Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

CĐ NAM CAO CHÍ PHÈO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (135.72 KB, 15 trang )

CHUYÊN ĐỀ NAM CAO
A. NHỮNG NHẬN XÉT:
- PGS,TS. Lê Quang Hưng, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, đó là: nhà văn của câu chuyện nhân cách và
tình thương
- PGS, TS. Phan Thị Việt Trung, Đại học Thái Nguyên nhận xét: “Các sáng tác đó góp phần thanh lọc tâm
hồn con người; nó kêu gọi tình thương và trách nhiệm của con người đối với nhau và đối với xã hội. Trong xã
hội ngày nay, những khát vọng hưởng thụ được đẩy lên ở mức độ cao khó cưỡng đối với một số khá đông người
trong cộng đồng, thì những sáng tác của Nam Cao vẫn còn nguyên giá trị, thậm chí còn mang tính thời sự nữa”.
- “Dù viết về đề tài nào, truyện của Nam Cao cũng thể hiện một tư tưởng chung: nỗi băn khoăn đến đau
đớn trước thực trạng con người bị hủy hoại về nhân phẩm do cuộc sống đói nghèo đẩy tới”( )
- “Viết về người trí thức tiểu tư sản nghèo, Nam Cao đã mạnh dạn phân tích và mổ xẻ tất cả,không né
tránh như Thạch Lam; không cực đoan, phiến diện như Vũ Trọng Phụng, cũng không thi cị hóa như Nhất Linh,
Khái Hưng, ngòi bút của Nam Cao luôn luôn tỉnh táo đúng mực” (Hà Minh Đức)
- “Nam Cao đã mạnh dạn đi theo một lối đi riêng, nghĩa là không đếm xỉa gì đến sở thích của độc giả.
Nhưng tài năng của ông đã đem đến cho văn chương một lối văn mới sâu xa, chua chát và tàn nhẫn, thứ tàn nhẫn
của con người biết tin ở tài năng của mình, thiên chức của mình”(Hà Minh Đức)
- “Trong các trang truyện của Nam Cao ,trang nào cũng có những nhân vật chính hoặc phụ đang đối diện
với cái chỗ kiệt cùng với đời sống con người để rồi từ đó bắt buộc người ta phải bộc lộ mình ra, trước hết là tâm
lí, nhân cách rồi tiếp đến sau cùng là cái nỗi đau khôn nguôi của con người” (Nguyễn Minh Châu)
- “Trong văn xuôi trước cách mạng, chưa có ai có được ngòi bút sắc sảo, gân guốc soi mói như của Nam
Cao”( Nhà văn Lê Định Kỵ).
- Ngất ngưởng bước ra từ những trang sách của Nam Cao, thì người ta liền nhận ra rằng đây mới là hiện
thân đầy đủ những gi gọi là khốn khổ, tủi nhục nhất của người dân cày ở một nước thuộc địa, bị cào xé, bị hủy
hoại từ nhân tính đến nhân hình. Chị Dậu bán con, bán chó, bán sữa nhưng chị vẫn còn được là con người. Chí
Phèo phải bán cả diện mạo và linh hồn của mình để trở thành con quỷ dữ”. (Nguyễn Đăng Mạnh)
Ông là một trong những cây bút viết truyện ngắn rất thành công của dòng văn học hiện thực phê phán thời kì
trước Cách mạng.
- Ông là một trong những cây bút viết truyện ngắn rất thành công của dòng văn học hiện thực phê phán
thời kì trước Cách mạng.
- Con người Nam Cao nhìn bề ngoài có vẻ lạnh lùng, ít nói nhưng đời sống nội tâm thì rất phong phú.
- Nam Cao là người có tấm lòng đôn hậu, chan chứa yêu thương. Ông gắn bó sâu nặng, giàu ân tình với


quê hương và những con người nghèo khổ bị áp bức, khinh miệt trong xã hội cũ. Ông từng quan niệm, không có
tình thương đồng loại thì không đáng gọi là người. Đó chính là một trong những lí do dẫn Nam Cao đến với con
đường nghệ thuật “vị nhân sinh” và tạo nên những tác phẩm thấm đượm tư tưởng nhân đạo sâu sắc.
1


Sáng tác của Nam Cao trước Cách mạng tập trung vào hai đề tài chính người trí thức nghèo và người nông
dân nghèo.
Hoàn cảnh ra đời:
“Chí Phèo” là truyện viết về người thật, việc thật ở làng Đại Hoàng – quê hương của tác giả trước Cách
mạng tháng Tám.
Truyện ngắn “Chí Phèo” lúc đầu có tên là “Cái lò gạch cũ”. Khi in thành sách lần đầu (1941), Nhà xuất
bản Đời mới Hà Nội tự ý đổi tên là “Đôi lứa xứng đôi”. Năm 1946, khi in trong tập “Luống cày”, tác giả đặt lại
tên là “Chí Phèo”.
Chí Phèo là tác phẩm thành công của Nam Cao viết về đề tài người nông dân. Nhân vật Chí Phèo thể hiện
tấn bi kịch tinh thần lớn nhất của con người, đó là bi kịch bị tha hoá. Những thế lực tàn bạo đã tước đoạt của
người nông dân chất phác hiền lành những khát vong và ước mơ về một cuộc sống lương thiện, biến họ thành kẻ
lưu manh. Và khi lương tâm thức tỉnh, họ đã phải tự kết thúc đời mình khi nhận ra rằng mình không còn con
đường trở về với cuộc sống lương thiện.
Giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm đều được tập trung ở nhân vật Chí Phèo. Tác phẩm phản
ánh hai mâu thuẫn gay gắt và tiêu biểu nhất trong xã hội nông thôn Việt Nam trước cách mạng tháng Tám là:
Mâu thuẫn giữa giai cấp thống trị với nhau và mâu thuẫn giữa bọn cường hào ác bá và người nông dân. Nhân vật
đều đạt đến trình độ điển hình.
Tóm tắt đoạn trích
Chí Phèo vốn không cha không mẹ, được dân làng truyền tay nhau nuôi lớn. Rồi đến làm canh điền cho
nhà Bá Kiến. Bá Kiến ghen tuông nên đã đẩy anh vào tù. Bảy tám năm sau, Chí ra tù và trở về làng với bộ dạng
của một tên lưu manh. Hắn chuyên uống rượu, rạch mặt ăn vạ. Cả làng lánh xa hắn, Chí bị Bá Kiến lợi dụng
thành công cụ cho hắn.
Chí gặp Thị Nở, hai người ăn nằm với nhau. Chí tỉnh rượu rồi ốm, được Thị Nở chăm sóc. Bát cháo hành
và những cử chỉ chân thật của Thị Nở đã làm sống dậy khát vọng sống cuộc đời lương thiện của Chí. Nhưng bà

cô Thị Nở ngăn cấm. Chí tuyệt vọng khi bị Thị Nở từ chối. Anh xách dao đến nhà Bá Kiến đòi lương thiện. Anh
đâm chết Bá Kiến và tự vẫn.
B. CÁC DẠNG ĐỀ THI:
1. Cảm nhận hình tượng nhân vật
Truyện có nhiều nhân vật nhưng đề bài có thể chỉ yêu cầu phân tích , cảm nhận hình tượng nhân vật Chí
Phèo, các nhân vật khác ít quan trọng
2. Cảm nhận đoạn trích: Các em chú ý những đoạn sau :
+ Đoạn mở đầu ( tiếng chửi và ý nghĩa tiếng chửi ).
+ “Khi Chí Phèo mở mắt thì trời sáng đã lâu….Chao ôi là buồn!”
2


