Tải bản đầy đủ (.docx) (115 trang)

21 tổ chức kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại công ty TNHH bưu chính viễn thông sao việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (704.79 KB, 115 trang )

Luận văn tốt nghiệp

Học viện Tài chính
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BCTC

:

Báo cáo tài chính

BHXH

:

Bảo hiểm xã hội

BHTN

:

Bảo hiểm thất nghiệp

BHYT

:

Bảo hiểm y tế

BPSX


:

Bộ phận sản xuất

CCDC

:

Công cụ dụng cụ

CPSX

:

Chi phí sản xuất

CP

:

Chi phí

CP NCTT

:

Chi phí nhân công trực tiếp

CP NVLTT


:

Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp

CP SXC

:

Chi phí sản xuất chung

ĐHĐCĐ

:

Đại hội đồng cổ đông

GTGT

:

Giá trị gia tăng

HĐQT

:

Hội đồng quản trị

HĐCĐ


:

Hội đồng cổ đông

KCS

:

Kiểm tra chất lượng

KKTX

:

Kê khai thường xuyên

KKĐK

:

Kiểm kê định kì

KPCĐ

:

Kinh phí công đoàn

NGK


:

Nước khải khát

NVL

:

Nguyên vật liệu

NTP

:

Nửa thành phẩm

TK

:

Tài khoản

TSCĐ

:

Tài sản cố định

Sinh viên: Hoàng Thị Thu Hà


Lớp:1CQ51/21.18


Luận văn tốt nghiệp

Học viện Tài chính

LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu, kết
quả nêu trong luận văn tốt nghiệp là trung thực xuất phát từ tình hình thực tế của
đơn vị thực tập.
Hà Nội, ngày 29 tháng 05 năm 2017
Sinh viên

HOÀNG THỊ THU HÀ

Sinh viên: Hoàng Thị Thu Hà

Lớp:2CQ51/21.18


Luận văn tốt nghiệp

Học viện Tài chính

LỜI MỞ ĐẦU

Trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, xu thế mở cửa và hội
nhập kinh tế thế giới đã tạo ra nhiều cơ hội cũng như thách thức đối với các doanh
nghiệp sản xuất trong nước.Và mục đích của các nhà quản trị là làm sao đạt được lợi

nhuận cao nhất. Để đạt được mục đích này, các doanh nghiệp phải sử dụng nhiều biện
pháp khác nhau. Một trong những biện pháp hiệu quả mà hầu hết các doanh nghiệp đều
áp dụng đó là phấn đấu không ngừng tiết kiệm chi phí sản xuất và hạ giá thành sản
phẩm. .
Trong các doanh nghiệp sản xuất, chi phí chiếm một tỷ trọng lớn và có tính
quyết định đến giá thành sản phẩm. Chi phí và giá thành được coi là hai chỉ tiêu cơ bản,
có mối quan hệ khăng khít với nhau trong hệ thống chỉ tiêu kinh tế tài chính của một
doanh nghiệp nhằm đánh giá hiệu quả kinh tế trong từng chu kỳ kinh doanh. Vì vậy, đối
với các doanh nghiệp sản xuất nói chung thì vấn đề liên quan đến chi phí sản xuất và
giá thành sản phẩm luôn luôn là mối quan tâm hàng đầu của các nhà quản trị doanh
nghiệp.Việc tìm hiểu về chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm sẽ giúp doanh nghiệp
có cái nhìn khái quát nhất về tình hình sản xuất của doanh nghiệp mình, từ đó giúp
tìm ra được những ưu, nhược điểm và phương hướng hoàn thiện nhằm góp phần tích
cực hơn vào quá trình quản lý, tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm, và giúp
doanh nghiệp ngày càng phát triển đi lên trong nền kinh tế hiện nay. Do đó, với vai
trò là công vụ quản lý quan trọng, cung cấp thông tin về toàn bộ hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp, công tác kế toán mà đặc biệt là kế toán chi phí sản
xuất và tính giá thành sản phẩm cần phải được đặc biệt quan tâm và coi trọng.
Nhận thức được tầm quan trọng của công tác tập hợp chi phí sản xuất và
tính giá thành sản phẩm, trong thời gian thực tập tại Công ty TNHH Bưu Chính
Viễn Thông Sao Việt, sau khi tìm hiểu thực tế công tác kế toán, đặc biệt là kế toán
tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm, em đã mạnh dạn chọn đề tài:
"Tổ chức kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty
TNHH Bưu chính Viễn thông Sao Việt '' để đi sâu nghiên cứu.
Sinh viên: Hoàng Thị Thu Hà

Lớp: CQ51/21.18


Luận văn tốt nghiệp


Học viện Tài chính

2.Mục đích nghiên cứu
Với mục đích vận dụng lý luận về hạch toán kế toán và vào nhu cầu thực tiễn
công tác Kế toán chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm ở Công ty TNHH Bưu
Chính Viễn thông Sao Việt, từ đó phân tích những điểm còn tồn tại, đóng góp một
số ý kiến nhằm hoàn thiện công tác kế toán đơn vị; kết cấu của khóa luận ngoài
phần mở đầu và kết luận, nội dung được thực hiện bởi ba chương:
Chương 1: Lý luận cơ bản về tổ chức kế toán chi phí sản xuất và tính giá
thành sản phẩm trong doanh nghiệp sản xuất.
Chương 2: Thực trạng kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại
Công ty TNHH Bưu Chính Viễn Thông Sao Việt
Chương 3: Hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại
Công ty TNHH Bưu Chính Viễn Thông Sao Việt

Sinh viên: Hoàng Thị Thu Hà

Lớp: CQ51/21.18


Luận văn tốt nghiệp

Học viện Tài chính

CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TỔ CHỨC KẾ TOÁN CHI PHÍ
SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM TRONG DOANH
NGHIỆP SẢN XUẤT
1.1. Sự cần thiết tổ chức kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
trong các doanh nghiệp sản xuất

1.1.1. Bản chất và nội dung kinh tế của chi phí sản xuất và giá thành
1.1.1.1. Bản chất và nội dung kinh tế của chi phí sản xuất
Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người luôn gắn liền với quá trình sản
xuất hàng hoá, đó là quá trình kết hợp của ba yếu tố: tư liệu lao động, đối tượng lao
động và sức lao động. Sự tiêu hao các yếu tố này trong quá trình sản xuất kinh
doanh đã tạo ra các chi phí tương ứng, đó là các chi phí về tư liệu lao động, chi phí
về đối tượng lao động và chi phí về lao động sống. Các loại chi phí này phát sinh
một cách thường xuyên trong quá trình sản xuất kinh doanh, nó luôn vận động, thay
đổi trong quá trình tái sản xuất. Để quản lý chi phí một cách có hiệu quả, phải nắm
vững được bản chất của chi phí.
Chi phí sản xuất kinh doanh là sự dịch chuyển vốn của doanh nghiệp vào đối
tượng tính giá nhất định, nó có thể mang tính chủ quan vì nó phụ thuộc vào phương
pháp tính, trình độ quản lý và yêu cầu quản lý cụ thể của từng doanh nghiệp. Có thể
hiểu chi phí sản xuất là toàn bộ các hao phí về lao động sống, lao động vật hoá và
các chi phí cần thiết khác mà doanh nghiệp đã bỏ ra trong kỳ dùng vào sản xuất sản
phẩm được biểu hiện bằng tiền.
Trên thực tế có nhiều cách hiểu khác nhau về chi phí:
-

Đứng trên góc độ của kế toán tài chính: chi phí được nhìn nhận như những
khoản phí tổn đã phát sinh gắn liền với hoạt động của doanh nghiệp để đạt
được một sản phẩm, lao vụ,dịch vụ nhất định. Chi phí được xác định bằng
tiền của những hao phí về lao động sống, lao động vật hóa…trên cơ sở chứng
từ, tài liệu bằng chứng chắc chắn.

