TRƯNG ĐI HC KINH T QUC DÂN H NI
VIN ĐO TO SAU ĐI HC
BI THẢO LUẬN TI CHÍNH NGÂN HNG V SỰ
PHÁT TRIỂN
(đã chỉnh sửa)
ĐỀ TI:
PHÂN TÍCH V BÌNH LUẬN VỀ VIỆC THỰC THI
CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA NHNN VIỆT
NAM TRONG THI GIAN 5 NĂM TRỞ LI ĐÂY
Giảng viên : T S. Đặng Anh Tuấn
Lớp : CH 19 A
Nhóm HV thực hiện : Hoàng Lê Mai Phương
Trần Thị Thanh Hải
Nguyễn Thị Phượng
Nguyễn Thị Thảo
Phạm Thị Phương Thảo (1984)
Hà Nội, 2011
Bài thảo luận TCNH và sự phát triển GV :TS. Đặng Anh
Tuấn
MỤC LỤC
Đề tài 7 Lớp : CH
19A
2
Bài thảo luận TCNH và sự phát triển GV :TS. Đặng Anh
Tuấn
LỜI MỞ ĐẦU
Trước ngưỡng cửa của sự hội nhập, trở thành thành viên chính thức của tổ
chức thương mại thế giới (WTO), Đảng và Nhà nước ta luôn xác định chiến lược
phát triển kinh tế xã hội là sẽ tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, đẩy nhanh quá
trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước theo định hướng XHCN, xây dựng
nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Một
trong những điều kiện tiên quyết để thực hiện thành công đường lối đổi mới là
phải ổn định môi trường kinh tế vĩ mô và có các chính sách kinh tế phù hợp.
Trong đó chính sách tiền tệ là một chính sách kinh tế quan trọng tác động mạnh
mẽ nhiều mặt đến các biến số kinh tế vĩ mô.
Trong nền kinh tế thị trường, chính sách tiền tệ là một công cụ điều tiết vĩ
mô cực kỳ quan trọng, nhằm ổn định giá trị của đồng tiền, kiềm chế lạm phát, hạn
chế thất nghiệp, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Mặc dù tốc độ tăng trưởng kinh tế của nước ta trong thời gian qua, đặc biệt
là trong 5 năm trở lại đây, đã đạt mức đáng kể song tỷ lệ lạm phát vẫn cao, đồng
nội tệ ngày càng mất giá Điều này đòi hỏi Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phải
có một chính sách tiền tệ đúng đắn, linh hoạt để tạo điều kiện cho nền kinh tế
nước ta phát triển nhanh, bền vững, đồng thời đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp
hoá - hiện đại hoá đất nước.
Như vậy, với đề tài thảo luận “Phân tích và Bình luận về việc thực thi
chính sách tiền tệ của NHNN VN trong thời gian 5 năm trở lại đây” nhóm sẽ
có những khái quát về thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi chính
sách tiền tệ của NHNN Việt Nam.
Do hạn chế về thời gian, trình độ cũng như việc thu thập tài liệu nên bài
viết không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của
thầy để bài viết được hoàn thiện hơn.
Đề tài 7 Lớp : CH
19A
3
Bài thảo luận TCNH và sự phát triển GV :TS. Đặng Anh
Tuấn
1. LÝ LUẬN CHUNG
1.1. Khái niệm và mục tiêu của chính sách tiền tệ
1.1.1. Khái niệm
CSTT là tổng hòa các phương thức mà NHNN sử dụng nhằm tác động đến
lượng tiền cung ứng để đạt được mục tiêu kinh tế, xã hội đất nước trong thời kỳ
nhất định.
Có 2 CSTT chủ yếu:
- CSTT mở rộng: cung ứng thêm tiền, khuyến khích đầu tư, mở rộng
sản xuất… chống suy thoái.
- CSTT thắt chặt giảm cung ứng tiền nhằm hạn chế đầu tư, kìm hãm
sự phát triển quá nóng của nền kinh tế…, kiềm chế lạm phát.
1.1.2. Mục tiêu của chính sách tiền tệ
Mục tiêu của CSTT rất đa dạng như kiểm soát lạm phát, ổn định giá cả, tạo
công ăn việc làm(giảm tỷ lệ thất nghiệp), tăng trưởng kinh tế, ổn định thị trường
tài chính, lãi suất, tỷ giá hối đoái…
Do lạm phát tăng cao có tác động xấu đến các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô, trong
khi đó nguyên nhân lạm phát lại là tiền tệ. Chính vì vậy, ở hầu hết các nước, kiềm
chế lạm phát, ổn định giá cả là mục tiêu hàng đầu và mục tiêu dài hạn của CSTT.
Tùy vào tình hình kinh tế mỗi nước mà sẽ có một tỷ lệ lạm phát phù hợp. Bên
cạnh đó, còn 2 mục tiêu khác là tăng trưởng kinh tế và tạo công ăn việc làm, giảm
tỷ lệ thất nghiệp. Để thực hiện 2 mụa tiêu này thì NHNN thường thực hiện CSTT
mở rộng.
Xét cả 3 mục tiêu thì thấy, lạm phát, bình ổn giá cả thì phải áp dụng chính
sách tiền tệ thắt chặt. Và như vậy thì trong ngắn hạn không thể thực hiện được 2
mục tiêu còn lại. Ngược lại, khi nền kinh tế mở rộng, thất nghiệp giảm, nền kinh
tế phát triển quá nóng dẫn đến lạm phát gia tăng… Tuy nhiên, xét các mục tiêu
trên trong dài hạn thì chúng lại không mâu thuẫn với nhau. Mối quan hệ giữa mục
tiêu giảm thất nghiệp và mục tiêu tăng trưởng kinh tế không mâu thuẫn cả trong
ngắn hạn và dài hạn.
Đề tài 7 Lớp : CH
19A
4
Bài thảo luận TCNH và sự phát triển GV :TS. Đặng Anh
Tuấn
Hầu hết NHTWW đều đật ổn định giá cả là mục tiêu chủ yếu và dài hạn
của CSTT. Nhưng trong ngắn hạn, dưới áp lực của chính trị, họ có thể tạm thời từ
bỏ mục tiêu chủ yếu để hạn chế tình trạng thất nghiệp… Ngân hàng trung ương
không thể đạt đồng thời tất cả các mục tiêu trong ngắn hạng và thường thì theo
đuổi một mục tiêu trong dài hạn và đa mục tiêu trong ngắn hạn.
1.2. Các công cụ của chính sách tiền tệ và nguyên tắc thực thi
chính sách tiền tệ của NHNN
Các công cụ phổ biến hiện nay gồm có:
1.2.1. Nghiệp vụ thị trường mở
- Là việc mà NHNN mua bán các giấy tờ có giá trên thị trường tiền tệ và
ngược lại.
- Các nghiệp vụ thị trường mở là công cụ CSTT quan trọng nhất, vì chúng
là những nhân tố chủ yếu làm thay đổi lãi suất và tiền cơ sở, là nguồn chủ yếu
thay đổi cung tiền. Như vậy công cụ này không tác động trực tiếp mà là tác động
gián tiếp thông qua lãi suất liên ngân hàng và tiền cơ sở đến cung tiền và lãi suất
thị trường.
