Tải bản đầy đủ (.docx) (54 trang)

Quyền của bị cáo trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (188.89 KB, 54 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
I.

Lý do chọn đề tài

Có thể nói trong tất cả các hoạt động tố tụng, tố tụng hình sự là một trong những
hoạt động tố tụng đặc biệt, thể hiện quyền lực của nhà nước nhằm mục đích xử lý
các hành vi được cho là tội phạm, xâm hại đến lợi ích của Nhà nước cũng như
quyền lợi và lợi ích hợp pháp của công dân nói chung, quyền và lợi ích của bị cáo
nói riêng. Trong tố tụng hình sự bị cáo là chủ thể gặp nhiều khó khăn và bất lợi
nhất trong hoạt động tố tụng bởi bị cáo không mang quyền lực Nhà nước cho nên
trong lĩnh vực này, việc hạn chế một số quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo là
điều khó tránh khỏi, chưa kể những quyền và lợi ích hợp pháp đó có thể bị xâm
phạm một cách nghiêm trọng, nếu các cơ quan, người được Nhà nước giao thực
hiện một số quyền tố tụng không tuân thủ những quy định của pháp luật tố tụng
hình sự.
Việc bảo vệ quyền của bị cáo ở Việt Nam luôn được quan tâm và thể hiện trên tinh
thần cải cách tư pháp. Được ghi nhận trong Hiến pháp và Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2015. Đặc biệt được ghi nhận cụ thể nhất trong Bộ luật tố tụng hình sự năm
2015. Trong đó phải kể đến việc tăng quyền cho bị cáo như Quyền trình bày ý kiến
về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố
tụng kiểm tra, đánh giá; Quyền đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi hoặc tự mình hỏi
người tham gia phiên tòa nếu được chủ tọa đồng ý; tranh luận tại phiên tòa; v.v…
Bên cạnh những quy định tiến bộ trên, một số quy định về quyền của bị cáo trong
Bộ luật tố tụng hình sự và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan vẫn chưa
đầy đủ, chặt chẽ và rõ ràng. Đặc biệt tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự vẫn còn
nhiều vấn đề còn hạn chế. Bị cáo với địa vị pháp lý bất lợi của mình khi tham gia
vào các hoạt động tố tụng hình sự thường gặp những trở ngại khi thực hiện các
quyền của mình. Vì vậy tôi chọn đề tài “Quyền của bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm
vụ án hình sự” nhằm làm rõ quyền của bị cáo cũng như chỉ ra những bất cập và
hướng giải quyết cho đề tài này


2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu các quy định trong bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 liên
quan đến quyền của bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự như khái niệm, đặc
điểm của bị cáo cũng như khái niệm, đặc điểm, nhiệm vụ của phiên tòa sơ thẩm vụ
án hình sự. Để làm rõ vấn đề nghiên cứu người viết đã tham khảo các Điều luật
trong Bộ luật nhằm giúp bị cáo được đảm bảo thực hiện quyền, bảo vệ quyền và lợi


ích hợp pháp cho bị cáo, đồng thời cũng chỉ ra những tồn tại trong việc quy định
quyền của bị cáo. Từ đó người viết đưa ra giải pháp đề xuất nhằm hoàn thiện và
nâng cao quyền của bị cáo trong tố tụng hình sự nói chung, tại phiên tòa sơ thẩm
vụ án hình sự nói riêng.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Đề tài “Quyền của bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự” được thực hiện
nhằm làm rõ những vấn đề về lý luận và pháp lý về quyền của bị cáo được quy
định trong Bộ luật tố tung hình sự Việt Nam. Qua đó, nhìn nhận những điều còn
hạn chế song cũng có thể đưa ra những kiến nghị đề xuất nhằm hoàn thiện pháp
luật hơn đồng thời giúp quyền của bị cáo tại piên tòa sơ thẩm vụ án hình sự được
củng cố và đảm bảo hơn.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để phục vụ quá trình nghiên cứu, người viết đã tham khảo các quy định của pháp
luật, các sách, báo chí, giáo trình, các trang thông tin điện tử…góp phần giúp
người viết có thêm kiến thức và những thông tin bổ ích trong quá trình làm bài.
Trong quá trình làm luận văn, người viết đã dùng những phương pháp như phân
tích, đánh giá tổng hợp, đưa ví dụ để làm rõ vấn đề đang nghiên cứu.
5. Bố cục đề tài
Với mục đích và phương pháp nghiên cứu nêu trên, kết cấu của đề bài gồm Ba
phần: Lời nói đầu, Phần nội dung và Phần kết luận.
Trong đó phần nội dung bao gồm:
Chương 1: Những vấn đề chung về bị cáo và phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự

Chương 2: Những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về quyền của bị cáo
tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự
Chương 3: Bất cập và giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về quyền của
bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự
Đề tài “Quyền của bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự” đây không phải
là đề tài mới, tuy nhiên đây cũng là đề tài tương đối khó, đòi hỏi người viết phải có
kiến thức sâu rộng đồng thời người viết cũng phải có nhiều kinh nghiệm. Khi có
nghiên cứu người viết cần phải nắm rõ được các vấn đề còn tồn tại, bát cập, từ đó
có thể đưa ra hướng đề xuất khắc phục những bất cập đó. Tuy nhiên đối với một
sinh viên năm cuối,mặc dù đã có nhiều cố gắng trong việc nghiên cứu và hoàn


thiện Luận văn, nhưng do đây là một mảng đề tài khá rộng và vốn kiến thức còn
hạn chế, nên chắc chằn luận văn không thể tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót
nhất định. Người viết rất mong sự đóng góp và chỉ bảo của quý thầy cô đề Luận
văn được hoàn thiện hơn./.

CHƯƠNG 1


NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BỊ CÁO
VÀ PHIÊN TÒA SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
I.1

Khái quát chung về bị cáo trong vụ án hình sự
I.1.1
Khái niệm bị cáo

Trong tố tụng hình sự các giai đoạn từ khởi ốt, điều tra cho đến truy tố chỉ là giai
đoạn tìm kiếm thông tin chứng minh sự việc phạm tội xảy ra nhưng chưa phải là

quá trình xác định tội phạm, do đó xét xử rại phiên tòa là giai đoạn quan trọng
nhằm xác định việc có phạm tội hay không của một người. Và khi có đủ căn cứ để
xác định người nào đó đã thực hiện hành vi tội phạm, Cơ quan điều tra sẽ ra quyết
định khởi tố “bị can”. Những người này sau quá trình điều tra, truy tố, khi Tòa án
có quyết định đưa họ ra xét xử thì họ gọi là bị cáo. Điều 50 của Bộ luật tố tụng ình
sự năm 2003 cũng đã nêu:” “Bị cáo là người đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét
xử”. Khái niệm bị cáo được hiểu trong phạm vi hẹp nhưng cũng đã nêu lên được
một người tuy bị truy cứu trách nhiệm hình sự hay bị truy tố thì chưa thể gọi là bị
cáo đến khi Tòa án có quyết định đưa vụ án ra xét xử thì những người bị đưa ra xét
xử tham gia vào việc tố tụng với tư cách là bị cáo.
Về mặt ngôn ngữ học, có thể hiểu bị cáo là người cụ thể trong xã hội, có hành vi
gây ảnh hưởng, tác động tiêu cực đến sự việc, đối tường nào đó. Theo Từ điển luật
học, bị cáo là người đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử, định nghĩa pháp lí về
khái niệm bị cáo, bị cáo là người bị truy cứu trách nhiệm hình sự trước Tòa án
nhân dân. Như vậy, có thể hiểu là sau khi đã có quyết định truy tố của Viện kiểm
sát và hồ sơ vụ án đã chuyển sang Tòa án vẫn coi người bị truy tố là bị can, chỉ khi
có quyết định của Tòa án đưa vụ án ra xét xử mới coi là người đó là bị cáo.
Bị cáo được nhận quyết định đưa vụ án ra xét xử, tham gia phiên tòa, đề nghị thay
đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch, đưa ra chứng cứ
và những yêu cầu, tực bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa, nói lời sau cùng
trước khi nghị án, kháng cáo bản án và quyết định sơ thẩm.
Bị cáo phải có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án. Trong trường hợp vắng mặt
không có lý do chính đáng, thì có thể bị áp giải.
Bị cáo là người bị đưa ra xét xử, là người bị buộc tội, là người bị tình nghi thực
hiện hành vi phạm pháp luật hình sự trong vụ án nhưng không có nghĩa với việc bị
cáo là người có tội vì theo Điều 31 Hiến pháp năm 2013 quy định; “ Người bị buộc
tội được coi là không có tội cho đến khi chứng minh theo trình tự luật định vá có
bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật”. Mặc dù bị tình nghi là người đã thực hiện



