Sinh; 2/Lão (già);
3/Bệnh (ốm đau); 4/Tử (chết); 5/Thụ biệt ly (yêu thương nhau phải chia lìa); 6/Oán
tăng hội (oán ghét nhau nhưng phải sống với nhau); 7/Sở cầu bất đắc (mong muốn
nhưng không đạt được); 8/Ngũ thụ uẩn (năm yếu tố vô thường nung nấu làm khổ).
[14,30]
- Luận điểm thứ hai - Nhân đế (samudayya – satya): Phật giáo cho rằng cuộc
sống đau khổ là có nguyên nhân. Để cắt nghĩa nỗi khổ của nhân loại, Phật giáo đưa ra
thuyết “thập nhị nhân duyên” - đó là mười hai nguyên nhân và kết quả nối theo nhau,
cuối cùng dẫn đến các đau khổ của con người: 1/Vô minh; 2/Hành; 3/Thức; 4/Danh

sắc; 5/Lục nhập; 6/Xúc; 7/Thụ; 8/Ái; 9/Thủ; 10/Hữu; 11/Sinh; 12/Lão – Tử. Trong đó
“vô minh” là nguyên nhân đầu tiên, thâu tóm tất cả. Bởi vậy diệt trừ “vô minh” là diệt
trừ tận gốc rễ sự đau khổ nhân sinh. Dưới góc độ nhận thức, “vô minh” là “ngu tối”,
“không sáng suốt”, “thiếu giác ngộ chân lý”. [14,30]

3


- Luận điểm thứ ba - Diệt đế (Nirodha - satya): là luận điểm về khả năng có thể
tiêu diệt được sự khổ nơi cuộc sống nhân sinh, đạt tới trạng thái Niết Bàn, cứu cánh
của hành động tự do. Luận điểm này cũng bộc lộ tinh thần lạc quan tôn giáo của Phật
giáo, cũng thể hiện khát vọng nhân bản của nó muốn hướng con người đến niềm hạnh
phúc “tuyệt đối”, khát vọng chân chính của con người tới Chân - Thiện - Mỹ. [14,30]
- Luận điểm thứ tư - Đạo đế (Marga - satya): là luận điểm về con đường thể hiện
sự diệt khổ, đạt tới giải thoát. Đó không phải là con đường sử dụng bạo lực mà là con
đường “tu đạo”. Thực chất của con đường này là hoàn thiện đạo đức cá nhân. Sự giải
phóng mang ý nghĩa của sự thực hiện cá nhân, không mang ý nghĩa của những phong
trào cách mạng hay cải cách xã hội. Đây là nét đặc biệt của “tinh thần giải phóng nhân
sinh của Phật giáo”. Con đường “giải phóng cá nhân” này gồm tám quy tắc (bát
chính đạo): 1/Chính kiến (hiểu biết đúng tứ đế, sự thật nhân sinh); 2/Chính tư duy
(suy nghĩ đúng đắn); 3/Chính ngữ (nói lời đúng đắn); 4/Chính nghiệp (giữ nghiệp
không tác động xấu); 5/Chính mệnh (giữ ngăn dục vọng); 6/Chính tinh tiến (rèn luyện
tu lập không mệt mỏi); 7/Chính niệm (có niềm tin bền vững vào sự giải thoát); 8/Chính
định (tập trung tư tưởng cao độ). Tám nguyên tắc trên có thể thâu tóm vào “Tam học”,
tức ba điều kiện cần học tập và rèn luyện là Giới – Định – Tuệ. Giới là giữ cho thân,
tâm thanh tịnh, trong sạch. Định là thu tâm, nhiếp tâm để cho sức mạnh của tâm không
bị ngoại cảnh làm xáo động. Tuệ là trí tuệ. Phật giáo coi trọng khai mở trí tuệ để thực
hiện giải thoát. [14,30]

2. Những giá trị và hạn chế của Phật giáo:

2.1 Những giá trị của Phật giáo:
2.1.1 Giá trị khoa học của Phật giáo:
Trong thế kỷ XVII, Rene Des Cartes - nhà toán học người Pháp đã chia vũ trụ
thành hai phần: vật chất và ý thức. Khoa học chỉ nghiên cứu “vật chất” nên bị giới hạn
trong các đối tượng thuộc phạm vi nhận thức bằng các giác quan con người. Điều này
làm hạn chế khoa học trên con đường tìm kiếm tri thức để nhận thức bản chất của tự
nhiên.[6]
Năm 1905, Albert Einstein đã phá vỡ rào chắn không gian ba chiều, đưa khoa học
vượt qua giới hạn của không gian ba chiều. Điều này đã phá đổ sự phân chia giả định

4


của Des Cartes và chủ nghĩa duy vật cực đoan trong khoa học. Vào giữa thế kỷ XX,
khoa học đã gặt hái được nhiều thành công. Sự phát triển vượt bậc của khoa học thế kỷ
XX cho phép chúng ta thẩm định một cách khoa học các khái niệm như vô thường, vô
ngã do Đức Phật dạy là đúng với tự nhiên, vượt qua không gian ba chiều, vượt qua
khoa học cổ điển.
Những gì được khoa học khám phá ra cho là mới, thật ra trên 2.500 năm trước
Đức Phật đã biết. Điều này đã được xác nhận bằng những lời phát biểu của các nhà
khoa học hàng đầu thế kỷ XX. Triết gia Derek Parfit ở Đại học Oxford chấp nhận quan
niệm của Phật giáo về đời sống và vô ngã. Derek Parfit, Fritj of Capra (nhà vật lý hạch
tâm nổi tiếng) và Gary Zukav chấp nhận quan niệm của Phật giáo về vật chất và tin
chắc rằng cần phải giải phóng bản thân chúng ta khỏi ngục tù của các phân tử vật chất.
[6]
Khoa học đã mở ra con đường thích ứng với thời đại, khẳng định giá trị thực tiễn
của nhân sinh quan. Nếu thế giới công nhận sự thành tựu của khoa học, tức là họ đã đi
vào quỹ đạo của Phật giáo. Bởi vì Phật giáo không phải là tôn giáo thuần tín ngưỡng,
mà là tôn giáo của lý trí. Cho nên nghiên cứu Phật giáo trên lập trường khoa học, có
thể soi sáng cho nhân loại trên hành trình tìm chân lý. Đại sư Thái Hư từng nói: “Khoa