- Ưu điểm: Nghiệp vụ thị trường mở được tiến hành theo chú ý của chủ
NHNN kiểm soát được hoàn toàn khối lượng của nghiệp vụ này mà không chịu
ảnh hưởng của bất kỳ nhân tố nào khác. Là công cụ linh hoạt, chính xác, ít tốn
kém về chí phí và thời gian.
- Nhược điểm: Việc thực hiện công cụ này đòi hỏi phát triển thị trường tài
chính thức cấp nói chung và thị trường tiền tệ nói riêng. Ngoài ra NH phải có khả
năng dự đoán và kiểm soát sự biến động của lượng vốn khả dụng trong hệ thống
ngân hàng.
1.2.2. Chính sách tái chiết khấu
Bao gồm các quy định và điều kiện về việc cho vay có kiếm soát bằng cách
tác động đến lãi suất cho vay chiết khấu.
Đề tài 7 Lớp : CH
19A
5
Bài thảo luận TCNH và sự phát triển GV :TS. Đặng Anh
Tuấn
Lãi suất tái chiết khấu: là lãi suất mà ngân hàng đánh vào các khoản tiền
cho các ngân hàng thương mại vay để đáp ứng nhu cầu tiền mặt ngắn hạn hoặc bất
thường của các ngân hàng này.
Khi tỷ lệ dự trữ tiền mặt thực tế của ngân hàng thương mại giảm xuống
đến gần tỷ lệ an toàn tối thiểu thì họ sẽ phải cân nhắc việc có tiếp tục cho vay hay
không vì buộc phải tính toán giữa số tiền thu được từ việc cho vay với các chi phí
liên quan trong trường hợp khách hàng có nhu cầu tiền mặt cao bất thường.
- Nếu lãi suất chiết khấu bằng hoặc thấp hơn lãi suất thị trường thì ngân
hàng TM sẽ tiếp tục cho vay đến khi dự trữ tiền mặt giảm đến mức tối thiểu cho
phép vì nếu thiếu tiền mặt họ có thể vay từ ngân hàng trung ương mà không phải
chịu bất kỳ thiệt hại nào.
- Nếu lãi suất chiết khấu cao hơn lãi suất thị trường, các ngân hàng thương
mại không thể để cho tỷ lệ dự trữ tiền mặt giảm đến mức tối thiểu cho phép, thậm
chí phải dự trữ thêm tiền mặt để tránh phải vay tiền từ ngân hàng trung ương với
lãi suất cao hơn lãi suất thị trường khi phát sinh nhu cầu tiền mặt bất thường từ
phía khách hàng.
Tuy nhiên, tác dụng của CS này chỉ phát huy khi các tổ chức tín dụng có nhu cầu
vay vốn từ NHNN.
1.2.3. Dự trữ bắt buộc
Là số tiền mà các NHTM buộc phải duy trì trên một tài khoản gửi ở ngân
hàng trung ương.
Sự tăng lên hay giảm xuống của tỷ lệ dự trữ bắt buộc tác động đến cơ chế
tạo tiền và lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại, qua đó tác động đến
lượng tiền cung ứng.
- Ưu điểm: đây là công cụ có quyền lực ảnh hưởng rất mạnh đến
lượng tiền cung ứng. Chỉ cần thay đổi nhỏ tỷ lệ dự trữ bắt buộc cũng
sẽ dẫn đến sự thay đổi đáng kể khổi lượng tiền cung ứng.
Đề tài 7 Lớp : CH
19A
6
Bài thảo luận TCNH và sự phát triển GV :TS. Đặng Anh
Tuấn
- Nhược điểm: Bất lợi chủ yếu của công cụ dự trữ bắt buộc là có thể
khiến cho một số ngân hàng có dự trữ vượt mức quá thấp rơi vào tình
trạng mất “khả năng thanh toán ngay”. Đồng thời, việc thay đổi
thường xuyên tỷ lệ dự trữ bắt buộc khiến cho các ngân hàng rơi vào
tình trạng bất ổn trong việc quản lý thanh khoản, làm phát sinh tăng
chi phí.
1.2.4. Ấn định hạn mức tín dụng
Là quy định mức dư nợ tối đa mà các tổ chức tín dụng được phép vay.
Ngân hàng căn cứ nhu cầu vay vốn; năng lực tài chính; chu kỳ sản xuất, kinh
doanh; vòng luân chuyển vốn vay, dòng tiền, khả năng nguồn vốn của ngân hàng
để xác định nhu cầu vốn và hạn mức tín dụng khách hàng mà ngân hàng có thể
đáp ứng trong một thời gian nhất định (thường là 1 năm).
Lãi suất cho vay: trong hợp đồng (hạn mức) tín dụng có thể ấn định lãi suất
cụ thể hoặc quy định nguyên tắc xác định lãi suất phù hợp với quy định về lãi suất
ngân hàng. Lãi suất cụ thể được ghi trong khế ước nhận nợ từng lần phù hợp với
thỏa thuận của khách hàng và ngân hàng trong hợp đồng(hạn mức) tín dụng.
Nhược điểm: Công cụ này thiếu linh hoạt và có thể làm giảm cạnh tranh
giữa các ngân hàng.
1.2.5. Quản lý về lãi suất của các ngân hàng thương mại
Lãi suất cơ bản là một công cụ để thực hiện chính sách tiền tệ của NHNN
Việt Nam trong ngắn hạn. Theo luật Ngân hàng Nhà nước, lãi suất cơ bản chỉ áp
dụng cho đồng việt nam, do NHNN công bố, làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng
ấn định lãi suất kinh doanh. (Lãi suất cơ bản được xác định dựa trên cơ sở lãi suất
thị trường liên ngân hàng, lãi suất nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng nhà
nước, lãi suất huy động đầu vào của tổ chức tín dụng và xu hướng biến động cung
– cầu vốn. Theo luật dân sự, các tổ chức tín dụng không cho vay với lãi suất cao
Đề tài 7 Lớp : CH
19A
7
Bài thảo luận TCNH và sự phát triển GV :TS. Đặng Anh
Tuấn
gấp rưỡi lãi suất cơ bản. Lãi suất cơ bản chỉ được công bố lần đầu vào ngày 30- 5-
2000. Trong lần đầu công bố, lãi suất cơ bản chỉ ở mức 7,2%/năm. Vào thời điểm
tháng 6 năm 2008, lãi suất cơ bản là 14%/ năm. Điều này có nghĩa là các tổ chức
tín dụng có thể quyết định mức lãi suất cho vay của mình cao tới 21%).
Lãi suất tái cấp vốn là loại lãi suất mà ở đó NHTW áp dụng cho các nghiệp
vụ tái cấp vốn cho hệ thống ngân hàng trung gian (bao gồm ngân hàng TM). Ở
Việt Nam, Ngân hàng TW tái cấp vốn cho các NHTM qua hình thức: cho vay lại
theo hồ sơ tín dụng, chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá
ngắn hạn khác, cho vay dưới hình thức cầm cố các giấy tờ có giá ngắn hạn.