hành vi đã thực hiện hành vi phạm pháp dẫn đến là người bị đưa ra xét xử nhưng
khi chưa có bản án kết tội của Tòa án có hiệu lực hoặc có bản án mà bản án đó chư
có hiệu lực pháp luật thì cũng không xem là người có tội. Do đó, khái niệm bị cáo
không đồng nghĩa với chủ thể của tội phạm. Bị cáo là một trong những chủ thề
tham gia tố tụng được quy định tại khoản 7 Điều 55 Bộ luật tố tụng hình sự năm
2015, bị cáo tham gia vào quá trình giải quyết vụ án hình sự nhằm bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của chính họ.
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã nêu lên khái niệm bị cáo trong phạm vi rộng
hơn, bổ sung thêm “pháp nhân” cũng có thể là bị cáo. Cụ thể tại khoản 1 Điều 61
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã nêu: “Bị cáo là người hoặc pháp nhân đã bị
Tòa án quyết định đưa ra xét xử”. Quyền của bị cáo là pháp nhân được thực hiện
qua người đại diện theo pháp luật của pháp nhân theo quy định Bộ luật này. Tức là
chỉ những người hoặc pháp nhân đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử mới gọi là
bị cáo. Bị cáo tham gia trong giai đoạn xét xử khi đó họ mới có đầy đủ quyền và
nghĩa vụ của bị cáo mà luật đã quy định.
Nếu pháp nhân thực hiện hành vi phạm tội thì đều bị Tòa án quyết định đưara xét
xử như mọi công dân với tư cách xét xử là bị cáo. Quyết định đưa ra xét xử của
Tòa án đối với bị cáo là pháp nhân sẽ được thông qua người đại diện theo pháp luật
của pháp nhân.
Như vậy, tư cách tố tụng của bị cáo sẽ xuất hiện kề từ khi Tòa án ra quyết định đưa
vụ án xét xử và chấm dứt khi vụ án bị đình chỉ, hoặc khi bản án kết tội có hiệu lực
pháp luật.
Ví dụ: Ngày 12-03-2018, Công an Thành ph61 Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh đã tạm
giữ Nguyễn Văn Thắng (Sinh 1991), trú tại thôn Tiên Thắng, xã Bảo Khê, Thành
phố Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên về hành vi trộm cắp tài sản. Tại Cơ quan điều tra,
Thắng đã cúi đầu khai nhận mọi hành vi phạm tội của mình. Theo lời khai của
Thắng, nắm được tâm lý đi chùa của các du khách thường chủ quan và mất cảnh
giác nên hắn đã tìm cách trộm cắp. Trong quá trình đối tượng này đi từ ga cáp treo
số 1 lên chùa Đồng, đã lấy cắp 3 chiếc điện thoại di động. Sau đó, Thắng tiếp tục
móc túi của nạn nhân thì bị cơ quan Công an phát hiện, bắt giữ.

Trong trường hợp này thì rõ ràng Nguyễn Văn Thắng đã có hành vi trộm cắp được
quy định trong Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, lúc này Nguyễn Văn Thắng chưa thể
xem là bị cáo trong tố tụng hình sự được. Bởi Nguyễn Văn Thắng tuy bị tình nghi
là phạm tội nhưng chưa bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử nên vẫn không được
xem là bị cáo.


Tóm lại, khái niệm bị cáo cảu pháp luật tố tụng hình sự hiện hành được hiểu: Bị
cáo là người hoặc pháp nhân tham gia tố tụng đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét
xử. Chỉ có những người bị đưa ra xét xử mới gọi là bị cáo và bị cáo không đồng
nghĩa với người có tội, không được xem bị cáo là người có tội khi chưa có bản án
kết tội của Tòa án hoặc bản án kết tội đó chưa có hiệu lực pháp luật. Khi tham gia
tố tụng bị cáo có quyền và nghĩa vụ được pháp luật tố tụng hình sự quy định.
1.1.2. Đặc điểm của bị cáo
1.1.2.1 Bị cáo là người tham gia tố tụng
Bị cáo là một trong những chủ thể tham gia tố tụng có quyền được pháp luật bảo
vệ nhưng không mang quyền lực Nhà nước, họ tham gia tố tụng nhằm xác định sự
thật của vụ án, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ liên quan đến hành vi
phạm tội. Khi tham gia tố tụng, bị cáo được hưởng quyền và thực hiện quyền của
họ theo quy định tại Điều 55 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, đồng thời bị cáo
tham gia với vai trò là người bị đưa ra xét xử trong quá trình giải quyết vụ án. Do
đó, bị cáo luôn ở trong tình trạng bất lợi hơn những người tham gia tố tụng khác vì
phải gánh chịu anh hưởng của dư luận xã hội. Với quan điểm bị cáo luôn là người
có tội vì không có tội sao lại bị Tòa án đưa ra xét xử, bị cáo chưa bị Tòa kết tội
nhưng những quan hệ xã hội của họ ít nhiều gì cũng bị ảnh hưởng. Hầu hết mọi
người đều cho rằng bị cáo là người phạm tội trước khi chưa có bản án kết tội của
Tòa án.
Bị cáo là người tham gia tố tụng nhằm xác định sự thật của vụ án, bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của họ liên quan đến hành vi phạm tội. Bị cáo có quyền được biết
mình bị buộc tội về tội gì; Quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa cho

mình; Quyền được chứng minh sự vô tội của mình bằng việc đưa ra tài liệu, đồ vật,
yêu cầu; Quyền được khiếu nại các quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng;
Quyền được tham gia phiên tòa và được tranh luận tại phiên tòa; Quyền không bị
xét xử một cách quá chậm trễ thể hiện các quy định về thời hạn tạm giữ để khởi tố
vụ án; thời hạn điều tra; thời hạn truy tố, thời hạn xét xử...ví dụ như: hết thời hạn
tạm giữ nếu Cơ quan điều tra không có căn cứ khởi tố bị can thì phải trả tự do cho
người bị tạm giữ; nếu hết thời hạn điều tra không chứng minh được tội phạm thì
phải đình chỉ điều tra, hủy bỏ hết quyết định khởi tố bị can, trả lại cho họ trang thái
bình thường của người vô tội và xin lỗi công khai, bồi thường Nhà nước...
Bị cáo tham gia trong quá trình giải quyết vụ án hình sự có ý nghĩa rất quan trọng
đối với bị cáo nhằm đảm bảo quyền và nghĩa vụ của họ, để đảm bảo quyền lợi của


bị cáo, cớ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng phải xác định sự xuất
hiện của tư cách bị cáo.
Tham gia hoạt động tố tụng với tư cách là bị cáo họ sẽ được thực hiện các quyền
đặc thù như: nói lời sau cùng trước khi nghị án; xem biên bản phiên tòa; yêu cầu
ghi những sửa đổi bổ sung vào biên bản phiên tòa...vv, mà chỉ có bị cáo mới được
thực hiện so với những người tham gia tố tụng.
1.1.2.2 Bị cáo xuất hiện trong vụ án hình sự
Bị cáo xuất hiện trong vụ án hình sự để chứng minh hành vi phạm tội có xảy ra hay
không, thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội. Đây là
những vấn đề đầu tiên cần phải chứng minh trong vụ án hình sự. Trong từng vụ án
hình sự cần phải chứng minh một cách khẳng định rằng hành vi bị truy tố đã xảy ra
trong thực tế. Việc chứng minh đó thể hiện ở việc làm sáng tỏ một cách đầy đủ và
toàn diện tất cả các tình tiết liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo, có ý nghĩa
đối với việc định tội danh đúng hay hành vi và suy cho cùng có ý nghĩa đối với
việc giải quyết đúng đắn vụ án hình sự. Đó là những dấu hiệu thuộc chủ thể và mặt
khách quan của tội phạm.
Bị cáo xuất hiện trong vụ án hình sự là để chứng minh có thực hiện hành vi phạm

tội hay không, có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay vô ý, có năng lực trách nhiệm
hình sự hay không, mục đích, động cơ phạm tội. Chứng minh bị cáo có là người
thực hiện hành vi phạm tội,tức là xác định chủ thể của tội phạm. Tiếp đến xác định
người đó có lỗi không. Nếu có lỗi thì lỗi cố ý hay vô ý. Mục đích và động cơ phạm
tội cần được chứng minh. Khái quát lại những dấu hiệu cơ bản thuộc chủ thể và
mặt chủ quan của tội phạm phải được làm sáng tỏ.
Việc bị cáo xuất hiện trong vụ án hình sự có ý nghĩa quan trọng giúp Hội đồng xét
xử chứng minh sự khách quan, trung thực chính xác làm xử đúng người đ1ng tội.
Làm sáng tỏ một cách đầy đủ và toàn diện tất cả tình tiết liên quan đến hành vi
phạm tội, có ý nghĩa đối với việc định tội danh đúng hành vi và suy cho cùng có ý
nghĩa đối với việc giải quyết đúng đắn vụ án hình sự.
Ví dụ: Đêm 21-9-2013, tại khu 9 xã Tiên Lương, huyện Cẩm Khê tỉnh Phú Thọ đã
xảy ra 1 vụ án mạng nghiêm trọng. Nạn nhân là anh Nguyễn Đức Bản, sinh năm
1974, được người thân phát hiện đã chết tại nhà cùng nhiều vết máu trên người.
Bên cạnh nạn nhân, người vợ Nguyễn Thị Hương Lan đang kêu khóc thảm thiết
nói rằng anh Bản bị ngã, dẫn đến tử vong và xin mọi người đưa chồng mình đi cấp
cứu. Tuy nhiên, người thân trong nhà anh Bản nghi ngờ Hương giết chồng mình đi


