Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

BÌNH LUẬN VỤ VIỆC MARITIME DELIMITATION AND TERRITORIAL QUESTIONS BETWEEN QATAR AND BAHRAIN, ICJ, 1991

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (118.84 KB, 13 trang )

1

Mục lục
A. LÝ THUYẾT..........................................................................................................1
1. Khái niệm:............................................................................................................1
2. Đặc điểm............................................................................................................... 1
3. Phân loại tranh chấp quốc tế:..............................................................................1
4. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp quốc tế:........................................................2
5. Biện pháp hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế:............................................2
B. BÌNH LUẬN VỤ VIỆC MARITIME DELIMITATION AND TERRITORIAL
QUESTIONS BETWEEN QATAR AND BAHRAIN, ICJ, 1991.............................3
1. Tóm tắt vụ việc:...................................................................................................3
1.1. Tóm tắt sự kiện:.............................................................................................3
1.2. Lập luận của các bên:...................................................................................4
1.3. Lập luận và phán quyết của Tòa án..............................................................7
2. Trình bày quan điểm của nhóm:........................................................................9
2.1 Quan điểm của Tòa án hoặc đương sự về vụ việc tương tự..........................9
2.2. Quan điểm của nhóm....................................................................................9
2.3. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam............................................................10


1
A. LÝ THUYẾT
Khi hợp tác quốc tế ngày càng gia tăng, các tranh chấp quốc tế vẫn tiếp tục phát sinh,
các chủ thể của luật quốc tế nhận thức rõ tranh chấp quốc tế sẽ có tác động tiêu cực
đến quan hệ quốc tế.
Vậy làm thế nào để giải quyết tranh chấp quốc tế đem lại hiệu quả cao nhất, có thể
đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho các bên tranh chấp, vừa không tổn hại đến hòa bình,
an ninh quốc tế?
1. Khái niệm:
Tranh chấp quốc tế: là những yêu sách, những đòi hỏi trái ngược nhau về quyền và


nghĩa vụ pháp lí quốc tế giữa các chủ thể luật quốc tế.
2. Đặc điểm
- Chủ thể của tranh chấp quốc tế: là các chủ thể của luật quốc tế (bao gồm quốc gia; tổ
chức quốc tế liên chính phủ; thực thể đặc biệt như các dân tộc đang đấu tranh giành
quyền tự quyết, các vùng lãnh thổ có quy chế đặc biệt). Tranh chấp quốc tế xảy ra chủ
yếu ở các quốc gia.
- Đối tượng điều chỉnh của tranh chấp quốc tế: phải là quan hệ thuộc đối tượng điều
chỉnh của Luật quốc tế (công pháp quốc tế -> khác với hệ thống tư pháp quốc tế hay
pháp luật quốc gia), bao gồm tất cả những vấn đề phát sinh trong đời sống quốc tế
(bao gồm: lãnh thổ, biên giới quốc gia; nội dung của điều ước quốc tế, tập quán quốc
tế, tư cách thành viên của tranh chấp quốc tế và sự kiện pháp lý quốc tế)
- Tranh chấp quốc tế được giải quyết thông qua con đường quốc tế (công pháp quốc
tế) mà không phải thông qua con đường quốc gia
- Luật áp dụng: luật quốc tế
3. Phân loại tranh chấp quốc tế:
- Dựa trên số lượng các bên tham gia tranh chấp, có thể phân ra loại:
+ Tranh chấp song phương: là tranh chấp chỉ có hai chủ thể luật quốc tế tham gia trực
tiếp. Ví dụ tranh chấp giữa Ấn Độ và Pakistan về vùng đất Cashmir,…
+ Tranh chấp đa phương: là tranh chấp mà có sự tham gia của ít nhất ba chủ thể luật
quốc tế. Ví dụ tranh chấp về quần đảo Trường Sa giữa Việt Nam, Philipin, Malaysia…
Tranh chấp này gồm loại:
 Tranh chấp đa phương khu vực
 Tranh chấp đa phương toàn cầu
- Căn cứ vào tính chất của vụ tranh chấp, có thể phân ra:
+ Tranh chấp có tính chính trị: là những tranh chấp giữa các bên liên quan đến các yêu
cầu đòi hỏi phải thay đổi các qui định hiện hành gắn liền với quyền và nghĩa vụ của


2
các bên hữu quan (biên giới và lãnh thổ -> rất dễ gây ra nguy hiểm cho nền hòa bình