+ Đoạn kết : Chí Phèo đến nhà Bá Kiến, giết Bá Kiến và tự sát, hình ảnh cái lò gạch cũ hiện lên trong tâm
trí Thị Nở
3. Cảm nhận chi tiết
Tác phẩm có nhiều chi tiết đặc sắc, các em cần chú ý : tiếng chửi của Chí , chi tiết bát cháo hành, cái lò
gạch cũ.
4. Dạng đề nghị luận ý kiến bàn về văn học:
Đề bài có thể trích dẫn một nhận định , yêu cầu chứng minh nhận định đó.
5. Dạng đề so sánh :
Chí phèo có thể so sánh với các tác phẩm cùng chủ đề, ví dụ : Vợ nhặt của Kim Lân ( lớp 12 ), so sánh bi
kịch của Chí Phèo với bi kịch của Trương Ba ( Hồn Trơng Ba , Da hàng thịt- Lưu Quang Vũ, lớp 12)
Dạng đề so sánh thường thấy trong đề thi học sinh giỏi
6. Giá trị nhân đạo
C. LUYỆN ĐỀ
Đề 1: Đọc - hiểu đoạn mở đầu Chí Phèo Nam Cao
Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi ở dưới
“Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi. Bắt đầu hắn chửi trời. Có hề gì? Trời
có của riêng nhà nào? Rồi hắn chửi đời. Thế cũng chẳng sao: đời là tất cả nhưng chẳng là ai. Tức mình, hắn
chửi ngay tất cả làng Vũ Đại. Nhưng cả làng Vũ Đại ai cũng nhủ: “Chắc nó trừ mình ra!”. Không ai lên tiếng

cả. Tức thật! ờ! Thế này thì tức thật! Tức chết đi được mất! Đã thế, hắn phải chửi cha đứa nào không chửi nhau
với hắn. Nhưng cũng không ai ra điều. Mẹ kiếp! Thế có phí rượu không? Thế thì có khổ hắn không? Không biết
đứa chết mẹ nào lại đẻ ra thân hắn cho hắn khổ đến nông nỗi này? A ha! Phải đấy hắn cứ thế mà chửi, hắn cứ
chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn, đẻ ra cái thằng Chí Phèo! Hắn nghiến răng vào mà chửi cái đứa đã đẻ ra
Chí Phèo. Nhưng mà biết đứa nào đã đẻ ra Chí Phèo? Có mà trời biết! Hắn không biết, cả làng Vũ Đại cũng
không ai biết… ”
(Trích Chí Phèo- Nam Cao)
1)

Phương thức biểu đạt của đoạn trích ?

2)

Nêu ý chính của đoạn trích?

3) Cách sắp xếp tiếng chửi của nhân vật Chí Phèo: Bắt đầu hắn chửi trời…Rồi hắn chửi đời…chửi ngay tất
cả làng Vũ Đại…chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn, đẻ ra cái thằng Chí Phèo …được sử dụng biện pháp tu từ
cú pháp như thế nào? Nêu hiệu quả nghệ thuật của biện pháp tu từ đó?
4) Đoạn trích sử dụng nhiều câu văn ngắn. Nêu ý nghĩa nghệ thuật của việc sử dụng nhiều câu ngắn đó
5) Trong văn bản trên, Chí Phèo đã chửi những ai? Tiếng chửi của Chí có ý nghĩa gì?
6) Nêu 2 thành phần nghĩa trong câu sau:…hắn cứ thế mà chửi, hắn cứ chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân
hắn, đẻ ra cái thằng Chí Phèo
3


7) Từ văn bản trên, em hãy chứng minh từ tiếng Việt không biến đổi hình thái
8) Đặt tiêu đề cho văn bản trên.
Đáp án
1.


Tự sự

2.

Ý chính của đoạn trích: Đoạn trích miêu tả cảnh Chí Phèo uống rượu say và vừa đi vừa chửi giữa

sự thờ ơ của tất cả mọi người.
3.

Cách sắp xếp tiếng chửi của nhân vật Chí Phèo: Bắt đầu hắn chửi trời…Rồi hắn chửi đời…chửi

ngay tất cả làng Vũ Đại…chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn, đẻ ra cái thằng Chí Phèo …được sử dụng biện
pháp tu từ cú pháp: điệp cú pháp, liệt kê (hắn chửi trời…hắn chửi đời…chửi ngay …chửi đứa …)và chêm xen.
Hiệu quả nghệ thuật của biện pháp tu từ đó: Phép điệp cú pháp và liệt kê nhằm nhấn mạnh đối tượng của
tiếng chửi được sắp xếp từ xa đến gần, từ cao đến thấp, có thứ tự, có lớp lang. Nghệ thuật chêm xen ở cuối câu
chửi đẻ ra cái thằng Chí Phèo nhằm nhấn mạnh bi kịch bị từ chối của Chí Phèo. Đồng thời, tác giả gián tiếp tố
cáo chính xã hội thực dân nửa phong kiến đã đẻ ra Chí Phèo (0,5 điểm)
4. Đoạn trích sử dụng nhiều câu văn ngắn tạo nhịp điệu nhanh, dồn dập và tạo nên kịch tính cho truyện.
“Tức mình”, rồi “tức thật! Thế này thì tức thật. Tức chết đi mất”, “mẹ kiếp”, “nghiến răng mà chửi”. Những câu
văn ngắn đã cho ta cảm nhận được trực tiếp nỗi đau của Chí. Hiện lên trong đoạn văn là hình ảnh Chí Phèo đang
vật vã, đang quằn quại trong nỗi đau khổ, trong bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của mình. Dùng tiếng chửi,
dù là có cố gắng giao tiếp với loài người nhưng cuộc đời Chí vẫn là con số không, không bè bạn, không ai coi
hắn như một con người; duy chỉ có trong hắn một cái mang hình hài rõ rệt: đó là khối cô đơn ngày càng kết tụ
sâu sắc, gay gắt, xót xa. (0,5 điểm)
5. Chí Phèo chửi trời, chửi đời, chửi cả làng Vũ Đại, chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn, chửi đứa
chết mẹ nào đã đẻ ra thân hắn. Tiếng chửi của Chí Phèo đã tạo ra một màn ra mắt độc đáo cho nhân vật, gợi sự
chú ý đặc biệt của người đọc về nhân vật. Tiếng chửi ấy vừa gợi ra một con người tha hóa đến độ lại vừa hé lộ bi
kịch lớn nhất trong cuộc đời nhân vật này. Chí dường như đã bị đẩy ra khỏi xã hội loài người. Không ai thèm
quan tâm, không ai thèm ra điều. Chí khao khát được giao hòa với đồng loại, dù là bằng cách tồi tệ nhất là mong
được ai đó chửi vào mặt mình, nhưng cũng không được.