học càng phát triển, tức là hiển bày ý nghĩa chân thật của Phật giáo”. [6]
2.1.2 Giá trị thiết thực của Phật giáo:
Đạo Phật đến với con người qua những lời dạy thiết thực gắn liền với những hành
vi cử chỉ của mỗi người, những mối quan hệ giữa con người với con người và con
người với xã hội. Nhưng trong bất cứ tình huống nào thì con người cũng phải “làm
chủ”, không bị nô lệ bất cứ một đối tượng hay một sự vật nào cả. “Làm chủ không có
nghĩa là nêu cao bản ngã, nuôi dưỡng bản ngã hay độc quyền, độc đoán. Mà làm chủ
có nghĩa là tự làm chủ mình trước mọi hoàn cảnh, trước những đột biến của nội tâm
và ngoại cảnh”. Muốn thành công trên đường đời phải làm chủ chính mình. Muốn độ
người, độ đời, trước tiên nhất thiết phải độ mình, tự quay lại với chính mình, soi rọi
tận tâm để tu tập, để sửa đổi, chuyển hóa tâm thức của mình, nên nói: “Phương châm
hướng nội, quay về với chính mình, với con người thật của mình…là phương châm
sống động nhất và thiết thực nhất để cải tạo xã hội và xây dựng Niết Bàn ngay trên thế
gian này”. [1,210]

5


Đức Phật luôn quan tâm đến hạnh phúc thực tại của người đệ tử. Lời dạy của
Người không phải là lời hứa hẹn về cuộc sống tốt đẹp trong tương lai mà là những
phương pháp tu tập để có cuộc sống hạnh phúc ngay trong hiện tại. Lời nhận định sau
nói rất rõ ý nghĩa ấy: “Đức Phật khi dạy pháp gì cho đệ tử cũng nghĩ ngay đến hạnh
phúc thực tại của người đệ tử mình, và lời dạy ấy phải thiết thực, được ứng dụng ngay
trong hiện tại. Ngài không đề cập đến những triết lí mơ hồ, trừu tượng, viển vông, trái
lại lời dạy của Ngài rất thiết thực với cuộc sống con người, ứng dụng ngay trong nếp
sống hiện tại”. [2,26] Sống với hiện tại là cách sống tốt nhất, thiết thực nhất đối với
vấn đề đoạn tận khổ đau, xây dựng cuộc sống hạnh phúc.
2.1.3 Giá trị giáo dục của Phật giáo trong xã hội hôm nay:
Tính giáo dục của Phật giáo đã đến với nhân loại với tinh thần khoan dung kêu
gọi mọi người nhường cơm xẻ áo, nhìn nhau bằng ánh mắt từ hòa, góp phần hình

thành nên nền đạo đức xã hội, để hòa điệu với cái “ta” rộng lớn của toàn thể vũ trụ vô
biên.
* Giá trị giáo dục của Phật giáo - một giá trị nhân bản sâu sắc:
Đạo Phật đã ra đời trong một thực tại đa diện, phồn tạp của nền văn minh Ấn Độ,
xuất hiện để dung hòa các trào lưu tư tưởng đối nghịch, để san bằng những ngăn cách
xã hội giữa các đẳng cấp. Ngay từ khởi thủy tư tưởng giáo dục của triết lý Phật giáo đã
mang trong mình những giá trị nhân bản chung toàn nhân loại. Đặc trưng cơ bản nhất
đó là tính toàn vũ trụ, toàn diện, tổng hợp. Trong đó lòng Từ bi – Bình đẳng – Vô ngã
cùng sự hướng thiện mà đạo Phật muốn giáo dục con người với mục đích “cứu khổ”
là quan trọng nhất.
Theo đạo Phật, chính “chấp ngã” đã gây ra cho loài người những cuộc chiến
tranh núi xương sông máu, chiến tranh tội ác và bạo lực đã và đang là điều nhức nhối
của toàn nhân loại. Trong tình hình này Phật giáo kêu gọi mọi người hãy dứt các việc
làm ác mà hãy hành thiện, khuyên con người dang rộng vòng tay ôm vũ trụ vào lòng
và đừng bao giờ khép kín tâm tư lại. Hãy phát triển nhân đạo và từ bi quên đi những
cái “ta” ích kỷ, nhỏ hẹp. Vì thế tính giáo dục của Phật giáo đã đến với nhân loại với
tinh thần khoan dung kêu gọi mọi người nhường cơm xẻ áo, nhìn nhau bằng ánh mắt
từ hòa, góp phần hình thành nên đạo đức xã hội, để hòa điệu với cái “ta rộng lớn” của
toàn thể vũ trụ vô biên, Đức Phật đã từng dạy: “Một hạnh phúc vĩnh cửu chỉ sống