an ninh quốc tế). Ví dụ: tranh chấp biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc.
+ Tranh chấp có tính pháp lý (dispute with legal nature): là tranh chấp liên quan đến
quyền và lợi ích của các bên thể hiện trong các điều ước quốc tế hay các tập quán
quốc tế (thường liên quan đến vấn đề giải thích và áp dụng các điều ước quốc tế). Ví
dụ: tranh chấp về giải thích nội dung của hiệp định thương mại Việt Mỹ.
(Về nguyên tắc, tòa án quốc tế không giải quyết các tranh chấp chính trị. Do vậy các
quốc gia phải sử dụng các tổ chức trọng tài quốc tế hay các biện pháp hòa bình khác).
- Dựa vào tư cách chủ thể hay quyền năng chủ thể luật quốc tế, có thể chia ra:
+ Tranh chấp giữa các quốc gia
+ Tranh chấp giữa các tổ chức quốc tế.
+ Tranh chấp giữa quốc gia và tổ chức liên chính phủ
- Căn cứ vào đối tượng điều chỉnh của luật quốc tế có thể phân ra:
+ Tranh chấp ngọai giao
+ Tranh chấp về biên giới lãnh thổ
+ Tranh chấp về kinh tế
+ Tranh chấp về văn hóa
- Căn cứ vào mức độ nguy hại: tranh chấp quốc tế nghiêm trọng và thông thường. Ví
dụ tranh chấp giữa Israel và Ả Rập về vùng Israel chiếm đóng.
- Căn cứ vào nội dung vụ tranh chấp: tranh chấp quyền và nghĩa vụ trong điều ước
quốc tế...
4. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp quốc tế:
- Thuộc về các bên trong tranh chấp
- Cơ quan tài phán quốc tế
- Các thiết chế liên Chính Phủ khu vực và toàn cầu
Lưu ý:
+ Các bên tranh chấp có quyền lựa chọn cơ quan giải quyết tranh chấp và biện pháp
giải quyết tranh chấp
+ Giải quyết tranh chấp trên cơ sở tuân theo nguyên tắc của Luật quốc tế
5. Biện pháp hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế:
- Là những cơ chế, biện pháp hoặc phương thức mà các chủ thể của luật quốc tế có

nghĩa vụ phải dùng để giải quyết các tranh chấp bất đồng trên cơ sở các nguyên tắc
hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế để duy trì hòa bình an ninh quốc tế phát triển
quan hệ hợp tác giữa các quốc gia (mà không sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực).
- Cơ sở pháp lý: Điều 33 Hiến chương Liên hiệp quốc.
- Gồm:


3
+ Biện pháp chính trị - ngoại giao: đàm phán, điều tra, trung gian, hòa giải
+ Biện pháp tài phán: tòa án quốc tế và trọng tài quốc tế.
B. BÌNH LUẬN VỤ VIỆC MARITIME DELIMITATION AND TERRITORIAL
QUESTIONS BETWEEN QATAR AND BAHRAIN, ICJ, 1991.
1. Tóm tắt vụ việc:
1.1. Tóm tắt sự kiện:
Bahrain và Qatar là hai quốc gia có vị trí nằm sát nhau trên bản đồ thế giới. Hai
quốc gia cùng ở phía nam của Vịnh Ba Tư (Arabian/Persian Gulf), trong đó Bahrain là
hòn đảo nằm ở phía tây của bán đảo Qatar, mỗi nước còn có một số đảo nhỏ ở sát bờ
biển nước mình.
Vào những năm 1930, xảy ra tranh chấp chủ quyền đối với nhóm đảo Hawar
giữa Qatar và Bahrain. Qatar gửi lá thư đến chính phủ Anh tìm kiếm sự hỗ trợ nhưng
Chính phủ Anh cho rằng Hawar thuộc về Bahrain chứ không thuộc về Qatar.
Năm 1947, xảy ra tranh chấp chủ quyền đối với các bãi cạn Dibal và Qit’at
Jaradah xuất phát từ lí do Chính phủ Anh thông báo đến Người đứng đầu của Qatar và
Bahrain về quyết định phân định ranh giới vùng đáy biển giữa hai quốc gia, trong đó
Bahrain có chủ quyền đối với các bãi cạn Dibal và Qit’at Jaradah nhưng Qatar đã
phản đối.
Ngày 21/04/1965, Qatar gửi bản Note Verbale và Memo để chống lại những lập
luận của Bahrain dựa trên sự phân định của luật tập quán quốc tế và thực tế áp dụng
cũng như các tập quán. Trong đó, Qatar khẳng định đường ranh giới mà họ công nhận
năm 1947 là hợp lý và phù hợp với luật quốc tế ở thời điểm đó.

Tuy nhiên, sự can thiệp của Chính phủ Anh tại Bahrain và Qatar đã lần lượt
chấm dứt vào ngày 15/08 và 03/09/1971.
Từ năm 1976, nhằm giúp tìm kiếm giải pháp cho vụ tranh chấp, Quốc vương
Saudi Arabia trở thành trung gian hòa giải giữa Qatar và Bahrain với sự đồng ý của
các Tiểu vương của hai quốc gia. Năm 1987, Quốc Vương Saudi Arabia gửi thư cho
Tiểu vương Qatar và Bahrain đề xuất một số đề nghị mới. Các đề xuất đã được hai
Nguyên thủ quốc gia chấp thuận, gồm các điểm chính sau:
+ Thứ nhất, các vấn đề tranh chấp sẽ được chuyển đến cho Tòa án Công lý
Quốc tế (International Court of Justice) ở Hague giải quyết, để tìm kiếm một ràng
buộc cuối cùng đối với cả hai bên tranh chấp trong việc thực thi các điều khoản trong
phán quyết của Tòa.
+ Thứ hai, thành lập một ủy ban bao gồm đại diện của Qatar, Bahrain và Saudi
Arabia nhằm mục đích đưa vụ việc lên ICJ, và thỏa mãn các yêu cầu cần thiết để đưa