6. Nghĩa sự việc: nói về hành động của Chí :hắn cứ thế mà chửi, hắn cứ chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân
hắn, đẻ ra cái thằng Chí Phèo
Nghĩa tình thái: thể hiện thái độ của Nam Cao khi miêu tả nhân vật: bề ngoài thì dửng dưng lạnh lùng
nhưng trong sâu thẳm là sự cảm thông thương xót
7. Từ hắn được lặp lại nhiều lần, giữ nhiều chức vụ khác nhau nhưng không thay đổi về âm đọc và chữ
viết
8. Học sinh đặt tiêu đề ngắn gọn, khái quát nội dung và chủ đề đoạn trích

4


Đề 2: Đọc bài thơ sau và trả lời các câu hỏi bên dưới:
TRĂNG NỞ NỤ CƯỜI
Đâu Thị Nở, đâu Chí Phèo,
Đâu làng Vũ Đại đói nghèo Nam Cao ???
Vẫn vườn chuối gió lao xao
Sông Châu vẫn chảy nôn nao mạn thuyền...
Ả ngớ ngẩn. Gã khùng điên.
Khi tình yêu đến bỗng nhiên thành người!
Vườn chuối trăng nở nụ cười
Phút giây tan chảy vàng mười trong nhau.
Giữa đời vàng lẫn với thau
Lòng tin còn chút về sau để dành
Tình yêu nên vị cháo hành
Đời chung bát vỡ thơm lành lứa đôi!
(Thơ của Lê Đình Cánh )
1. Xác định thể thơ? Cách gieo vần?
2. Bài thơ giúp anh/chị liên tưởng đến tác phẩm nào đã học trong chương trình phổ thông?
3. Câu thơ: “Khi tình yêu đến bỗng nhiên thành người” có ý nghĩa gì? Liên quan các nhân vật nào trong
tác phẩm vừa liên hệ ở câu 6.

4. Vị cháo hành được nhắc đến trong hai câu thơ cuối là một chi tiết nghệ thuật đặc sắc trong tác phẩm nào
của Nam Cao? Hãy viết một đoạn văn ngắn khoảng 15 câu bình luận chi tiết nghệ thuật này?
Gợi ý:
1. Thể thơ lục bát; gieo vần chân và vần lưng.
2. Bài thơ giúp ta liên tưởng tới truyện ngắn “Chí Phèo” của Nam Cao.
3. Câu thơ: “Khi tình yêu đến bỗng nhiên thành người” thể hiện sức mạnh, sức cảm hóa lớn lao mà tình
yêu mang đến. Liên quan các nhân vật: Chí Phèo và Thị Nở trong tác phẩm “Chí Phèo”.
4. Vị cháo hành được nhắc đến trong hai câu thơ cuối là một chi tiết nghệ thuật đặc sắc trong tác
phẩm “Chí Phèo” của Nam Cao.
* Vị trí:
* Ý nghĩa:
- Về nội dung:
+ Thể hiện sự chăm sóc ân cần, tình thương vô tư, không vụ lợi của thị Nở khi Chí Phèo ốm đau, trơ trọi.
+ Là biểu hiện của tình người hiếm hoi mà Chí Phèo được nhận, là hương vị của hạnh phúc, tình yêu
muộn màng mà Chí Phèo được hưởng.
5


+ Là liều thuốc giải cảm và giải độc tâm hồn Chí, gây ngạc nhiên, xúc động mạnh, khiến nhân vật ăn năn,
suy nghĩ về tình trạng thê thảm hiện tại của mình. Nó khơi dậy niềm khao khát được làm hoà với mọi người, hi
vọng vào một cơ hội được trở về với cuộc sống lương thiện. Như vậy, bát cháo hành đã đánh thức nhân tính bị
vùi lấp lâu nay ở Chí Phèo.
- Về nghệ thuật:
+ Là chi tiết rất quan trọng thúc đẩy sự phát triển của cốt truyện, khắc họa sâu sắc nét tính cách, tâm lí và
bi kịch của nhân vật.
+ Góp phần thể hiện sinh động tư tưởng Nam Cao: tin tưởng vào sức mạnh cảm hoá của tình người.
Đề 3: “Nghệ thuật miêu tả tâm lí con người là thước đo tài năng người nghệ sĩ”.
Hãy phân tích trong sự đối sánh nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật Liên trong Hai đứa trẻ (Thạch Lam) và
nhân vật văn sĩ Hộ trong Đời thừa (Nam Cao) để thấy được những nét riêng của mỗi nhà văn về vấn đề nói trên.
1. Dẫn dắt, nêu vấn đề nghị luận

2. Giải thích
- Nghệ thuật miêu tả tâm lí là nhà văn sử dụng các phương tiện, biện pháp nghệ thuật để tái hiện thế giới
tâm lí phong phú, phức tạp của con người trong tác phẩm của mình.
- Thước đo là tiêu chuẩn đánh giá sự vật, hiện tượng nào đó.
- Tài năng người nghệ sĩ là khả năng sáng tạo nghệ thuật, cơ sở để hình thành phong cách nhà văn.
-> Nhận định trên thừa nhân chân lí trong sáng tạo nghệ thuật: tài năng của người nghệ sĩ không phụ thuộc
vào điều anh ta nói mà hãy xem anh ta miêu tả tâm lí nhân vật ra sao? Người nghệ sĩ lớn bao giờ cũng là một
bậc thầy trong việc mêu tả tâm lí.
3. Phân thích trong sự đối sánh
3.1. Giống nhau
a. Tác giả: Thạch Lam và Nam Cao là những nhà văn xuất sắc có đóng góp lớn cho công cuộc hiện đại hoá
văn học nước nhà (giai đoạn đầu thế kỉ XX đến năm 1945)
b. Cảm hứng sáng tạo: Họ đều hướng tới những số phận bất hạnh trong xã hội cũ bằng trái tim nhân đạo
dào dạt, sâu sắc.
c. Nghệ thuật miêu tả tâm lí:
- Đều tìm đến thể loại truyện ngắn.- Đều chú trọng đến việc miêu tả tâm lí con người trong hoàn cảnh cụ
thể, không quan tâm nhiều đến việc miêu tả yếu tố ngoại hình.
- Ngôn ngữ giản dị, trong sáng, phù hợp với tâm lí nhân vật.
3.2. Khác nhau
a. Tác giả:
- Thạch Lam là nhà văn thuộc khuynh hướng văn học lãng mạn.
- Nam Cao là nhà văn thuộc khuynh hướng văn học hiện thực phê phán.
6


b. Cảm hứng sáng tác:
- Thạch Lam: Cảm thương vô hạn trước những mảnh đời vô danh, vô nghĩa trong xã hội cũ.
- Nam Cao: Thông cảm sâu sắc trước tấn bi kịch tinh thần đau đớn, dai dẳng của người tri thức nghèo
trong xã hội cũ.
c. Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật của hai nhà văn

* Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật Liên của nhà văn Thạch Lam.
- Tác giả miêu tả cảm xúc, cảm giác mong manh, tinh tế: lúc chiều tàn khi đêm xuống, Liên lắng nghe
lòng mình phát hiện những cảm giác mơ hồ không hiểu.
- Sự nhịp nhàng giữa ngoại cảnh và tâm hồn nhân vật : buổi chiều, cửa hàng hơi tối - đôi mắt Liên ngập
đầy dần bóng tối; đêm xuống, tâm hồn Liên yên tĩnh hẳn- đêm phố huyện yên tĩnh đến mức có thể nghe thấy
tiếng hoa bàng rơi khe khẽ; đến đêm khuya, khi tàu đến từ xa, Liên đánh thức An dậy; khi tàu đến rồi vụt qua,
Liên dắt tay em đứng lên ngắm nhìn; tàu đi vào trong đêm tối và không còn nghe thấy tiếng xe lửa nữa thì Liên
đi nghỉ rồi chìm vào giấc ngủ tĩnh mịch và đầy bóng tối,…
- Thủ pháp đối lập, thủ pháp được các nhà văn lãng mạn ưa dùng: Đối lập giữa quá khứ rực rỡ và hiện tại
buồn chán của Liên; đối lập giữa cái thoáng qua là đoàn tàu thì rực rỡ, tráng lệ và cái hiện tại là bóng tối thì bền
vững.
- Lựa chọn hệ thống hình ảnh thi vị nhẹ nhàng, giàu sức gợi, câu văn có nhịp điệu êm mượt, góp phần làm
nổi bật vẻ đẹp tâm hồn trong sáng, nhạy cảm của nhân vật.
* Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật Hộ của nhà văn Nam Cao:
- Nam Cao miêu tả rất sâu sắc những giằng xé trong tâm trạng người trí thức nghèo:
+ Hộ có khát vọng cao đẹp nhưng không thể thực hiện khát vọng ấy. Vì thế Hộ rất khổ tâm: Nam Cao đã
đi sâu miêu tả thế giới tâm lí đau đớn của Hộ khi không làm gì được để nâng cao giá trị cuộc sống của mình: xấu
hổ, đau đớn,…mắng mình là thằng khốn nạn, đê tiện. Khi biết mình không thể đạt được hoài bão vì gánh nặng
cơm áo ghì sát đất, những cái tên sau mới trồi ra rực rỡ hơn thì Hộ trở nên thay đổi tâm tính: cau có, gắt gỏng,
bực bội. Hộ nhận ra mình đã hỏng, không thể cứu vãn…
+ Hộ không thể lựa chọn dứt khoát giữa nghệ thuật và tình thương. Dám hi sinh nghệ thuật vì tình thương,
sống cho tình thương nhưng giấc mơ có một tác phẩm có giá trị cứ âm ỉ, giày vò Hộ. Điều ấy dẫn anh đến bi
kịch thứ hai. Hộ chà đạp lên lẽ sống, tình thương rồi lại ân hận vì điều đó. Anh rơi vào bế tắc.
- Nam Cao khéo léo tạo tình huống để đẩy xung đột nội tâm lên đỉnh điểm. Đó là lần Hộ xuống phố đi lĩnh
nhuận bút, gặp Trung và Mão, anh lại quên người vợ hiền, đàn con đang đói khát đợi ở nhà… Kết thúc truyện,
Nam Cao để cho nhân vật Hộ tự chất vấn lương tâm,… -> Trước sau, Hộ vẫn bảo vệ lẽ sống tình thương. Đây là
cảm hứng chủ đạo xuyên suốt sự nghiệp sáng tác của Nam Cao.
- Nam Cao linh hoạt trong việc sử dụng ngôn từ để miêu tả nội tâm nhân vật: có khi dùng lời người kể
chuyện; có khi dùng lời nhân vật…
7



3.3. Lý giải sự khác nhau
- Do hoàn cảnh sống, sở trường của mỗi nhà văn.
- Do yêu cầu của nghệ thuật: không lặp lại người khác.
Đề 4: Phân tích bi kịch bị cự tuyệt của Chí Phèo ( từ khi Chí Phèo bị Thị Nở cự tuyệt đến khi Chí Phèo
đâm chết Bá Kiến rồi tự sát) trong truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao.
- Khẳng định: Đây là bi kịch của CP nói riêng, của người nông dân nghèo nói chung. Đó là bi kịch tinh
thần
- Giải thích: bi kịch là sự k đạt được những ước muốn cháy bỏng, mãnh liệt mà mình muốn đạt nó bằng
được  Bi kịch của CP là bi kịch muốn làm người lương thiện nhưng k thể thực hiện được
- Phân tích:
+ Sinh ra Chí đã bị bỏ rơi, ở hết nhà này đến nhà khác. Tuy nhiên Chí vẫn là người dân lao động hiền lành
+ Lớn lên Chí bị bắt đi tù bởi vì cơn ghen vô cớ của BK
+ Tiếng chửi  thấy sự phẫn uất, bế tắc + thái độ của dân làng
+ Cuộc gặp với Thị Nở  chi tiết bát cháo hành  sự từ bỏ của Thị với Chí
+ Cái chết của Chí : nguyên nhân  hành động
+ 3 câu nói của Chí
- Bàn luận:
+ Bi kịch của CP là tấm gương phản chiếu rõ nhất hiện thực đời sống cách mạng
+ Thể hiện phong cách nghệ thuật độc đáo của NC
+ Thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc
Đề 5: Phân tích quá trình tha hóa và bi kịch tinh thần của nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm Chí Phèo của
nhà văn Nam Cao
Đề 6: Phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật Chí Phèo của Nam Cao
Đề 7: Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật của Nam Cao qua đoạn văn tả Chí Phèo từ khi bị thị Nở từ chối
chung sống đến khi đâm chết bá Kiến và tự sát.
=> HS cần đọc kĩ đoạn văn từ câu "Thị nghe thấy thế mà lộn ruột." đến câu "Ởcổ hắn, thỉnh thoảng máu
vẫn còn ứ ra." để làm nổi bật nghệ thuật miêu tảtâm lí nhân vật Chí Phèo và bá Kiến của Nam Cao.



Về nhân vật Chí Phèo, có thể thấy tâm lí của nhân vật từ khi bị thị Nở từ chối chung sống đến khi giết

bá Kiến rồi tư sát là một quá trình phức tạp, đầy tính bất ngờ, đột biến, nhưng có lô-gíc, đúng quy luật. Thức tỉnh
không chỉ là để biết hi vọng mà còn để biết tuyệt vọng, biết báo thù. Việc Chí Phèo giết bá Kiến rồi tự sát là theo
quy luật tâm lí giải toả bế tắc của một kẻ cố cùng liều thân. Ở đây, chính sự từ chối của thị Nở đã kéo Chí Phèo
trở về với thực tại và nhận ra, bằng tiềm thức, kẻ thù của mình trước hết vẫn là bá Kiến. Và mâu thuẫn Chí Phèo
– bá Kiến là mâu thuẫn không thể điều hoà, trước sau cũng bùng nổ thành án mạng.
8




Về nhân vật bá Kiến, qua những suy nghĩ về bà tư (vợ bá Kiến), việc bá Kiến lên cơn ghẹn và những

lời đối đáp với Chí Phèo, nhà văn muốn làm nổi bật bản chất dâm ô, bỉ ổi, đê tiện và tự đắc, chủ quan của nhân
vật này.