theo nhân tình nên đã trình báo Cơ quan Công an. Bằng các biện pháp nghiệp vụ,
cơ quan Công an đã phát hiện Nguyễn Thị Hương Lan chính lá đối tượng đã ra tay
sát hại chồng minh.
Tuy nhiên, tại phiên tòa ngày 27-3-2014, Tòa án nhân dân huyện Cẩm Khê, Phú
Thọ cho rằng đêm 21-9-2013, anh Nguyễn Đức Bản ép vợ mình quan hệ tình dục
trong khi vợ cự tuyệt đã dẫn đến người vợ bị kích động và đánh chồng tử vong.
Trong cơ sở đó, Hội đồng xét xử đã tuyên phạt bị cáo Lan mức án 5 năm tù giam.
Bản án này đã khiến gia đình nạn nhân và nhiều người tham dự phiên tòa hết sức
bức xúc, cho rằng bản án này chưa thỏa đáng và chỉ dựa vào môt mình lời khai
của bị cáo.
Qua vụ án trên có thể thấy bị cáo Lan xuất hiện trong vụ án hình sự để đưa ra li72i

khai “bị ép quan hệ tình dục trong khi vợ cự tuyệt đã dẫn đến người vợ bị kích
động và đánh chồng tử vong” nhằm chứng minh hành vi phạm tội của mình là do
lỗi vô ý, không có mục đích,động cơ phạm tội. Qua đó, có thể giúp bị cáo giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự cho mình qua những lời khai đã đưa ra.
1.1.2.3 Bị cáo là người bị buộc tội
Kể từ thời điểm có quyết định đưa vụ án ra xét xử là đặc điểm để nhận biết đó là bị
cáo, đồng thời cung là sự đỉam bảo của Nhà nước đối với công d6an vì không ai bị
Tòa án đưa ra xét xử khi không có quyết định đưa vụ án ra xét xử. Chỉ có những
người đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử mới gọi là bị cáo, những người tuy có
hành vi phạm tội, đã bị Viện kiểm soát truy tố nhưng chưa bị Tòa án quyết định
đưa ra xét xử thì cũng không gọi họ là bị cáo.
Theo Tuyên ngôn nhân quyền của Luên Hiệp Quốc năm 1948 đã khẳng định: “Bất
kỳ người nào bị buộc tộ đều có quyền coi là vô tội cho đến khi Tòa án công khai,
nơi người đó đã có được tất cả những đảm bảo cần thiết để bào chữa cho mình,
chứng minh được tội trạng của người đó dựa trên cơ sở pháp luật”
Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung và quy định đầy đủ nội dung của các nguyên tắc
suy đoán vô tội: “ Người bị buộc tội phải được Tòa án xét xử kịp thời trong thời
hạn luật định, công bằng, công khai. Trường hợp xét xử kín theo quy định của luật
thì việc tuyên án phải được công khai. Tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự việc xét
xử kịp thời, công bằng, công khai là sự bảo đảm quyền lợi cho người bị buộc tội
được xét xử trong 1 phiên tòa có nhiều cơ quan Nhà nước tham gia và nhiều người
tham dự. Sự công bằng thể hiện ở việc tất cả những người bị buộc tội đêu được xét
xử theo những quy định chung của pháp luật hình sự, tố tụng hình sự Việt Nam.


Tại phiên tòa sơ thẩm, Hội đồng xét xử thực hiện việc điều tra công khai, trực tiếp
các tài liệu, chứng cứ liên quan đến vụ án với sự tham gia của bên buộc tội và bên
gỡ tội. Thông qua việc xét xử công khai, Hội đồng xét xử vừa có thể thu thập thêm
các chứng cứ quan trọng để xem xét, đánh giá những chứng cứ khác, khắc phục
được những thiếu sót, sai lầm trong hoạt động tố tụng trước đó. Từ đó, đảm bảo

bản án, quyết định của Hội đồng xét xử được ban hành một cách chính xác, khách
quan, công bằng và kịp thời”.
Đồng thời được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về suy đoán vô
tội “ Người bị buốc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo
trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu
lực pháp luật”. Khi chưa có bản án đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án thì người bị
buộc tội vẫn chưa bị coi là người phạm tội. Do đó các cơ quan tố tụng không được
đối xử họ như người phạm tội. Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để
buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì cơ quan, người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội. Nghĩa
là, trong quá trình tố tụng, nếu đã áp dụng đầy đủ các biện pháp cần thiết mà vẫn
không đủ, không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội, chứng minh tội phạm
thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội
là không có tội và phải giải quyết theo hướng có lợi cho người bị buộc tội.
Ví dụ: Ông Huỳnh Văn Nén ngụ huyện Hàm Tân, Bình Thuận, bị bắt vào ngày 175-1998 vì tình nghi giết bà Lê Thị Bông ở xã Tân Minh, nay là thị trấn Tân Minh,
huyện Hàm Tân, Bình Thuận, cuối tháng 4-1998.Người đàn ông này bị tuyên án
chung thân về tội Giết người và Cướp tài sản.
Sauk hi được minh oan và trả tự do, ông Nén và gia đình đã yêu cầu cơ quan tố
tụng Bình Thuận phải bồi thường 18 tỷ đồng cho thời gian ông phải đi tù oan hơn
17 năm. Sau 7 lần thương lượng, gia đình ông Nén đã chấp nhận số tiền bồi thường
hơn 10 tỷ đồng.
Từ ví dụ trên có thể thấy rằng ông Nén bị kết tội chung thân vì bị tình nghi giết
người và cướp tài sản của bà Bông khi chưa có đủ căn cứ, chứng cứ chứng minh
hành vi phạm tội của ông Nén. Qua đó, thấy được sự thiếu trách nhiệm, sai sót
nghiêm trọng trong quá trình điều tra của Cơ quan Nhà nước, đạo đức công vụ
trong quá trình điều tra, xét xử có vấn đề, bởi vì những người làm tố tụng luôn luôn
có suy nghĩ phải trừng trị. Đã là tội phạm thì tìm mọi cách đấu tranh bằng mọi giá
tìm ra thủ phạm và phải trừng trị những người đó chứ không làm theo đúng các
quy định. Phải có đạo đức, phải có tư duy rằng khi bản án chưa có hiệu lực thi bị



can vẫn là người vô tội và phải đối xử với họ như người chưa có tội. Đáng lẽ phải
tư duy như thế thì các hành vi tố tụng mới văn minh hơn, đạo đức hơn. Khi chưa
có tư duy đó thì sẽ có những việc đối xử tàn nhẫn, không khách quan, ép buộc,
mớm cung, ép cung…như đạ thấy. Dẫn đến oan sai, làm ảnh hưởng đến danh dự,
nhân phẩm của ông Nén. Ngoài việc minh oan, xin lỗi, bồi thường cho ông Huỳnh
Văn Nén, tới đây các cơ quan tư pháp phai tiến hành điều tra làm rõ dấu hiệu vi
phạm trong hoạt động tư pháp. Trong đó, Viện kiểm soát nhân dân tối cao có trách
nhiệm làm rõ xem quá trình điều tra, xác minh đơn của Nguyễn Phúc Thành tố cáo
hung thủ phạm tội là người khác có được thực hiện theo đúng những quy định của
pháp luật không. Có vì một lý do nào đó mà việc xác minh không được bảo đảm
một cách khách quan, trung thực không. Việc làm này không chỉ trả lại sự công
bằng cho ông Huỳnh Văn Nén, đưa những người thực thi công vụ ra ánh sáng, mà
quan trọng hơn, rút ra kinh nghiệm trong hoạt động điều tra truy tố, xét xử để tránh
những vụ án sai trong tương lai
1.1.2.4 Bị cáo xuất hiện trong giai đoạn xét xử
Đó là đặc điểm để nhận biết là bị cáo. Đồng thời nó cũng là sự đảm bảo của Nhà
nước đối với công dân vì không ai bị Tòa án đưa ra xét xử khi không có quyết định
đưa vụ án ra xét xử. Chỉ có những người đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử mới
gọi là bị cáo, những người tuy có hành vi phạm tội, đã bị Viện kiểm soát truy tố
nhưng chưa bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử thì cũng không gõi họ là bị cáo.
Bị cáo là người bị đưa ra xét xử nhưng không vì thế mà xem bị cáo là ngươi có tội
khi chưa có bản án kết tội của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Do đó, bị cáo được
đảm bảo các quyền cơ bản của công dân. Các quyền tự do cơ bản của Công dân
được ghi nhận trong Hiến pháp 2013 là những giá trị xã hội có những ý nghĩa to
lớn về mọi mặt cần phải được tôn trọng và bảo vệ một cách có hiệu quả. Tôn trọng
và bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hớp pháp cua cá nhân được quy định
tại Điều 8 Bộ luật tố tụng và hình sự năm 2015: “ Khi tiến hành tố tụng, trong
phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành
tố tụng phải tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hớp pháp của

các nhân, thường xuyên kiểm tra tính hợp pháp và sự cần thiết của những biện
pháp đã áp dụng, kịp thời hủy bỏ hoặc thay đổi những biện pháp đó nếu xét thấy có
vi phạm pháp luật hoặc không còn cần thiết”. Tức là, khi có những căn cứ áp dụng
biện pháp ngăn chặn, biện pháp điều tra, thu thập chứng cứ không còn hoặc những
biện pháp này không còn cần thiết nữa thì các cơ quan, người có thẩm quyền phải
kịp thời hoặc thay thế biện pháp đó. Nguyên tắc này đảm bảo không một công dân
nào bị xâm phạm tới quyền và lợi ích hợp pháp của mình.