Sinh viên: Hoàng Thị Thu Hà

Lớp: CQ51/21.18



Luận văn tốt nghiệp
-

Học viện Tài chính

Đứng trên góc độ kế toán quản trị: chi phí có thể là những phí tổn thực tế gắn
liền với hoạt động sản xuất kinh doanh hàng ngày khi tổ chức thực hiên,
kiểm tra, ra quyết định; chi phí cũng có thể là những phí tổn ước tính để thực
hiện dự án, những phí tổn mất đi khi lựa chọn phương án, bỏ qua cơ hội kinh
doanh. Bên cạnh đó, Kế toán quản trị cần chú ý thêm về sự lựa chọn, so sánh
theo mục đích sử dụng, môi trường kinh doanh hơn là chú trọng vào chứng
minh bằng các chứng từ, chứng cứ.
Như vậy, bản chất của Chi phí sản xuất kinh doanh là:

-

Những phí tổn (hao phí) về các yếu tố đầu vào trong quá trình sản xuất gắn

liền với mục đích kinh doanh.
-

Lượng chi phí phụ thuộc vào khối lượng các yếu tố sản xuất đã tiêu hao

trong kỳ và giá cả của một đơn vị yếu tố sản xuất đã hao phí.
-

CPSX được đo lường bằng thước đo tiền tệ và được xác định trong một

khoảng thời gian xác định.
1.1.1.2. Bản chất và nội dung kinh tế của Giá thành sản phẩm

Giá thành sản phẩm được xác định bao gồm những chi phí về lao động sống,
lao động vật hóa và các chi phí khác được dung để sản xuất hoàn thành một khối
lượng sản phẩm, lao vụ, dịch vụ nhất định.
Giá thành sản phẩm là một chỉ tiêu mang tính giới hạn và xác định, vừa mang
tính chất khách quan vừa mang tính chất chủ quan, phản ánh kết quả sử dụng các
loại tài sản trong quá trình sản xuất kinh doanh, cũng như tính đúng đắn của những
giải pháp quản lý mà doanh nghiệp đã thực hiện để nhằm mục đích hạ thấp chi phí,
tăng cao lợi nhuận.
Giá thành sản phẩm có 2 chức năng chủ yếu:
Thứ nhất, chức năng thước đo bù đắp chi phí: là toàn bộ chi phí mà doanh
nghiệp đã bỏ ra được bù đắp bằng số tiền thu được do tiêu thụ sản phẩm. Căn cứ
vào đơn giá bán trên thị trường và giá thành đơn vị sản phẩm sẽ biết được doanh
nghiệp có bù đắp được chi phí đã bỏ ra hay không.

Sinh viên: Hoàng Thị Thu Hà

Lớp: CQ51/21.18


Luận văn tốt nghiệp

Học viện Tài chính

Thứ hai, chức năng lập giá: giá thành sản phẩm là cơ sở, là căn cứ để xác định
giá bán của sản phẩm.
Như vậy bản chất của giá thành sản phẩm là giá trị của các yếu tố chi phí được
chuyển dịch vào những sản phẩm đã hoàn thành.
1.1.1.3. Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm
Giá thành và chi phí sản xuất có mối quan hệ mật thiết với nhau. Đều là những
chỉ tiêu kinh tế quan trọng trong công tác quản lý sản xuất kinh doanh của doanh

nghiệp nhằm không ngừng tiết kiệm chi phí, hạ giá thành, tăng lợi nhuận.
Về mặt bản chất, chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm là biểu hiện hai mặt
của quá trình sản xuất kinh doanh. Hay đều cùng biểu hiện bằng tiền những hao phí
về lao động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp đã bỏ ra.
Tuy nhiên chúng có sự khác nhau về lượng. Khi nói đến chi phí sản xuất là nói
đến chi phí phát sinh trong một thời kì nhất định, không gắn với số lượng sản phẩm,
không phân biệt chi phí cho loại sản phẩm nào, đã hoàn thành hay chưa; còn khi nói
đến giá thành sản phẩm là xác định một lượng chi phí sản xuất nhất định, tính cho
một đại lượng kết quả hoàn thành nhất định.
Đứng trên góc độ quá trình hoạt động để xem xét thì quá trình sản xuất là một
quá trình hoạt động liên tục còn việc tính giá thành sản phẩm thực hiện tại một điểm
cắt có tính chất chu kỳ để so sánh chi phí với khối lượng sản phẩm, lao vụ, dịch vụ
hoàn thành.
Chi phí sản xuất gồm những chi phí phát sinh trong kỳ đó, còn giá thành sản
phẩm có thể gồm một phần chi phí phát sinh ở kỳ trước (chi phí trả trước) và một
phần chi phí phát sinh của kỳ sau nhưng được ghi nhận trong kỳ này (chi phí phải
trả). Mặt khác, giá thành sản phẩm không tính những chi phí sản xuất dở dang cuối
kỳ, chi phí thiệt hại nhưng lại gồm chi phí sản xuất dở dang đầu kỳ (một phần của
chi phí sản xuất phát sinh kỳ trước chuyển sang). Do vậy, giá thành sản phẩm có thể
bằng hoặc có thể nhỏ hơn hoặc lớn hơn chi phí sản xuất trong kì. Mối quan hệ giữa
chúng được biểu hiện qua công thức sau đây:

Sinh viên: Hoàng Thị Thu Hà

Lớp: CQ51/21.18


Luận văn tốt nghiệp

Giá thành

sản xuất

=

Học viện Tài chính

CPSX dở dang

+

đầu kỳ

CPSX phát sinh
trong kỳ



CPSX

dở

dang cuối kỳ

Hơn nữa, giá thành sản phẩm mang tính chất chủ quan, việc giới hạn chi phí
tính vào giá thành sản phẩm gồm những chi phí nào còn tùy thuộc vào quan điểm
tính toán xác định chi phí,doanh thu và kết quả cũng như quy định của chế độ quản
lý kinh tế, tài chính, chế độ kế toán hiện hành. Những quan điểm và quy định đó đôi
khi không hoàn toàn phù hợp với bản chất của chi phí và giá thành sản phẩm, đòi
hỏi các nhà quản trị doanh nghiệp cần phải nhận thức rõ ràng đầy đủ để sử dụng
thông tin cho thích hợp.