Miêu tả chân thực những diễn biến tâm lí nhân vật, Nam Cao đã sử dụng cách kể chuyện đặc sắc:

+ Giọng văn trần thuật độc đáo, kết hợp giữa lời gián tiếp và lời nửa trực tiếp (đoạn thị Nở đi trút giận lèn
Chí Phèo), giữa đối thoại với độc thoại (nhất là đoạn đối thoại giữa Chí Phèo với bá Kiến). Do đặc điểm này,
ngôn ngữ người kể chuyện và ngôn ngữ nhân vật nhiều khi được lồng ghép vào nhau, giúp cho tác giả khắc hoạ
sinh động tâm trạng của nhân vật và có thể chuyển đổi điểm nhìn một cách nhanh chóng, linh hoạt.
+ Tiết tấu của câu văn nhanh, gấp, nhất là những lời đối thoại ngắn giữa Chí Phèo và bá Kiến cũng như
đoạn văn tả cảnh Chí Phèo lao vào đâm chết bá Kiến và tự sát tạo độ căng cho câu chuyện, đi nhanh đến hồi kết.
Đặc biệt, đọc xong đoạn văn, người đọc vẫn không khỏi bàng hoàng về kết cục của nhân vật.
Đề 8: Phân tích nhân vật Thị Nở
=> Khi xây dựng nhân vật Thị Nở, nhà văn Nam Cao thẳng cánh hạ bút những dòng này: “Người ta không

ai sợ kẻ khác phạm đến cái xấu, cái nghèo, cái ngẩn ngơ của mình, mà thị lại chỉ có ba cái ấy”.
Nghèo, xấu, ngẩn ngơ như ba mặt của một lô cốt hình tam giác chóp, nơi tác giả đã nhốt chặt nhân vật Thị
Nở của mình vào trong đó. Nhưng có thật thị chỉ có ba điều ấy không? Nhà văn Nam Cao đã xử lý như thế nào
trong quá trình triển khai “dự án thiết kế ban đầu” này?
Tôi cho rằng nhân vật Thị Nở ngay từ đầu là một biểu hiện nguyên khối của con người tự nhiên, thuộc về
tự nhiên, chứ không hề sắm vai con người xã hội. Thị xấu ma chê quỷ hờn ư? Trong biết bao nhiêu thành phẩm
của tạo hóa có phải thứ nào cũng đẹp cả đâu! Đã là giới tự nhiên thì vừa có cái hoàn toàn đẹp, có cái hoàn toàn
xấu, lại có cái vừa đẹp vừa xấu. Thị Nở xấu xí như thể một bộ phận của tự nhiên xấu xí, là chuyện có thực. Hơn
nữa, thị ăn ngủ, yếm áo, nghĩ ngợi… lúc nào cũng cứ “vô tâm” như không vậy, thì đó chẳng phải là đặc tính hồn
nhiên bậc nhất của tự nhiên đó sao! Cho nên trước sau, toàn bộ con người Thị Nở hiện diện với tư cách là cả một
khối tự nhiên thô mộc. Mà đã là tự nhiên thì dù thế nào đi nữa, tự nó có vị trí, quyền năng riêng của nó. Nam
Cao đã xây dựng chân dung Thị Nở dưới sự chỉ đạo của luồng ánh sáng tư tưởng này (cũng xin lưu ý điều đang
nói ở đây hoàn toàn khác với thứ chủ nghĩa tự nhiên, cái mà Nam Cao đã từng bị mang tiếng).
Thì đây, sau lần “ăn nằm” với Chí, tức là sau cái hành động tạo hóa đầy màu nhiệm này, cả Thị Nở lẫn Chí
đều được thay đổi. Thị Nở đã hoàn toàn chìm đắm trong cơn đam mê tột cùng của bản năng thiên tạo. Thị đã
quên hết thảy mọi ràng buộc của đời sống thường nhật, quên bà cô, quên bặt cả những định kiến tầng tầng lớp
lớp của cái xã hội làng Vũ Đại. Khi mà cả làng Vũ Đại quay lưng với Chí, thì chỉ duy nhất mình thị đến với Chí
một cách hồn nhiên hết mực. Thế là cái thiên chức (sự chăm lo), thiên lương (tình thương, lòng tốt), những gì
gọi là năng lực đàn bà trong thị bỗng động đậy, đòi được thể hiện. Nhưng khác với thị, trong khi hưởng thụ Chí
lại là người không hẳn vô tư. Trong con người anh ta cũng bắt đầu xuất hiện ý thức sở hữu duy nhất, triệt để đối
với thị, một ý thức về tình yêu của giống người: vừa dâng hiến vừa đòi hỏi. Chính vì thế mà Chí đã nghĩ xa xôi
9


đến một tổ ấm, thứ hạnh phúc bình dị theo kiểu con người. Chí đã khóc khi ăn bát cháo hành, tức là đã khóc vì
cái hạnh phúc lần đầu tiên được hưởng thụ theo cung cách của một tổ ấm. Vì không thể vô tư được nên khi phải
chờ đợi Thị Nở, Chí Phèo đã sốt ruột, tức tối. Trong khi đó, cuối cùng thị đã đến để trút giận, rồi “ngoay ngoáy
cái mông đít” ra về cũng theo một cách vô tâm nhất, không mảy may băn khoăn tiếc nuối, không tính toán xem
lợi hại thế nào, bỏ lại Chí trong nỗi đau phụ bạc (theo cách nghĩ của Chí). Vậy là, cái khối tự nhiên vô tâm Thị
Nở kia va đụng vào con người xã hội Chí Phèo vụ lợi này thành ra ắt phải đổ vỡ. Quan hệ Thị Nở – Chí Phèo

đến đây đã trở thành hạt nổ quyết định bắn vào quả nổ lớn tiếp theo – tấn kịch ắt phải bùng nổ, đẫm máu, vỡ nát
(như đã thấy ở phần cuối truyện). Đây là một quan hệ có tính cách khai sáng. Nhờ đó mà cái đầu mụ mị và đầy
thù địch của Chí bỗng thay đổi hẳn. Chí Phèo bắt đầu thấy “thèm lương thiện, muốn làm hòa với mọi người biết
bao”. Thị Nở sẽ mở đường cho hắn. Không còn nghi ngờ gì nữa, thị đã can dự sâu sắc vào cuộc đời Chí, đánh
thức toàn bộ tâm hồn Chí, làm cho đời sống tâm hồn của hắn rung lên từng nếp xếp bấy nay nằm ngủ. Thị Nở đã
mang quyền lực của thiên tạo – chiếc đũa thần yêu thương gõ vào cái hộp tối đen đầy bất trắc ấy, thổi vào đó
những đốm lửa nhân văn ấm áp, và trên thực tế đã kéo được Chí ra khỏi cõi rồ dại ấy rồi. Đi theo tiếng gọi cảm
động của tình yêu, Chí đã bước những bước chập chững, non nớt về với cõi người. Tội đồ bất đắc dĩ mang về
nước chúa phục thiện. Ai ngờ, ngoắt một cái, Chí lại nốc rượu, lại xách dao đi… Thế là cả một công trình do thị
tạo dựng bỗng chốc đổ vỡ tan tành. Tại thị cả, người chỉ biết cho, chứ không biết giữ mà, khổ thế!
Xét toàn bộ hành trạng của Chí có hai sự kiện mang tính bước ngoặt: lần một – đi ở tù, lần hai – tình yêu
với Thị Nở. Sự kiện lần một không được miêu tả mà chỉ nhắc đến như một dữ kiện. Tác giả chỉ chú tâm khai
thác triệt để sự kiện lần hai, và trên thực tế số trang dành cho nó chiếm hơn một phần ba truyện. Nói như thế để
thấy rằng sự có mặt của Thị Nở trong cuộc đời Chí (tuy mới chỉ vẻn vẹn có năm ngày sau chót) thực sự có nghĩa
lý và quan trọng đến ngần nào. Giả dụ vắng bóng Thị Nở, thì nhân vật Chí Phèo chả có gì đáng nói đáng bàn
lắm.
Vậy thì, với tư cách là một khối tự nhiên thô mộc, khiếm khuyết về hình thể, Thị Nở đã bảo toàn trong
mình những phẩm chất “nhân chi sơ, tính bản thiện” của giống người: thiên lương, thiên chức, thiên năng – lớp
bản chất nằm ở bề sâu khuất chưa bị tha hóa. Cho nên Thị Nở đã thoát ra khỏi cái lốt bọc xấu xí ấy để trở thành
một người đàn bà đáng trọng.