1.1.2.5 Bị cáo chỉ trở thành người có tội nếu sau khi xét xử họ bị Tòa án ra bản án
kết tội và bản án đã có hiệu lực pháp luật
Bị cáo là người bị Tòa án đưa ra xét xử nhưng không có nghĩa bị cáo là tội phạm
và đồng thời nếu có người thực hiện hành vi vi phạm pháp luật thì bị cáo cũng
được thực hiện quyền của bị cáo.Mặc dù là người bị đưa ra xét xử nhưng bị cáo
vẫn được thực hiện đầy đủ tất cả các quyền của công dân, đến khi có bản án kết tội
đã có hiệu lực của pháp luật bị cáo vẫn được thực hiện quyền bào chữa nhằm giảm
bớt trách nhiệm hình sự của họ.
Khi Tòa án chưa ra bản án kết tội và khi bản án đó vẫn chưa hiệu lực pháp luật thì
bị cáo vẫn được thực hiện quyền bào chữa bằng cách tự đưa ra lý lẽ, chứng cứ, tài
liệu của mình nhằm giúp bị cáo trong việc bác bỏ một phần hoặc toàn bộ lời buộc
tội hoặc giảm trách nhiệm hình sự cho bị cáo, giúp làm sáng tỏ sự thật, minh oan
cho mình, giúp bị cáo về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
họ. Ngoài quyền tự bào chữa bị cáo còn có thể nhờ người khác bào chữa nhằm trao
cho người bị buộc tội cơ hội bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình trước sự buộc
tội của chủ thể có thẩm quyền.
Khi điều kiện để thực hiện quyền tự bào chữa của bị cáo bị hạn chế do việc áp
dụng biện pháp ngăn chặn hoặc do chính bị cáo không đủ khả năng cũng như trình
độ, kiến thức để thực hiện quyền tự bào chữa cho mình, thì bị cáo có quyền được
chỉ định người bào chữa. Việc chỉ định ngươi bào chữa còn bảo đảm tính nhân đạo
của Nhà nước và góp phần hỗ trợ cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng xác

định sự thật khách quan của vụ án.
I.2

Khái quát chung về phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự
I.2.1
Khái niệm phiên tòa sơ thẩm hình sự

Theo Từ điển luật học thì: “ Phiên tòa là hình thức hoạt động xét xửa của Tòa án,
nơi các vụ án được đưa ra xét xử công khai, trực tiếp”.
Phiên tòa là giai đoạn có vai trò đặc biệt quan trọng và mang tính quyết định trong
giải quyết vụ án, thực hiện các nhiệm vụ, mục đích tố tụng đặt ra. Theo quan điểm
của Trần Văn Độ thì vai trò của phiên tòa thể hiện ở những điểm sau đây:
Phiên tòa là nơi Tòa án bằng thủ tục công khai, toàn diện thực hiện cuộc điều tra
chính thức để xác định sự thật khách quan của vụ án. Tòa án ra bản án, quyết định
trên cơ sở các chứng cứ được thu thập và kiểm tra công khai tại phiên tòa. Việc
chứng minh (bao gồm cả quá trình thu thập, kiểm tra và đánh giá chứng cứ) được
các chủ thể có quyền và lợi ích khác nhau (bên buộc tội, bên bào chữa, nguyên


đơn, bị đơn) thực hiện một cách bình đẳng, dân chủ tại phiên tòa khi xét hỏi cũng
như tranh luận.
Phiên tòa đảm bảo sự tham gia của những người tham gia tố tụng. Hơn ở đâu hết,
tại phiên tòa quyền và nghĩa vụ tố tụng của những người tham gia tố tụng được quy
định và được đảm bảo thực hiện đầy đủ nhất bằng thủ tục tố tụng trực tiếp,công
khai. Tại phiên tòa có thể xày ra các trường hợp vi phạm pháp luật nghiêm trọng
như bưc cung, ép cung, dùng nhục hình v.v…
Phiên tòa là nơi có điều kiện tốt nhất để thực hiện việc áp dụng đúng đăn pháp luật.
Qua phân tích nội dung các đề xuất của các bên tham gia tố tụng về áp dụng pháp
luật, Tòa án lựa chọn chomi2nh phương án áp dụng pháp luật chinh xác nhất để
giải quyết đúng đắn vụ án

Phiên tòa là nơi tốt nhất thực hiện tuyên truyền, giáo dục pháp luật.
Phiên tòa là giai đoạn trung tâm thể hiện đầy đủ nhất bản chất quá trình tố tụng nói
chung và xét xử nói riêng. Phiên tòa có sự tham gia đầy đủ của các cơ quan tiến
hành tố tụng, những người tham gia tố tụng với địa vị pháp lý được xác định.
Thông qua phiên tòa, bằng thủ tục trực tiếp, công khai, quay kiến và đề xuất của
các bên tham gia tố tụng và tòa án ( với tư cách là cơ quan tiến hành tố tụng quan
trọng nhất) tiến hành xac định sự thật khách quan của vụ án và ra các phán quyết
giải quyết vụ án 1 cách đúng đắn, khách quan và đúng pháp luật.
Phiên tòa sơ thẩm là phiên tòa xét xử toàn bộ những vấn đề liên quan đến vụ án, là
nơi tập trung sự đảm bảo về tính công khai, dân chủ và tranh tụng trong tố tụng
hình sự, Tòa án lần đầu tiên đưa ra tất cả các vấn đề dân sự trong vụ án hình sự a
xem xét công khai, toàn diện trước Tòa án, bảo đảm cho các bên đối lập về địa vị
pháp lý được tham gia, đưa ra chứng cứ,quan điểm, lập luận…để bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của họ. Trình tự, thủ tục tranh tụng, nghị án và tuyên án. Trên cơ
sở đánh giá những chứng cứ được làm rõ tại phiên tòa, Hội đồng xét xử ra bản án,
quyết định đối với sự việc phạm tội. Khác với phiên tòa phúc thẩm, Tòa án cấp
phúc thẩm xem xét phần nội dung của bản án, quyết định bị kháng cáo, kháng
nghị. Nếu xét thấy cần thiết, có thể xem xét các phần khác của bản án, quyết định
không bị kháng cáo, kháng nghị.
Như vậy, phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự là phiên tòa xét xử công khai lần đầu của
Tòa án có thẩm quyền, xét xử toàn bộ những vấn đê liên quan đến vụ án với sự
tham gia của những người tham gia tố tụng theo những nguyên tắc và thủ tục nhất
định nhằm xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi


phạm tội, từ đó đưa ra bản án, quết định phù hợp với tính chất của vụ án mà Viện
kiểm sát đã truy tố.
I.2.2

Đặc điểm của phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự

I.2.2.1
Về hành vi tố tụng đặc trưng

Nếu như ở các giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố trước đó, hầu hết các hoạt động tố
tụng hình sự được tiến hành một cách bán công khai bởi chủ thể có thẩm quyền
tiến hành tố tụng, thì tại phiên tòa sơ thẩm,lần đầu tiên các bên tham gia tố tụng và
Kiểm sát viên thực hiện chức năng công tố được công khai tranh tụng thông qua
việc:
a.

Xét hỏi tại phiên tòa

Hệ thống tư pháp nước ta được tổ chức và hoạt động theo truyền thống luật lục địa.
Mô hình tố tụng của nước ta được thực hiện theo hệ thống pha trộn thiên về xét
hỏi, tức yếu tố xét hỏi trong tố tụng thể hiện rõ nét hơn. Vì vậy, quá trình tố tụng
được thực hiện bằng văn bản và bằng lời nói, bao gồm cả giai đoạn điều tra và xét
xử tại phiên tòa. Tòa án thực hiện chứng minh vụ án trên cơ sở sử dụng kết quả
điều tra, xét hỏi đóng vai trò quyết định trong xác định sự thấy khách quan tại
phiên tòa.
Xét hỏi tại phiên tòa là một giai đoạn của quá trình xét xử tại Tòa án, do những
người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng thực hiện nhằm thu thập,
ghi nhận và kiểm tra những tình tiết, chứng cứ có ý nghĩa đối với vụ án.
Việc xét hỏi tại phiên tòa trước hết nhằm mục đích làm sáng tỏ các tình tiết khách
quan của vụ án. Trên cơ sở các căn cứ đã được Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát
đã cung cấp trong hồ sơ vụ án. Ngoài ra, việc xét hỏi tại phiên tòa còn nhằm mục
đích làm rõ những tình tiết mới phát sinh, những tình tiết mà Cơ quan điều tra và
Viện kiểm sát trong phạm vi, thời gian và nhiệm vụ của mình chưa có điều kiện
tiếp cận. Hoạt động xét hỏi tại phiên tòa là một nội dung quan trọng nhằm kiểm
chứng tất cả những tình tiết của vụ án trên cơ sở lời khai của những chủ thê tham
gia tố tụng được triệu tập tại phiên tòa. Việc xét hỏi tại phiên tòa được tiến hành

hiệu quả sẽ cung cấp cho thủ tục nghị án những căn cứ hợp lý, phù hợp với sự thật
và khách quan, bảo đảm việc ra bản án, quyết định của Tòa án thận trọng, chính
xác.
Hoạt động xét hỏi tại phiên tòa là một trong những hoạt động tố tụng chính nhằm
hướng tới mục tiêu chung của tố tụng hình sự là xác định sự thật của vụ án, là một
hoạt động độc lấp của quá trình xét xử tại phiên tòa, có ảnh hưởng đến tất cả các


giai đoạn khác trong toàn bô quá trình tố tụng, là nền tảng cho quá trình tranh luận,
nghị án và đặc biệt là căn cứ để chứng minh tội phạm, đưa ra quyết định đúng đắn.
Thông qua đó nhằm chứng minh có hay không có hành vi phạm tội và chủ thể thực
hiện tội phạm cũng như những tình tiết khác. Vì vậy, hoạt động xét hỏi tại phiên
tòa phải được tiến hành theo định hướng làm sáng tỏ nội dung vụ án, bao gồm
đồng thời cả hai mặt của vấn đề là chứng minh làm rõ việc có tội và không có tội.
Việc xét hoi tại phiên tòa phải đảm bảo đầy đủ, chính xác, khách quan, nghiêm túc,
tránh việc xét hỏi phiến diện, một chiều
Nếu không ai có yêu cầu xét hỏi thêm hoặc có yêu cầu nhưng Hội đồng xét xử thầy
vấn đề đó đã được xét hỏi đầy đủ thì bác bỏ yêu cầu xét hỏi thêm và tuyên bố kết
thúc giai đoạn xét hỏi tại phiên tòa tuyên bố chuyển sang phần tranh luận.
b.