Đề tài 7 Lớp : CH
19A
8
Bài thảo luận TCNH và sự phát triển GV :TS. Đặng Anh
Tuấn
2. VIC THỰC THI CHÍNH SÁCH TIỀN T CỦA NHNN VIT NAM
TRONG 5 NĂM TRỞ LI ĐÂY (2006-2010)
2.1. Chính sách tiền tệ của NHNN Việt Nam giai đoạn 2006-2008
2.1.1. Thực thi chính sách
Nhìn chung ở giai đoạn này, thị trường tiền tệ phát triển ổn định. NHNN
can thiệp vào thị trường tiền tệ thông qua các công cụ điều tiết vĩ mô như: thị
trường mở, dự trữ bắt buộc, chứ không sử dụng các biện pháp hành chính rõ
ràng như hạn mức tín dụng hay trần lãi suất.
2.1.1.1. Nghiệp vụ thị trường mở
Thông qua nghiệp vụ thị trường mở, NHNN đã hút được một lượng tương
đối lớn vốn ngoại tệ khả dụng dư thừa của các tổ chức tín dụng, đồng thời vẫn
điều tiết kịp thời sự thiếu hụt vốn mang tính thời điểm của một số tổ chức tín
dụng, đảm bảo duy trì ổn định tiền tệ, ổn định lãi suất thị trường.
2.1.1.2. Dự trữ bắt buộc
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc duy trì ở mức cao, đối với nội tệ gửi dưới 12 tháng
của hầu hết các ngân hàng thương mại đã tăng từ 5% lên 10%; Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn (Agribank) tăng từ 4% lên 8%, Quỹ Tín dụng nhân
dân Trung ương tăng từ 2% lên 4%, kỳ hạn trên 12 tháng là 4%. Còn đối với dự
trữ bắt buộc tiền gửi ngoại tệ: kỳ hạn dưới 12 tháng tăng từ 8% lên 10%; kỳ hạn
12 tháng đến 24 tháng tăng từ 2% lên 4%. Tỷ lệ này được điều chỉnh tăng gấp hai
lần trong năm 2006 nhằm hạn chế lượng vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng,
giảm lượng tiền cung ứng ra nên kinh tế, kiềm chế lạm phát.
2.1.1.3. Hạn mức tín dụng
NHNN không đưa ra quy định hạn chế cũng như các định hướng cụ thể
nhằm điều chỉnh dư nợ toàn hệ thống. Kết quả, tăng trưởng tín dụng đạt tốc độ
cao, trung bình ở mức 35%-50%/năm (năm 2007 tăng trưởng tín dụng đạt 54%).
Chính sách chỉ tập trung hạn chế tăng trưởng tín dụng đối với các lĩnh vực cho
Đề tài 7 Lớp : CH
19A
9
Bài thảo luận TCNH và sự phát triển GV :TS. Đặng Anh
Tuấn
vay chịu rủi ro cao: cho vay kinh doanh chứng khoán, cho vay thị trường bất động
sản.
+ Tín dụng đầu tư vào thị trường chứng khoán được kiểm soát chặt chẽ và
giảm dần cả số tuyệt đối và tỷ lệ dư nợ qua các tháng, góp phần thúc đẩy thị
trường chứng khoán phát triển ổn định. Tín dụng đối với lĩnh vực bất động sản
cũng được theo dõi, giám sát chặt chẽ nhằm góp phần hạn chế những tiềm ẩn
rủi ro trong hoạt động ngân hàng và thúc đẩy thị trường bất động sản phát triển
bền vững.
+ Chất lượng tín dụng được cải thiện: Tỷ lệ nợ xấu tháng 9/2006 là 2,2%,
có xu hướng giảm so với tỷ lệ nợ xấu tháng 12/2006 (2,64%), trong đó tỷ lệ nợ
xấu của các nhóm TCTD đều giảm. Cụ thể là: tỷ lệ nợ xấu của các NHTM nhà
nước là 2,8% (giảm 0,4%); tỷ lệ nợ xấu của các NHTM cổ phần là 1,26% (giảm
0,34%); tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng liên doanh và chi nhánh nước ngoài là
0,8% (giảm 0,4%); tỷ lệ nợ xấu của các TCTD khác là 2,4% (giảm 0,5%).
+ Các sản phẩm dịch vụ tín dụng đã được đa dạng hơn, nhiều lĩnh vực cho
vay đầu tư được mở rộng, các doanh nghiệp vừa và nhỏ có nhiều điều kiện thuận
lợi tiếp cận nguồn vốn vay ngân hàng để phát triển sản xuất, tạo công ăn việc làm,
giảm tỷ lệ thất nghiệp góp phần ổn định xã hội, cho vay phát triển nông nghiệp
nông thôn, cho vay chính sách hỗ trợ các hộ nghèo, hộ sản xuất kinh doanh vùng
khó khăn cũng được mở rộng, góp phần tích cực thực hiện mục tiêu xoá đói giảm
nghèo. Bên cạnh đó, việc cho vay tiêu dùng cũng được mở ra rất đa dạng đáp ứng
đầy đủ các nhu cầu của xã hội
2.1.1.4. Lãi suất
Các mức lãi suất thị trường được quyết định đều dựa trên quan hệ cung cầu
vốn vay. NHNN không quy định trần lãi suất đối với huy động, cho vay và duy trì
ổn định mức lãi suất cơ bản. Đồng thời, trong điều kiện nguồn cung ngoại tệ dồi
dào, từ 01/03/2007, NHNN đã chính thức thực hiện bỏ qui định về trần lãi suất
Đề tài 7 Lớp : CH
19A
10
Bài thảo luận TCNH và sự phát triển GV :TS. Đặng Anh
Tuấn
tiền gửi USD của pháp nhân tại tổ chức tín dụng để hoàn toàn tự do hóa lãi suất
thị trường, phù hợp với tiến trình hội nhập quốc tế.
2.1.1.5. Tỷ giá hối đoái
Điều hành tỷ giá và quản lý dự trữ ngoại hối phù hợp với điều kiện mở cửa
thị trường tài chính
- Ngay từ đầu năm 2007, NHNN bắt đầu thực hiện nới lỏng biên độ tỷ giá
từ 0,25% lên 0,5% và đến 12/12/2007, tiếp tục nới rộng biên độ lên 0,75%. Đồng
thời NHNN đã thực hiện việc mua ngoại tệ theo nhu cầu bán của các NHTM, Kho
bạc Nhà nước và các tổ chức quốc tế với tỷ giá phù hợp để hạn chế sức ép tăng
giá đồng Việt Nam và tăng cường mức dự trữ ngoại hối Nhà nước. Chênh lệch
giữa tỷ giá mua ngoại tệ của NHNN và tỷ giá bình quân trên thị trường liên ngân
hàng đã được thu hẹp, phản ánh sát cung cầu ngoại tệ trên thị trường.
- Thực hiện Quyết định số 597/QĐ-TTg ngày 11/5/2007 của Thủ tướng
Chính phủ, NHNN đã duy trì hạn mức Quỹ bình ổn tỷ giá và giá vàng bằng 30%
tổng dự trữ ngoại hối nhà nước, (xác định theo quý) với biên độ +/- 10% thay vì
xác định hạn mức theo giá trị tuyệt đối như trước đây. Việc xác định hạn mức như
vậy cho phép NHNN tăng cường tính linh hoạt trong điều hành tỷ giá, kịp thời
ứng phó với các rủi ro đảo chiều của các nguồn vốn, đặc biệt là các nguồn vốn
đầu tư gián tiếp của nước ngoài.
