Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

Giáo trình lịch sử tư tưởng xã hội chủ nghĩa phần 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (356.98 KB, 23 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HCM
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ

LỊCH SỬ TƯ TƯỞNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Biên soạn: ThS. NGUYỄN THỊ NHU
ThS. LÊ THANH HÀ

LƯU HÀNH NỘI BỘ - 2004


LỜI MỞ ĐẦU
Trong xã hội có giai cấp đối kháng, có tình trạng người áp bức bóc lột người thì ước nguyện
về một xã hội công bằng và sự vươn tới tư tưởng bình đẳng xã hội, khát vọng hạnh phúc cũng như
những cuộc đấu tranh dưới nhiều hình thức khác nhau để thực hiện những ước vọng sẽ tất yếu nảy
sinh trong đời sống tinh thần của những người nghèo khổ và của tất cả những ai đứng về phía lợi
ích của họ. Tư tưởng xã hội chủ nghóa chính là những tư tưởng phản ánh ước nguyện ấy- ước
nguyện về một xã hội không còn sự áp bức bóc lột, không còn sự phân chia giai cấp, không có
chiến tranh, mọi người được ấm no, bình đẳng và hạnh phúc. Tư tưởng xã hội chủ nghóa cũng
phản ánh quan niệm về con đường, giải pháp và những điều kiện để đến xã hội tốt đẹp.
Những tư tưởng xã hội chủ nghóa đã thể hiện qua nhiều nội dung, khuynh hướng khác nhau,
dưới nhiều hình thức do điều kiện lòch sử cụ thể của mỗi thời kỳ quy đònh. Lòch sử của những tư
tưởng xã hội chủ nghóa ấy là một bộ phận của lòch sử tư tưởng nhân loại. Nó nghiên cứu chính
quá trình nảy sinh, hình thành và phát triển của các tư tưởng xã hội chủ nghóa. Lòch sử tư tưởng
xã hội chủ nghóa cũng nghiên cứu quá trình chủ nghóa xã hội phát triển từ không tưởng trở thành
khoa học.
Về phương pháp nghiên cứu, cần lưu ý đến việc tìm hiểu hoàn cảnh xuất thân và sự chuyển
biến lập trường của các nhà tư tưởng xã hội chủ nghóa. Đối với môn Lòch sử tư tưởng xã hội chủ
nghóa, việc sử dụng phương pháp lòch sử là cần thiết nhằm tái hiện một cách trung thực quá trình
phát sinh, hình thành và phát triển của các tư tưởng xã hội chủ nghóa qua những thời kỳ, giai
đoạn, từ những biểu hiện sơ khai cho đến khi chín muồi, từ chỗ chưa thành văn cho đến khi trở
thành quan điểm, cương lónh, học thuyết... Tuy nhiên, cần phải gắn lòch sử với logic. Phương pháp


logic giúp chúng ta phát hiện ra mối liên hệ kế thừa, phát triển của các dòng tư tưởng xã hội chủ
nghóa có trong lòch sử.
Nghiên cứu lòch sử tư tưởng xã hội chủ nghóa có ý nghóa rất quan trọng cả về phương diện lý
luận lẫn thực tiễn. Lòch sử tư tưởng xã hội chủ nghóa là một trong những nội dung cơ bản của bộ
môn Chủ nghóa xã hội khoa học. Việc nghiên cứu quá trình nẩy sinh, hình thành và phát triển của
các tư tưởng xã hội chủ nghóa là rất cần thiết để có thể nắm vững những nguyên lý của chủ nghóa
xã hội khoa học. Để giúp sinh viên thuận lợi hơn trong việc tiếp cận môn học, chúng tôi biên
soạn tài liệu này. Đây chưa phải là một chuyên khảo hoàn chỉnh. Với việc giới thiệu những đại
biểu xuất sắc của lòch sử tư tưởng xã hội chủ nghóa, chúng tôi hy vọng người đọc có thể hình dung
tiến trình phát triển của tư tưởng xã hội chủ nghóa gắn với những hoàn cảnh lòch sử cụ thể.
Trong tài liệu này, chúng tôi đã tham khảo các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước có
liên quan. Mặc dù có nhiều cố gắng song tài liệu không tránh khỏi thiếu sót. Rất mong nhận được
sự góp ý của các đồng nghiệp và sinh viên để chúng tôi có thể tiếp tục hoàn chỉnh tài liệu này.