1.1.2. Vai trò, yêu cầu, nhiệm vụ quản lý kế toán chi phí sản xuất và giá thành
sản phẩm.
Chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm là những chỉ tiêu quan trọng luôn được
quan tâm vì chúng có mối quan hệ mật thiết với doanh thu và gắn liền với kết quả
(lãi, lỗ) hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Yêu cầu đặt ra đối với
công tác quản lý chi phí và giá thành sản phẩm là: chi phí chi ra phải thực sự cần
thiết, hợp lý, tiết kiệm không lãng phí; giá thành sản phẩm phải là nhỏ nhất, phải
thực là chỉ tiêu phản ánh đầy đủ những yếu tố chi phí hợp lý nhất mà doanh nghiệp
phải chi ra để sản xuất nên sản phẩm.
Việc tổ chức kiểm tra tính hợp pháp, hợp lý của chi phí phát sinh ở doanh
nghiệp, ở từng bộ phận, từng đối tượng, góp phần tăng cường quản lý tài sản, vật tư
lao động, tiền vốn một cách tiết kiệm, có hiệu quả.
Điều quan trọng, giá thành sản phẩm còn là cơ sở để định giá bán sản phẩm, là
căn cứ để xác định kết quả kinh doanh. Đây cũng là khâu trung tâm của toàn bộ
công tác kế toán ở doanh nghiệp, chi phối đến chất lượng của các phần hành kế toán
khác cũng như chất lượng và hiệu quả của công tác quản lý của doanh nghiệp.

 Vai trò, yêu cầu quản lý kế toán chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm
Trong nền kinh tế thị trường với nhiều chủng loại hàng hoá thì vấn đề quyết
định sự tồn tại của mỗi doanh nghiệp là giá thành sản phẩm. Do đó, để thực hiện

Sinh viên: Hoàng Thị Thu Hà

Lớp: CQ51/21.18


Luận văn tốt nghiệp

Học viện Tài chính


được mục tiêu hạ giá thành sản phẩm, kế toán tập hợp CPSX và tính giá thành sản
phẩm cần thực hiện tốt các vai trò và yêu cầu sau:
Thứ nhất, nhận thức đúng đắn vị trí, vai trò của kế toán chi phí và tính giá
thành sản phẩm trong toàn bộ hệ thống kế toán doanh nghiệp, mối quan hệ với các
bộ phận kế toán có liên quan, trong đó kế toán các yếu tố chi phí là tiền đề cho kế
toán chi phí và giá thành.
Thứ hai, căn cứ đặc điểm tổ chức sản xuất kinh doanh, quy trình công nghệ
sản xuất, loại hình sản xuất, đặc điểm của sản phẩm, khả năng hạch toán, yêu cầu
quản lý cụ thể của doanh nghiệp để lựa chọn, xác định đúng đắn đối tượng kế toán
chi phí, phương pháp tập hợp chi phí sản xuất theo các phương án phù hợp với điều
kiện của doanh nghiệp từ đó xác định giá thành cho phù hợp.
Thứ ba, tổ chức bộ máy kế toán một cách khoa học, hợp lý trên cơ sở phân
công rõ ràng trách nhiệm của từng nhân viên, từng bộ phận kế toán có liên quan,
đặc biệt là bộ phận kế toán các yếu tố chi phí.
Thứ tư, thực hiện tổ chức chứng từ, hạch toán ban đầu, hệ thống tài khoản, sổ
kế toán phù hợp với các nguyên tắc chuẩn mực, chế độ kế toán đảm bảo đáp ứng
được yêu cầu thu nhận – xử lý – hệ thống hóa thông tin về chi phí, giá thành của
doanh nghiệp.
Thứ năm, tổ chức lập và phân tích các báo cáo kế toán về chi phí, giá thành sản
phẩm, cung cấp những thông tin cần thiết về chi phí, giá thành sản phẩm, phù hợp
với quá trình sản xuất - tiêu thụ sản phẩm.

 Nhiệm vụ quản lý kế toán chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm
Để tổ chức tốt công tác tập hợp CPSX và tính giá thành sản phẩm, đáp ứng đầy đủ,
trung thực và kịp thời yêu cầu quản lý CPSX và tính giá thành sản phẩm, kế toán
cần thực hiện tốt những nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, phản ánh chính xác, kịp thời toàn bộ CPSX thực tế phát sinh.
Thứ hai, kiểm tra tình hình thực hiện các định mức chi phí và các chi phí bán
hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp. Phát hiện kịp thời các khoản chênh lệch so với


Sinh viên: Hoàng Thị Thu Hà

Lớp: CQ51/21.18


Luận văn tốt nghiệp

Học viện Tài chính

định mức, dự toán các khoản chi phí ngoài kế hoạch, các khoản thiệt hại... trong quá
trình sản xuất để đề ra các biện pháp ngăn chặn kịp thời .
Thứ ba, Tính toán chính xác, kịp thời giá thành sản phẩm, kết quả từng phần
cũng như toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Thứ tư, kiểm tra việc thực hiện kế hoạch hạ giá thành của doanh nghiệp theo
từng sản phẩm, hợp đồng, vạch ra các biện pháp hạ giá thành một cách hiệu quả .
Thứ năm, xác định đúng đắn và bàn giao thanh toán kịp thời cho các hợp đồng
đến hạn. Định kỳ, đánh giá khối lượng sản phẩm dở dang đúng nguyên tắc.
Thứ sáu, đánh giá đúng đắn kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh ở từng hợp
đồng trong từng thời kỳ nhất định, kịp thời lập các báo cáo về CPSX và giá thành,
cung cấp kịp thời các thông tin cho ban lãnh đạo doanh nghiệp.
1.2. Một số vấn đề lý luận cơ sở cho tổ chức kế toán chi phí sản xuất và tính
giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp
1.2.1. Hệ thống khái niệm, nguyên tắc kế toán chi phối tới tổ chức kế toán chi
phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp
Hệ thống kế toán Việt Nam không ngừng hoàn thiện và phù hợp với nền kinh
tế thị trường. Các khái niệm, các nguyên tắc kế toán ngày càng trở nên quan trọng
vì đó là tiền đề cho bất cứ một lí luận nào, nó chi phối mạnh mẽ đến công tác kế
toán, kế toán tập hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm cũng không ngoại lệ. Hệ
thống khái niệm và nguyên tắc kế toán liền mạch, logic và có sự liên kết với nhau.
Những khái niệm và nguyên tắc này được rút ra từ kinh nghiệm thực tiễn của

những người thực hiện công tác kế toán kết hợp với quá trình nghiên cứu của các cơ
quan chức năng. Sau đó được mọi người thừa nhận như là một quy luật và trở thành
một trong những vấn đề có tính pháp lệnh của công tác kế toán thống kê và được
triển khai áp dụng thống nhất ở tất cả các đơn vị kinh tế trong phạm vi quốc gia.
Sau đây là một số khái niệm và những nguyên tắc cơ bản:
Nguyên tắc cơ sở dồn tích: Theo nguyên tắc này, mỗi nghiệp vụ kinh tế tài
chính của doanh nghiệp liên quan đến chi phí phải được ghi vào sổ kế toán vào thời
điểm phát sinh thực tế chứ không căn cứ vào thời điểm thu hoặc chi tiền.
Sinh viên: Hoàng Thị Thu Hà