6


mạnh trong một tâm hồn giải thoát và tâm hồn giải thoát chỉ có thể thực hiện một khi
cá nhân chịu nhường bước”. Đó là mục đích giáo dục con người hoàn thiện cả về tài
lẫn đức trong một xã hội văn minh. [11]
Nội dung giáo dục của triết lý Phật giáo chẳng khác gì lời kêu gọi hòa bình - một
nhu cầu luôn cần cho mọi người, mọi nhà, và là tài sản quý báu nhất của nhân loại.
Đây là giá trị nhân đạo nhất, khác với mọi tôn giáo khác, trong suốt lịch sử tồn tại và
phát triển Phật giáo luôn xuất hiện và thâm nhập vào các dân tộc như sứ giả của hòa

bình, an lạc.
* Giáo dục con người sống có đạo đức và đạt được hạnh phúc:
Để giáo dục đạo Phật đã đưa ra bốn chân lý kỳ diệu, với yếu tố biện chứng, kết
cấu chặt chẽ khi đưa ra lý thuyết “ngũ uẩn”, chỉ rõ căn nguyên của khổ đau là do
thâm, sân, si cùng với lý luận về thập nhị nhân duyên, đồng thời khẳng định con
đường diệt khổ đó là “trung đạo”,“bát chính đạo”... chứa đựng sự lý đầy thuyết phục
và hướng con người đến nếp sống thiện lánh xa cái ác. Dạy con người sống cảm thông,
hỷ xả với nhau. Vị tha dạy con người sống vì người khác, bao dung độ lượng đó là
phương pháp giúp con người đạt được đức hạnh. Đây là động lực nảy sinh mọi điều tốt
lành. [11]
Phật giáo khẳng định tất cả mọi người đều có “Phật tính” sẽ đạt được nếu thực
hành đúng theo giáo lý trao dồi đạo đức trong cuộc sống của chính mình sẽ được hạnh
phúc.
Từ đó ta thấy giá trị tinh thần đạo đức toàn diện của giáo dục Phật giáo là trình
bày sự thật về những mối tương quan giữa sự vật hiện hữu trong cuộc đời để giúp con
người có được chính kiến để tạo lập cuộc sống của mình và chuyển đổi hoàn cảnh, để
có thể chinh phục và cảm hóa được mọi người xung quanh.
* Xây dựng một xã hội văn minh và tự do:
Thế giới này đang sôi sục chiến tranh, mọi bảng giá trị hầu như được con người
quy chiếu bằng thước đo đồng tiền. Thái độ “chấp thủ” của từng cá nhân ngày càng
nhân lên, thay vì “xả ly” họ lại tự trói mình bằng gông cùm trong hiện hữu. Con người
hiện đại ít nhiều đã tự đánh mất phẩm chất cao quý của mình để chạy theo lợi nhuận.
Dù vậy, Đạo Phật đã dạy một đời sống tốt đẹp không chỉ tạo bằng thức ăn ngon, áo
mặc đẹp, mái nhà xinh xắn, mà còn được sinh động bởi ý định trong sạch, một lòng từ

7


bi không giáo điều cũng không triết lý bác học. Mà đó là lòng kính trọng phẩm giá
quyền lợi của mọi người. Để hết chiến tranh, xây dựng xã hội văn minh, con người

phải hết tham lam, thù hận cố chấp. Muốn sống hòa bình an lạc, con người phải có tình
thương và hiểu biết. Hòa bình không thể có được chỉ bằng cầu nguyện, ký tên, hay hội
thảo kêu gọi suông mà phải làm sao cho mọi người thức tỉnh và chuyển hóa. Những
lời kêu gọi đó hết sức có giá trị và nhắc nhở cảnh tỉnh nhân loại hãy đoàn kết góp phần
tích cực vào công cuộc giữ gìn hòa bình. [11]
Mặt khác trong điều kiện sản xuất chưa phát triển mạnh, nhu cầu vật chất ngày
càng cao, nên cuộc sống con người gặp khó khăn, cái khổ vẫn là điều tất yếu, đôi khi
con người cảm thấy bi quan thất vọng. Do vậy, sự giải thích cuộc đời con người chỉ
quẩn quanh trong “nhân sinh là khổ”. Việc đưa ra con đường diệt khổ, tự giải thoát
mà không chờ bất kỳ cứu nhân độ thế nào đã trở thành tư tưởng giáo dục đầy khích lệ
hấp dẫn, mang tính nhân văn sâu sắc.
Tư tưởng giáo dục này cũng có ý nghĩa quan trọng trong công cuộc đổi mới của
Việt Nam, nhằm xây dựng một nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, mà trong
đó quần chúng nhân dân là hạt nhân cơ bản để xây dựng nên tòa lâu đài văn minh của
xã hội, đem lại hòa bình cho toàn thể nhân dân ta.
2.1.4 Giá trị của Phật giáo trong thế giới hiện đại:
Qua bức thông điệp của Đức Phật, chúng ta thấy rằng điều thiết yếu hiện nay là
phải có một cách nhìn đúng đắn về các vấn đề cá nhân, xã hội và quốc tế. Sự tiến bộ
của khoa học đã mang lại nhiều lợi ích cho nhân loại, nhưng đôi khi sự tiến bộ ấy cũng
dẫn đến những hiểm họa khôn lường. Có một yếu tố tinh thần có thể khôi phục lại
những sức mạnh mà những khám phá khoa học không thể tìm ra. Yếu tố tinh thần hay
con đường tâm linh ấy đã được Jawaharlal Nehru, vị thủ tướng đầu tiên của Ấn Độ, đề
cập như sau: “từ xung đột và chiến tranh người ta không thể tìm ra một con đường
mới để cứu độ nhân loại ngoại trừ con đường mà ngày xưa một bậc đạo sư vĩ đại nhất
đã chỉ ra cho thế giới. Vị đạo sư ấy chính là Đức Phật Gotama”. [3]
Phật giáo luôn nỗ lực xây dựng những mối quan hệ của nhân loại bằng cách khơi
nguồn những giá trị luân lý đạo đức cao đẹp của loài người. Phật giáo giúp chúng ta
khám phá ra bản chất đặc trưng của thế giới là vô thường, vô ngã và khổ đau. Một khi
con người không nhận thức đúng đắn ba nguyên lý này của thế giới thì họ vẫn còn