Chương I

NHỮNG YẾU TỐ TƯ TƯỞNG XHCN SƠ KHAI

I. NHỮNG MẦM MỐNG TƯ TƯỞNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA THỜI CỔ ĐẠI

Những mầm mống tư tưởng xã hội chủ nghóa đầu tiên đã xuất hiện từ thời cổ đại, khi
xã hội có sự phân chia giai cấp đối kháng, có tình trạng người áp bức bóc lột người.
Ở phương đông, sự xuất hiện của chế độ chiếm hữu nô lệ vào khoảng 4.000-3.000
năm trước công nguyên, tại các khu vực như Ai Cập, Lưỡng Hà, Trung Quốc, Ấn Độ… Ở
phương tây, chế độ chiếm hữu nô lệ ra đời muộn hơn - vào khoảng thế kỷ XI-IX trước
công nguyên. Trong xã hội chiếm hữu nô lệ, giai cấp chủ nô áp bức bóc lột nô lệ và các
tầng lớp nhân dân lao động khác. Điều ấy tất yếu làm nảy sinh tư tưởng muốn phủ đònh
xã hội đương thời trong các giai cấp tầng lớp nhân dân bò áp bức, bóc lột này.
Chế độ chiếm hữu nô lệ là điển hình ở Hy Lạp và La Mã cổ đại. Đây là nơi xuất hiện

những yếu tố tư tưởng xã hội chủ nghóa tiêu biểu cho thời kỳ này.
1. Mầm mống tư tưởng xã hội chủ nghóa ở Hy Lạp cổ đại

Hy Lạp cổ đại nằm giữa châu Âu, châu Á và châu Phi, bao gồm vùng lục đòa Hy Lạp,
vùng Tây Tiểu Á và các đảo thuộc biển Egiê. Nền kinh tế Hy Lạp có khuynh hướng
thiên về thủ công nghiệp. Việc buôn bán trên biển rất phát đạt.
Chế độ chiếm hữu nô lệ ở Hy Lạp tuy xuất hiện muộn hơn nhiều nước khác nhưng
phát triển rất nhanh và có tính chất điển hình. Vào thế kỷ XI- IX TCN, những yếu tố giai
cấp, nhà nước đã xuất hiện. Tình hình kinh tế- xã hội này của Hy Lạp được phản ánh
trong hai tập sử thi Ôđixê và Iliát. Hai tập sử thi này tương truyền là của Hôme- một nhà
thơ mù người Tiểu Á. Trong hai tập sử thi ấy có nhiều tư liệu lòch sử quan trọng, giúp
chúng ta hình dung đầy đủ hơn về thời kỳ này. Tầng lớp nô lệ đã xuất hiện. Nhìn chung
chế độ nô lệ còn mang tính chất gia trưởng. Tuy nhiên nô lệ phải chòu những hình phạt dã
man và bò ràng buộc chặt chẽ vào quyền thống trò khắc nghiệt của chủ nô.
Vào thế kỷ VIII TCN, sự phân hoá giai cấp diễn ra sâu sắc. Ba tầng lớp xã hội đã
hình thành: chủ nô, bình dân và nô lệ. Trong xã hội, lực lượng nô lệ ngày càng đông đảo.
Ngoài nô lệ vốn là tù binh chiến tranh thì những người lao động bò tước đoạt ruộng đất
cũng phải bán thân làm nô lệ. Chúa đất, thợ cả và lái buôn lớn đều sử dụng lực lượng
này. Nhà nước xuất hiện.
Mâu thuẫn xã hội ngày càng gay gắt. Những cuộc đấu tranh của nô lệ đã diễn ra dưới
nhiều hình thức: hủy hoại công cụ sản xuất, cướp phá mùa màng, bỏ trốn… Mặc dù bò
trừng trò dã man, nô lệ vẫn tiếp tục đấu tranh với những biện pháp quyết liệt hơn như bạo
động có tổ chức, khởi nghóa. Bên cạnh cuộc đấu tranh của nô lệ là những cuộc đấu tranh
của các tầng lớp khác chống lại thế lực phong kiến bảo thủ. Những cuộc đấu tranh này là