Lớp: CQ51/21.18


Luận văn tốt nghiệp

Học viện Tài chính

Nguyên tắc hoạt động liên tục: Theo nguyên tắc này, báo cáo tài chính phải
được lập trên cơ sở giả định là doanh nghiệp đang hoạt động và sẽ tiếp tục hoạt
động kinh doanh bình thường trong tương lai gần, nghĩa là doanh nghiệp không có
ý định cũng như không buộc phải ngừng hoạt động hoặc phải thu hẹp đáng kể quy
mô hoạt động của mình. Doanh nghiệp hoạt động liên tục ảnh hưởng sâu sắc đến kỳ
tính giá thành của doanh nghiệp.
Nguyên tắc giá gốc: Nguyên tắc này đòi hỏi tất cả các loại vật tư, hàng hóa,
chi phí… phải được ghi chép, phản ánh theo giá gốc của chúng. Vận dụng nguyên
tắc “giá gốc” trong việc ghi chép, phản ánh các loại tài sản theo trị giá vốn thực tế
tại thời điểm khác nhau. Trị giá vốn thực tế được xác định đúng đắn thì công tác tập
hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm sẽ trở nên chính xác.
Nguyên tắc trọng yếu: Nguyên tắc này chú trọng đến các yếu tố, các khoản
mục chi phí mang tính trọng yếu quyết định bản chất, nội dung của các sự kiện kinh

tế, đồng thời cho phép bỏ qua không ghi chép các nghiệp vụ, sự kiện không quan
trọng, không làm ảnh hưởng tới bản chất, nội dung nghiệp vụ kinh tế phát sinh.
Nguyên tắc phù hợp: Theo nguyên tắc này, việc ghi nhận doanh thu và chi phí
phải phù hợp với nhau.Khi ghi nhận một khoản doanh thu thì phải ghi nhận một
khoản chi phí tương ứng có liên quan đến việc tạo ra doanh thu đó. Các chi phí
tương ứng với doanh thu bao gồm chi phí của kỳ tạo ra doanh thu, chi phí của các
kỳ trước và chi phí của các kỳ sau nhưng liên quan đến doanh thu đó. Nói cách
khác, nguyên tắc phù hợp đưa ra việc xác định phần chi phí tương ứng với doanh
thu đã thực hiện.
Nguyên tắc nhất quán: Nguyên tắc này đòi hỏi việc áp dụng, thực hiện các
khái niệm, nguyên tắc chuẩn mực và các phương pháp kế toán .. phải thống nhất
trong suốt các niên độ kế toán. Thực hiện nguyên tắc kế toán sẽ đảm bảo cho số liệu
thông tin của kế toán trung thực, khách quan và đảm bảo tính thống nhất, so sánh
được củ các chỉ tiêu giữa các kỳ với nhau, đặc biệt là chỉ tiêu chi phí và giá thành
trong kỳ.

Sinh viên: Hoàng Thị Thu Hà

Lớp: CQ51/21.18


Luận văn tốt nghiệp

Học viện Tài chính

Những khái niệm, nguyên tắc kế toán là những chuẩn mực chung, kim chỉ
nam cho việc đánh giá ghi chép, phân loại, tổng hợp và báo cáo cung cấp thông tin
về hoạt động của các doanh nghiệp.
1.2.2. Các cơ sở, giả định kế toán, các khuôn khổ pháp lý kế toán
1.2.2.1. Các cơ sở kế toán

1.2.2.1.1. Cơ sở dồn tích
Theo cơ sở dồn tích, mọi giao dịch kinh tế liên quan đến tài sản, nợ phải trả,
nguồn vốn chủ sở hữu, doanh thu và chi phí được ghi nhận tại thời điểm phát sinh
giao dịch, không quan tâm đến thời điểm thực tế thu hoặc chi tiền.
Cơ sở kế toán dồn tích được xem là một nguyên tắc chính yếu đối với việc xác
định lợi nhuận của doanh nghiệp. Lợi nhuận theo cơ sở dồn tích là phần chênh lệch
giữa doanh thu và chi phí. Hơn nữa, do không có sự trùng hợp giữa lượng tiền thu
vào với doanh thu trong kỳ và tồn tại chênh lệch giữa chi phí ghi nhận và lượng tiền
chi ra trong một kỳ, kế toán theo cơ sở dồn tích cho phép theo dõi các giao dịch kéo
dài qua các kỳ khác nhau như nợ phải thu, nợ phải trả, khấu hao, dự phòng….
Kế toán theo cơ sở dồn tích đôi khi không tuân thủ theo yêu cầu khách quan
trong kế toán. Ghi nhận doanh thu và chi phí không dựa vào dòng tiền tương ứng
thu vào hay chi ra mà dựa vào thời điểm giao dịch phát sinh. Chẳng hạn, việc phân
bổ nhiều loại chi phí hay ghi nhận doanh thu theo tiến độ thực hiện trong hoạt động
xây lắp… thể hiện tính chủ quan của nhà kế toán.
Cơ sở kế toán dồn tích thường được lựa chọn cho hầu hết các doanh nghiệp có
doanh thu cao. Việc áp dụng cơ sở kế toán dồn tích là thực sự cần thiết đối với
những doanh nghiệp phát sinh các hoạt động bán chịu, khi đó nó sẽ đảm bảo tính
phù hợp giữa doanh thu và chi phí phát sinh trong một kỳ kế toán nhất định.
1.2.2.1.2. Cơ sở tiền
Kế toán theo cơ sở tiền chỉ cho phép ghi nhận các giao dịch khi các giao dịch
này phát sinh bằng tiền. Thực chất kế toán theo cơ sở tiền là phương pháp kế toán
dựa trên cơ sở thực thu – thực chi tiền.

Sinh viên: Hoàng Thị Thu Hà

Lớp: CQ51/21.18


Luận văn tốt nghiệp


Học viện Tài chính

Kế toán theo cơ sở tiền có ưu điểm nổi bật là tính khách quan cao khi trình bày
thông tin trong BCTC. Tiền thu vào và chi ra là những hoạt động “ hữu hình”, số
tiền và ngày thu, chi tiền được xác định chính xác, cụ thể không phụ thuộc vào ý
muốn chủ quan của nhà quản lý. Thu nhập có thể được ghi nhận vào năm tài chính
sau trong khi chi phí, giá vốn có thể đã được ghi nhận trước, tại thời điểm thanh
toán, do đó đảm bảo nguyên tắc Thận trọng trong kế toán.
Kế toán theo cơ sở tiền thường được áp dụng đối với những doanh nghiệp nhỏ
mà hoạt động chủ yếu dựa trên các luồng tiền ra vào, đặc biệt là các doanh nghiệp
dịch vụ không liên quan đến hàng hóa tồn kho.
Hiện nay ở Việt Nam cũng như ở các quốc gia khác trên thế giới chủ yếu áp
dụng theo cơ sở kế toán dồn tích. Cơ sở tiền chỉ được sử dụng cho các nghiệp vụ kế
toán đặc thù của mỗi quốc gia và chính phủ nước đó phải có quy định cụ thể các
loại giao dịch kinh doanh ghi sổ kế toán theo cơ sở tiền.
1.2.2.2. Các khái niệm, giả định kế toán
Đơn vị kế toán:
Thông tin tài chính được phản ánh cho một đơn vị kế toán cụ thể. Mỗi đơn vị
kinh tế riêng biệt phải được phân biệt là một đơn vị kế toán độc lập, có bộ báo cáo
tài chính của riêng mình. BCTC được lập chỉ phản ánh các thông tin tài chính về
tình hình tài chính của đơn vị kế toán đó. Hay khái niệm đơn vị kế toán quy định
giới hạn về thông tin tài chính mà hệ thống kế toán cần phải thu thập và báo cáo.
Kỳ kế toán:
Giả định này cho rằng chu kỳ kinh doanh của doanh nghiệp có thể chia thành
những khoảng thời gian xác định. Hoạt động của doanh nghiệp là lâu dài, liên tục;
do vậy để kịp thời cung cấp các thông tin cần thiết cho việc quản lý doanh nghiệp,
kế toán phải chia hoạt động lâu dài của đơn vị thành nhiều kỳ có độ dài về thời gian
bằng nhau, từ đó đánh giá doanh thu, chi phí và lãi (lỗ) của từng kỳ.
Giả định này dựa trên giả thiết hoạt động của đơn vị sẽ ngưng lại vào một thời