4
vụ tranh chấp lên ICJ để từ đó ICJ có thể đưa ra được phán quyết cuối cùng có giá trị
ràng buộc đối với cả hai bên tranh chấp.
+ Thứ ba, khẳng định Quốc vương Saudi Arabia sẽ tiếp tục vai trò trung gian
hòa giải để đảm bảo cho việc thực thi các điều khoản này.
Năm 1988, Người kế vị của Bahrain đã đến thăm Qatar và gửi cho Người kế vị
của Qatar một văn bản (sau đó được biết đến như là bản Công thức Bahrain – Bahrain
formula) có nội dung như sau: “Các bên yêu cầu Tòa quyết định các vấn đề liên quan
đến quyền thuộc về lãnh thổ hay bất kì sự tranh chấp nào do khác biệt về lợi ích giữa
các bên; và vạch ra một đường phân định đơn nhất giữa các vùng đáy biển, vùng đất
tầng và vùng nước chồng lấn”.
Tháng 12/1990, vấn đề tranh chấp trên lại một lần nữa đưa ra để thảo luận
trong cuộc họp thường niên Hội đồng hợp tác các quốc gia Arab vùng Vịnh tổ chức
tại Doha. Qatar tuyên bố sẽ chấp thuận Công thức Bahrain. Biên bản của cuộc họp sau
đó đã ghi nhận những nội dung sau: Khẳng định lại những gì đã được thỏa thuận trước

đó giữa hai bên; Tiếp tục vai trò trung gian hòa giải của Quốc vương Saudi Arabia
giữa hai nước cho đến tháng 05/1991. Khi thời hạn này kết thúc, các bên có thể đưa
vụ việc lên ICJ phù hợp với Công thức Bahrain mà Qatar đã chấp thuận, và các vụ
kiện phát sinh kể từ thời điểm đó. Vai trò trung gian hòa giải của Quốc vương Saudi
Arabia sẽ tiếp tục trong suốt thời gian đưa vấn đề tranh chấp lên trọng tài. Nếu có một
giải pháp hợp lý được đưa ra với sự chấp thuận với cả hai bên tranh chấp thì vụ việc
sẽ được rút khỏi trọng tài.
Sau những nỗ lực hòa giải không thành công của Quốc vương Saudi Arabia trong thời
hạn đã định. Ngày 08/07/1991, Qatar tiến hành các thủ tục để đưa vụ kiện chống lại
Bahrain lên ICJ.
1.2. Lập luận của các bên:
1.2.1. Lập luận của Qatar (nguyên đơn)
Trước tiên, Qatar đồng ý với Bahrain rằng việc trao đổi thư vào tháng 12/1987
đã tạo nên một thỏa thuận quốc tế có hiệu lực ràng buộc quan hệ song phương giữa
hai nước. Về Biên bản Doha (Doha Minutes), Qatar đã dựa vào 3 lập luận chính để
khẳng định giá trị pháp lý của Biên bản này và cho rằng Biên bản này được xem là cơ
sở để xác định quyền tài phán của Tòa án
a. Biên bản Doha có tên là “Biên bản” nhưng nó không chỉ đơn thuần là một
biên bản hội nghị giới hạn trong việc ghi nhận các sự kiện, các tình huống hay các
tuyên bố bởi vì nó còn liệt kê các quyền và nghĩa vụ nhằm tạo ra sự ràng buộc về mặt
pháp lý giữa các bên, và do đó sẽ được điều chỉnh bởi luật quốc tế theo Điều 2, Công
ước Viên 1969 về Luật điều ước quốc tế: “Điều ước là một thoả thuận quốc tế được kí


5
kết bằng văn bản giữa các quốc gia và được luật pháp quốc tế điều chỉnh, không phụ
thuộc vào việc thoả thuận đó được ghi nhận trong một văn kiện duy nhất hoặc trong
hai hay nhiều văn kiện có quan hệ với nhau, cũng như không phụ thuộc vào tên gọi cụ
thể của các văn kiện đó.”
b. Bác lại lập luận của Bahrain cho rằng Biên bản Doha 1990 chỉ đơn thuần là