Tranh luận tại phiên tòa

Tranh luận tại phiên tòa là một phần quan trọng của phiên tòa hình sự, nơi tập
trung cao nhất của hoạt động tranh tụng. Tại phiên tòa, các quan điểm đối lấp về vụ
án được các bên đưa ra tranh luận. Điển hình, việc tranh luận giữa bên buộc tội
thực hiện quyền công tố, bảo vệ bản án cáo trạng với bên bào chữa theo hướng
giảm nhẹ tội hoặc chứng minh sự vô tội của bị cáo là điều kiện để các quan điểm
khác nhau có điều kiện cọ xát với nhau, từ đó nổi bật bản chất khách quan của vụ
án,

Hoạt động tranh luận dân chủ tại phiên tòa là một nội dung quan trọng, là một
trong những cơ chế để bảo đảm cho bị cáo thực hiện quyền bào chữa. Điều 26 Bộ
luật tố tụng hình sự 2015 quy định bảo đảm cho bị cáo và người bào chữa được
bình đẳng trong tranh luận tại phiên tòa. Sự tranh luận bình đẳng và dân chủ tại
phiên tòa là một yêu cầu cơ bản và tiên quyết. Thông qua hoạt đông tranh luận
bình đẳng và công khai, căn cứ vào những quy định của pháp luật, bị cáo và người
bào chữa được nói lên những quan điểm trái ngược với sự cáo buộc của Viện kiểm
sát mà trước đây có thể do không đồng tình nên Viện kiểm sát đã không thể hiện
trong uyết định truy tố. Trên cơ sở những quan điểm đối trọng đó, Việm kiểm sát
phải có căn cứ hợp pháp và hợp lý để bảo vệ cho sự cáo buộc của mình, nhằm xác
định sự buộc tội là xác đáng.
Việc tranh luận tại phiên tòa nhằm bảo đảm mục đích xem xét đến cùng sự thật vụ
án, Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định Thẩm phán chủ tọa phiên tòa không có
quyền hạn chế thời gian tranh luận và phải tạo điều kiện cho người tham gia tranh
luận trình bày hết ý kiến nhưng được quyền cắt những ý kiến không liên quan đến
vụ án và ý kiến lặp lại. Hội đồng xét xử phải lắng nghe, ghi nhận đầy đủ ý kiến của


Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, người tham gia tranh luận tại phiên tòa để
đánh giá khách quan, toàn diện sự thật của vụ án. Trường hợp không chấp nhận ý
kiến của những người tham gia phiên tòa thì Hội đồng xét xử phải nêu rõ lý do và
được ghi trong bản án.
Tranh luận tại phiên tòa đóng vai trò quan trọng trong việc xác định sự thật khách
quan của vụ án. Hoạt động tranh luận thực chất là hình thức tố tụng mà trong đó
các bên tham gia tố tụng thực hiện việc chứng minh có tính căn cứ và hợp pháp của
cáo trạng trong vụ án hình sự. Trên cơ sở đó, Tòa án ra phán quyết công khai tại
phiên tòa. Với các vai trò của tranh luận tại phiên tòa cho dù theo mô hình tố tụng
tranh tụng hay tố tụng thẩm vấn thì tính công bằng, công khai minh bạch trong
hoạt động tố tụng nhằm bảo đảm tối đa quyền con người đòi hỏi xã hội phải có sự
thay đổi về nhận thức và ý thức pháp luật để nguyên tắc này được ghi nhận tại Bộ

luật tố tụng hình sự 2015, trở nên bảo đảm pháp lý vững chắc, tăng cường hoạt
động cải cách tư pháp đang diễn ra ở Việt Nam hiện nay.
c.

Nghị án

Nghị án là việc Hội đồng xét xử thảo luận và đưa ra phán quyết về vụ án tại phòng
nghị án. Trong mọi trường hợp việc nghị án phải lập biên bản theo luật định.
Thông qua thủ tục nghị án, các vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án hình sự
được Hội đồng xét xử đem ra nghị bàn cẩn trọng và đi đến biểu quyết, mục đích để
có thể ra được bản án, quyết định của Tòa án nhân danh Nhà nước.
Để bảo đảm thực hiện nguyên tắc Tòa án xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật,
Điều 326 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định chỉ Thầm phán và Hội thẩm mới
có quyền nghị án. Chủ tọa piên tòa chủ trì việc nghị án có trách nhiệm đưa ra từng
vấn đề của vụ án được giải quyết để Hội đồng xét xử thảo luận, quyết định. Chủ
tọa phiên tòa tự mình hoặc phân công một thành viên Hội đồng xét xử ghi biên bản
nghị án. Các thành viên Hội đồng xét xử phải giải quyết tất cả các vấn đề của vụ
án bằng cách biểu quyết theo đa số về từng vấn đề. Hội đồng biểu quyết trước,
thẩm phán biểu quyết sau cùng. Trường hợp không có ý kiến nào chiếm đa số thì
phải thảo luận và biểu quyết lại từng ý kiến của các thành viên Hội đồng xét xử
đưa ra để xác định ý kiến chiếm đa số. Người có ý kiến thiểu số có quyền trình bày
ý kiến của mình bằng văn bản và được đưa vào hồ sơ vụ án.
Đối với vụ án được xét xử sơ thẩm theo thủ tục rút gọn do một Thẩm phán được
phân công xét xử thì tại phiên tòa không có thủ tục nghị án, trường hợp này, Thẩm
phán căn cứ vào những chi tiết, chứng cứ đã được làm sáng tỏ tại phiên tòa và theo
quy định pháp luật để ra bản án và quyết định.


d.


Tuyên án

Tuyên án là việc một thành viên Hội đồng xét xử đại diện Hội đồng xét xử công
khai đọc bản án tại phòng xử án. Thông qua việc tuyên án, Hội đồng xét xử nhân
dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam chính thức tuyên bố bị cáo có tội
hay không và nếu bị cáo có tội thì là tội gì, theo điểm, khoản nào của Bộ luật hình
sự và của văn bản quy phạm pháp luật khác được áp dụng, tình tiết tăng nặng, tình
tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và cần phải xử lý như thế nào. Nếu bị cáo không
có tội thì bản án phải ghi rõ những căn cứ xác định bị cáo không có tội và việc giải
quyết khôi phục danh dự, quyền và lợi ích hợp pháp của họ theo quy định của pháp
luật. Bên cạnh đ1o, việc tuyên án còn có ý nghĩa để xác định ngày bắt đầu của thời
hạn kháng cáo, kháng nghị theo trình tự phúc thẩm.
Chủ tọa phiên tòa hoặc một thành viên khác của Hội đồng xét xử đọc bản án.
Trường hợp xét xử kín thì chỉ đọc phần quyết định trong bản án. Trường hợp có bị
cáo, bị hại, đương sự không biết tiếng Việt hoặc là người câm điếc thì sau khi
tuyên án, người phiên dịch phải đọc lại cho họ nghe toàn bộ bản án sang thứ tiếng
mà họ biết. Sauk hi đọc xong có thể giải thích thêm về việc chấp nhận bản án và
quyền kháng cáo.
Tóm lại, với những hành vi tố tụng đặc trưng này, các bên được bình đẳng với
nhau trong việc đưa ra các chứng cứ, lập luận, quan điểm để bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của mình cũng như là bác bỏ quan điểm, lý lẽ của bên đối lập.
I.2.2.2

Về văn bản tố tụng đặc trưng

Trong giai đoạn xét xử, Tòa án nhân danh Nhà nước ra bản án và quyết định, trong
đó, bản án là văn bản tố tụng đặc trưng nhất thể hiện kết quả giải quyết về toàn bộ
nội dung vụ án, chỉ do Hội đồng xét xử (hoặc do Thẩm phán được phân công xét
xử theo thủ tục rút gọn) lập tại phòng nghị án sau khi tiến hành nghị bàn và biểu
quyết trên cơ sở chứng cứ, tình tiết đã được làm rõ tại phiên tòa. Bản án sơ thẩm có

thể là bản án kết tội hoặc tuyên án bị vô tôi, và vì bản án của cấp xét xử đầu tiên
nên bản án của Tòa án cấp sơ thẩm cghuwa có hiệu lực pháp luật sau khi tuyên án.
Vì vậy, có thể thấy rằng: Bản án sơ thẩm là văn bản tố tụng đặc trưng bảo đảm vai
trò kiểm sát của Viện kiểm sat đối với việc ra bản án của Tòa án cấp sơ thẩm, xem
xét quyết định việc kháng nghị, bảo đảm quyền biết các thông tin trong bản án của
người tham gia tố tụng làm cơ sở cho việc thực hiện quyền kháng cáo, đồng thời
các cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan nắm thông tin cụ thể, phối hợp với các
cơ quan có thẩm quyền