điểm nào đó để kế toán có thể lập báo cáo có tính chất tổng kết tình hình hoạt động
trong thời gian qua và cung cấp các thông tin về kết quả đạt được lúc cuối kỳ.
Sinh viên: Hoàng Thị Thu Hà

Lớp: CQ51/21.18


Luận văn tốt nghiệp

Học viện Tài chính

Thông thường ở Việt Nam, kỳ kế toán chính được tính theo năm dương lịch từ
ngày 01 tháng 01 đến hết ngày 31 tháng 12 của năm. Trong từng năm có thể phân
thành các kỳ tạm như: tháng, quý. Thời gian để tính kỳ tạm thời là ngày đầu tiên của
tháng, quý đến hết ngày cuối cùng của tháng, quý đó. Trong những trường hợp đặc
biệt, doanh nghiệp có thể tính theo 12 tháng tròn sau khi đã thông báo cho cơ quan
thuế và được phép thay đổi ngày kết thúc kỳ báo cáo năm.
Đơn vị thước đo tiền tệ:
Thông tin do kế toán cung cấp phải được thể hiện bằng thước đo tiền tệ. Kế
toán lựa chọn và sử dụng một đơn vị tiền tệ làm thước đo. Thông thường là đơn vị
tiền tệ chính thức của quốc gia mà đơn vị kế toán đăng ký hoạt động. Mọi nghiệp vụ
kinh tế phát sinh đều được tính toán và ghi chép bằng thước đo tiền tệ này.
Đối với các đơn vị kinh tế Việt Nam, thông thương kế toán phải dùng đồng
Việt Nam trong quá trình ghi chép các nghiệp vụ kinh tế phát sinh và phải đặt giả
thiết là sức mua của đồng tiền có giá trị bền vững hoặc sự thay đổi về tính giá trị
của tiền tệ ảnh hưởng không đáng kể đến tình trạng tài chính của đơn vị kinh tế.
Giả định Hoạt động liên tục:
Kế toán phải đặt giả thiết là doanh nghiệp sẽ hoạt động liên tục trong một thời
gian vô hoặc ít nhất là không bị giải thể trong tương lai gần.
Giả định này được vận dụng trong việc định giá các loại tài sản đang sử dụng

trong doanh nghiệp. Tức là giá trị tài sản hiện còn tính theo số tiền thực sự doanh
nghiệp đã phải trả khi mua sắm, xây dựng trừ đi giá trị đã hao mòn chứ không phải
giá mua bán trên thị trường hiện tại. Giả định về sự hoạt động liên tục còn là cơ sở
cho các phương pháp tính khấu hao để phân chia giá phí của các loại tài sản cố định
vào chi phí hoạt động của doanh nghiệp theo thời gian sử dụng của nó.
Giả định hoạt động liên tục được thừa nhận như một nguyên tắc lập BCTC.
Nghĩa là BCTC được lập trên cơ sở giả định doanh nghiệp hoạt động liên tục, và
không có ý định cũng không buộc phải ngừng hoạt động hoặc thu hẹp đáng kể quy
mô hoạt động của mình. Khi doanh nghiệp không thể tiếp tục hoạt động được thì

Sinh viên: Hoàng Thị Thu Hà

Lớp: CQ51/21.18


Luận văn tốt nghiệp

Học viện Tài chính

BCTC phải lập theo thể thức đặc biệt, trong đó tài sản được ghi nhận theo giá trị
thực hiện thuần túy và các khoản nợ phải trả có thể được tái phân loại về kỳ hạn.
1.3. Tổ chức kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong doanh
nghiệp theo góc độ Kế toán tài chính
1.3.1. Phân loại, nhận diện chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm
1.3.1.1. Phân loại, nhận diện chi phí sản xuất
Chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm nhiều loại khác nhau.
Phân loại CPSX là một yêu cầu tất yếu để hạch toán chính xác CPSX và tính giá
thành sản phẩm. Phân loại CPSX một cách khoa học và thống nhất không những có
ý nghĩa quan trọng đối với công tác kế toán CPSX và tính giá thành sản phẩm mà
còn là tiền đề quan trọng để kiểm tra và phân tích CPSX của toàn bộ doanh nghiệp,

thúc đẩy không ngừng việc sử dụng tiết kiệm CPSX, hạ giá thành sản phẩm.
1.3.1.1.1. Phân loại chi phí sản xuất theo nội dung, tính chất kinh tế
Theo cách phân loại này người ta sắp xếp các chi phí có cùng nội dung và
tính chất kinh tế vào một loại gọi là yếu tố chi phí, mà không phân biệt chi phí đó
phát sinh ở đâu và có tác dụng như thế nào.
Theo chế độ kế toán hiện hành tại Việt Nam khi quản lý và hạch toán chi phí
sản xuất các doanh nghiệp phải theo dõi được chi phí theo năm yếu tố sau:
-

Chi phí nguyên liệu và vật liệu: bao gồm chi phí nguyên vật liệu chính, chi

phí nguyên vật liệu phụ, chi phí nhiên liệu, chi phí phụ tùng thay thế và chi phí
nguyên vật liệu khác.
-