một trong những nguyên nhân dẫn đến sự suy vong của các quốc gia thành thò Hy Lạp cổ
đại. Thế kỷ thứ III TCN tại Xpáctơ đã diễn ra một phong trào cách mạng do nhà quý tộc
Aghít lãnh đạo, phản ánh nguyện vọng của các tầng lớp bên dưới muốn có ruộng đất và
tài sản vào những năm 40. Phong trào không tồn tại được lâu trước phản ứng của bọn

đặc quyền đầu sỏ. Sau đó vài năm, một cuộc cách mạng khác nổ ra mà lãnh tụ cũng là
một quý tộc. Đó là Clêômen (khoảng 260-219 TCN). Quân khởi nghóa trên thực tế đã
nắm chính quyền và thực hiện việc phân chia lại ruộng đất. Sau 5 năm, chế độ do
Clêômen xây dựng đã bò sụp đổ bởi sự tấn công của bọn phản động bên ngoài. Cả hai
phong trào đều có điểm chung là vẫn duy trì sự bóc lột lao động của nô lệ, vẫn phân chia
công dân thành hai loại người (có đặc quyền và không có đặc quyền). Những dự án mà
nó đưa ra là những dự án bình quân chủ nghóa, san bằng lợi ích trong bộ phận nhân dân
không phải là nô lệ. Không riêng gì phong trào ở Xpáctơ, các phong trào khác thời cổ đại
đều không quan tâm thật sự đến người nô lệ. Những phong trào kể trên không mang tính
chất xã hội chủ nghóa dù là những phong trào cách mạng.
Mầm mống tư tưởng xã hội chủ nghóa không tìm thấy trong những phong trào cách
mạng. Nó náu mình trong văn học, triết học, các dự án xã hội- chính trò của những trí thức
đương thời. Trước hết là trong thần thoại. Thần thoại trong giai đoạn này có chủ đề xã
hội và mang màu sắc tôn giáo đa thần. Chuyện thần thoại được xây dựng theo lối phủ
đònh hiện tại, mơ về thời đại xa xưa tốt đẹp, bình đẳng, không có sự bóc lột và sự phân
biệt giàu nghèo, không ai phải lao động nặng nhọc, không lo âu phiền muộn…, thể hiện
trong những tập thơ của Hêxiôt (thế kỷ VIII-VII TCN) như tập Gia phả các thần, Lao
động và ngày tháng... Điều này là phù hợp với khát vọng của quần chúng bò áp bức.
Từ những chuyện thần thoại về “thời đại hoàng kim”, lý thuyết về trạng thái tự nhiên
đã xuất hiện mà tiêu biểu là phái Kiních. Phái Kiních đã lên án kòch liệt luật lệ và trật tự
xã hội đương thời, và lý tưởng hoá trạng thái tự nhiên đầu tiên không có luật lệ, coi
trạng thái đó là phù hợp với quyền tự nhiên. Lý thuyết về trạng thái tự nhiên có ảnh
hưởng sâu sắc đến các trí thức đương thời như Platôn (427-473 TCN), Đikêac (thế kỷ IV
TCN), Hêrôđốt (490-429 TCN),… Tuy nhiên cần lưu ý, mặc dù chòu ảnh hưởng của lý
thuyết này nhưng không hẳn những trí thức ấy đã là nhà tư tưởng xã hội chủ nghóa. Platôn
là một ví dụ điển hình: Platôn quan niệm trạng thái nguyên thuỷ là trạng thái bình đẳng
và không cần đến quyền lực. Nhưng Platôn chưa bao giờ là nhà tư tưởng xã hội chủ nghóa
dù là theo nghóa rộng nhất của từ này: Platôn chỉ phản đối việc lạm dụng quyền tư hữu
trong xã hội lúc bấy giờ chứ không phải là phê phán quyền tư hữu;nguyên tắc tổ chức xã
hội của ông là thừa nhận sự bất bình đẳng giữa người với người; theo quan niệm của ông,