CÁC CÁCH MỞ BÀI

10


1. Chỉ là truyện ngắn, lại là truyện ngắn sáng tác sớm của Nam Cao về đề tài nông dân, nhưng Chí Phèo
thật sự tổng hợp sự kết tinh của ngòi bút Nam Cao về đề tài này. Nếu như Nam Cao có thể được coi là "nhà văn
của nông dân" – cùng với Ngô Tất Tố – thì trước hết vì công có Chí Phèo.
2. Nam Cao được biết đến trong lịch sử văn học VN là một nhà văn hiện thực xuất sắc. Ổng để lại nhiều

tác phẩm văn học có giá trị trên cả hai đề tài về người trí thức tiểu tư sản và người nông dân nghèo. Nhưng tên
tuổi của ông vẫn gắn liền với tác phẩm Chí Phèo- Một kiệt tác của NC, một tác phẩm mang đậm giá trị nhân đạo
sâu sắc, đồng thời cũng phê phán cái xã hội thối nát bấy giờ.
3. Nam Cao viết văn từ những năm 30 cuả thế kỉ XX nhưng đến năm 1941 ông mới khẳng định vị trí của
mình trong nền văn học nước nhà bằng truyện ngắn Chí Phèo. Ông là nhà văn hiện thực xuất sắc tràn đầy tinh
thần nhân đạo, chuyên viết về hai đề tài: người trí thức nghèo sống mòn mỏi, bế tắc trong xã hội cũ và người
nông dân bị bần cùng hóa, lưu manh hóa trước Cách mạng tháng Tám. Chí Phèo là kiệt tác của Nam Cao, thuộc
đề tài người nông dân nghèo. Tác phẩm viết về tấm bi kịch của nhân vật Chí Phèo. Bi kịch của Chí Phèo gồm
hai bi kịch nối tiếp nhau. Trước hết là bi kịch tha hóa từ một người lương thiện trở thành kẻ bất lương, thậm chí
thành quỷ dữ. Tiếp nối là bi kịch bị từ chối làm người lương thiện. Đoạn mô tả từ buổi tối sau khi gặp Thị Nở
đến khi kết thúc cuộc đời thuộc bi kịch từ chối quyền làm người.

NGHỆ THUẬT MIÊU TẢ TÂM LÍ TRONG CHÍ PHÈO
1.“Thứ nhất sợ kẻ anh hùng, thứ hai sợ kẻ cố cùng liều thân”
Chí Phèo không phải là một anh hùng, chắc chắn là vậy. Bởi không có một anh hùng nào lại chuyên
“nghề” rạch mặt, ăn vạ như anh. Thế nhưng mọi người trong làng Vũ Đại lại rất sợ Chí. Đơn giản chỉ vì
Chí là một tên lưu manh, liều hơn cả những thằng lưu manh chính gốc. Ngay sau khi trở về sau 7, 8 năm
tù tội việc đầu tiên Chí làm là đến tìm Bá Kiến - kẻ đã đẩy Chí vào con đường tù tội. Đáng lẽ với hoàn
cảnh mới ra tù, tìm đến kẻ thù của mình trong cơn say như vậy Chí hoàn toàn có khả năng giết Bá Kiến
ngay lúc này. Thế nhưng, Chí lại không làm như vậy, mà ngược lại một cách nhanh chóng chỉ với vài lời
an ủi, một măm cơm nho nhỏ Chí đã trở thành tay sai của Bá Kiến.
Ở đây chúng ta nên chú ý rằng nhà văn đã tạo ra một tình huống ngược trong tâm lí của Chí Phèo và
tác nhân gây ra tình huống ấy chính là sự khôn ngoan của Bá Kiến. Bá Kiến đã nắm bắt rất tốt tâm lí của
một kẻ lưu manh không có gì cả, chỉ được cái liều. Vấn đề ở đây là Chí mong tìm đến rượu để có gan mà
ăn vạ Bá Kiến và khi rượu đã nhạt thì Chí lại thấy sợ. “ Cái sợ cố hữu trong lòng thức dậy, cái sợ xa xôi
thủa ngày xưa” rõ ràng là Chí thấy sợ Bá Kiến. Điều đó cũng dễ hiểu vì Bá Kiến là một tên có uy quyền
nhất làng, trong khi Chí chẳng là gì. Thế nhưng trước sự ân cần của Bá Kiến cũng có lúc Chí nghĩ hắn thật
là táo bạo, “hắn thấy hắn cũng oai”. Đây quả là một suy nghĩ ngây thơ của Chí và với sự già đời của
mình Bá Kiến đã xoay sở rất khéo. Đầu tiên là an ủi, dỗ ngọt “khổ quá, giá có tôi ở nhà thì đâu đến nỗi.
Ta nói chuyện với nhau, thế nào cũng xong…ai chứ anh với tôi còn có họ kia đấy”. Rồi lại đối đãi với Chí

như một vị khách, lại còn cho tiền để anh ta uống rượu. Người ta hay nói đồng tiền đi trước là đồng tiền
khôn mà. Dù có lúc Bá Kiến cũng thấy sợ Chí, nhưng suy cho cùng đó chỉ là nỗi sợ những kẻ “cố cùng
liều thân” mà thôi. Ông không muốn lại có thêm nhưng thằng như Binh Chức, Năm Thọ xuất hiện.
Quả thật với cách miêu tả tâm lí nhân vật Bá Kiến trong lần gặp lại Chí Phèo này, Nam Cao đã khắc
họa cho ta hình ảnh một tên địa chủ “già đời đục khoét”. Và cũng bởi vì “già đời đục khoét” nên ông
hiểu rằng “nhiều khi phải ngậm miệng cung cấp cho những thằng cùng hơn dân cùng nên liều lĩnh, lúc
nào cũng có thể cầm dao đâm người hay đâm mình”. Với Bá Kiến xét cho cùng Chí cũng chỉ là
11