8


khao khát về một đời sống vĩnh cửu ảo tưởng tách biệt bản chất của sự vật. Khát vọng
viển vông đó không những tạo nên khổ đau cho người ấy mà còn khiến người khác
cũng bị đau khổ theo. Làm sao khổ đau của nhân loại có thể tan biến? Làm sao có thể
mang lại nền hòa bình và niềm hạnh phúc trường cửu cho xã hội hôm nay? Những câu
hỏi muôn thưở này chính là những thao thức của Phật giáo. Phật giáo đã đưa ra lời giải
đáp thỏa đáng cho những vấn đề này qua 84.000 pháp môn được giảng dạy trong các
kinh điển, các pháp thoại, các thi kệ.
Trong thế giới tăm tối sầu khổ, giáo lý của Đức Phật luôn tỏa sáng rực rỡ suốt hai
mươi năm thế kỉ qua. Giờ đây vẫn chưa phải là muộn để chúng ta thực nghiệm giáo lý
ấy nhằm xây dựng tương lai chúng ta tươi đẹp và hạnh phúc hơn . Giáo pháp của Như
Lai đặt trên nền tảng của bản thể tự nhiên, được thừa nhận là có giá trị vượt thời gian
và không gian. Ngày nay, điều đó đã trở nên thật rõ ràng, Phật giáo ngày càng góp
phần giải quyết những vấn nạn của nhân loại như: vấn đề gia tăng bạo lực, chủ nghĩa
khủng bố, nghiện ma túy và sự hủy hoại bản thân. Những vấn nạn đó là hệ quả của lối
sống buông thả quá độ, sự cạnh tranh khốc liệt và lòng ham muốn được trường sinh.
Rõ ràng, Phật giáo đang được cả thế giới thừa nhận như là lối sống của những con
người trí thức trong thiên niên kỷ thứ ba. [15]
2.2 Những hạn chế của Phật giáo:
2.2.1 Quan điểm về con người trong xã hội:
Học giả Hà Thúc Minh khẳng định: “Hạn chế của Phật giáo chính là ở chỗ
không thấy được bản chất xã hội nơi con người”. Theo quan điểm của tác giả Hà Thúc
Minh, Phật giáo có một hạn chế quan trọng chính là không thấy được “con người xã
hội”, do đó không chủ trương “cải tạo” bản thân hay cải tạo xã hội. [4,17]
Phật giáo chỉ thấy con người cá thể, tách khỏi xã hội, không xem xét trên góc độ
con người xã hội, chỉ thấy cá nhân con người mà không thấy xã hội con người, chỉ
thấy con người nói chung mà không thấy con người của giai cấp đối kháng nhau trong
xã hội trước đây, không thừa nhận đấu tranh trong giai cấp xã hội. Đây là quan điểm

duy tâm tách khỏi hiện thực. Phật giáo quá đề cao cái Tâm, đề cao tính hướng thiện, sự
tu tập của mỗi con người trong xã hội. Do đó không thấy được nguyên nhân khổ ải của
con người, không thấy được sự cần thiết phải chống áp bức, bóc lột, không thấy được
tầm quan trọng của đấu tranh giai cấp, không đưa ra được giải pháp thực sự, mà chỉ có

9


thể kêu gọi mọi người sống hòa bình, nhân đạo. Vì thế, quan niệm từ bi, bác ái, hòa
hiếu trong một số trường hợp là không thích hợp, là bất lợi cho đấu tranh giai cấp,
chống áp bức, bóc lột.
2.2.2 Quan điểm về chính trị:
Kể từ khi du nhập vào Việt Nam, Phật giáo có ảnh hưởng không nhỏ vào đời
sống chính trị. Đặc biệt là dưới triều Lý, Trần, các nhà sư trở thành một tầng lớp phong
kiến tăng lữ có thế lực trong xã hội.
Tuy nhiên, thực chất Phật giáo vốn không bàn tới lĩnh vực chính trị, mà chỉ có tư
tưởng Phật giáo ảnh hưởng đến chính trị mà thôi. Vì thế, mỗi khi nhà sư bước sang
lĩnh vực chính trị - xã hội phải sử dụng các từ ngữ, tư tưởng Nho hay Lão Trang. Nhà
sư Viễn Thông cho rằng “Lòng dân là gốc trị loạn”, trong đó “lòng dân” là khái niệm
và tư tưởng của nhà nho. Nhà sư Đỗ Phát Nhuận nói: “Nếu dường nối vô vi ngự trị
trong triều đình thì nơi nơi sẽ tắt chiến tranh”, trong đó “vô vi” là khái niệm của Lão
Trang mặc dù khái niệm đó được giải thích theo quan niệm nhà Phật.
2.2.3 Quan điểm duy vật chất phác và biện chứng tự phát pha lẫn duy tâm thần
bí:
Phật giáo nhìn nhận thế giới tự nhiên cũng như nhân sinh bằng sự phân tích nhân
quả. Theo Phật giáo, nhân – quả là một chuỗi liên tục không gián đoạn và không hỗn
loạn, có nghĩa là nhân nào quả ấy. Mối quan hệ nhân quả này Phật giáo thường gọi là
nhân duyên với một kết quả của nhân duyên nào đó sẽ là nguyên nhân của một kết quả
khác. Điều này chỉ nói lên chuỗi nhân quả bên ngoài, thể hiện quan điểm duy vật chất
phác và biện chứng tự phát.