người nô lệ mà được đối xử như người tự do là điều vượt qua lẽ phải thông thường; ông là
kẻ thù của dân chủ,...
Lý thuyết về trạng thái tự nhiên còn làm nền cho những tiểu thuyết viễn tưởng thế kỷ
XVI- XVII.
2. Những mầm mống tư tưởng xã hội chủ nghóa ở La Mã cổ đại

La Mã (Rôma) là tên của một quốc gia cổ đại mà nơi phát nguyên là bán đảo Italia.
Bán đảo này dài và hẹp, nằm ở Nam Âu, vươn ra Đòa Trung Hải, có hình như chiếc ủng.


Vùng bán đảo Italia là nơi hội tụ nhiều luồng văn minh Đông, Tây Đòa Trung Hải, Bắc
Phi, Tiểu Á. Cư dân có mặt sớm nhất và cũng chủ yếu là người Italia (Italotes). Trong đó
bộ phận sống ở vùng Latium gọi là người Latinh. Về sau một nhánh của người Latinh
dựng lên thành La Mã ở bờ sông Tibrơ, từ đó được gọi là người La Mã. Theo truyền
thuyết thì thành La Mã được xây dựng vào năm 753 TCN. Khi mới thành lập La Mã chỉ
là một thành bang nhỏ ở Trung bán đảo Italia. Từ thế kỷ IV TCN, La Mã không ngừng
xâm lược ra bên ngoài. Hơn 100 năm sau, La Mã đã chinh phục toàn bộ bán đảo.
Ở bán đảo Italia thường xuyên nổ ra các cuộc chiến tranh giữa các thành bang và
nhiều cuộc đấu tranh giữa nô lệ và chủ nô, giữa bình dân và quý tộc, giữa đế chế La Mã
với các miền bò nó xâm lược. Chế độ chiếm hữu nô lệ ở đây không kém tàn bạo so với
Hy Lạp. Lao động nô lệ được sử dụng một cách phổ biến. Chợ nô lệ mọc lên khắp nơi.
Theo Hiến pháp La Mã thì nô lệ không có tính người. Dưới ách áp bức bóc lột của đế
chế La Mã, nhân dân và nô lệ đã vùng lên đấu tranh. Đặc biệt là khởi nghóa của nô lệ ở
đảo Xixin vao thế kỷ II TCN, và khởi nghóa của Xpáctaquýt1 vào khoảng đầu thế kỷ I
TCN.
Những cuộc đấu tranh của nhân dân lao động trong đó có nô lệ nhìn chung đều thất
bại, ngay cả cuộc khởi nghóa hàng vạn người do Xpáctaquýt lãnh đạo. Không tìm được
lối thoát hiện thực, quần chúng lao khổ đã tìm lối thoát trong tôn giáo - trong Cơ đốc
giáo. Cơ đốc giáo nẩy sinh trong lòng Palestin. Palestin nằm trên bán đảo Italia, là nơi
hội tụ của nhiều luồng văn minh của các nước vùng Tiểu Á. Những quan hệ kinh tế hàng