một tuyên bố ghi nhận thỏa thuận về chính trị (A statement recording a political
understanding), Qatar khẳng định rằng Biên bản năm 1990 rõ ràng chứa đựng những
điều khoản có giá trị pháp lí. Trong Biên bản, hai quốc gia đã tán thành việc cho đến
hết tháng 05/1991 các bên có thể đưa vụ tranh chấp lên ICJ phù hợp với Công thức
Bahrain mà Qatar đã chấp thuận, và các vụ kiện phát sinh kể từ thời điểm đó. Hơn thế
nữa, đây là văn bản khẳng định lại những gì đã thỏa thuận trước đó, cụ thể là trong các
bức thư trao đổi vào tháng 12/1987. Như vậy rõ ràng Biên bản Doha mang bản chất
pháp lý chứ không phải chỉ mang tính chính trị đơn thuần.
c. Qatar cho rằng giá trị ràng buộc và tính có hiệu lực của Biên bản Doha là
không thể phủ nhận được.
+ Thứ nhất, biên bản được kí bởi Bộ trưởng Bộ Ngoại giao 3 nước, những
người có đầy đủ thẩm quyền kí các ĐƯQT thay mặt quốc gia theo Điều 7.2.a và Điều
12.1.b, CƯ Viên. Điều 7.2.a: “Trong phạm vi chức năng và quyền hạn của mình,
những người sau đây được coi là đại diện cho quốc gia không cần xuất trình giấy uỷ
quyền: nguyên thủ quốc gia, người đứng đầu Chính phủ và Bộ trưởng Bộ Ngoại giao
trong việc thực hiện các hành vi liên quan đến việc kí kết điều ước.” Điều 12.1.b:
“Việc đồng ý của một quốc gia chấp nhận sự ràng buộc của một điều ước được biểu
thị bằng việc đại diện của quốc gia đó ký nếu có sự xác nhận khác rằng, các quốc gia
tham gia đàm phán đã thoả thuận là việc ký sẽ có giá trị như vậy.”
+ Thứ hai, việc Bahrain viện dẫn Điều 37 Hiến pháp Bahrain quy định các điều
ước liên quan đến các vấn đề lãnh thổ hoặc quyền chủ quyền chỉ có thể có hiệu lực khi
được nội luật hóa, không thể được coi như một điều kiện để bác bỏ hiệu lực của Biên
bản Doha theo Điều 46 Công ước viên vì trong Điều này quy định : “Một quốc gia
không được viện dẫn việc quốc gia này đồng ý chấp nhận sự ràng buộc của một điều
ước là vi phạm quy định của pháp luật trong nước về thẩm quyền ký kết các điều ước,
để từ bỏ sự đồng ý của mình, trừ khi việc vi phạm này quá rõ ràng và liên quan đến
một quy định có tính chất cơ bản của pháp luật trong nước.”
+ Thứ ba, để đảm bảo tính hiệu lực và giá trị pháp lí của Biên bản, ngày
28/06/1991 Qatar đã gửi bản đăng kí Điều ước quốc tế lên Tổng thư kí Liên Hợp
Quốc phù hợp quy định Điều 102 Hiến chương Liên Hợp Quốc: “1. Mọi hiệp ước hay

hiệp định quốc tế, do bất cứ Thành viên nào của Liên Hợp Quốc ký kết, sau khi Hiến


6
chương này có hiệu lực, cần phải được đăng ký càng sớm càng tốt tại Ban Thư ký và
do Ban Thư ký công bố; 2. Không một Bên ký kết nào của bất kì hiệp ước hay hiệp
định nào không đăng ký theo quy định tại khoản 1 Điều này có thể viện dẫn đến hiệp
ước hay hiệp định đó ra trước một cơ quan của Liên Hợp Quốc.” Việc gửi bản đăng ký
này đã hoàn toàn cho phép Qatar được quyền viện dẫn đến Biên bản này lên trước Toà
và có thể khẳng định rằng Biên bản này đã có hiệu lực và giá trị pháp lý. Với những lý
do trên, Qatar khẳng định rằng Thỏa thuận 1987 và Biên bản 1990 là những thỏa
thuận quốc tế có tính ràng buộc và được điều chỉnh bởi Luật Quốc tế, do đó ICJ có
thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp này.
1.2.2. Lập luận của Bahrain (bị đơn)
Đối lại với Qatar, phía Bahrain cho rằng: Biên bản 1990 không phải là một thỏa
thuận quốc tế có tính ràng buộc và ý chí của các bên tham gia mới là yếu tố quan
trọng cấu thành nên tính ràng buộc của một thỏa thuận. Bahrain đã thể hiện rõ ý chí
không muốn bị ràng buộc bởi Biên bản 1990 trong thư phản đối gửi Tổng thư kí Liên
Hợp Quốc ngày 09/08/1991 và thư gửi Tòa ngày 18/08/1991 cũng như trong bản tranh
tụng Bahrain trình lên Tòa. Trong đó, Bahrain đưa ra một số lập luận sau:
a. Biên bản năm 1990 chỉ là một văn kiện ngoại giao, đó chỉ là kết quả của một
giai đoạn đàm phán ngoại giao giữa hai bên và do đó không có tính ràng buộc. Bộ
trưởng Bộ ngoại giao Bahrain đã không thể kí vào văn bản đó nếu ông biết được rằng
văn bản đó sau này sẽ ràng buộc Bahrain vào một văn kiện quốc tế hay điều ước quốc
tế có tính ràng buộc.
b. Biên bản 1990 đã không được các bên tham gia xem xét là đã cấu thành một
thỏa thuận quốc tế. Về phía Bahrain, rõ ràng ngay từ đầu, Bahrain đã không xem Biên
bản 1990 là một thỏa thuận quốc tế mang tính ràng buộc.Về phía Qatar cho đến thời
điểm nộp đơn, Qatar cũng chưa bao giờ xem Biên bản 1990 là thỏa thuận quốc tế
mang tính ràng buộc.