Quan điểm “vô ngã” cho rằng vạn vật trong vũ trụ chỉ là sự “giả hợp” do hội đủ
nhân duyên nên thành ra “có” (tồn tại). Ngay bản thân sự tồn tại của thực thể con
người chẳng qua là do “ngũ uẩn” (năm yếu tố) hội tụ lại là: sắc (vật chất), thụ (cảm
giác), tưởng (ấn tượng), hành (suy lý), và thức (ý thức). Như vậy không có cái gọi là
“tôi” (vô ngã). Quan điểm này đã gây ra nhiều sự tranh luận, có những quan điểm trái
ngược nhau.
Quan điểm “vô thường” cho rằng vạn vật biến đổi vô cùng theo chu trình bất tận:
sinh - trụ - dị - diệt. Vậy thì “có có” – “không không” luân hồi bất tận. “Thoáng có”,
“thoáng không”, cái còn thì chẳng còn, cái mất thì chẳng mất.

10


Hạn chế lớn nhất của Phật giáo đối với tư duy người Việt Nam là quan điểm duy
tâm thần bí. Khi gặp một việc mà không tìm được cách giải quyết, ta cầu xin được
thần linh phù hộ, độ trì, sinh ra mê tín dị đoan (lên đồng, đốt vàng mã,…) Những tư
tưởng ấy vừa phung phí tiền bạc, thời gian lại làm xuất hiện trong xã hội những loại
người chỉ dựa vào nghề nghiệp ấy mà kiếm sống gây ra một sự bất công trong xã hội.
Và một khi tư duy như vậy thì không cần khám phá tìm tòi, nghiên cứu, sáng tạo, và
hành động. Lâu dần sẽ tạo ra tư tưởng ỷ lại, thụ động.

3. Ảnh hưởng của Phật giáo ở nước ta hiện nay:
3.1 Sự hình thành Phật giáo ở Việt Nam:
Đạo Phật truyền bá vào nước ta khoảng thế kỉ II sau công nguyên và đã trở thành
một trong những hệ tư tưởng, tôn giáo có sức sống lâu dài, tồn tại cho đến mãi ngày
nay. Lịch sử Phật giáo trải qua bốn giai đoạn:
- Từ đầu công nguyên đến hết thời kỳ Bắc thuộc là giai đoạn hình thành và phát
triển rộng khắp.
- Thời Đại Việt là giai đoạn cực thịnh.
- Từ đời Hậu Lê đến cuối thế kỷ IXX là giai đoạn suy thoái.

- Từ đầu thế kỷ XX đến nay là giai đoạn phục hưng. [13]
Trải qua một khoảng thời gian dài, Phật giáo ở Việt Nam không ngừng lớn mạnh,
phát triển và đã tạo nên một dấu ấn sâu đậm trong việc hình thành đạo đức, nhân cách
con người Việt Nam, nền văn hóa Việt Nam. Những ảnh hưởng tích cực của Phật giáo
vẫn đang được con người Việt Nam phát huy để phục vụ cuộc sống. Song bên cạnh đó,
Phật giáo cũng có những ảnh hưởng tiêu cực.
Ngày nay, mặc dù có rất nhiều tôn giáo tồn tại ở Việt Nam như Thiên chúa giáo,
Tin lành... Nhưng Phật giáo vẫn giữ một vai trò rất quan trọng trong đời sống xã hội và
tinh thần con người Việt Nam. Số người theo đạo Phật ngày càng đông, số gia đình
Phật tử xuất hiện ngày càng nhiều, lễ hội Phật giáo và sinh hoạt Phật giáo ngày một có
vị trí cao trong đời sống tinh thần xã hội, số sư sãi được đào tạo từ các trường Phật học
ngày càng nhiều, số kinh sách xuất bản hàng năm cũng tăng. Đặc biệt, năm 2008, nước
ta được vinh dự tổ chức đại lễ Phật Đản Liên Hợp Quốc (từ ngày 14/05/2008 đến ngày

11


16/05/2008) với sự tham gia của hơn bảy mươi nước. Điều này có ý nghĩa to lớn với
hội Phật giáo cũng như phật tử Việt Nam.
3.2 Ảnh hưởng của Phật giáo với sự phát triển nền văn hóa Việt Nam:
3.2.1 Ảnh hưởng Phật giáo về mặt tư tưởng triết học và đạo lý:
* Về tư tưởng:
Luật nhân quả của đạo Phật (theo đạo lý duyên sinh): một nhân đơn độc không
bao giờ có khả năng sinh ra quả, và một nhân bao giờ cũng đóng vai trò quả cho một
nhân khác. Giáo lý này đã trở thành nếp sống tín ngưỡng của người Việt Nam. Người
ta biết lựa chọn ăn ở hiền lành. Mặt khác họ hiểu rằng nghiệp nhân không phải là định
nghiệp mà có thể làm thay đổi, do đó họ tự biết sửa chữa, tu tập cải ác tùng thiện.
Nếu nắm vững luật nhân quả nghiệp báo, thì chúng ta có thể chuyển nghiệp ngay
trong hiện kiếp. Khởi đầu của việc chuyển nghiệp là bắt đầu thay đổi hành nghiệp
thiện và ác từ ba nghiệp Thân, Khẩu và Ý của chính mỗi cá nhân, không ngồi một chỗ