Tóm lại, với những hành vi tố tụng đặc trưng này, các bên đuợc bình đẳng với
nhau trong việc đưa ra các chứng cứ, lập luận, quan điểm để báo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của mình cũng như là bác bỏ quan điểm, lý lẽ của bên đối lập.
1.2.2.2 Về văn bàn tố tụng đặc trưng
Trong giai đoạn xét xử, Tòa án nhân danh Nhà nước ra bản án và quyết định,
trong đó, bản án là văn bản tố tụng đặc trưng nhất thể hiện kết quả giải quyết về
toàn bộ nội dung vụ án, chỉ do Hội đồng xét xử (hoặc do Thẩm phán được phân
công xét xử theo thủ tục rút gọn) lập tại phòng nghị án sau khi tiến hành nghị bàn
và biểu quyết trên cơ sở các chứng cứ, tình tiết đã được làm rõ tại phiên tòa. Bản
án sơ thấm có thể là bản án kết tội hoặc tuyên bố bị cáo vô tội, và vì là bản án của
cấp xét xử đầu tiên nên bản án của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật
sau khi tuyên án.
Vì vậy, có thể thấy rằng: Bản án sơ thẩm là văn bản tố vai trò kiểm sát của Viện
kiểm sát đối với việc ra bản án của Tòa án cấp sơ thẩm, xem việc kháng nghị, bảo
đảm quyền biết các thông tin trong bản án của người tham gia tố tụng làm cơ sở
cho việc thực hiện quyền kháng cáo, đồng thời các cá nhân, cơ quan, tổ chức có
liên quan nắm thông tin cụ thế, phối hợp với các cơ quan có thẩm quyền tiến hành
tố tụng trong việc giải quyết vụ án hình sự sau tuyên án. Bản án, quyết định của
Tòa án được ban hành phải căn cứ vào kết quả xét hỏi, tranh tụng và những chứng
cứ đã được kiếm tra, đánh giá tại phiên tòa. Những vấn đề không được thông qua

kết quả tranh tụng tại phiên tòa thì không được quyết định trong bản án. Bởi không
có tranh tụng và không bảo đảm tranh tụng khách quan, bình đẳng thì việc giải
quyết vụ án luôn có tính phiến diện, định kiến, một chiều và luôn tìm ẩn những oan
sai mà điều đó trong hoạt động tố tụng hình sự luôn để lại những hậu quả nề nhất
vì nó chạm đến quyền được sống, quyền tự do và sinh mệnh chính trị nặng của con
người, của công dân.
1.2.3 Nhiệm vụ phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự
1.2.3.1 Tiến hành hoạt động xét xử
Tiên hành hoạt động xét xử là một quá trình xét xử mang tính dân chủ và công
khai, chủ thể bị buộc tội được bình đẳng, dân chủ, trực tiếp và công khai nói lên
quan điểm của mình để bác bỏ một phần hoặc toàn bộ quan điểm của phía chủ thể
nhân danh Nhà nước thực hiện sự buộc tội, bên canh đó, trong giai đoạn này các
chủ thể tham gia tố tụng khác cũng có điều kiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình một cách công khai
Việc tiến hành hoạt động xét xử nhằm xác định sự thật, tiến hành khách quan, toàn
diện và đầy đủ, phát hiện nhanh chóng, chính xác mọi hành vi phạm tội, làm chứng
cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, tình tiết tăng nặng, tình giảm nhẹ


trách nhiệm hình sự, nguyên nhân, điều kiện phạm tội và những tình mình một
cách công khai. khác có ý nghĩa đối với việc giải quyết vụ án.
Tiến hành hoạt động xét xử nhằm bảo đàm phát hiện chính xác và xứ lý minh, kịp
thời mọi hành vi phạm tội, phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, không tội phạm,
không làm oan người vô tội, góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền người, quyền
công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà quyền và lợi ích
hợp pháp của tổ chức, cá nhân, giáo dục mọi người ý thức tuân pháp luật, đấu tranh
phòng ngừa và chống tội phạm.
123.2. Áp dụng (kiến nghi) các biện pháp khắc phục phòng ngừa
Áp dụng (kiến nghị) các biện pháp khắc phục phòng ngừa là trách nhiệm của cơ
quan Nhà nước, tổ chức và cá nhân trong đấu tranh phòng chống tội phạm, phải

thường xuyên kiếm tra, thanh tra việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ được
giao,phát hiện kip thời hành vi phạm pháp luật để xử lý và thông báo ngay cho Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát mọi hành vi phạm tội xảy ra trong cơ quan và trong
lĩnh vực quản lý của mình, kiến nghị và gửi tài liệu có liên quan cho Cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát xem xét, khởi tố đối với người thực hiện hành vi phạm tôi
Tổ chức, cá nhân có quyền và nghĩa vụ phát hiện, tố giác, báo tin về tội tham gia
đấu tranh phòng chống tội phạm.
Trong quá trình tiến hành tố tụng hình sự, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố
tụng có trách nhiệm phát hiện nguyên nhân và điều kiện phạm tội, yêu cầu, kiến
nghị cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp khăc phục và phòng ngừa.
Việc áp dụng (kiến nghị) các biện pháp khắc phục phòng ngừa nhằm đảm bảo mọi
hành vi phạm tội, người phạm tội, pháp nhân phạm tội, vi phạm pháp luật phải
được phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh, xét xử đúng người, đúng tội, đúng
pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội, pháp nhân phạm tội, không
làm oan người vô tội. Góp phần bảo về công lý, bảo vệ quyền con người, quyền
công dân.
1.2.3.3 Giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa
và chống tội phạm
Thông qua phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự nhằm góp phần giáo dục và nâng
cao ý thức pháp luật trong xã hội, từ đó giúp cho người dân có ý thức hơn trong
việc tuân thủ pháp luật, chủ động tham gia đầu tranh phòng ngừra và chống tội
phạm.
Thông qua việc xét xử và đặc biệt là qua phiên tòa sơ thấm vụ án hình sự công


khai góp phân giáo dục công dân chấp hành nghiêm chinh pháp luật. Công dân có
nghĩa vụ và quyền lợi trong sự nghiệp bảo vệ an ninh trật tự. Công dân với tư cách
là chủ thể trong phòng chống tội phạm phải quán triệt, thực hiện tốt các quyền,
nghĩa vụ của công dân dã được quy định trong Hiến pháp, tích cực tham gia hoạt
động phòng ngừa tội phạm. Tích cực, chủ động phát hiện mọi hoạt động của tội

phạm và thông báo cho các cơ quan chức năng, tham gia nhiệt tình vào công tác
giáo dục, cảm hóa các đối tượng có liên quan đến hoạt động phạm tội tại cộng
đồng dân cư.
Bộ luật tố tụng hình sự 2015 đã tạo cơ sở pháp lý cho các cơ quan tiến hành tố
tụng, cơ quan bảo vệ pháp luật trấn áp tội phạm, đông thời tạo cơ sở pháp lý để
người dân tự bảo vệ mình và góp phần quan trọng vào công tác đầu tranh phòng
chống tội phạm trong giai đoạn mới.
Thông qua Bộ luật tố tụng hình sự không những tác động đến mọi người dân
mà còn tác động đến các chủ thế khác như những người tham gia tố tụng và mọi cá
nhân. Nhằm để mọi người có thể hiểu rõ, có kiến thức hơn về những quy định của
pháp luật, từ đó có hành vi ứng xử đúng đắn, khách quan, đúng theo quy định của
pháp luật. Thực hiện việc tuyên truyên, giải thích những quy định của pháp luật
trong quá trình giải quyết vụ án hình sự nhằm giúp bị cáo hiểu được những điều
pháp luật cho phép và những điều pháp luật không cho phép. Thấy được những
hành vi, việc làm của họ đã gây ra là sai trái, phạm pháp, từ đó có thái độ ăn năn,
hồi cải, được hưởng sự khoan hồng, giảm án của pháp luật để có thể sớm trở về
hòa nhập với cộng đồng. Một bản án được tuyên khách quan, công bằng và đúng
sự thật không chỉ có tác dụng trừng trị, răn đe và giáo dục đôi với người phạm tội
mà còn có tác động giáo dục, tuyên truyền chung đôi với toàn xã hội, giúp người
dân nâng cao ý thức, hiều biết pháp luật để tránh hành vi phạm luật và có hành vi
ứng xử đúng đắn và phù hợp.
Ngoài ra, đối với môi trường giáo dục, Bộ luật tố tụng hình sự còn giúp cho mọi
học sinh, sinh viên trang bị cho mình đủ kiến thức trong việc ý thức tuân thủ và
hiểu rõ hơn các quy định của pháp luật từ nhỏ. Nhằm giáo dục, rèn luyện cho
chúng có ý thức trách nhiệm, biết được những việc gì có thể làm được và không
làm được, từ đó có thể trở thành công dân tốt, giúp ích cho xã hội.
Từ đó thấy được những quy định của pháp luật là điều hết sức cần thiết, việc đấu
tranh chống và phòng ngừa tội phạm không chỉ là nhiệm vụ của các Cơ quan Nhà
nước, tổ chức xã hội, mà còn là của toàn dân nên ngoài việc tuyên truyền, Nhà
nước còn cần quy định rõ những hình thức, biện pháp để nhân dân có điều kiện