+ Thứ nhất, trong việc Hiến pháp Qatar quy định việc một điều ước quốc tế sẽ
có hiệu lực pháp lý sau khi đã được Official Gazette kí kết, thông qua và công khai.
Tuy nhiên, phía Qatar không có bất kì thông tin gì cho Hội đồng tư vấn hay có bất kì
sự giải thích hợp lí nào hay bất kì việc thông qua hay công khai nào từ phía Official
Gazette. Nếu Qatar thực hiện theo những gì Hiến pháp yêu cầu để chứng tỏ Qatar có ý
định xem những biên bản đó là thỏa thuận quốc tế, thì Bahrain đã có thể có cơ hội để
phản đối.
+ Thứ hai, Điều 17 Hiệp ước Liên hiệp các quốc gia Arab quy định” The
member States of the League shall file with the General Secretariat copies of all
treaties and agreements which they have concluded or will conclude with any other


7
State, whether a member of the League or otherwise”. Nhưng Qatar cũng đã không
thực hiện theo quy định trên.
+ Thứ ba, rõ ràng Qatar không có ý định xem các biên bản đó là thỏa thuận
quốc tế bởi vì chỉ vài tuần trước khi nộp đơn kiện Qatar mới đăng kí Biên bản 1990
như là một điều ước quốc tế cho Tổng thư kí Liên Hợp quốc
c. Những yêu cầu cần thiết cho việc thực hiện hiệu quả Biên bản đó như là một
điều ước không được thỏa mãn ngay cả khi nội dung Biên bản 1990 được xem như là
một điều ước quốc tế. Bởi vì Hiếp pháp Bahrain quy định rằng các điều ước liên quan
đến các vấn đề lãnh thổ hoặc quyền chủ quyền chỉ có thể có hiệu lực khi được nội luật
hóa. Mặc dù Bộ trưởng Bộ ngoại giao Bahrain có đủ thẩm quyền kí nhưng Qatar phải
chứng minh được rằng trong biên bản quy định Biên bản 1990 sẽ có hiệu lực ràng
buộc ngay sau khi kí. Vì những lí do trên, Bahrain lập luận rằng Biên bản 1990 không
phải là thỏa thuận quốc tế có tính ràng buộc và được điều chỉnh bởi Luật Quốc tế, do
đó ICJ không có thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp này
1.3. Lập luận và phán quyết của Tòa án
1.3.1. Lập luận của Tòa án
Thứ nhất, bản chất của việc trao đổi thư năm 1987 và của Biên bản Doha 1990,

thực tế, các bên đã đồng ý rằng việc trao đổi thư năm 1987 cấu thành một thỏa thuận
quốc tế với sức ràng buộc trong mối quan hệ song phương giữa hai nước. Tuy vậy,
Bahrain duy trì quan điểm cho rằng Biên bản ngày 25/12/1990 chỉ đơn thuần là một
biên bản của cuộc đàm phán, với bản chất tương tự như biên bản của Hội đồng ba bên,
theo đó, chúng không thể được coi là thỏa thuận quốc tế và vì thế không thể là cơ sở
cho thẩm quyền của Tòa. Xem xét Biên bản 1990, Tòa nhận thấy rằng chúng không
đơn giản là hồ sơ của một buổi họp tương tự như những biên bản được hình thành
trong khuôn khổ của Hội đồng ba biên; chúng không chỉ đưa ra sự tranh luận và tóm
tắt các điểm đồng thuận và không đồng thuận. Thực tế, chúng liệt kê ra các cam kết
mà các bên đã chấp thuận thực hiện. Vì thế chúng tạo ra các quyền và nghĩa vụ trong
luật quốc tế đối với các bên. Chúng cấu thành một thỏa thuận quốc tế. Bahrain duy trì
quan điểm rằng các bên ký kết Biên bản 1990 không hề có ý định tạo ra một thỏa
thuận như vậy. Tuy nhiên Tòa không cho rằng việc xem xét ý định của Bộ trưởng
Ngoại giao Bahrain hay Qatar là quan trọng. Đồng thời Tòa bác bỏ lý lẽ của Bahrain
rằng các hành động sau đó của hai nước cho thấy rằng họ không hề coi Biên bản 1990
là một thỏa thuận quốc tế.
Thứ hai, nội dung của các bức thư và biên bản:
+ Đầu tiên, Tòa nhận thấy rằng, với các bức thư tháng 12/1987, Bahrain và
Qatar đã tham gia vào một cam kết rằng sẽ đưa mọi tranh chấp của mình lên Tòa và


8
quyết định cùng với sự hỗ trợ của Quốc vương Saudi Arabia phương thức sẽ do Tòa
quyết định. Việc quyết định các “vấn đề tranh chấp” chỉ được giải quyết bởi Biên bản
tháng 12/1990 mà trong đó Qatar đã chấp thuận Công thức Bahrain. Vì thế, có thể
khẳng định cả hai bên đã chấp nhận việc Tòa sẽ quyết định các vấn đề chủ quyền trên
biển và vấn đề biên giới biển giữa hai bên. Công thức này quy định giới hạn của tranh
chấp được Tòa giải quyết. Nó được đặt ra để giới hạn vấn đề tranh chấp nhưng để ngỏ
khả năng cho các bên đưa ra lập luận của mình, trong khuôn khổ đã định. Tuy nhiên,
dù Công thức Bahrain cho phép việc thuyết trình riêng biệt của các bên, nó đã nghiễm