tưởng tượng đến những kết quả tốt đẹp sẽ đến với mình. Từ việc hành nghiệp thiện,
giảm bớt điều ác, dần dần ta sẽ chuyển hóa và có một cuộc sống yên vui cho hiện tại
và mai sau.
* Về đạo lý:
Đạo lý ảnh hưởng nhất là giáo lý từ bi, tinh thần hiếu hòa của Phật giáo đã ảnh
hưởng và thấm nhuần sâu sắc trong tâm hồn của người Việt. Điều này ta thấy rõ qua
những câu ca dao, tục ngữ mà bất cứ người Việt Nam nào cũng đều thuộc lòng. Tinh
thần thương người như thể thương thân này đã biến thành ca dao tục ngữ rất phổ biến
trong quần chúng Việt Nam như “lá lành đùm lá rách”, hay:
“Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng”
Ngoài đạo từ bi, người Việt còn chịu ảnh hưởng sâu sắc đạo lý khác của đạo Phật
là đạo Tứ Ân. Đặc biệt, ta thấy ân cha mẹ là nổi bật và ảnh hưởng rất sâu đậm. Vì đạo
Phật rất chú trọng đến hiếu hạnh (Kinh Báo Phụ Mẫu Ân, kinh Hiếu Tử, kinh Vu
Lan…) nên thích hợp với nếp sống đạo lý truyền thống của dân tộc Việt.
Từ cơ sở tư tưởng triết học và đạo lý trên đã giúp cho Phật giáo Việt Nam hình
thành được một bản sắc đặc thù rất riêng biệt của nó tại Việt Nam, góp phần làm
phong phú và đa dạng hóa nền văn hóa tinh thần của dân tộc Việt.

12


3.2.2 Ảnh hưởng Phật giáo qua góc độ xã hội và nhân văn:
* Ảnh hưởng Phật giáo qua ca dao và thơ ca:
Đạo Phật là đạo hiếu. Là người Việt Nam không thể không hiếu kính cha mẹ,
niềm tri ơn và báo ơn ấy đã trở thành bản tính tự nhiên, ăn sâu vào tâm khảm của
người dân Việt:
“Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha

Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”.
Luật nhân quả của đạo Phật đã dạy ta ăn ở cho lương thiện để tu nhân tích đức rồi
thế nào cũng gặp điều tốt lành, may mắn và hạnh phúc:
“Ai ơi hãy ở cho lành
Kiếp này chẳng gặp để dành kiếp sau”.
* Ảnh hưởng Phật giáo qua các tác phẩm văn học:
“Truyện Kiều” - áng văn bất hủ trong kho tàng văn học Việt Nam của đại thi hào
Nguyễn Du là một ví dụ tiêu biểu. “Truyện Kiều” là truyện thơ nôm viết bằng thể lục
bát, gồm 3254 câu thơ. Đây là một truyện thơ chịu nhiều ảnh hưởng của Phật giáo,
trong đó nổi bật nhất là thuyết Khổ Đế, một phần quan trọng của giáo lý Tứ Diệu Đế,
kế đó là tinh thần về hiếu đạo và thuyết về nhân quả nghiệp báo. Điều đó có lý, vì lẽ
chính Nguyễn Du đã tự nhận mình là một phật tử và từng đọc “Kinh Kim Cang Bát
Nhã” đến cả ngàn lần.
“Đoạn Trường Tân Thanh” là một minh chứng cho triết lý nhân quả của Phật
giáo. Theo thuyết này, những điều họa phúc mà con người phải gánh chịu ở kiếp này
điều có nghiệp nhân ở kiếp trước:
“Đã mang lấy nghiệp vào thân
Thì đừng trách lẫn trời gần trời xa”.
Nhưng theo Phật giáo thì nghiệp không phải là định nghiệp, là bất khả chuyển:
“Sư rằng phúc họa đạo trời
Cội nguồn cũng bởi lòng người mà ra
Có trời mà cũng có ta
Tu là cội phúc, tình là dây oan”.

13


* Ảnh hưởng Phật Giáo qua phong tục, tập quán:
Phong tục tập quán thể hiện đặc sắc và tính đặc thù về văn hóa của mỗi dân tộc.
Thông qua việc tìm hiểu phong tục tập quán, người ta tìm lại được những giá trị văn

hóa mang bản chất truyền thống của các dân tộc. Đối với người Việt Nam, những
phong tục tập quán chịu ảnh hưởng Phật giáo khá nhiều như:
- Tập tục ăn chay, thờ Phật, phóng sanh và bố thí.
- Tập tục cúng rằm, mùng một và lễ chùa.
- Tập tục đốt vàng mã.
- Tập tục cúng sao hạn, xin lộc may mắn.
- Tập tục xin xăm, bói quẻ…
Phong tục tập quán tại Việt Nam trong quá trình tồn tại và phát triển đã chịu
nhiều tác động của trào lưu văn hóa khác nhau. Trong đó Phật giáo đã dự phần quan
trọng trong việc định hình và duy trì không ít các tập tục dân gian mà chúng ta thấy
vẫn còn tồn tại cho tới ngày nay.
3.2.3 Ảnh hưởng Phật giáo qua các loại hình nghệ thuật:
* Qua nghệ thuật sân khấu:
Hát chèo thu hút nhiều tinh hoa nghệ thuật dân gian như múa, hát và diễn các vở
truyện Nôm truyền thống. “Quan Âm Thị Kính”, “Trương Viên”, “Lưu Bình Dương
Lễ”, “Kim Nhan”... đều mang tính thưởng thiện phạt ác.
Có thể nói xuyên suốt thế kỷ thứ IXX là thời đại hoàng kim của nghệ thuật hát
bội. Các vở “San Hậu”, “Tam Nữ Đồ Vương”, “Diễn Võ Đình”, “Nghiêu Sò Ốc Hến”...
là những vở mang tính chất dân tộc chính thống và chứa đựng toàn vẹn triết lý “nhân
quả báo ứng” và hướng thiện một cách cao đẹp.
Giáo lý “nhân quả báo ứng, thưởng thiện phạt ác”... luôn được đề cao trong nghệ
thuật sân khấu cải lương. Tiêu biểu như các vở “Thích Ca đắc đạo”, “Quan Âm Thị
Kính”, “Quan Âm Diệu Thiện”, “Thoát Vòng Tục Lụy” và “Thái Tử A Xà Thế”…
Ngoài ra còn có các vở chịu ảnh hưởng ít nhiều tư tưởng Phật giáo như các vở “ Phạm
Công Cúc Hoa”, “Kim Vân Kiều”... Nhà nghiên cứu Sơn Nam từng phát biểu về điều
này: “Phật giáo là phép màu dung hòa mọi mâu thuẫn, chỉ nẻo cho con người thoát
khỏi những cảnh ngộ éo le, khó xử nhất. Nếu thoát khỏi luân lý ấy, cải lương sẽ là cái
xác không hồn”. [5,117]