- NHNN đã quản lý an toàn dự trữ ngoại hối Nhà nước, đáp ứng mục tiêu
thanh khoản và sinh lời ở mức độ nhất định.
- Xây dựng và ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện Pháp lệnh Ngoại
hối; triển khai thực hiện Đề án nâng cao tính chuyển đổi của đồng tiền Việt Nam,
khắc phục tình trạng đô la hóa trong nền kinh tế đã được Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt.
2.1.2. Thành tựu và hạn chế trong thực thi chính sách tiền tệ
2.1.2.1. Kết quả đạt được
Đề tài 7 Lớp : CH
19A
11
Bài thảo luận TCNH và sự phát triển GV :TS. Đặng Anh
Tuấn
- Qui mô thị trường tiền tệ mở rộng và ổn định, không để xảy ra những cú
sốc về lãi suất và tỷ giá trước những biến động khó lường của tình hình thị trường
tài chính quốc tế.
+ Lãi suất thị trường liên ngân hàng mặc dù có biến động mạnh trong vài
ngày giữa tháng 11/2007, song, nhìn chung, mặt bằng lãi suất ổn định: lãi suất huy
động và cho vay của TCTD đầu năm 2007 có xu hướng giảm nhẹ so với cuối năm
2006, tạo điều kiện cho việc huy động vốn và đầu tư cho tăng trưởng kinh tế.
- Diến biến tổng phương tiện thanh mặc dù tăng cao, nhưng cơ cấu thay đổi
theo chiều hướng tích cực
+ Tỷ lệ tiền mặt trên tổng phương tiện thanh toán giảm từ mức 19,3% năm
2006 xuống mức 17,8% năm 2007.
+ Tỷ lệ ngoại tệ trên tổng tiền gửi từ mức 25,9% năm 2006 xuống còn
22,6% năm 2007.
- Giảm mức độ đô la hoá của nền kinh tế.
2.1.2.2. Hạn chế
- Tốc độ tăng trưởng tín dụng không được kiểm soát là nguyên nhân chính
dẫn tới làm phát tăng cao vào đầu năm 2008. Nên kinh tế không được kiểm soát
chặt chẽ, cộng thêm tác động mạnh mẽ từ cuộc khủng hoảng nhà đất từ thị trường
Mỹ đã dẫn tới cuộc khủng hoảng trầm trọng năm 2008
- Chính sách tỉ giá với biên độ giao động nhỏ làm cho nền kinh tế chưa kịp
thích ứng với môi trường bên ngoài.
2.2. Năm 2008 – Khủng hoảng kinh tế
Tổng quan kinh tế thế giới cuối năm 2007 -2008: Kinh tế thế giới đối mặt
với nhiều khó khăn: Khủng hoảng tín dụng thế chấp dưói chuẩn ở Mỹ từ tháng
7.2007 lan toả mạnh mẽ trên toàn cầu. Giá cả thế giới liên tục tăng cao, 3 nền kinh
tế lớn là Trung Quốc, Mỹ, khu vực EU đều đối mặt với lạm phát leo thang; giá
dầu tăng 57,7%, Giá gạo tăng 19%
Đề tài 7 Lớp : CH
19A
12
Bài thảo luận TCNH và sự phát triển GV :TS. Đặng Anh
Tuấn
KINH TẾ THẾ GIỚI 2007
Tổng quan kinh tế Việt Nam năm 2008: Mang biểu hiện của một nền kinh
tế quá nóng: lạm phát gia tăng, thâm hụt cán cân thanh toán vãng lãi, bong bóng
trên thị trường bât động sản, kết quả là tăng trưởng kinh tế dương nhưng thực chất
là thấp hơn những năm trước (suy giảm kinh tế). Một năm thị trường có nhiều
biến động, nền kinh tế hàm chứa cả hai thái cực là nóng và lạnh, sự chuyển đổi
giữa hai thái cực này cũng diễn ra hết sức nhanh chóng: giai đoạn 5 tháng đầu
năm nền kinh tế suy giảm gắn với lạm phát trong khi 7 tháng cuối năm 2008 nền
kinh tế suy giảm lại gắn với thiểu phát.
Đề tài 7 Lớp : CH
19A
13
Bài thảo luận TCNH và sự phát triển GV :TS. Đặng Anh
Tuấn
Biểu hiện rõ nhất trên thị trường tiền tệ là sự thiếu hụt nguồn vốn, dẫn đến
một cuộc khủng hoảng thanh khoản nghiêm trọng đe doạ đến sự tồn tại của cả hệ
thống ngân hàng. Để đảm cho sự tồn tại, các ngân hàng liên tục tăng lãi suất huy
động nhằm bù đắp thiếu hụt và để đảm bảo lợi nhuận các ngân hàng lần lượt nâng
lãi suất cho vay.
Trong điều kiện đó, việc điều hành chính sách của NHNN đã trở thành tâm
điểm chú ý, và trong bối cảnh đó cũng chứng minh một điều rằng, khi nền kinh tế
biến động thì những quyết định trong điều kiện bình thường được coi là "hành
chính" đã trở thành biện pháp "can thiệp" cần thiết.
Đề tài 7 Lớp : CH
19A
14
Bài thảo luận TCNH và sự phát triển GV :TS. Đặng Anh
Tuấn
Chính sách tiền tệ trong năm 2008 được chia làm 02 giai đoạn:
2.2.1. Giai đoạn 1: 6 tháng đầu năm 2008: Thực hiện CSTT thắt
chặt nhằm kiềm chế lạm phát.
Trong 6 tháng đầu năm, áp lực lạm phát gia tăng mang tính toàn cầu, CPI
của Việt Nam trong 6 tháng tăng bình quân là 15,03%, mức thâm hụt cán cân
thương mại ở mức kỷ lục (hơn 14% GDP).
- Dự trữ bắt buộc: Tỷ lệ dự trữ bắt buộc giai đoạn này xác lập ở mức cao
nhất trong 10 năm trở lại đây. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc thêm 1% và xác lập ở mức
11% đối với VND. Lần đầu tiên, NHNN mở rộng diện dự trữ bắt buộc đối với cả
loại tiền gửi có kỳ hạn từ 24 tháng trở lên (trước đây chỉ có kỳ hạn 24 tháng trở
xuống mới chịu dự trữ bắt buộc)
NHNN phát hành tín phiếu NHNN bắt buộc vào ngày 17/3/2008), tổng khối
lượng phát hành: 20.300 tỷ đồng, lãi suất 7,8%/năm, kỳ hạn 364 ngày, trong đó
các NHTM Nhà nước phải mua 9.500 tỷ đồng, các TCTD khác: 10.800 tỷ đồng.
- Kiểm soát hoạt động tín dụng: NHNN đã bước đầu định hướng tốc độ
tăng trưởng tín dụng cả năm là 30% toàn hệ thống.
Tuy nhiên, một tình huống khó lường là các NHTM đã không phản ứng kịp thời
trước việc thắt chặt chính sách tiền tệ nên vẫn tiếp tục đẩy mạnh tín dụng, cùng
với việc quản lý thanh khoản của các NHTM còn bất cập đã gây nên tình trạng
thiếu khả năng thanh khoản tại nhiều ngân hàng.