tham gia đấu tranh chống tội phạm. Đồng thời, giáo dục công dân ý thức pháp luật


xã hội chủ nghĩa, tích cực tham gia vào công tác đấu tranh, xử lý tội phạm, góp
phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Trong Chương 1, trên cơ sở nghiên cứu khái niệm bị cáo, thời điểm xuất hiện tư
cách bị cáo cũng như những vấn đề khác về quyền của bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm
vụ án hình sự. Theo đó, quyền của bị cáo là những điều mà pháp luật quy định cho
người hoặc pháp nhân bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử được hưởng các quyền
tại khoản 2 Điều 61 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình. Ngoài ra, tại Chương 1, người viết còn tập trung phân tích đặc
điểm của bị cáo và cho thấy sự cần thiết của việc đảm bảo quyền của bị cáo tại
phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự, người viết cũng đồng thời tập trung nghiên cứu về
phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự, đặc điểm cũng như nhiệm vụ của phiên tòa sơ
thẩm vụ án hình sự nhằm đảm bảo bị cáo thực hiện các quyền của mình tại phiên
tòa theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015

CHƯƠNG 2
NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT
TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ QUYỀN CỦA BỊ CÁO
TẠI PHIÊN TÒA SƠ THẢM VỤ ÁN HÌNH SỰ
2.1 Các quyền của bị cáo tại phiên tòa liên quan đến tiếp cận thông tin
2.1.1 Quyền tham gia phiên toà
Quyền tham gia phiên tòa là một loại quyền đặc biệt vì đây không những quyền
mà còn là nghĩa vụ của bị cáo. Sự có mặt của bị cáo tại phiên tòa không chỉ tạo
điều kiện cho bị cáo được trình bày về mọi vấn đề nhằm bảo vệ lợi ích hợp pháp
cho mình mà còn giúp cho Tòa án xác định sự thật của vụ án.
Việc bị cáo tham gia phiên tòa vừa là quyền vừa là nghĩa vụ, bắt buộc bị cáo phải
có mặt theo giây triệu tập của Tòa án. Khi bị cáo có mặt tại phiên tòa và khai báo
trung thực tại phiên tòa nhằm tạo thuận lợi cho việc Tòa án xác định sự thật khách

quan của vụ án. Đồng thời là một bảo đảm thuận lợi cho bị cáo thực hiện quyền
bào chữa theo quy định của pháp luật. Đôi với bị cáo bị tạm giam thì cơ quan


Công an, lực lượng cảnh vệ của quân đội phải dẫn đến phiên tòa theo giấy triệu tập
và lệnh trích xuất của Tòa án.
Theo Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định về quyền tham gia phiên tòa của bị
cáo tại điểm b, khoản 2, Điều 61 của Bộ luật này. Đây là quyền có thể lựa chọn để
bị cáo thực hiện, nếu bị cáo vắng mặt tại phiên tòa mà không có lý do chính đáng
hoặc không phải vì trở ngại khách quan sẽ dẫn đến việc Tòa án ra quyết định áp
giải, hoãn phiên tòa, tạm đình chỉ vụ án và yêu cầu cơ quan điêu tra truy nã.
Đây không phải là quyền mà là vấn đề mang tính nguyên tắc. Chính tại phiên tòa,
quyền bình đẳng giữa các cơ quan tiến hành tổ tụng và những người tham gia tổ
tụng được thể hiện rõ nhất. Có thể nói, quyền tham gia phiên tòa của bị cáo và
quyền bình đẳng trước phiên tòa trong việc đưa ra chứng cứ, yêu cầu và tranh luận
giữa Kiểm sát viên với người tham gia tố tụng, trong đó có bị cáo là hai mặt của
một vấn đề. Nếu không thực hiện đúng quy định bình đẳng này thì việc quy định
quyền tham gia phiên tòa của bị cáo cũng chỉ mang tính hình thức.
2.1.2 Quyền được thông báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ
Là quyền được thực hiện trong phần thủ tục bắt đầu phiên tòa, Chủ tọa phiên tòa
thông báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ của bị cáo (tất cả các quyền của bị cáo
đều được quy định tại Điêu 61 Bộ luật tô tụng hình sự 2015).
Việc được thông báo giải thích về quyền và nghĩa vụ của mình để giúp bị cáo biết
rõ, biết mình có những quyền nào, để yêu cầu được hưởng các quyền theo quy
định. Trên cơ sở giải thích các quyền và nghĩa vụ, bị cáo sẽ thực hiện tốt các
quyền của bị cáo từ khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử cho đến khi kết thúc vụ
án. Giúp họ hiểu rõ quyền và nghĩa vụ của mình cũng như góp phần nhanh chóng,
kịp thời giải quyết vụ án, xác minh sự thật vụ án.
Quyền được thông báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ được quy định tại điểm c,
khoản 2, Điều 61 của Bộ luật tố tụng hình sự 2015. Và theo Điều 71 Bộ luật tổ

tụng hình sự 2015 quy định về trách nhiệm thông báo, giải thích và bảo đảm thực
hiện quyền và nghĩa vụ của người tham gia trách nhiệm thông báo, giải thích và
đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng theo quy định
của Bộ luật này. Trường hợp người bị buộc tội, người bị hại thuộc diện được trợ
giúp pháp lý theo quy định của Luật trợ giúp pháp lý thì cơ quan, người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm giải thích cho họ quyền được trợ giúp pháp
lý, nếu họ đề nghị được trợ giúp pháp lý thì cơ quan, người "Cơ quan, người tiến
hành tố tụng có tụng: tham quyền tiên hành tố tụng thông báo cho trung tâm trợ


giúp pháp lý nhà nước. Đồng thời, việc thông báo này phải được ghi vào biên bản
của phiên tòa".
Nếu pháp luật tố tụng hình sự không quy định quyền được thông báo, giải thích về
quyền và nghĩa vụ thì dẫn đến bị cáo sẽ bị mất đi một số quyền lợi của họ, việc xét
xử gặp nhiều thiếu sót, tính chất sự thật vụ án không được đảm bảo khi bị cáo
không biết mình có những quyền gì nhằm để đưa ra giúp bào chữa cho mình để
chứng minh mình vô tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho mình.
2.2 Các quyền của bị cáo liên quan đến hoạt động bào chữa
2.2.1 Quyền bào chữa
Quyền bào chữa là quyền của người bị buộc tội bao gồm: người bị bắt, người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo dùng để bảo vệ trước các chủ thể tiến hành tố tụng từ thời
điểm bị buộc tội đến khi có quyết định của cơ quan tiên hành tổ tụng về việc có tội
haykhông có tội.
Quyền bào chữa giúp bị cáo trong việc bác bỏ một phần hoặc toàn bộ lời buộc
tồi hoặc giảm nhẹ trách nhiệm cho bị cáo, giúp làm sáng tỏ những tình tiết xác
địnhngười bị buộc tội vô tội, giúp người buộc tội về mặt pháp lý nhằm bảo vệ
quyền vàlợi ích hợp pháp của họ.
Quyền bào chữa trong tố tụng hình sự là tổng thế các quyền mà pháp luật quy
định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có thể sử dụng nhằm bác bỏ một phần hoặc
toản bộ sự buộc tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm cho họ.

Nếu pháp luật tố tụng hình sự không quy định quyền bào chữa cho bị cáo thì có
thể dẫn đến sự thiếu công bằng, bình đẳng, bất lợi trong việc không thể đưa ra lời
khai, lý lẽ, tài liệu, chứng cứ giúp họ gỡ tội trong việc xét xử, người bị buộc tội có
thể bị mất đi quyền và lợi ích hợp pháp của họ, dẫn đến bất ổn trong tâm lý của
người bị buộc tội, việc xét xử không khách quan, sai sót, không chính xác, không
đúng pháp luật, không đúng sự thật, có thể làm oan người vô tội.
Để đảm bảo quyền bào chữa của người bị buộc tội, bị cáo bào chữa tại phiên
tòa như sau:
2.2.1.1 Quyền tự bào chữa
Tự bảo chữa là một trong những nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự nhằm đảm
bảo cho bị cáo sử dụng tất cả các biện pháp theo quy định của pháp luật để bảo
vệ mình trước Tòa án, pháp luật dành cho bị cáo mọi quyền cần thiết để chứng
minh sự vô tội của mình và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
Trong thực tiễn, có nhiều bị cáo có trình độ học vấn và kiến thức pháp luật tốt
thậm chí có những bị cáo, dù học vấn bình thường nhưng họ vẫn biết cách trình