14



* Ảnh hưởng Phật giáo qua nghệ thuật tạo hình:
- Về kiến trúc: Khi Phật giáo truyền vào Việt Nam đã đem theo các kiểu kiến trúc
chùa tháp, lầu chuông gác trống theo mô hình kiến trúc của Ấn Độ, Miến Điện và
Trung Hoa. Theo thời gian, ta đã tạo ra một mô hình kiến trúc rất riêng cho Phật giáo
Việt Nam. Phật giáo để lại nhiều quần thể kiến trúc độc đáo và danh lam thắng cảnh,
nhiều ngôi chùa nổi tiếng như ở miền Bắc có chùa Một Cột, chùa Tây phương, chùa
Hương, ở miền Trung có chùa Thiên Mụ, chùa Từ Hiếu, chùa Báo Quốc, và ở miền
Nam có các chùa Giác Lâm, chùa Vĩnh Tràng...
- Về điêu khắc: Nếu tham quan các bảo tàng lớn ở Việt Nam, ta sẽ thấy nhiều cốt
tượng, phù điêu của Phật giáo được trưng bày. Tiêu biểu là các tác phẩm như tượng
Quan Âm nghìn mắt nghìn tay (hiện được tôn trí tại viện Bảo tàng Mỹ thuật, Hà Nội,
tượng được dựng từ thế kỷ thứ XVI, cao 2,90m), 16 pho tượng tổ gỗ của chùa Tây
Phương (Hà Tây, Bắc Việt), tượng Tuyết Sơn chùa Trăm Gian (Hà Tây)… Còn có
những công trình điêu khắc quy mô và mang tính lịch sử như tượng “Phật nhập Niết
Bàn” dài 49m ở núi Trá Cú, Phan Thiết được kiến tạo năm 1962, tượng “Kim thân
Phật tổ” cao 24m ở chùa Long Sơn, thành phố Nha Trang được thực hiện vào năm
1964.
- Về hội họa: Mái chùa cổ kính, các lễ hội hay tư tưởng độc đáo của triết học, của
thiền học Phật giáo luôn là đề tài gợi nhiều cảm hứng cho các nghệ nhân và họa sĩ Việt
Nam. “Chùa Thầy” (Nguyễn Gia Trí, 1938); “Lễ Chùa” (Nguyễn Siêu). Đặc biệt từ
thập niên tám mươi trở lại đây, có “Thiền Quán”, “Quan Âm Thị Hiện”, “Rừng Thiền”
của họa sĩ Phượng Hồng, “Nhất Hoa Vạn Pháp” của Văn Quan...
Những tư tưởng và hình ảnh của Phật giáo đã để lại những dấu ấn sâu đậm trong
phong tục tập quán, trong văn học và nghệ thuật của người Việt Nam trước kia và nó
sẽ tiếp tục tỏa sáng cái tinh hoa độc đáo của mình cho dân tộc Việt nói riêng và cả
nhân loại nói chung trong tương lai.
3.3 Ảnh hưởng của đạo Phật trong việc hình thành nhân cách con người Việt Nam:
Nhân cách Phật giáo đã góp phần làm nên nhân cách của con người Việt Nam

ngày nay. Nhân cách đó có tác dụng hai mặt. Mặt tích cực là chấp nhận sự biến đổi của
thế giới và con người, sống có nề nếp, trong sạch, giản dị, quan tâm đến nỗi khổ của
người khác, thương người, vị tha, cứu giúp người hoạn nạn, hành động thì lấy tự giác