Để bù đắp thiếu hụt thanh khoản, các NHTM đã đua nhau tăng lãi suất huy
động vốn trên thị trường, lãi suất trên thị trường liên ngân hàng trong thời gian
này có thời điểm lên đến 37%/năm, nếu tình trạng này cứ tiếp tục kéo dài, khả
năng đổ vỡ hệ thống ngân hàng có thể xảy ra.
- Công cụ thị trường mở: trước diễn biến thị trường như vậy, NHNN đã kịp
thời tăng tính thanh khoản cho thị trường bằng cách bơm mạnh tiền qua nghiệp vụ
thị trường mở (OMO), chuyển từ đấu thầu lãi suất sang đầu thầu khối lượng, tăng
cường thanh tra, giám sát hoạt động tín dụng của các NHTM, thắt chặt điều kiện
Đề tài 7 Lớp : CH
19A
15
Bài thảo luận TCNH và sự phát triển GV :TS. Đặng Anh
Tuấn
mở chi nhánh Mở rộng điều kiện cho vay tái cấp vốn (cho phép các TCTD được
cầm cố hồ sơ tín dụng trong giao dịch tái cấp vốn với NHNN)
Thêm vào đó, NHNN tăng cường giám sát thị trường tiền tệ: liên tục thanh
tra giám sát các tỷ lệ an toàn vốn của các ngân hàng thương mại. Đây cũng là một
căn cứ để NHNN trợ giúp NHTM trong trường hợp khó khăn về khả năng thanh
toán.
- Lãi suất: NHNN sử dụng lãi suất cơ bản như một công cụ để định hướng
lãi suất thị trường, Trong năm 2008, NHNN thực hiện 3 lần tăng lãi suất cơ bản từ
mức 8,25%/năm lên 14%/năm (từ 1/2/2008 đến 11/6/2008). Từ ngày 19/5/2008,
NHNN ban hành cơ chế điều hành lãi suất mới: các TCTD ấn định lãi suất huy
động và cho vay không quá 150% lãi suất cơ bản. Tuy nhiên, các biện pháp chính
sách trên chưa ngăn chặn được đà tăng lãi suất huy động và mở rộng tín dụng của
các NHTM, do vậy buộc NHNN phải quy định trần lãi suất huy động tiền gửi của
các NHTM không được vượt quá 12%. Giải pháp trên đã có tác động nhanh
chóng, tích cực “giảm đà tăng lãi suất huy động của các NHTM” chỉ trong vài
ngày.
Bước tiếp theo để tiếp tục tạo sự bình ổn thị trường bền vững qua cú “sốc”
tháng 3, tháng 5, NHNN thực hiện cơ chế điều hành lãi suất mới, theo đó quy định
các NHTM cho vay nền kinh tế không vượt quá 150% lãi suất cơ bản và mức lãi
suất cơ bản được điều chỉnh từ mức 12%/năm lên 14%/năm.
Quy định này phù hợp với Bộ luật Dân sự, đó như là một liệu pháp mạnh
mang tính tình thế đã có tác động ổn định lãi suất và tăng trưởng tín dụng đã chậm
lại từ tháng 5 cho đến hết năm.
- Tỷ giá hối đoái: sự kiện nổi bật trong năm 2008 là tỷ giá giữa USD/VND
xuống thấp kỷ lục bởi đồng USD giảm giá do ảnh hưởng bởi suy thoái kinh tế ở
Mỹ và việc FED cắt giảm lãi suất cơ bản đồng USD xuống mức thấp nhất trong
nhiều năm qua (có lúc xuống 0,25%) khiến cho việc xuất khẩu hàng hoá của Việt
Nam gặp nhiều khó khăn.
Đề tài 7 Lớp : CH
19A
16
Bài thảo luận TCNH và sự phát triển GV :TS. Đặng Anh
Tuấn
Để khuyến khích xuất khẩu, NHNN đã quyết định mua vào hơn 7 tỷ USD,
tương đương với việc “bơm” thêm hơn 112.000 tỷ VND vào nền kinh tế làm cho
lạm phát càng thêm trầm trọng. Biện pháp mua vào 7 tỷ USD có mặt tích cực đó
là gia tăng dự trữ ngoại hối quốc gia (còn đang ở mức rất thấp so với các nước
trong khu vực), đồng thời nâng giá trị đồng USD nhằm khuyến khích nền kinh tế
xuất khẩu qua đó tạo điều kiện phát triển sản xuất trong nước, điều chỉnh giảm bội
chi cán cân thương mại. Mặc dù sau đó, NHNN đã thực hiện nghiệp vụ thị trường
mở (Open Market) để “hút"”tiền trở lại nhưng chỉ thu hồi được hơn 82.000 tỷ.
Tuy nhiên, việc làm này vẫn làm gia tăng áp lực lớn về lạm phát vì với một khối
lượng tiền quá lớn đã được NHNN cung vào nền kinh tế.
Để bình ổn thị trường ngoại hối, NHNN đã thực hiện hàng loạt biện pháp,
như nới rộng biên độ tỷ giá từ ±1% lên mức ±2% tạo sự linh hoạt tỷ giá sát với
cung - cầu thị trường; thực hiện mở rộng đối tượng bán ngoại tệ cho các NHTM,
việc can thiệp dựa vào trạng thái ngoại tệ của các NHTM trong ngày, thực hiện
minh bạch các thông tin về dự trữ ngoại hối. Các biện pháp này đã đáp ứng được
các kỳ vọng của thị trường, trên cơ sở đó tạo dựng lòng tin của thị trường với
NHNN.
Bên cạnh đó, NHNN thực hiện giám sát chặt chẽ hoạt động kinh doanh ngoại
tệ, cấm các tổ chức tín dụng (TCTD) không được mua - bán USD thông qua ngoại
tệ khác, phối hợp với các cơ quan chức năng tiến hành kiểm tra và xử lý các hoạt
động đầu cơ, kinh doanh ngoại tệ trái pháp luật trên thị trường và thiết lập đường
dây nóng. Hành động này đã có tác động nâng cao kỷ luật thị trường, góp phần
tích cực tạo bình ổn thị trường. Nhận định của một số quỹ đầu tư nước ngoài tại
Việt Nam cho rằng, nhờ đường dây nóng mà các NHTM đã không ép được các
doanh nghiệp mua ngoại tệ với tỷ giá cao hơn biên độ. Việc thực hiện kịp thời,
đồng bộ các giải pháp bình ổn thị trường ngoại hối đã nhanh chóng tạo được sự
bình ổn.
Đề tài 7 Lớp : CH
19A
17
Bài thảo luận TCNH và sự phát triển GV :TS. Đặng Anh
Tuấn
2.2.2. Giai đoạn 2: 6 tháng cuối năm 2008: Thực hiện CSTT nới
lỏng từng bước để hỗ trợ duy trì sản xuất, tạo việc làm.