một “thằng đầu bò” và ông sẽ dùng những “thằng đầu bò” như Chí mà trị những “thằng đầu
bò” khác. Với ngôn ngữ điềm tĩnh, hóm hỉnh trong cách miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật, Nam Cao đã
phát họa phần nào tính cách của hai nhân. Một Chí Phèo khốn cùng, sống như một con vật vô tri. Một Bá
Kiến gian xảo và rất không ngoan, kẻ có thể “ngấm ngầm đẩy người ta xuống song, rồi dắt nó lên để nó
đền ơn”.
2. “Người ta đứng lên bằng gì
Say rượu là “công việc” thường xuyên, là niềm vui, là tất cả những gì mà Chí có thể làm tốt nhất.
Chúng ta nên chú ý rằng Chí chỉ có thể gây tội lỗi khi anh ta say. Chính vì vậy mà mỗi lần Chí say là mỗi
lần anh đi đốt nhà, đòi nợ, ăn vạ người khác. Duy chỉ có một lần trong tác phẩm Chí say và thấy mình tìm
được người bạn tâm đầu với mình, đó là Tự Lãng. Tự Lãng là một người mất vợ và sống một mình, không
người thân bên cạnh. Cũng như Chí, Tự Lãng sống cho ngày hôm nay chỉ biết đến hôm nay, còn mai sau
thì mặc kệ. Bởi khi con người ta không còn gì để vui sống nữa thì người ta còn cần chi đến tương lai. Tự
Lãng bảo “ai chết cũng thành cái mả, say sưa cũng thành cái mả, lo gì? Cứ say” . Có lẽ hai con người này
tìm đến rượu để trốn tránh, trốn tránh cuộc đời và cả chính mình. Tự Lãng hỏi rằng “Người ta đứng lên
bằng gì?” Câu hỏi ấy là câu hỏi của một người say ư? Phải, một con người mà không biết rằng khi mình
ngã thì đứng lên bằng gì thì thật là một con người đáng thương. Nghe sao mà chua xót và bất lực quá. Nhà
văn như đang nhập thân vào chính nhân vật của mình, để cùng say, cùng nghĩ, cùng trăn trở với họ. Sự
nhập thân ấy cho phép Nam Cao có được những đoạn miêu tả tâm lí nhân vật thông qua hành động, lời
nói thật sâu sắc. Nhờ vậy mà ta hiểu rằng những Chí phèo, Tự lãng như thế trong xã hội ấy quả là không
ít. Những cảnh đời đang tụt dài trên con dốc của sự bế tắc, không có ai, không có gì để nương tựa.

3. “Muốn ác, phải là kẻ mạnh”
Nếu như bằng một vài phát họa ban đầu, Nam Cao cho ta hình dung về một Chí Phèo lưu manh,
mang tính cách của một kẻ cố nông khốn cùng thì có lẽ bước ngoặc để nhà văn miêu tả một cách chân thật
tính cách Chí, là khi để anh ta gặp được Thị Nở. Nếu Tự Lãng chơi vơi với câu hỏi “Người ta đứng lên
bằng gì?” thì có lẽ với Chí, câu trả lời chính là tình thương. Thị là người đầu tiên cho Chí những rung
động yêu thương thật sự và cũng chính Thị là người có thể mở ra cho Chí một con đường tươi sáng và tốt
đẹp hơn, giúp Chí đứng lên và bước ra khỏi cuộc đời tăm tối lúc trước.
Một người như Chí mà cũng có lúc sợ rượu, “hắn sợ rượu như người ốm sợ cơm”.“Lần đầu Chí
cảm thấy sự sống quanh mình sau chuỗi ngày dài chìm trong men rượu”. Giờ đây khi đã tỉnh rượu “hắn
thấy hắn già và cô độc”. Lần đầu tiên Chí thấy sợ tuổi già, cái chết. Nhưng lạ thay Chí còn sợ cái khác
hơn nhiều, “cô độc, cái này còn đáng sợ hơn cả đói rét và ốm đau” Chí nghĩ thế. Đó là dấu hiệu của sự
khát sống, mà phải là sống như một con người thực thụ, sống có tình thương.
Bát cháo hành của Thị là một liều thuốc an thần cho Chí trong lúc sợ hãi đó. Với Chí bát cháo hành
ấy là những gì lớn lao nhất, đại diện cho tình thương của Thị dành cho anh. Vậy nên anh rất ngạc
nhiên, “hắn thấy mắt mình hình như ươn ướt. Bởi vì lần thứ nhất hắn được một người đàn bà cho”. Đây
là tâm lí của một người chưa bao giờ được yêu thương và nhất là bàn tay chăm sóc của một người phụ nữ.
Dù cho người phụ nữ ấy có xấu xí và dở hơi đến đâu đi nữa thì với Chí cũng trở nên vô cùng xinh đẹp.
Không phải Chí mù quáng mà đơn giản chỉ vì đó là cách nghĩ của một con người còn khát sống, khát yêu.
Đáng lẽ khi tìm thấy được tình yêu Chí phải thật vui sướng nhưng khi trông thấy cái “duyên” của
Thị, Chí lại “thấy vừa vui vừa buồn”. Vì sao vậy? Vì “người ta hay ăn năn hối hận về tội ác khi không đủ
sức để ác nữa”. Với ngôn ngữ trần thuật chân thực, Nam Cao đã dẫn dắt người đọc đi từ niềm trăn trở này
đến niềm trăn trở khác, như đồng cảm cùng những suy tư, lo lắng của Chí, như bị cuốn hút vào những suy
nghĩ rất ngây ngô mà cũng rất người của anh.
Hơn thế nữa, với thủ pháp khứ hồi, để cho nhân vật nhớ về những điều trong quá khứ đã giúp cho
Nam Cao thể hiện đầy đủ ý đồ của mình trong việc miêu tả tâm lí từ đó bộc lộ những khát khao của Chí.
Chí nhận ra rằng “muốn ác, phải là kẻ mạnh” còn bây giờ anh thấy mình yếu đuối, “hắn đâu còn mạnh
nữa” mà “những người yếu đuối vẫn hay hiền lành”. Nam Cao rất khéo khi tạo ra được tình huống làm
thay đổi tâm lí con người. Có ai ngờ rằng cái thằng Chí Phèo vẫn hay đốt nhà, ăn vạ, rạch mặt lại có một
ngày còn mong làm người lương thiện. Và cũng có ai ngờ rằng một Thị Nở xấu “ ma chê quỷ hờn”, lai còn
dở hơi lại có lúc “rất duyên”. Nói cho cùng điều mà nhà văn muốn thể hiện khi sử dụng quá trình dẫn dắt