nhiên cho rằng toàn bộ vụ việc sẽ được đưa lên Tòa. Tòa đồng thời ghi chú rằng vào
thời điểm hiện tại Tòa chỉ có duy nhất bản đơn kiện của Qatar với những lập luận nhất
định trong khuôn khổ Công thức Bahrain. Điều 40 khoản 1 Quy chế Tòa án quy định
rằng khi các vụ việc được đưa lên trước Tòa vấn đề “chủ thể của vụ tranh chấp và các
bên liên quan” sẽ được đặt ra. “Cases are brought before the Court, as the case may
be, either by the notification of the special agreement or by a written application
addressed to the Registrar. In either case the subject of the dispute and the parties shall
be indicated.” Trong vụ việc này việc nhận dạng các bên tham gia không gặp phải vấn
đề khó khăn, nhưng chủ thể của vụ việc lại là vấn đề khác. Theo quan điểm của
Bahrain, đơn kiện của Qatar chỉ bao gồm một số yếu tố của vấn đề chủ thể mà hai bên
Qatar và Bahrain có ý định đưa vào Công thức Bahrain và được Qatar ghi nhận. Tuy
vậy, Tòa quyết định sẽ tạo cơ hội cho các bên đảm bảo việc trình lên Tòa toàn bộ vụ
việc theo như đã được khẳng định ở Biên bản 1990 và Công thức Bahrain mà cả hai
đã đồng thuận. Các bên có thể thực hiện việc này một cách riêng rẽ hoặc thực hiện
chung; và kết quả phải là vụ việc được đưa lên Tòa bao gồm “bất kỳ vấn đề nào liên
quan tới quyền lãnh thổ hay các tư cách và lợi ích khác mà giữa hai bên tồn tại sự
khác biệt”, và lời yêu cầu Tòa “đưa ra một đường biên giới biển đơn nhất giữa các
vùng đáy biển, vùng đất cái và vùng nước chồng lên nhau của diện tích biển giữa hai
nước”.
1.3.2.Tòa đưa ra phán quyết đối với vụ tranh chấp:
Thứ nhất, Nhận thấy rằng các bức thư trao đổi giữa quốc vương Arab và tiểu
vương Qatar vào ngày 19 và 21/12/1987, giữa quốc vương Arab với tiểu vương
Bahrain vào ngày 19 và 26/12/1987, và văn bản với tựa đề “Biên bản” được bộ trưởng
ngoại giao các nước Ả Rập, Qatar và Bahrain ký kết tại Doha vào ngày 25/12/1990, là
các thỏa thuận quốc tế (điều ước quốc tế) tạo ra quyền và nghĩa vụ cho các bên;
Thứ hai, Nhận thấy rằng dựa vào các điều khoản của thỏa thuận đó, các bên
đồng ý trình lên Tòa toàn bộ vụ tranh chấp của mình, như đã được kiến nghị bởi văn
bản do Bahrain đề xuất với Qatar vào ngày 26/10/1988 và được chấp thuận vào tháng



9
12/1990, và được nhắc tới trong Biên bản Doha 1990 với cái tên “Công thức
Bahrain”;
Thứ ba, Quyết định trao cơ hội cho các bên để trình lên Tòa toàn bộ vụ tranh
chấp.
Thứ tư, Ấn định ngày 30/11/1994 là thời hạn để các bên có hành động để đạt
đến mục tiêu này.
Thứ năm, Bảo lưu các vấn đề khác cho tới các quyết định tiếp sau. 1 ICJ
Judgments of 1 July 1994 - Case concerning Maritime delimitation and territorial
questions between Qatar and Bahrain, para.
2. Trình bày quan điểm của nhóm:
2.1 Quan điểm của Tòa án hoặc đương sự về vụ việc tương tự
2.1.1. Phán quyết của Tòa án Công lý Quốc tế đối với vụ án tranh chấp biên giới
trên bộ và trên biển giữa Cameroon và Nigeria năm 2002
Khái quát chung về biên giới trên biển và trên bộ vùng hồ Chad: Vùng hồ Chad
đã được phân định từ thời thực dân giữa 3 nước Anh, Pháp và Đức. Nhưng hai quốc
gia Cameroon và Nigeria đã bất đồng khi áp dụng đường biên giới đó. Năm 1994,
Cameroon đệ đơn đến ICJ, khởi đầu cho việc giải quyết tranh chấp chủ quyền vùng
biên giới trên bộ và trên biển giữa hai quốc gia.
2.1.2. Cơ sở pháp lý và lập luận của hai bên
Lập luận của Cameroon: Cameroon khẳng định chủ quyền vùng hồ Chad do kế
thừa từ thời thực dân. Cameroon đã thực thi chủ quyền bằng các cuộc viếng thăm của
quan chức địa phương, bầu cử, duy trì pháp luật và an ninh, họp mặt các trưởng làng,
thu các loại thuế. Từ năm 1987, Cameroon đã phản đối Nigeria dùng quân đội tiếp
quản trạm huấn luyện nghề cá và tìm cách quản lý hành chính khu vực tranh chấp.
Đồng thời phản đối Nigeria vi phạm nguyên tắc estoppels trước kia đã công nhận
đường biên giới từ thời thực dân và giao phó cho Ủy ban cắm mốc, coi hành vi của
Nigeria là xâm chiếm, vi phạm luật pháp quốc tế.
Lập luận của Nigeria: Trên thực tế Nigeria chỉ công nhận một số nội dung
phân định ranh giới từ thời thực dân, không công nhận sự khẳng định chủ quyền bằng

chiếm hữu thật sự thông qua hoạt động hỗ trợ y tế-giáo dục, quản lý, giám sát, thu
thuế các làng ở vùng hồ Chad mà không có phản đối từ Cameroon.
2.1.3. Phán quyết của Tòa
Đường biên giới thời thực dân vẫn giữ nguyên hiệu lực. Cameroon đã nắm giữ
chủ quyền trước khi Nigeria thực thi chủ quyền, mặc dù họ không có hoạt động
thường xuyên nhưng luôn tìm cách thực thi chủ quyền, cho dù có rất ít thành công, họ
đã rõ ràng phản đối hành vi của Nigeria. Nigeria thua kiện cho dù đã thực thi quyền