hoá- tiền tệ và thương nghiệp có điều kiện nẩy nở thuận lợi. Nhưng đây cũng là vùng đất
tranh chấp của các nước. Cuối cùng thì Palestin bò đế chế La Mã xâm lược. Ở Palestin,
ngay từ thế kỷ VI TCN cư dân đã theo tôn giáo độc thần là đạo Do Thái. Họ thờ Chúa
Giêhôva và tin rằng người Do Thái là dân tộc được Chúa chọn. Từ nhiều thế kỷ trước
công nguyên ở đây đã có những nhà tiên tri tuyên truyền sự giáng thế của thiên sứ để
cứu vớt loài người. Cũng từ trước công nguyên, các phong tục tập quán, luật pháp cổ,
những lời tiên tri, 10 điều răn của một anh hùng Do Thái cổ là Môidơ2… đã được ghi
chép thành kinh Cựu ước và sau này trở thành một bộ phận của kinh Tân ước. Khoảng
thế kỷ I TCN và SCN, ở Palétxtin tư tưởng hòa bình, bình đẳng, bác ái đã thể hiện trong
phong trào của những người Etxây. Trong phong trào txây cuộc sống có tính chất cộng
sản tiêu dùng. Nhận xét về phong trào này, Philông3 viết: trong những người Etxây “…
cái gì thuộc về một người thì mọi người cũng có, cái gì mọi người có thì mỗi người cũng
có”…
Theo truyền thuyết Cơ đốc giáo, Giêduy Crit vốn là người theo đạo Do Thái, nhưng
khi giảng đạo thì ông thường nhấn mạnh đến yếu tố đạo đức, bình đẳng, bác ái… Giáo
lý của Giêduy trở thành niềm an ủi của quần chúng lao khổ và do đó được nhiều người
tin theo, và trở thành một tôn giáo mới - Cơ đốc giáo. Cơ đốc giáo sơ kỳ xuất hiện, với uy
1

Xpactaquyt, người xứ Tơraxơ (Hy Lạp), từng chống Rôma và bò bắt làm tù binh. Ông lãnh đạo cuộc khởi nghóa của
nô lệ (73-71 TCN), bò tử trận năm 71TCN.
2
Môidơ, thủ lónh của dân Hêbrơ, tức dân Do thái cổ, trong cuộc nổi dậy chống ách nô dòch năm 1225 trước công
nguyên
3
Philông (khoảng 20 TCN- 50 sau công nguyên), ở Alêcxandri, nhà triết học, nhà ng biện cổ Hy Lạp.


tín ngày càng tăng của Giê duy Crit. Trước tình hình ấy, giới chức sắc của đạo Do Thái
đã câu kết với đế chế La Mã bắt xử tử ông vào năm 29 SCN. Sau khi ông mất, sự tích

cuộc đời ông, những lời giảng đạo… được tập hợp thành sách giáo lý của Cơ đốc giáo.
Cơ đốc giáo sơ kỳ đã có thái độ phê phán người giàu, và khẳng đònh người nghèo sẽ
được Chúa đền đáp, như trong tác phẩm Kinh phúc âm:
“Sung sướng thay những người hành khất
Vì rằng giang sơn của anh là giang sơn của Chúa.
Sung sướng thay những người đang đói
Vì rằng các anh sẽ no nê
Sung sướng thay những người đang khóc
Vì anh sẽ được cười.
Còn buồn thay, những kẻ giàu
Đã được no nê rồi sẽ đói
Đã được cười rồi sẽ khóc…”
Trong Sự nghiệp các thánh tông đồ, những công xã Cơ đốc giáo sơ kỳ được mô tả như
những công xã cộng sản tiêu dùng. Trong công xã có quỹ chung để tiêu dùng và tổ chức
những bữa tiệc chung. Các thành viên trong công xã đều bình đẳng. Quyền lãnh đạo
thuộc về các sứ đồ. Điều này cho thấy mẫu mực xã hội lý tưởng của họ chính là chủ
nghóa cộng sản tiêu dùng.
Tư tưởng xã hội của Cơ đốc giáo sơ kỳ đã để lại một kiểu cách mơ ước về tương lai
tốt đẹp. Tương lai ấy là “Giang sơn ngàn năm của Chúa”, với niềm tin vào “Ngày Chúa
giáng thế lần hai”, “Ngày phán xét cuối cùng của Chúa”… Tư tưởng này thể hiện rõ
trong Khải huyền thư. Một nguyện vọng thực tế- nguyện vọng thủ tiêu Đế chế La Mã- đã
mượn tính hoang tưởng của tôn giáo để thể hiện. Như vậy, Cơ đốc giáo sơ kỳ với tư tưởng
cộng đồng nguyên thủy trong thế kỷ đầu sau công nguyên là hình thức thể hiện tinh thần
phản kháng của quần chúng bò áp bức.
Đến thế kỷ II các công xã Cơ đốc giáo liên hiệp lại và tổ chức thành Giáo hội. Từ
đây Giáo hội Cơ đốc giáo có nhiều thay đổi. Trong Cơ đốc giáo sơ kỳ ngày càng có
những người thuộc tầng lớp bên trên gia nhập. Quyền lãnh đạo Giáo hội thuộc về những
người thuộc tầng lớp bên trên. Giáo hội nêu ra nguyên tắc: vương quốc thì trả cho vua,
thiên quốc thì trả cho chúa Trời. Do có những thay đổi ấy nên đến đầu thế kỷ III các
hoàng đế La Mã ra lệnh ngưng sát hại các tín đồ Cơ đốc giáo. Năm 313 Cơ đốc giáo