Chi phí nhân công: gồm chi phí về tiền lương phải trả cho người lao động,

các khoản trích BHXH, BHYTBHTN, KPCĐ theo tiền lương của người lao động.
-

Chi phí khấu hao tài sản cố định: bao gồm khấu hao của tất cả TSCĐ dùng

vào hoạt động sản xuất kinh doanh trong kỳ của doanh nghiệp.
-

Chi phí dịch vụ mua ngoài: Là số tiền phải trả cho các dịch vụ mua ngoài

phục vụ cho các hoạt động sản xuất kinh doanh như chi phí về điện, nước…

Sinh viên: Hoàng Thị Thu Hà


Lớp: CQ51/21.18


Luận văn tốt nghiệp
-

Học viện Tài chính

Chi phí khác bằng tiền: Là các khoản chi phí bằng tiền phát sinh trong quá

trình sản xuất kinh doanh ngoài các yếu tố chi phí nói trên như tiền thuê chuyên gia
kĩ thuật, tiền nộp thuế tài nguyên, phí, lệ phí tiếp khách ở phân xưởng, đội thi công.
Cách phân loại này có tác dụng cho biết nội dung, kết cấu tỷ trọng từng loại
chi phí mà doanh nghiệp đã sử dụng vào quá trình sản xuất trong tổng chi phí sản
xuất của doanh nghiệp. Số liệu chi phí sản xuất theo yếu tố là cơ sở để xây dựng các
dự toán chi phí sản xuất, xác định nhu cầu về vốn của doanh nghiệp, xây dựng các
kế hoạch về lao động, vật tư, tài sản… trong doanh nghiệp. Nó cũng là cơ sở để
phân tích tình hình thực hiện dự toán chi phí sản xuất, cung cấp số liệu để lập thuyết
minh BCTC, từ đó để tính vào tổng hợp thu nhập quốc dân…
1.3.1.1.2. Phân loại chi phí sản xuất theo mục đích và công dụng kinh tế
Mỗi yếu tố chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ đều có mục đích, công dụng
nhất định đối với hoạt động sản xuất. Theo cách phân loại này người ta căn cứ vào
mục đích công dụng của chi phí trong sản xuất để chia ra các khoản mục chi phí sản
xuất khác nhau, mỗi khoản mục chỉ bao gồm các chi phí có cùng mục đích, công
dụng. Vì vậy cách phân loại này cũn gọi là cách phân loại chi phí sản xuất theo
khoản mục. Toàn bộ chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ được chia thành:
-

Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: toàn bộ chi phí nguyên vật liệu được sử


dụng trực tiếp quá trình sản xuất chế tạo sản phẩm hay thực hiện lao vụ dịch vụ.
-

Chi phí nhân công trực tiếp: bao gồm tiền lương và các khoản phải trả trực

tiếp cho công nhân sản xuất, các khoản trích theo tiền lương của công nhân sản xuất
như kinh phí công đoàn, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp.
-

Chi phí sản xuất chung : là các khoản chi phí sản xuất liên quan đến việc

phục vụ và quản lý sản xuất trong phạm vi các phân xưởng, đội sản xuất. Chi phí
sản xuất chung bao gồm các yếu tố chi phí sản xuất sau: Chi phí nhân viên phân
xưởng, chi phí vật liệu, chi phí dụng cụ sản xuất, chi phí khấu hao TSCĐ, chi phí
dịch vụ mua ngoài, chi phí khác bằng tiền.
Phân loại chi phí sản xuất theo cách này có tác dụng cho yêu cầu quản lý chi
phí theo định mức, cung cấp số liệu cho công tác tính giá thành sản phẩm, phân tích
Sinh viên: Hoàng Thị Thu Hà

Lớp: CQ51/21.18


Luận văn tốt nghiệp

Học viện Tài chính

tình hình thực hiện giá thành, làm tài liệu tham khảo để lập định mức chi phí sản
xuất và lập kế hoạch giá thành cho kỳ sau.
1.3.1.2. Phân loại, nhận diện giá thành sản phẩm

1.3.1.2.1.

Phân loại giá thành sản phẩm theo cơ sở số liệu và thời điểm tính

giá thành
Theo cách phân loại này, giá thành sản phẩm được chia thành 3 loại sau:
-

Giá thành sản phẩm kế hoạch: Là giá thành sản phẩm được tính toán trên cơ

sở chi phí sản xuất kế hoạch và số lượng sản phẩm sản xuất kế hoạch. Giá thành kế
hoạch được tính toán trước khi bắt đầu quá trình sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp trong một thời kỳ.
-

Giá thành sản phẩm định mức: Là giá thành sản phẩm được tính trên cơ sở

các định mức chi phí hiện hành và chỉ tính cho một đơn vị sản phẩm. Giá thành sản
phẩm định mức được xác định trước khi bắt đầu quá trình sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp và có thể thay đổi khi có sự thay đổi các định mức chi phí sản xuất.
-

Giá thành sản phẩm thực tế: là giá thành sản phẩm được tính toán và xác

định trên cơ sở số liệu chi phí sản xuất thực tế đã sản xuất và tiêu thụ trong kỳ. Giá
thành thực tế chỉ có thể tính toán được khi kết thúc quá trình sản xuất, chế tạo sản
phẩm và được tính toán cho cả chỉ tiêu tổng giá thành và giá thành đơn vị.
1.3.1.2.2. Phân loại giá thành căn cứ vào phạm vi các chi phí cấu thành.
Theo cách phân loại này, giá thành sản phẩm được chia thành:
-


Giá thành sản xuất sản phẩm: bao gồm các chi phí liên quan đến quá trình

sản xuất chế tạo sản phẩm như chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân côg
trực tiếp, chi phí sản xuất chung tính cho sản phẩm sản xuất đã hoàn thành. Giá
thành sản xuất sản phẩm được sử dụng để hạch toán thành phẩm, giá vốn hàng xuất
bán và mức lói gộp trong kỳ của doanh nghiệp.
-

Giá thành toàn bộ sản phẩm tiêu thụ: Bao gồm giá thành sản xuất tính cho số

sản phẩm tiêu thụ cộng với chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp phát sinh
trong kỳ tính cho số sản phẩm này. Như vậy, giá thành toàn bộ sản phẩm tiêu thụ chỉ

Sinh viên: Hoàng Thị Thu Hà

Lớp: CQ51/21.18


Luận văn tốt nghiệp

Học viện Tài chính

tính và xác định cho cho số sản phẩm do doanh nghiệp sản xuất và đã tiêu thụ. Phân

loại giá thành sản phẩm theo phạm vi tính toán chi phí
Theo tiêu thức này thì giá thành sản phẩm được chia thành 3 loại sau:
- Giá thành sản xuất toàn bộ: là loại giá thành mà trong đó bao gồm toàn bộ biến
phí và định phí thuộc chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp,
chi phí sản xuất chung tính cho sản phẩm hoàn thành.

- Giá thành sản xuất theo biến phí: là loại giá thành mà trong đó chỉ bao gồm
biến phí thuộc chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí
sản xuất chung (biến phí sản xuất) tính cho sản phẩm hoàn thành.
- Giá thành sản xuất có phân bổ hợp lý định phí sản xuất: là loại giá thành trong
đó bao gồm toàn bộ biến phí sản xuất tính cho sản phẩm sản xuất hoàn thành và một
phần định phí sản xuất được phân bổ trên cơ sở mức hoạt động thực tế so với mức
hoạt động theo công suất thiết kế (mức hoạt động chuẩn).
1.3.2. Tổ chức kế toán chi phí sản xuất
1.3.2.1. Đối tượng, phương pháp tập hợp chi phí sản xuất
1.3.2.1.1. Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất
Đối tượng kế toán tập hợp CPSX là phạm vi và giới hạn để tập hợp CPSX
theo các phạm vi và giới hạn đó. Thực chất của việc xác định đối tượng tập hợp
CPSX là xác định nơi gây ra chi phí hoặc đối tượng chịu chi phí.
Các nhà quản trị doanh nghiệp cần biết được các chi phí đó phát sinh ở đâu,
dùng vào việc sản xuất sản phẩm nào? Khi xác định đối tượng tập hợp chi phí sản
xuất, trước hết các nhà quản trị phải căn cứ vào đặc điểm, công dụng của chi phí
trong sản xuất, sau đó phải căn cứ vào cơ cấu tổ chức kinh doanh, quy trình công
nghệ sản xuất, loại hình sản xuất sản phẩm, khả năng, trình độ của các nhà quản trị
doanh nghiệp, của cán bộ, nhân viên kế toán và yêu cầu quản lý chi phí, yêu cầu
tính giá thành của doanh nghiệp. Chính vì vậy, chi phí sản xuất kinh doanh phát
sinh trong kỳ phải được kế toán tập hợp theo phạm vi, giới hạn nhất định.
Tuỳ thuộc vào đặc điểm, tình hình cụ thể của doanh nghiệp mà đối tượng tập
hợp chi phí sản xuất trong các doanh nghiệp có thể là:
Sinh viên: Hoàng Thị Thu Hà