Bước sang tháng 7.2008, tình hình kinh tế thế giới diễn ra theo chiều hướng
bất ổn rõ nét: Từ khủng hoảng thị trường nhà đất của Mỹ chuyển sang khủng
hoảng tài chính mang tính toàn cầu, suy thoái kinh tế đã xảy ra ở hầu hết nền kinh
tế chủ chốt, như Nhật, Mỹ, Anh và nhiều nước thuộc khu vực Euro Zone ; giá
dầu và giá lương thực giảm mạnh kéo theo giá các mặt hàng tiêu dùng khác giảm
theo
Kinh tế thế giới đang từ xu hướng suy thoái kinh tế gắn lạm phát sang suy
thoái kinh tế gắn với giảm phát đang là nỗi lo của các quốc gia hiện nay. Để cứu
nguy cho tình hình này, hầu hết các nền kinh tế chủ chốt đã thực hiện chính sách
tiền tệ và chính sách tài khóa nới lỏng nhằm tăng tính thanh khoản cho thị trường,
khuyến khích các NHTM mở rộng cho vay, kích thích đầu tư
Trong tình hình kinh tế thế giới như vậy, mặc dù những tháng cuối năm 2008
mức độ ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đến nền kinh tế Việt
Nam, nhất là thị trường tài chính Việt Nam còn nhỏ, song để ngăn chặn ảnh
hưởng của suy thoái kinh tế toàn cầu và giảm áp lực lạm phát vẫn diễn ra ở Việt
Nam đến tận tháng 9.2008, NHNN đã phải tiếp tục áp dụng một số biện pháp hỗ
trợ thị trường như nâng lãi suất tín phiếu bắt buộc (từ 7.8%/năm lên mức
13%/năm), cho phép các TCTD thanh toán tín phiếu NHNN bắt buộc trước hạn
theo nhu cầu (21/10/2008), trả lãi cho tiền gửi dự trữ bắt buộc bằng VND
Để kích thích kinh tế chống lại nguy cơ giảm phát, bắt đầu từ tháng 10.2008,
các loại lãi suất chỉ đạo đã liên tục được hạ xuống theo một lộ trình thích hợp. Lãi
suất cơ bản từ mức 14%/năm sau 4 lần hạ hiện xuống còn 8,5%/năm, lãi suất tái
chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn cũng được hạ tương ứng, biên độ dao động tỷ giá
được nâng từ từ +/-2% lên +/- 3%
Hành động này nhằm tạo sự hợp lý giữa các công cụ CSTT, giảm một phần
chi phí hoạt động cho các NHTM, để các NHTM có điều kiện hạ lãi suất cho vay
Đề tài 7 Lớp : CH
19A
18
Bài thảo luận TCNH và sự phát triển GV :TS. Đặng Anh
Tuấn
hỗ trợ cho các doanh nghiệp duy trì và mở rộng sản xuất, khuyến khích xuất khẩu
trong điều kiện kinh tế thế giới suy thoái.
Các chỉ số thị trường tiền tệ (tốc độ tăng M2, tín dụng và lãi suất) và các chỉ
số kinh tế đạt được trong những tháng cuối năm cho thấy việc thực thi CSTT của
NHNN năm 2008, mặc dù có những bất cập nhất định, nhưng thực sự đã có những
tác động rất rõ nét đến việc ổn định thị trường tiền tệ, ngăn chặn đà lạm phát đang
gia tăng rất cao, tạo thế chủ động cho NHNN trong thực thi CSTT, thiết lập được
kỷ luật trên thị trường tiền tệ mà trước đây rất lỏng lẻo, làm thay đổi thái độ và
hành vi ứng xử của các thành viên thị trường theo chiều hướng tích cực.
Các NHTM đã có sự điều chỉnh chiến lược kinh doanh của mình phù hợp với
các động thái chính sách, quản lý vốn thanh khoản được nâng lên một bước, các
thành viên khác của thị trường (doanh nghiệp và cá nhân) đã phản ứng rất nhanh
trước những thay đổi chính sách và thông tin thị trường
Các biểu hiện này cho thấy, thị trường tiền tệ phát triển theo xu hướng tích
cực, tăng tính thị trường và nó cũng cho thấy, độ trễ tác động của chính sách sẽ
ngắn lại hơn so với các năm trước.
Đây là vấn đề cần được các nhà hoạch định chính sách vĩ mô quan tâm, để
việc ban hành các chính sách vĩ mô trong những tháng tiếp theo được chủ động và
mang lại hiệu quả cao hơn.
Tuy nhiên, thắt chặt CSTT cũng có những ảnh hưởng đến sản xuất của các
doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Đó là cái giá phải trả trong
ngắn hạn để ngằn chặt đà lạm phát đang gia tăng, tạo sự tăng trưởng bền vững
trong tương lai.
2.2.3. Kết quả điều hành chính sách tiền tệ năm 2008
Như vậy, trong năm 2008, NHNN đã tập trung vào 2 mục tiêu chủ yếu là
kiểm soát tổng phương tiện thanh toán ở mức hợp lý và kiểm soát dư nợ tín dụng
và tính đến hết tháng 10/ 2008 các chỉ tiêu này lần lượt đạt là 10,59% (cùng kỳ
Đề tài 7 Lớp : CH
19A
19
Bài thảo luận TCNH và sự phát triển GV :TS. Đặng Anh
Tuấn
năm ngoái tăng 32%) và 19,6% (cùng kỳ năm ngoái tăng 37%). Từ việc kiểm soát
2 chỉ tiêu chủ yếu này, NHNN đã rút về một lượng lớn tiền mặt khỏi lưu thông và
từ đó giảm bớt áp lực của sự tăng lạm phát. Việc rút bớt một lượng tiền mặt khỏi
lưu thông được thực hiện thông qua việc siết chặt các khoản vay không hiệu quả
để tập trung tăng trưởng tín dụng cho sản xuất, xuất khẩu, cho lĩnh vực nông
nghiệp, nông dân và nông thôn, cho hộ chính sách và đặc biệt là đối với các dự án
dang dở có hiệu quả phải đầu tư nhanh để phát huy hiệu quả. Đồng thời NHNN đã
linh hoạt kịp thời nới lỏng CSTT bằng cách hạ lãi suất cơ bản, giảm tỷ lệ dự trữ
bắt buộc… khi có dấu hiệu giảm áp lực lạm phát và tăng trưởng khó khăn, nhất là
khi tình trạng suy thoái kinh tế đang lan tỏa ra toàn cầu và có thể tác động mạnh
đến nền kinh tế Việt Nam trong năm 2009 nếu Việt Nam không có giải pháp ứng
phó.
Về thị trường tài chính ngân hàng, thanh khoản của hệ thống ngân hàng
được đảm bảo, khả năng quản trị điều hành của các TCTD được cải thiện.