được thừa nhận. Năm 337, trước lúc chết hoàng đế Côngxtantinut là vò hoàng đế La Mã
đầu tiên chòu phép rửa tội. Cuối thế kỷ IV, Cơ đốc giáo được thừa nhận là quốc giáo của
đế quốc La Mã. Cơ đốc giáo dần dần có khuynh hướng thỏa hiệp và trở thành công cụ
tinh thần trong tay giai cấp thống trò.
Trước tình hình ấy một số người bất mãn với xã hội đương thời, với sự thích ứng của
Giáo hội đã lập ra các tu viện riêng, hoặc theo các phong trào dò giáo.
Thi vò hóa chế độ cộng đồng nguyên thủy, xem đó là thời kỳ hoàng kim là một đặc
điểm của những tư tưởng xã hội chủ nghóa sơ khai.


II. NHỮNG YẾU TỐ TƯ TƯỞNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA THỜI TRUNG ĐẠI VÀ ĐẦU
CẬN ĐẠI

Ở phương đông, thời kỳ trung đại bắt đầu từ thế kỷ I- II TCN, tiêu biểu là ởø Trung
Quốc. Ở phương tây thì thời trung đại kéo dài từ thế kỷ V đến thế kỷ XV và chia làm hai
giai đoạn.
Trong giai đoạn thứ nhất (thế kỷ V- thế kỷ X ), vai trò thành thò giảm sút, quan hệ
kinh tế hàng hóa-tiền tệ không có điều kiện tiếp tục phát triển mạnh mẽ, quan hệ phong
kiến – gia trưởng chiếm ưu thế. Tuy giai cấp nông dân, thợ thủ công và đòa chủ phong
kiến mâu thuẫn nhau nhưng mâu thuẫn ấy chưa gay gắt. Trình độ giác ngộ xã hội của
tầng lớp dưới chưa cao. Tư tưởng xã hội chủ nghóa là không đáng kể.
Nền kinh tế hàng hóa - tiền tệ và thương nghiệp được hồi phục dần trong giai đoạn
hai (thế kỷ XI- XV). Sự phát triển của thương nghiệp đã tác động đến thành thò lẫn nông
thôn, tạo ra những biến đổi sâu sắc. Trước hết là ở thành thò. Những tổ chức phường hội
thủ công nghiệp từng bước tập trung tại đây. Một số phường hội bò khống chế bởi thương
nhân. Những phường hội này về hình thức thì sản xuất độc lập nhưng thực chất là làm
thuê cho các thương nhân vì thương nhân là người quyết đònh quá trình sản xuất, thậm chí
là người cung cấp nguyên vật liệu và bao tiêu sản phẩm. Trong một số phường hội khác
thì bản thân người thợ cả trở thành nhà tư bản nhỏ và bóc lột sức lao động của những thợ
bạn. Những người thợ bạn là người làm thuê và không có điều kiện để trở thành người