Lớp: CQ51/21.18


Luận văn tốt nghiệp


Học viện Tài chính

-

Từng sản phẩm, chi tiết sản phẩm, từng loại, nhóm sản phẩm, đơn đặt hàng.

-

Từng phân xưởng, đội, trại, bộ phận sản xuất, từng giai đoạn công nghệ sản xuất.

-

Toàn bộ quy trình công nghệ sản xuất, toàn doanh nghiệp.
Xác định đối tượng tập hợp CPSX một cách khoa học, hợp lí là cơ sở để tổ

chức công tác ghi chép ban đầu, mở các sổ chi tiết chi phí theo từng đối tượng
giúp cho việc quản lí chi phí sản xuất và phục vụ việc tính giá thành sản phẩm.
1.3.2.1.2. Phương pháp tập hợp chi phí sản xuất
Phương pháp tập hợp CPSX là cách thức mà kế toán sử dụng để tập hợp, phân
loại các khoản CPSX phát sinh trong một kỳ theo đối tượng tập hợp CPSX đã xác
định.Thông thường có hai phương pháp tập hợp chi phí:
-

Phương pháp tập hợp chi phí trực tiếp: để tập hợp các loại chi phí có liên quan

trực tiếp đến các đối tượng tập hợp chi phí đã xác định, tức là đối với các loại chi
phí phát sinh liên quan trực tiếp đến từng đối tượng tập hợp chi phí cụ thể.
-

Phương pháp tập hợp và phân bổ gián tiếp: để tập hợp các chi phí gián tiếp,


đó là các chi phí phát sinh liên quan đến nhiều đối tượng tập hợp chi phí đã xác
định mà kế toán không thể tập hợp trực tiếp các chi phí này cho từng đối tượng đó.
Theo phương pháp này, để xác định chi phí cho từng đối tượng cụ thể phải lựa
chọn các tiêu chuẩn hợp lý và tiến hành phân bổ các chi phí đó cho từng đối
tượngliên quan. Việc phân bổ được tiến hành theo trình tự sau:
Bước 1: Xác định hệ số phân bổ:
Tổng chi phí cần phân bổ
= H

Hệ số phân bổ =
Tổng đại lượng tiêu chuẩn phân bổ

Bước 2: Xác định chi phí phân bổ cho từng đối tượng chịu chi phí:
C i = Ti x H
Trong đó:

H: hệ số phân bổ.
Ti: tiêu chuẩn dùng để phân bổ cho từng đối tượng i.

Sinh viên: Hoàng Thị Thu Hà

Lớp: CQ51/21.18


Luận văn tốt nghiệp

Học viện Tài chính

Ci: chi phí phân bổ cho từng đối tượng i.Với phương pháp phân bổ

gián tiếp, mức độ chính xác của CPSX tính cho từng đối tượng tập hợp CPSX phụ
thuộc vào tính hợp lí của tiêu chuẩn phân bổ được sử dụng.
1.3.2.2. Kế toán tập hợp chi phí sản xuất
1.3.2.2.1. Kế toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
CP NVLTT bao gồm các khoản chi phí về nguyên vật liệu chính, nửa thành
phẩm mua ngoài, vật liệu phụ...sử dụng trực tiếp cho việc sản xuất chế tạo sản phẩm
hoặc trực tiếp thực hiện các lao vụ dịch vụ.
CP NVLTT thực tế trong kỳ được xác định theo công thức:
Chi phí
NVL trực
tiếp thực tế

Trị giá NVL

Trị giá NVL

= trực tiếp còn

+ trực tiếp xuất

lại đầu kỳ

Trị giá
_

dùng trong

NVL trực

Trị giá phế

_

tiếp còn lại

liệu thu hồi
(nếu có)

trong kỳ
kỳ
cuối kỳ
Các chứng từ được sử dụng bao gồm: Phiếu nhập kho, phiếu xuất kho, biên
bản kiểm nghiệm vật tư, biên bản giao nhận vật tư, bảng kê mua hàng…
Để kế toán chi phí NVL trực tiếp, kế toán sử dụng TK 621- Chi phí NVL trực
tiếp. TK này dùng để phản ánh chi phí NVL sử dụng trực tiếp cho hoạt động sản
xuất sản phẩm, thực hiện dịch vụ. TK này không có số dư cuối kỳ.
Phương pháp tập hợp:
Đối với những chi phí NVL trực tiếp có liên quan trực tiếp tới một đối
tượngtập hợp chi phí thường được tổ chức tập hợp theo phương pháp trực tiếp.
Trong trường hợp NVL sử dụng để sản xuất sản phẩm có liên quan đến nhiều
đối tượng tập hợp chi phí khác nhau thì kế toán phải áp dụng phương pháp phân bổ
gián tiếp theo các tiêu thức hợp lý. Đối với chi phí nguyên liệu chính có thể lựa
chọn tiêu chuẩn phân bổ là: chi phí định mức, chi phí kế hoạch, khối lượng sản
phẩm sản xuất ... Với chi phí vật liệu phụ, tiêu chuẩn phân bổ có thể là: chi phí định
mức, chi phí kế hoạch, chi phí nguyên liệu chính...
1.3.2.2.2. Kế toán chi phí nhân công trực tiếp
CP NCTT là những khoản tiền phải trả cho lao động trực tiếp sản xuất sảnphẩm
hoặc trực tiếp thực hiện các loại lao vụ, dịch vụ gồm: tiền lương chính, tiền lương
Sinh viên: Hoàng Thị Thu Hà