2.2.4. Hạn chế và bài học kinh nghiệm
Có thể nói, NHNN đã sử dụng một cách linh hoạt và khá hiệu quả các công
cụ chính sách tiền tệ để bình ổn nền kinh tế. Tuy nhiên, trong giai đoạn này, lẽ ra,
NHNN nên phối hợp các chính sách kinh tế vĩ mô khác để điều phối nhịp nhàng
hơn sự vận hành của nền kinh tế như: chính sách tài khóa, chính sách xuất khẩu,
nhập khẩu, Đặc biệt, khi NHNN thắt chặt tiền tệ, hạn chế tín dụng, các doanh
nghiệp sẽ khó khăn hơn trong việc tiếp cận nguồn vốn, kế hoạch sản xuất kinh
doanh thì vẫn phải thực hiện trong khi nguồn vốn đầu vào lại không có. Cộng
thêm các khủng hoảng sẵn có trên thị trường là một bài toán khó tháo gỡ cho các
doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nếu thời điểm đó, NHNN
kết hợp thêm với chính sách tài khóa, như giảm thuế cho các doanh nghiệp, có
thể bức tranh thị trường sẽ đỡ ảm đạm hơn
Đề tài 7 Lớp : CH
19A
20
Bài thảo luận TCNH và sự phát triển GV :TS. Đặng Anh
Tuấn
Một bài học cũng cần rút ra cho thực thi CSTT, đó là do chưa lường trước
được phản ứng của thị trường, nên các biện pháp CSTT phần nào gây cú sốc thị
trường, làm cho các NHTM có sự chao đảo nhất định trong kinh doanh. Nhưng cú
sốc đó lại là bài học tốt cho các NHTM trong việc nâng cao hơn năng lực quản trị
điều hành của mình, tạo đà để các NHTM đối phó với cuộc khủng hoảng tài chính
đang lan rộng toàn cầu và NHNN cũng rút được kinh nghiêm trong việc nghiên
cứu, nằm bắt chính xác mức độ phản ứng của thị trường trước những thay đổi
chính sách để có liều lượng chính sách thích hợp hơn, đạt được hiệu quả cao hơn
trong điều hành, cũng như chủ động hơn trong các quyết sách để trở thành người
cầm lái vững chắc trên thị trường tiền tệ.
2.3. Sự đổi mới trong việc thực thi chính sách tiền tệ của NHNN
Việt Nam giai đoạn sau năm 2008 đến nay
Bối cảnh nền kinh tế Việt Nam sau cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2008, suy
giảm kinh tế chưa có dấu hiệu dừng lại. Năm 2008, dù có những biến động kinh tế
thế giới, Việt Nam vẫn giữ ổn định kinh tế vĩ mô, đạt mức tăng trưởng khá, xuất
khẩu tăng 26% - mức cao nhất từ trước đến nay. Lạm phát được kiềm chế, an sinh
xã hội được đảm bảo, cải cách hành chính, phòng chống tham nhũng đã có những
tiến bộ. Tuy nhiên, bước vào 2009, ngay trong tháng 1.2009, kim ngạch xuất khẩu
của Việt Nam giảm 18% so với tháng 12 năm 2008. Dầu thô (chiếm 25% ngân
sách) năm 2008 giá xuất khẩu 104 USD một thùng, nhưng năm 2009 chỉ còn 40
USD một thùng. Giá trị sản xuất công nghiệp, du lịch cũng giảm mạnh. Đầu tư
nước ngoài đăng ký nhiều nhưng khó khăn vốn nên triển khai chậm. Trong quý
I.2009, GDP chỉ tăng 3,1% so với cùng kỳ năm 2008. Để đối phó với tình hình
nền kinh tế không mấy khả quan, Chính phủ đã chỉ đạo Ngân hàng Nhà nước và
các bộ ban ngành phối hợp điều hành nền kinh tế.
Đề tài 7 Lớp : CH
19A
21
Bài thảo luận TCNH và sự phát triển GV :TS. Đặng Anh
Tuấn
2.3.1. Có sự phối hợp đồng bộ giữa chính sách tiền tệ và các chính
sách vĩ mô khác nhằm thúc đẩy sự phát trển của nền kinh tế.
Trong năm 2009, chính phủ Việt Nam đã thực hiện biện pháp kích cầu
thông qua chính sách hỗ trợ lãi suất 4% đối với các doanh nghiệp, các chương
trình miễn, giảm và giãn thuế, bảo lãnh cho các DN vay vốn tại các Ngân hàng
thương mại, … Cụ thể như sau:
Ngày 12/5/2009, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã công bố chính thức về gói kích
cầu có giá trị 143.000 tỷ đồng (tương đương 8 tỷ USD) của Chính phủ, sau đó
tăng lên 160 nghìn tỷ đồng (tương đương 9 tỷ USD). Theo đó, gói kích cầu tương
đương 8 tỷ USD được chia thành 8 phần có các giá trị khác nhau. Cụ thể các phần
của gói kích cầu này bao gồm:
- Hỗ trợ lãi suất 4% vay vốn tín dụng khoảng tương đương 17.000 tỷ đồng;
đối tượng ưu tiên là các donh nghiệp xuất khẩu. Trước mất, có ba tiêu chí để các
công ty xuất khẩu có thể được hỗ trợ: thứ nhất là có lượng công nhân lớn, thứ hai
là đang sử dụng tối đa nguồn lực, nguyên liệu trong nước, thứ ba là phải đem lại
hiệu quả nhanh.
- Tạm thu hồi vốn đầu tư xây dựng cơ bản ứng trước khoảng 3.400 tỷ đồng.
- Ứng trước ngân sách nhà nước để thực hiện một số dự án cấp bách
khoảng 37.200 tỷ đồng.
- Chuyển nguồn vốn đầu tư kế hoạch năm 2008 sang năm 2009 khoảng
30.200 tỷ đồng.
- Phát hành thêm trái phiếu Chính phủ khoảng 20.000 tỷ đồng.
- Thực hiện chính sách giảm thuế khoảng 28.000 tỷ đồng.
- Tăng thêm dư nợ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp khoảng 17.000 tỷ
đồng.
- Các khoản chi kích cầu khác nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế, đảm bảo
an sinh xã hội khoảng 7.200 tỷ đồng.
Đề tài 7 Lớp : CH
19A
22
Bài thảo luận TCNH và sự phát triển GV :TS. Đặng Anh
Tuấn
Theo NHNN, dư nợ cho vay hỗ trợ lãi suất đến 24/12/2009 là 412.179,83
tỷ đồng. Chi tiết về tình dư nợ cho vay HTLS phân chia theo đối tượng như sau:
Dư nợ theo nhóm tổ chức tín dụng: Nhóm NHTM nhà nước và Quỹ tín
dụng nhân dân Trung ương là 274.883,94 tỷ đồng; nhóm ngân hàng thương mại
cổ phần là 108.085,31 tỷ đồng; nhóm ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng
nước ngoài và ngân hàng 100% vốn nước ngoài là 20.747,34 tỷ đồng; công ty tài
chính là 8.463,24 tỷ đồng, giảm 99,62 tỷ đồng (tương đương giảm 1,16%).
Dư nợ phân theo đối tượng khách hàng vay vốn: Doanh nghiệp nhà nước
59.379,70 tỷ đồng; doanh nghiệp ngoài nhà nước (công ty trách nhiệm hữu hạn,
công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
…) 287.971,90 tỷ đồng; hộ sản xuất là 64.828,23 tỷ đồng.
Theo báo cáo cuối năm 2009 của Bộ Tài chính, ước cả năm, tổng số thuế
miễn, giãn, giảm khoảng 20 tỷ đồng. Đồng thời, đã tiếp tục rà soát để bãi bỏ
khoảng 140 tỷ đồng các khoản phí và lệ phí khác. Trong năm 2009, chính phủ đã
tăng vốn đầu tư công để kích cầu nền kinh tế. Cụ thể, ứng trước 31.393 tỷ đồng
vốn ngân sách cho các bộ, cơ quan Trung ương, các địa phương, ước cả năm 2009
giải ngân được khoảng 80-85% vốn ứng trước.