15


làm đầu… Mặt tiêu cực là nhìn đời một cách bi quan, có pha trộn chất hư vô chủ
nghĩa, nặng về tin tưởng ở quyền năng và phép màu nhiệm của một vị siêu nhiên mà
nhẹ về tin tưởng năng lực hoạt động của con người, nếp sống khổ hạnh và không tránh
khỏi nương theo những nghi lễ tư duy thần bí.
Tuy nhiên, nhân cách con người Phật giáo có những điều phù hợp với xã hội hiện
nay. Nhưng những điều đó chỉ giới hạn trong những trường hợp nhất định và chúng ta
phải phát huy những mặt đó. Vậy con người am hiểu đạo lý, mến đạo, mộ đạo không
phải chỉ là con người tu hành một cách cần mẫn mà phải có cả phần trí tuệ để biết vận
dụng giáo lý vào cuộc sống một cách hữu ích. Hiểu được và làm được như thế, con
người sẽ thấy đạo đức Phật đẹp đẽ và cao thượng biết bao. [12]
3.4 Ảnh hưởng của Phật giáo về lĩnh vực chính trị:
Mặc dù Phật giáo không bàn đến chính trị nhưng tư tưởng của đạo Phật lại ảnh
hưởng rất nhiều đến vấn đề đời sống chính trị xã hội.
Dưới triều Lý, Trần, các nhà sư trở thành một tầng lớp phong kiến tăng lữ có thế
lực trong xã hội. Nhiều nhà sư tham gia tích cực vào các hoạt động chính trị và giữ
những cương vị quan trọng trong triều đình. Như sư Vạn Hạnh là người đã vận động
đưa Lý Công Uẩn lên ngôi lập ra triều Lý. Sư Đa Bảo và Viên Thông được tham dự,
bàn bạc và quyết định các việc trong triều như cố vấn của nhà vua.
Ngày nay, các nhà sư giữ những chức vụ cao trong Giáo hội cũng tham gia vào
hoạt động chính trị. Nhưng bên cạnh những công tác phục vụ cho công cuộc xây dựng
đất nước thì cũng có một số phần tử đã lợi dụng chức vụ của mình để gây rối, để lôi
kéo nhân dân hiểu sai về Đảng và nhà nước.
Đạo Phật đối với Việt Nam không chỉ là một tôn giáo mà còn là một bộ phận của

nền văn hóa dân tộc truyền thống.

16


C. KẾT LUẬN

Phật giáo là một tôn giáo. Vì vậy nó có những thiếu sót, những tiêu cực về mặt
khoa học và nhân sinh quan. Song với thái độ khách quan, chúng ta cần nhận thức rõ
những yếu tố tích cực trong tư tưởng Phật giáo. Trong lịch sử và cho đến ngày nay,
Phật giáo là tôn giáo duy nhất chống lại thần quyền. Trong tư tưởng của nó có những
yếu tố duy vật và biện chứng. Đạo Phật nêu cao thiện tâm, bình đẳng, bác ái cho mọi
người như là những tiêu chuẩn đạo đức cơ bản của đời sống xã hội. Những giá trị đạo
đức của Phật giáo đã đưa nó lên thành một trong ba tôn giáo lớn nhất trên thế giới
(Thiên Chúa giáo, Hồi giáo, Phật giáo).
Phật giáo vào nước ta từ những năm đầu công nguyên. Phật giáo đã phát triển
phù hợp với truyền thống Việt Nam. Phật giáo trở thành quốc giáo ở các triều đại
Đinh, Lê, Lý, Trần góp phần kiến lập và bảo vệ chế độ phong kiến tập quyền vững
mạnh, giữ vững nền độc lập dân tộc. Bản chất từ bi hỷ xả của Phật giáo ngày càng
thấm sâu vào đời sống tinh thần dân tộc, hướng nhân dân và tầng lớp vua quan vào con
đường thiện nghiệp, tu dưỡng đạo đức, vì nước vì dân.
Phật giáo là nền tảng tư tưởng trong nhiều lĩnh vực như kinh tế, chính trị, văn
học, giáo dục, khoa học, kiến trúc, hội họa… Nhiều tác phẩm văn học có giá trị, nhiều
công trình kiến trúc độc đáo, đậm đà bản sắc dân tộc có tầm cỡ quốc tế. Đến nay, tuy
Phật giáo không còn là quốc giáo nữa nhưng những tư tưởng tích cực của nó vẫn còn
là nguồn sống tinh thần của nhân dân ta cần được giữ gìn và phát huy.
Qua việc nghiên cứu đề tài: “Những giá trị, hạn chế của Phật giáo và ảnh
hưởng của nó ở nước ta hiện nay”, chúng ta hiểu thêm được về hệ tư tưởng Phật
giáo và ảnh hưởng sâu đậm của nó đến xã hội và người dân Việt Nam. Đặc biệt đề tài
này cho ta thấy được giá trị, tầm quan trọng của Phật giáo trong việc hình thành nền

văn hóa Việt Nam, con người Việt Nam.

17


D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.

HT.Thích Minh Châu: Hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi - 1998.

2.

HT.Thích Minh Châu: Bốn phương pháp đưa đến hạnh phúc, Tập văn Phật
Đản, PL 2533.

3.

HT.Thích Trí Chơn dịch: Tạp chí Tiếng nói Phật giáo (Voice of Buddhism), số
tháng 7 năm 1964.

4.

Hà Thúc Minh: Làm sáng tỏ khái niệm “vô ngã” của Phật giáo.

5.

Sơn Nam: Các tỉnh miền Nam, nhà xuất bản Đông Phố, Sài Gòn - 1974

6.


Phước Nguyện dịch: Phật giáo – phương thức sống của con người.

7.

HT.Thích Chiếu Sáng: Tuần báo Giác ngộ, số 180.

8.

HT.Thích Thiện Siêu dịch: Lời Phật dạy, nhà xuất bản Tôn giáo - 2000.

9.

PTS.Phương Kỳ Sơn: Lịch sử Triết học, nhà xuất bản chính trị quốc gia –
1999.

10. HT.Thích Nguyên Tạng: Phật giáo tại Việt Nam.
11. Phạm Thị Thu Thủy: Phật tử Việt Nam.
12. PGS.Nguyễn Tài Thư: Ảnh hưởng của các hệ tư tưởng và tôn giáo đối với
con người Việt Nam hiện nay, nhà xuất bản chính trị quốc gia – 1997.
13. PGS.Nguyễn Tài Thư: Lịch sử Phật giáo Việt Nam tập 1, nhà xuất bản quốc
gia – 1993.
14. Nhiều tác giả: Giáo trình triết học Mác – Lênin, nhà xuất bản chính trị quốc
gia – 2007.
15. www.chuyenphapluan.com, 01/08/2004.

18




×