Lớp: CQ51/21.18



Luận văn tốt nghiệp

Học viện Tài chính

phụ, các khoản phụ cấp, tiền trích bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công
đoàn theo số tiền lương của công nhân sản xuất.
Chi phí về tiền lương (tiền công) được xác định cụ thể tuỳ thuộc hình thức tiền
lương sản phẩm hay lương thời gian mà doanh nghiệp áp dụng. Số tiền lương phải
trả cho công nhân sản xuất cũng như các đối tượng lao động khác thể hiện trên bảng
tính và thanh toán lương, được tổng hợp, phân bổ cho các đối tượng kế toán chi phí
sản xuất trên bảng phân bổ tiền lương. Trên cơ sở đó các khoản trích theo lương
(BHXH, BHYT, KPCĐ, BHTN ) tính vào chi phí nhân công trực tiếp được tính
toán căn cứ vào số tiền lương công nhân sản xuất của từng đối tượng và tỷ lệ trích
quy định theo quy chế tài chính hiện hành của từng thời kỳ.
Các chứng từ được sử dụng trong kế toán nhân công trực tiếp bao gồm: bảng
chấm công; bảng tính lương; bảng thanh toán tiền lương...
Để kế toán CP NCTT, kế toán sử dụng TK 622 - Chi phí nhân công trực tiếp.
Tài khoản này dùng để phản ánh CP NCTT tham gia vào hoạt động sản xuất sản
phẩm.
Phương pháp tập hợp :
Về nguyên tắc, CP NCTT cũng được tập hợp giống như đối với CP NVLTT. Trường
hợp cần phân bổ gián tiếp thì tiêu thức phân bổ thường được lựa chọn là: Chi phí
tiền công định mức (kế hoạch), giờ công định mức, giờ công thực tế, khối lượng sản
phẩm sản xuất
1.3.2.2.3. Kế toán chi phí sản xuất chung
CP SXC là những khoản chi phí cần thiết khác phục vụ cho quá trình sản xuất
sản phẩm phát sinh ở các phân xưởng, bộ phận sản xuất. Bao gồm:
-


Chi phí nhân viên phân xưởng: phản ánh chi phí liên quan phải trả cho nhân
viên phân xưởng, như: chi phí tiền lương, tiền công, các khoản phụ cấp
lương, các khoản trích bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn,
bảo hiểm thất nghiệp tính cho nhân viên phân xưởng.

Sinh viên: Hoàng Thị Thu Hà

Lớp: CQ51/21.18


Luận văn tốt nghiệp
-

Học viện Tài chính

Chi phí vật liệu: phản ánh chi phí vật liệu dùng chung cho phân xưởng, như
vật liệu dùng cho sửa chữa, bảo dưỡng TSCĐ thuộc phân xưởng quản lý, sử
dụng, vật liệu dùng cho nhu cầu văn phòng phân xưởng...

- Chi phí dụng cụ sản xuất: phản ánh chi phí về công cụ, dụng cụ sản xuất dùng
cho phân xưởng sản xuất như khuôn mẫu đúc, gá lắp, dụng cụ cầm tay...
- Chi phí khấu hao TSCĐ: bao gồm khấu hao của tất cả TSCĐ sử dụng ở phân
xưởng sản xuất như khấu hao của máy móc thiết bị, khấu hao của nhà
xưởng..
- Chi phí dịch vụ mua ngoài: phản ánh chi phí dịch vụ mua ngoài để phục vụ
cho các hoạt động của phân xưởng như chi phí sửa chữa TSCĐ, chi phí điện,
nước..
- Chi phí khác bằng tiền: phản ánh những chi phí bằng tiền ngoài những khoản
chi phí kể trên, phục vụ cho hoạt động của phân xưởng như chi phí tiếp

khách, hội nghị...ở phân xưởng.
CP SXC được tổ chức tập hợp theo từng phân xưởng, đội sản xuất. Cuối kỳ,
sau khi đã tập hợp được CP SXC theo từng phân xưởng, kế toán tính toán phân bổ
CP SXC cho từng đối tượng kế toán.
Các chứng từ được sử dụng bao gồm: bảng phân bổ tiền lương và BHXHH;
bảng phân bổ NVL và CCDC; bảng khấu hao TSCĐ; phiếu chi...
Kế toán sử dụng TK 627 - Chi phí sản xuất chung.
Tài khoản 627 được mở chi tiết như sau:
+ TK 6271: CP nhân viên phân xưởng

+ TK 6274: CP khấu hao TSCĐ

+ TK 6272: CP vật liệu

+ TK 6277: CP dịch vụ mua ngoài

+ TK 6273: CP dụng cụ sản xuất

+ TK 6278: CP bằng tiền khác

TK này dùng để phản ánh chi phí phục vụ sản xuất sản phẩm phát sinh ở phân
xưởng, bộ phận, đội...
Phương pháp tập hợp:
CP SXC được tập hợp theo từng địa điểm phát sinh chi phí, nếu trong doanh
nghiệp có nhiều phân xưởng sản xuất, nhiều bộ phận sản xuất thì phải mở sổ chi tiết
Sinh viên: Hoàng Thị Thu Hà

Lớp: CQ51/21.18



Luận văn tốt nghiệp

Học viện Tài chính

để tập hợp CP SXC cho từng phân xưởng, bộ phận sản xuất. CP SXC phát sinh tại
phân xưởng nào thì kết chuyển vào giá thành sản phẩm của phân xưởng, bộ phận
sản xuất đó. Trong trường hợp CPSXC có liên quan đến nhiều loại sản phẩm thì
phải phân bổ cho từng sản phẩm có liên quan theo các tiêu chuẩn sau:
-

Phân bổ theo CP NCTT.

-

Phân bổ theo CP NVLTT

-

Phân bổ theo định mức, kế hoạch CP SXC

-

Phân bổ theo chi phí nhân công và NVL trực tiếp.
Lựa chọn tiêu thức nào tùy thuộc vào điều kiện cụ thể và yêu cầu quản lý chi

phí của từng doanh nghiệp
1.3.2.2.4. Kế toán tổng hợp chi phí sản xuất toàn doanh nghiệp
Cuối kỳ kế toán, sau khi đã tập hợp CP NVLTT, CP NCTT và CP SXC theo
từng đối tượng trên các TK 621, 622, 627, kế toán sẽ tiến hành kết chuyển, phân bổ
từng loại chi phí này để tập hợp toàn bộ chi phí sản xuất cho từng đối tượng chịu

chi phí, tiến hành kiểm kê và đánh giá sản phẩm làm dở cuối kỳ, thực hiện tính giá
thành các loại sản phẩm, công việc, lao vụ do doanh nghiệp đã hoàn thành trong kỳ.
-

Kế toán chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm theo phương pháp KKTX:
Theo phương pháp này, kế toán sử dụng TK 154- Chi phí sản xuất kinh

doanh dở dang. TK này dùng để phản ánh tổng hợp chi phí sản xuất phục vụ cho
việc tính giá thành sản phẩm.

Sinh viên: Hoàng Thị Thu Hà

Lớp: CQ51/21.18


Luận văn tốt nghiệp

Học viện Tài chính

Sơ đồ 1.1. Trình tự kế toán Chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm theo
phương pháp kê khai thường xuyên

Sinh viên: Hoàng Thị Thu Hà

Lớp: CQ51/21.18


Luận văn tốt nghiệp

Học viện Tài chính


Sơ đồ 1.2: Quy trình kế toán chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm:

Sơ đồ 1.3. Quy trình ghi sổ kế toán và báo cáo chi phí sản xuất giá thành:

Ghi chú:

Ghi hàng ngày
Đồi chiếu kiểm tra
Ghi định kỳ, cuối kỳ

Sinh viên: Hoàng Thị Thu Hà

Lớp: CQ51/21.18


×