* Hiệu quả tích cực của gói kích cầu
Có thể nói, gói kích cầu trước hết có hiệu ứng tâm lý tích cực, làm tăng tức
thời lòng tin của các doanh nghiệp, các ngân hàng và các nhà đầu tư trong nước
và quốc tế vào trách nhiệm của nhà nước trong việc hỗ trợ các DN đang gặp khó
khăn, cũng như tin vào triển vọng thị trường và môi trường đầu tư Việt Nam. Gói
kích cầu đã trực tiếp hỗ trợ DN tiếp cận được các nguồn vốn ngân hàng với chi
phí rẻ hơn, từ đó giảm bớt chi phí kinh doanh, góp phần giảm giá thành sản phẩm,
tăng khả năng canh tranh và tiêu thụ hàng hóa và dịch vụ trên thị trường. Nhiều
DN nhận được sự hỗ trợ kịp thời của gói kích cầu đã có thêm cơ hội giữ vững và
mở rộng sản xuất, từ đó góp phần giảm bớt áp lực thất nghiệp và đảm bảo ổn định
xã hội.
Đề tài 7 Lớp : CH
19A
23
Bài thảo luận TCNH và sự phát triển GV :TS. Đặng Anh
Tuấn
Những dấu hiệu phục hồi của nền kinh tế thể hiện rõ trong quý II.2009,
phần nào phản ánh những nỗ lực hỗ trợ hoạt động kinh tế của Chính phủ. Gói kích
thích kinh tế khá lớn được đưa ra vào đầu năm 2009 bao gồm nhiều biện pháp
khác nhau, từ chương trình hỗ trợ lãi suất, miễn và giãn thuế, và đầu tư vốn bổ
sung. Kết quả là GDP tăng 4,5% trong quý II và 5,8% trong quý III, nâng tốc độ
tăng trưởng GDP 9 tháng đầu năm 2009 lên 4,6% so với cùng kỳ năm 2008.
Những dấu hiệu tích cực đó tiếp tục được duy trì. Theo Báo cáo Cập nhật tình
hình kinh tế Việt Nam của Tổng cục Thống kê, Việt nam đã vượt qua cuộc khủng
hoảng kinh tế toàn cầu tốt hơn nhiều nước khác. Cụ thể: GDP tăng 5,3% trong
năm 2009 trong đó quý IV đã đạt mức 6,9%. Lạm phát đã giảm từ 19,9% năm
2008 xuống còn 6,5% năm 2009. Quý I/2010 nền kinh tế Việt Nam vẫn tiếp tục đà
phục hồi của những quý cuối năm 2009 với tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước
đạt 5,83%, gấp gần 1,9 lần tốc độ tăng trong quý I/2009. GDP quý II.2010 tăng
6,2-6,4%, tạo nên mức tăng trưởng kinh tế 6 tháng đạt khoảng 6,1% so với cùng
kỳ năm trước. Công nghiệp được xem là mảng tỏa sáng trong bức tranh kinh tế 6
tháng đầu năm nay. Các ngành công nghiệp đã trỗi dậy mạnh mẽ với mức tăng
trưởng giá trị sản xuất toàn ngành 6 tháng đầu năm 2010 ở mức 13,8%. Tóm lại,
không thể phủ nhận rằng gói kích cầu thứ nhất đã có những tác động tích cực đến
nền kinh tế Việt Nam năm 2009, góp phần đưa Việt Nam sớm thoát ra khỏi khủng
hoảng kinh tế.
* Tác động tiêu cực và các vấn đề của gói kích cầu thứ nhất
Bên cạnh những dấu hiệu khả quan, nền kinh tế Việt Nam vẫn còn tiềm ẩn
nhiều nguy cơ. Xuất khẩu năm 2009 giảm, thâm hụt thương mại lên đến 12 tỷ
USD, giá trị đồng Việt Nam suy giảm mạnh. Có thể thấy rằng trong thời gian qua
chính sách kích cầu của Chính phủ chưa thật sự tác động mạnh đến hoạt động sản
xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp (đặc biệt là các DN vừa và nhỏ) bởi còn có
một số hạn chế tiềm tàng đối với chính sách này. Sau đây là 10 vấn đề của gói
kích cầu thứ nhất:
Đề tài 7 Lớp : CH
19A
24
Bài thảo luận TCNH và sự phát triển GV :TS. Đặng Anh
Tuấn
- Vấn đề thứ nhất, định hướng chính sách kích cầu là không rõ ràng và
không có sự phân định giữa các khái niệm kích cầu hay kích cung, kích cầu hay
giải cứu,… Tất cả các gói chính sách đều được gộp vào dưới cái tên “kích cầu”
trong khi tác động thực tế của nó chưa chắc chắn đã nhằm làm tăng tổng cầu trong
nền kinh tế. Như chính sách hỗ trợ lãi suất sẽ là kích cầu nếu doanh nghiệp vay
vốn đó để đầu tư. Nhưng nếu DN đó vay vốn để đảo nợ thì sẽ không còn gọi là
kích cầu được nữa, mặc dù nó vẫn có thể có tác dụng tích cực nào đó.
- Vấn đề thứ hai, gói kích cầu của Việt Nam là gói giải cứu tình huống.
Khác với gói kích cầu của Mỹ và Châu Âu, chính phủ không bơm tiền vào nền
kinh tế thông qua hệ thống NHTM. Trong trường hợp của Việt Nam, NHTM chỉ
là trung gian thay mặt nhà nước phân bổ vốn lại cho nền kinh tế thông qua gói hỗ
trợ lãi suất 4%. Và do đó, gói kích cầu không gắn trực tiếp với quyền lợi của
NHTM và dễ dẫn đến nhiều tiêu cực trong quá trình thực hiện do chính phủ khó
có khả năng kiểm soát được sự phân bổ vốn của NHTM.
- Vấn đề thứ ba, gói kích cầu không đáp ứng hoàn toàn 3 yêu cầu: Kịp thời,
đúng đối tượng và vừa đủ (ngắn hạn).
Nếu xét trên tiêu chí kịp thời, mặc dù các gói kích cầu được chính phủ đưa
ra kịp thời nhưng tình hình triển khai còn chậm do vấn đề thủ tục hành chính. Ví
dụ, gói hỗ trợ lãi suất có chỉ thị từ tháng 02/2009 nhưng đến tháng 04/2009, khoản
vay sớm nhất mới được giải ngân. Nếu xét trên tiêu chí ngắn hạn, chỉ một phần
của gói kích cầu của Việt Nam đáp ứng được tiêu chí này. Ngày 30/10/2009,
Quốc hội khóa XII đã tán thành và
Việc đáp ứng nguyên tắc số 2 về đúng đối tượng là vấn đề nghiêm trọng
nhất. Vấn đề này nảy sinh chủ yếu từ gói hỗ trợ lãi suất. Theo báo cáo của NHNN,
có đến 3.923 món vay vi phạm, tương đương 8.334 tỷ đồng. Vi phạm nhiều nhất
là ở Ngân hàng thương mại cổ phần với 5.916 tỷ đồng. Hiện nay kiểm toán nhà
nước đang thực hiện kiểm toán kết quả thực hiện gói hỗ trợ lãi suất. Con số vi
phạm thực tế có thể cao hơn rất nhiều. Thực tế là nhiều các doanh nghiệp đảo nợ
Đề tài 7 Lớp : CH
19A
25