bày tự bào chữa cho mình. Vì thế pháp luật cho họ quyền tự bào chữa, cho dù
hành vi phạm tội đó có phải là do họ thực hiện hay không, thì họ được quyền đưa
ra lý lẽ để biện hộ cho bản thân họ, đưa ra các chứng cứ đề chứng minh vô tội
hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho họ, các chứng cứ và lý lẽ họ đưa ra là một
trong những yêu tố để Hội đồng xét xử căn cứ xác định mức hình phạt. Đây là một
quyền thể hiện tôn trọng quyền con người đối với bị cáo một cách rõ ràng nhất
Pháp luật tố tụng hình sự quy định rõ về quyền bào chữa của bị cáo, trong đó có
quy định về quyền tự bào chữa là một tổng thể các quyền và những biện pháp tổ
tụng cần thiết đảm bảo cho bị cáo tích cực tham gia tố tụng hình sự, có khả năng
thực tế để bày tỏ thái độ của mình đôi với việc buộc tội, lưu ý với cơ quan tiến
hành tố tụng những tình tiết này hay những tình tiết khác của vụ án có khả năng
minh oan hoặc giảm nhẹ tội cho bị cáo quy định tại điểm g, khoản, 2 Điều 61 Bộ
luật tố tụng hình sự 2015. Quyền bào chữa là quyền được hiến pháp quy định, là

một trong những nguyên tắc cơ bản của tổ tụng hình sự nhằm đảm bảo cho bị cáo
sử dụng tất cả các biện pháp theo quy định của pháp luật để bảo vệ mình trước Tòa
án, pháp luật dành cho bị cáo mọi quyền cần thiết để chứng minh sự vô tư của
mình và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
Nếu pháp luật tố tụng hình sự không quy định quyền tự bào chữa thì có thể ảnh
hưởng đến một số quyền lợi nhất định của bị cáo, trong việc tự đưa ra lời khai,
chứng cứ để chứng minh mình vô tội, cũng như thực hiện việc gỡ tội, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Dẫn đến việc xét xử không đúng pháp luật,
thiếu sự công minh, quyền tôn trọng con người, quyền và lợi ích của bị cáo không
được đảm bảo.
Bị cáo thực hiện quyền tự bào chữa của họ tại phiên tòa thông qua việc:
a.

Quyền đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu

Trong tố tụng hình sự, bất cứ người nào cũng có quyền đưa ra chứng cứ, tài liệu,
đô vật, dữ liệu điện tử và trình bày những gì liên quan đến vụ án. Đặc biệt là đối
với bị cáo, trong tô tụng hình sự bị cáo đóng vai trò trung tâm và ở một vị thế vô
cùng bất lợi vì bị Nhà nước buộc tội. Bị cáo cung cấp các chứng cứ, tài liệu, đồ vật
và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tiến hành kiểm tra, đánh giá.
Mỗi chứng cứ, tài liệu, đồ vật phải được đánh giá để xác định tính hợp pháp, xác
thực và liên quan đến vụ án. Việc xác định các chứng cứ thu thập được phải bảo
đảm đủ để giải quyết vụ án hình sự. Chứng cứ là những gì có thật, được thu thập
theo trình tự, thủ tục do Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định, được dùng làm căn
cứ đề xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm


tội và những tình tiết khác có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện
hành vi phạm tội và những tỉnh tiết khác có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án. Vì
vậy việc quy định quyền đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu là điều khá quan

trọng và cần thiết bởi nó là cơ sở để bị cáo có thể gỡ tội.
Thường thì những chứng cứ, tài liệu, đổ vật do bị cáo đưa ra có ý nghĩa rất lớn
trong việc xác định sự thật vụ án và nó cũng chính là cơ sở pháp lý để bị cáo tự
bảo về mình gỡ tội cho mình, chứng minh bị cáo không phạm toi hoặc chứng minh
những tình tiết giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Nhằm đảm bảo công bằng cho bị
cáo khi tham gia tố tụng. Ngoài quyền được đưa chứng cứ, tài liệu, đồ vật thì bị
cáo còn có quyền đưa ra những yêu cầu như: yêu cầu người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng kiểm tra, đánh giá về chứng cứ,... Điều này thể hiện sự công bằng, sự
công minh của pháp luật trong việc đảm bảo quyền lợi của bị cáo.
Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2015 bị cáo có quyền đưa ra chứng cứ,
tài liệu, đồ vật, yêu cầu tại điểm đ, khoản 2, Điều 61 Bộ luật này. Theo đó, bị cáo
có quyền đưa ra chứng cứ, những chứng cứ bị cáo đưa ra phải được các chủ thể
tiến tụng tôn trọng. Trong quá trình tiến hành tố tụng, cơ quan, người tiến hành tố
tụng cần xem xét, đánh giá, ghi nhận những chứng cứ mà bị cáo đưa ra để có thể
đưa ra quyết định tiến hành xét xử tại phiên tòa hoặc hoãn phiên tòa. Mặc khác,
những chứng cứ mà bị cáo đưa ra nếu được những người có thẩm quyền tiến hành
tố ghi nhận thì có thể sử dụng luôn không cần phải xem xét, đánh giá. Nhưng nếu
những chứng cứ mà bị cáo đưa ra không được cơ quan, người tiến hành tổ tụng
đồng ý, ghi nhận thì có thể ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp của bị cáo. Qua đó
thấy được sự thiếu công bằng, sự công minh của pháp luật trong việc đảm bảo
quyền lợi của bị cáo.
Tuy nhiên, trên thực tế các quyển này không được đảm bảo, bởi các cơ quan bảo
vệ pháp luật chưa thấy hết tầm quan trọng của việc bảo đảm thực hiện đúng quyền
này của bị cáo, nên đã dẫn đến tình trạng vi phạm pháp luật một cách nghiêm
trọng khiến oan sai xảy ra. Không thể vì định kiến với bị cáo, mà bác bỏ chứng cứ,
tài liệu, đồ vật, yêu cầu mà bị cáo đưa ra. Nếu pháp luật tổ tụng hình sự không quy
định quyển đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu thì có thể ảnh hưởng đến việc
gỡ tội đối với bị cáo, khó khăn, bất lợi trong việc chứng minh mình vô tội. Chứng
cứ, tài liệu, đồ vật là một trong những yếu tố quan trọng giúp bị cáo dễ dàng, thuận
lợi hơn trong việc bào chữa giúp mình gỡ tội hoặc giảm nhę trách nhiệm hình sự.

b.

Quyền trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người
có thẩm quyền tiến hành tụng kiếm tra, đánh giá


Trong tố tụng hình sự bị cáo có vị trí vô cùng bất lợi, gặp nhiều khó khăn trong
quá trình tố tụng. Do đó, Bộ luật tố tụng hình sự 2015 đã quy định cho bị cáo
quyền được đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu nhằm để bị cáo có cơ hội
đưa ra chứng cứ gỡ tội cho mình. Không dừng lại ở đó pháp luật còn quy định
thêm quyền trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu
người có thể nhờ nó mà nói lên ý kiến, quan điểm của mình. Khi bị cáo cung cấp
các chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu để có thể tự gỡ tội cho mình hoặc dùng làm
tình tiết giảm nhẹ, thì bị cáo cũng có quyền trình bày ý kiến về chứng cứ, đồ vật có
liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá. Để
có thể tự gỡ tội cho mình hoặc dùng làm tình tiết giảm nhẹ, bị cáo có quyền trình
bày ý kiến của mình về những vật đó bằng việc nói rõ nguồn gốc, cách thức sử
dụng của chúng trong vụ án như thế nào và nếu cần thiết có thể yêu cầu người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá về tính xác thực, đúng đắn của
những vật này.
Điều này giúp cho bị cáo có thể giảm bớt trách nhiệm hình sự hoặc chứng minh
được mình vô tội và giúp cho quá trình điều tra được nhanh chóng cũng như sự
thật của vụ án được làm sáng tỏ. Việc cho bị cáo đưa ra các chứng cứ đồ vật, yêu
cầu liên quan đến chứng cứ tại phiên tòa có ý nghĩa lớn trong việc đánh giá chứng
cứ vụ án, cũng như sự thật khách quan trong vụ án tại phiên tòa. Đồng thời cũng
thấy được quyền bình đẳng với những người tham gia tố tụng trong việc xác định
sự thật vụ án.
Theo Bộ luật tố tụng quy định bị cáo có quyền trình bày ý kiến về tụng hình sự
2015 chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng kiểm tra, đánh giá tại điểm e, khoản 2, Điều 61 Bộ luật này. Xuất

phát từ tính chất phức tạp, đa dạng của vụ án hình sự xảy ra trong thực tiên, Bộ
luật tố tụng hình sự 2015 không lượng hóa chứng cứ để chứng minh trong vụ án
hình sự, mà chỉ quy định chứng cứ thu thập được phải bảo đảm đủ để giải quyết vụ
án hình sự. Về phía cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng họ có nhiệm vụ kiểm
tra đánh giá chứng cứ. Trong mỗi án cụ thế, cơ quan tiến hành tố tụng có quyền
xác định số lượng chứng cứ cần và đủ để giải quyết vụ án hình sự trên cơ sở kết
hợp giá trị chứng cứ và tính liên quan của các chứng cứ được cung cấp, nhưng
phải đảm bảo nguyên tắc không coi một loại chứng cứ nào đó là duy nhất để buộc
tôi, Việc cho bị cáo đưa ra các chứng cứ đồ vật, yêu cầu liên quan đến chứng cứ tại
phiên tòa có ý nghĩa lớn trong việc đánh giá chứng cứ vụ án, cũng như sự thật
khách quan trong vụ án tại phiên tòa.
Nếu pháp luật tố tụng hình sự không quy định quyền trình bày ý kiến về chứng cứ,
tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm


×