10
lực nhà nước trên lãnh thổ tranh chấp bởi nó không đáp ứng tiêu chí hòa bình của
chiếm hữu thật sự.
2.2. Quan điểm của nhóm
Tòa án quốc tế đã giải quyết vụ việc đứng trên lập trường của Qatar để đưa ra phán
quyết buộc Bahrain chấp nhận xem văn bản mang tên “Biên bản” được Bộ trưởng Bộ
Ngoại giao Ả Rập, Qatar và Bahrain kí kết tại Doha vào ngày 25/12/1990 là các thỏa
thuận quốc tế (điều ước quốc tế). Đó cũng là quan điểm chung của nhiều học giả theo
dõi vụ tranh chấp này. Bởi lẽ, lập luận mà phía Qatar đưa ra có phần đậm chất “bằng
chứng” hơn khi xoay quanh những vấn đề mà Bahrain trên lí thuyết văn bản đã chấp
nhận thực hiện như là “Hai quốc gia tán thành việc cho đến hết tháng 5/1991 các bên
có thể đưa vụ tranh chấp lên ICJ phù hợp với công thức Bahrain mà Qatar đã chấp
thuận”. Đây là lập luận chính, xuyên suốt và góp phần mang lại kết quả có lợi cho
Qatar từ Tòa án quốc tế.
Thứ hai, một số quan điểm cho rằng Bahrain đã từng kí kết một hiệp ước với Chính
phủ Anh về việc cam kết không tham gia vào bất kì một thỏa thuận hoặc một điều ước
với một nước thứ ba nào nếu chưa có sự thỏa thuận với Chính phủ Anh, tức văn bản
mang tên “Biên bản” năm 1990 giữa Qatar và Bahrain cũng sẽ không có giá trị là một
điều ước quốc tế. Tuy nhiên, những quan điểm này đã sớm bị bác bỏ thậm chí là bị chỉ
trích do sự can thiệp cả Chính phủ Anh tại Bahrain và Qatar đã sớm chấm dứt vào
năm 1971, tức là trước khoảng thời gian mà “Biên bản” được kí kết và lá thư mà Quốc

vương Saudi Arabia gửi cho tiểu vương Qatar và Bahrain đề xuất một số đề nghị trong
đó có nội dung “các vấn đề tranh chấp sẽ được chuyển đến cho Tòa án công lý Quốc
tế (International Court of Justice) ở Hague giải quyết” và được hai nguyên thủ quốc
gia chấp thuận.
Thứ ba, lập luận nhằm tố cáo Qatar vẫn chưa từng xem văn bản mang tên “Biên bản”
là một điều ước quốc tế có sự ràng buộc của đôi bên của Bahrain là “ Trong hiến pháp
Qatar quy định việc một điều ước quốc tế sẽ có hiệu lực pháp lí sau khi đã được
Official Gazette kí kết,thông qua và công khai .Tuy nhiên,phía Qatar không có bất kì
thông tin gì cho Official Gazette tư vấn hay có bất kì sự giải thích hợp lí nào hay bất
kì việc thông qua hay công khai từ phía Official Gazette” cũng đã chống lại chính
Bahrain dựa trên luật pháp quốc tế là Hiến pháp của một quốc gia không có hiệu lực
giải quyết vấn đề tranh chấp quốc tế và không có hiệu lực quốc tế.
2.3. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Hiện nay, Việt Nam đang tồn tại những khu vực trên biển còn tranh chấp với các quốc
gia khác, như khu vực bên ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ với Trung Quốc, trong Vịnh Thái
Lan với Campuchia, Thái Lan, Malaysia, tranh chấp với Trung Quốc trên quần đảo
Hoàng Sa, tranh chấp với Trung Quốc, Philippines, Malaysia, Brunay và Đài Loan
trên quần đảo Trường Sa, vùng đặc quyền kinh tế với Indonesia ... Trong tương lai,
các tranh chấp trên có thể được đưa ra các thiết chế tài phán quốc tế có thẩm quyền để
phân xử mà ICJ được xem là một trong các thiết chế tài phán quốc tế được sử dụng
phổ biến nhất hiện nay vì những tính năng ưu việt trong xét xử và hữu hiệu trong thi


11
hành các phán quyết của nó. Một số kinh nghiêm cho Việt Nam khi tham gia giải
quyết tranh chấp trên biển bằng ICJ như sau:
Thứ nhất, về phương pháp hoạch định đường biên giới biển, ICJ thường sử dụng gồm
ba giai đoạn như sau:
- Giai đoạn đầu tiên, Tòa tiến hành hoạch định một đường cách đều tạm thời, bằng
cách xác định các điểm cơ sở tương ứng với nhau nằm trên bờ biền của các Bên.