12


tâm lí nhân vật ấy là muốn làm sáng tỏ tính cách, phẩm chất vốn có trong con người những nhân vật của
mình.
4. “Ai cho tao lương thiện”
Bên cạnh những thủ pháp để miêu tả tâm lí nhân vật như thủ pháp khứ hồi, thâm nhập vào nhân vật,
tạo tình huống có tính bước ngoặc cũng như ngôn ngữ trần thuật chân thực, Nam Cao còn có lúc để cho
nhân vật có những phút đôc thoại và độc thoại nội tâm. Đặc biệt là đoạn Chí bị Thị Nở cự tuyệt. Khi
người ta đã đặt quá nhiều niềm tin vào một người hay một điều gì đó và khi niềm tin ấy bị sụp đổ thì chắc
chắn rằng đó là một nỗi đau không gì bù đắp nổi. Đối với Chí cũng vậy, anh cần lương thiện và anh nghĩ
Thị là người có thể cho anh điều đó. Giờ đây khi biết rằng mình đã ảo tưởng, Chí như phát điên lên và anh
cần tìm ra người đã lấy đi niềm tin ấy của mình. Anh nghĩ phải đến và “đâm chết cả nhà nó, đâm chết cái
con khọm già nhà nó”. Thế nhưng, “hơi rượu không sặc sụa. Hắn cứ thoang thoảng thấy hơi bát cháo
hành. Hắn ôm mặt khóc rưng rức”. Đây là lần thứ hai Chí khóc, lần thư nhất là giọt nước mắt của vui
sướng tột độ và lần này là giọt nước mắt của niềm đau tột cùng. Đầu óc Chí giờ đây chỉ có việc trả thù kẻ
gây cho anh đau khổ.
Đáng lẽ anh phải đến để tìm Thị thì anh lại đến thẳng nhà Bá Kiến, có thể Chí lờ mờ nhận ra rằng
chính Bá Kiến mới là kẻ đẩy Chí vào nỗi đau, cũng có thể Chí tìm đến Bá Kiến như một thói quen mà mỗi
lần say Chí hay làm. Nhưng dù là đến tìm ai thì mục đích của Chí chỉ có một, là đòi lương thiện. Nhưng
thật không may cho Bá KIến khi ông đã một lần xử sự không khôn ngoan, và chỉ một lần cũng đã đủ lấy
đi mạng sống của ông. “Ai cho tao lương thiện. Làm thế nào mất được những mảnh chai trên mặt này?
Tao không thể là người lương thiện nữa”. Làm sao Chí còn có thể quay lại con đường lúc trước khi mà
biết bao cảnh tượng tươi đẹp đã nảy nở trong đầu anh, anh không còn đủ sức để mà ác nữa. Và anh cũng
không thể tiến bước trên con đường lương thiện cùng Thị nở khi mà người ta luôn cho anh là một tên lưu
manh.
Hành động giết chết Bá Kiến rồi tự sát là sự kết thúc của biết bao nhiêu dằn vặt, mong mỏi, đau đớn
của Chí. Diễn biến tâm lí của Chí rất hợp với logich tâm lí thông thường, khi quá đau đớn người ta có xu
hướng giải thoát. Từ người vô tri, chỉ biết say cho qua ngày, Chí đã biết yêu, rồi biết mơ đến những điều
tốt đẹp, rồi hồi hợp chờ đợi cái hạnh phúc ấy đến, rồi như vở tan với niềm thất vọng và cuối cùng là dùng

cái chết để tự giải thoát mình.
Có thể nói với nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật sâu sắc, rồi từ đó khắc họa chân thực tính cách
nhân vật đã giúp đỡ đắc lực cho Nam Cao trong việc thể hiện quan niệm nghệ thuật về con người của
mình, khi tìm hiểu con người là phải tìm hiểu một cách thật sâu, thật sát tính cách của họ, chứ không phải
chỉ là những tìm hiểu ở bề nổi mà thôi.

LUYỆN ĐỀ NAM CAO
13


Đề 1: Đọc - hiểu đoạn mở đầu Chí Phèo Nam Cao
Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi ở dưới
“Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi. Bắt đầu hắn chửi trời. Có hề gì? Trời
có của riêng nhà nào? Rồi hắn chửi đời. Thế cũng chẳng sao: đời là tất cả nhưng chẳng là ai. Tức mình, hắn
chửi ngay tất cả làng Vũ Đại. Nhưng cả làng Vũ Đại ai cũng nhủ: “Chắc nó trừ mình ra!”. Không ai lên tiếng
cả. Tức thật! ờ! Thế này thì tức thật! Tức chết đi được mất! Đã thế, hắn phải chửi cha đứa nào không chửi nhau
với hắn. Nhưng cũng không ai ra điều. Mẹ kiếp! Thế có phí rượu không? Thế thì có khổ hắn không? Không biết
đứa chết mẹ nào lại đẻ ra thân hắn cho hắn khổ đến nông nỗi này? A ha! Phải đấy hắn cứ thế mà chửi, hắn cứ
chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn, đẻ ra cái thằng Chí Phèo! Hắn nghiến răng vào mà chửi cái đứa đã đẻ ra
Chí Phèo. Nhưng mà biết đứa nào đã đẻ ra Chí Phèo? Có mà trời biết! Hắn không biết, cả làng Vũ Đại cũng
không ai biết… ”
(Trích Chí Phèo- Nam Cao)
1) Phương thức biểu đạt của đoạn trích ?
2) Nêu ý chính của đoạn trích?
3) Cách sắp xếp tiếng chửi của nhân vật Chí Phèo: Bắt đầu hắn chửi trời…Rồi hắn chửi đời…chửi ngay tất
cả làng Vũ Đại…chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn, đẻ ra cái thằng Chí Phèo …được sử dụng biện pháp tu từ
cú pháp như thế nào? Nêu hiệu quả nghệ thuật của biện pháp tu từ đó?
4) Đoạn trích sử dụng nhiều câu văn ngắn. Nêu ý nghĩa nghệ thuật của việc sử dụng nhiều câu ngắn đó
5) Trong văn bản trên, Chí Phèo đã chửi những ai? Tiếng chửi của Chí có ý nghĩa gì?
6) Nêu 2 thành phần nghĩa trong câu sau:…hắn cứ thế mà chửi, hắn cứ chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân

hắn, đẻ ra cái thằng Chí Phèo
7) Từ văn bản trên, em hãy chứng minh từ tiếng Việt không biến đổi hình thái
8) Đặt tiêu đề cho văn bản trên.
Đề 2: Đọc bài thơ sau và trả lời các câu hỏi bên dưới:
TRĂNG NỞ NỤ CƯỜI
Đâu Thị Nở, đâu Chí Phèo,
Đâu làng Vũ Đại đói nghèo Nam Cao ???
Vẫn vườn chuối gió lao xao
Sông Châu vẫn chảy nôn nao mạn thuyền...
Ả ngớ ngẩn. Gã khùng điên.
Khi tình yêu đến bỗng nhiên thành người!
Vườn chuối trăng nở nụ cười
Phút giây tan chảy vàng mười trong nhau.
14


Giữa đời vàng lẫn với thau
Lòng tin còn chút về sau để dành
Tình yêu nên vị cháo hành
Đời chung bát vỡ thơm lành lứa đôi!
(Thơ của Lê Đình Cánh )
1. Xác định thể thơ? Cách gieo vần?
2. Bài thơ giúp anh/chị liên tưởng đến tác phẩm nào đã học trong chương trình phổ thông?
3. Câu thơ: “Khi tình yêu đến bỗng nhiên thành người” có ý nghĩa gì? Liên quan các nhân vật nào trong
tác phẩm
4. Vị cháo hành được nhắc đến trong hai câu thơ cuối là một chi tiết nghệ thuật đặc sắc trong tác phẩm nào
của Nam Cao? Hãy viết một đoạn văn ngắn khoảng 15 câu bình luận chi tiết nghệ thuật này?
Đề 3: “Nghệ thuật miêu tả tâm lí con người là thước đo tài năng người nghệ sĩ”.
Hãy phân tích trong sự đối sánh nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật Liên trong Hai đứa trẻ (Thạch Lam) và
nhân vật Chí Phèo trong tp Chí Phèo (Nam Cao) để thấy được những nét riêng của mỗi nhà văn về vấn đề nói

trên.
Đề 4: Phân tích bi kịch bị tinh thần của Chí Phèo (từ khi Chí Phèo bị Thị Nở cự tuyệt đến khi Chí Phèo
đâm chết Bá Kiến rồi tự sát) trong truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao.
(Vẽ sơ đồ tư duy)
Đề 5: Phân tích chi tiết tiếng chửi, bát cháo hành, cái lò gạch cũ, giọt nước mắt của Chí.
Đề 6: Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật của Nam Cao qua đoạn văn tả Chí Phèo từ khi bị thị Nở từ chối
chung sống đến khi đâm chết bá Kiến và tự sát.
Đề 7: Phân tích nhân vật Thị Nở

15



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×