Những điểm này thường được chọn theo thỏa thuận của các Bên hoặc trường hợp các
Bên không thỏa thuận thì Tòa sẽ lấy các vị trí nhô ra biển nhất dọc theo bờ biển. Từ
các điểm cơ sở này, Tòa sẽ tiến hành hoạch định đường cách đều (đường trung tuyến)
tạm thời.
- Giai đoạn thứ hai, Tòa xem xét liệu tồn tại những hoàn cảnh có liên quan tác động
đến đường cách đều tạm thời, từ đó điều chỉnh đường này để đạt được một kết quả
công bằng. Phương pháp kỹ thuật của giai đoạn này là Tòa sẽ điều chỉnh đường cách
đều tạm thời trên cơ sở địa hình, địa mạo của bờ biển các quốc gia tranh chấp, xem xét
“hiệu lực” của các đảo trong khu vực biển phân định.
- Giai đoạn thứ ba, Tòa án tiến hành một thử nghiệm về tính cân xứng, trong đó đánh
giá sự tương xứng của đường phân định do Tòa hoạch định ở 2 giai đoạn trên với
chiều dài của đường bờ biển có liên quan của các quốc gia tranh chấp. Mục đích của
giai đoạn này là đánh giá tính công bằng của kết quả phân định của Tòa ở hai giai
đoạn trên. Phương pháp kỹ thuật của giai đoạn này là Tòa sẽ điều chỉnh một lần nữa
đường cách đều tạm thời trên cơ sở mối tương quan (tỷ lệ) về chiều dài đường bờ biển
của các Bên. Hiện nay, Việt Nam chưa phân định biên giới trên biển với các quốc gia
khác có đường biên giới trên bộ tiếp liền với nước ta như khu vực ngoài cửa Vịnh Bắc
Bộ với Trung Quốc, trong Vịnh Thái Lan với Campuchia. Vì vậy, việc nghiên cứu
cách thức Tòa hoạch định đường phân định trong vụ việc này có ý nghĩa phục vụ cho
nước ta trong tương lai nếu đưa các khu vực được đề cập ở trên ra ICJ phân xử.
Kinh nghiệm cho Việt Nam khi tham gia giải quyết tranh chấp trên biển bằng ICJ
Thứ hai, nguồn luật điều chỉnh tranh chấp giữa các quốc gia mà Tòa có thể sử dụng
theo Điều 38 Quy chế của Tòa án Công lý Quốc tế bao gồm:
- Các điều ước quốc tế chung hoặc riêng, đã quy định về những nguyên tắc được các
bên đang tranh chấp thừa nhận;
- Các tập quán quốc tế như những chứng cứ thực tiễn chung, được thừa nhận như
những quy phạm pháp luật;
- Nguyên tắc chung được các quốc gia văn minh thừa nhận.
- Các án lệ và các học thuyết của các chuyên gia có chuyên môn cao nhất về luật quốc
tế của các quốc gia khác nhau được coi là phương tiện để xác định các quy phạm pháp

luật.
Thứ ba, kết quả phân định cuối cùng của ICJ hướng đến tính công bằng chứ không
phải phân chia khu vực các bên đang tranh chấp thành những phần bằng nhau tương
xướng với hoàn cảnh có liên quan của mỗi bên. Nguyên tắc công bằng (còn được gọi


12
theo ngôn ngữ Latin là Nguyên tắc en aequo et bono) cho phép ICJ có thẩm quyền
phân xử không theo một khuôn mẫu cụ thể, miễn kết quả cuối cùng đảm bảo tính công
bằng cho các bên tham gia giải quyết tranh chấp.
Thứ tư, đây là bài học kinh nghệm đáng giá cho Việt Nam. Để có thể tham gia giải
quyết tranh chấp tại quốc tế tại ICJ nhằm bảo vệ hiệu quả chủ quyền quốc gia và lợi
ích dân tộc (với tư cách là nguyên đơn, hoặc bị đơn, hoặc bênthứ ba), nhất là đứng
trước những thách thức xuất phát từ tình hình nóng bỏng đang diễn ra trên Biển Đông,
Việt Nam cần thiết, một mặt, phải có chính sách sử dụng đội ngũ các chuyên gia luật
quốc tế đầu đàn, có kinh nghiệm và tâm huyết tại các viện nghiên cứu và trường đại
học ; đồng thời có chiến lược cụ thể đào tạo đội ngũ chuyên gia pháp lý quốc tế
chuyên sâu đáp ứng được yêu cầu về t ham gia giải quyết tranh chấp tại các thiết chế
tài phán quốc tế nói chung và ICJ nói riêng. Nhà nước cần xây dựng chính sách đào
tạo và tiến cử các chuyên gia là công dân Việt Nam có trình độ và bản lĩnh có đầy đủ
phẩm chất vào làm việc tại bộ phận giúp việc của các thiết chế tài phán quốc tế như
Tòa án Công lý Quốc tế (ICJ), Tòa án Luật biển Quốc tế (ITLOS), v.v... Tuyển chọn
các ứng viên xuất sắc nhất trong số này đưa ra ứng cử vào vị trí thẩm phán tại ICJ,
ITLOS hoặc tham gia vào Danh sách trọng tài viên để thành lập Tòa trọng tài theo các
Phụ lục VII và VIII của Công ước Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982, Trọng tài
Thường trực La hay (PCA),… hoặc tham gia với vai trò là cố vấn pháp lý, luật sư cho
Việt Nam khi các tranh chấp hiện nay của nước ta được đưa ra ICJ hặc các cơ quan tài
phán quốc tế khác.




×