sản xuất độc lập. Chính trong những phường hội này lợi ích giữa những người thợ bạn và
thợ cả tư sản hoá là đối lập nhau.
Thương nghiệp còn tác động đến nông thôn dẫn đến tình hình một bộ phận nông dân
có thể mua tự do để thoát sự ràng buộc của quan hệ sản xuất phong kiến. Đa số những
người nông dân tự do này bò rơi vào tình trạng bần cùng phải đổ xô vào các thành thò
kiếm sống. Những phường hội thủ công nghiệp thành thò nhỏ bé thời trung cổ không đủ
sức dung nạp lực lượng đông đảo này. Tầng lớp tay trắng ấy không khỏi mang tâm trạng
chống đối xã hội đương thời. Chính tầng lớp tiền vô sản ngoài phường hội là lực lïng
tích cực nhất trong các cuộc bùng nổ cách mạng.
Như vậy sự phát triển của nền kinh tế hành hóa - tiền tệ trong nửa sau thời trung đại
đã tạo ra một tập đoàn xã hội có thái độ thù đòch với chế độ xã hội đương thời và tập
đoàn ấy đã hướng đến lý tưởng xã hội chủ nghóa theo kiểu riêng của họ.
Những trào lưu có khuynh hướng xã hội chủ nghóa thời trung đại đa dạng, phong phú
nhưng giữa chúng có nhiều điểm chung.
+ Một là, trào lưu có khuynh hướng xã hội chủ nghóa thời trung đại mang mầu sắc tôn
giáo. Điều này là hiển nhiên khi mà thế giới quan tôn giáo chiếm ưu thế trong đời sống
tinh thần của xã hội lúc bấy giờ.
+ Hai là, trào lưu có khuynh hướng xã hội chủ nghóa thời trung đại thường xuất hiện
dưới hình thức những phong trào “dò giáo”. Những trào lưu chống áp bức bóc lột và mơ
tưởng đến cuộc sống tốt đẹp hơn đã không chỉ chống lại nền quân chủ chuyên chế mà
còn chống lại Giáo hội. Bởi vì lúc này Giáo hội câu kết với thế lực phong kiến, và bản


thân nó cũng là một thế lực áp bức bóc lột.Theo Ăngghen, những phong trào này là “sự
đối lập có tính chất cách mạng chống chế độ phong kiến”4. Các phong trào dò giáo này
lấy công xã Cơ đốc giáo sơ kỳ làm mẫu mực lý tưởng để đối lập với xã hội đương thời.
Theo họ, con người có thể trực tiếp với Chúa mà không cần đến trung gian là Giáo hội.
Họ đòi thuần khiết hóa tôn giáo.
Các phái dò giáo có những quan điểm không phù hợp với gíao điều của giáo hội Cơ
đốc giáo sơ kỳ. Các phái này có xu hướng nhò nguyên luận. Họ quan niệm thế giới là kết

quả của cuộc đấu tranh giữa “cái thiện tinh thần” và “cái ác vật chất”. Luật của Chúa là
cái thiện và luật lệ trần tục là cái ác. Cuối cùng cái thiện sẽ chiến thắng. Trong “giang
sơn ngàn năm của Chúa” sẽ không cần có Giáo hội và quyền lực. Tính chất phiếm thần
luận cũng là một đặc điểm của các phái dò giáo khi họ đồng nhất Chúa với tự nhiên, luật
của Chúa với luật của tự nhiên.
Trào lưu có khuynh hướng xã hội chủ nghóa thời trung đại thể hiện chủ nghóa cộng sản
tiêu dùng, bình quân, khổ hạnh trong phạm vi từng công xã nhỏ.
Những trào lưu có khuynh hướng xã hội chủ nghóa thời trung đại mang tính vô chính
phủ. Họ cho rằng nhà nước và các tổ chức của nó là nguồn gốc của mọi tệ nạn xã hội và
không hề có ý thức về việc sẽ sử dụng nhà nước như công cụ để thực hiện cải tạo xã hội.
Nhìn chung, nhiều trào lưu có khuynh hướng xã hội chủ nghóa thời trung đại chủ
trương thay đổi đời sống xã hội không phải bằng con đường hành động cách mạng. Tinh
thần cách mạng đã không nẩy nở phát triển trong nhiều phong trào bởi vì trình độ ý thức
giác ngộ của những người tham gia phong trào không cao. Họ vốn là nông dân bò phá sản,
là thợ thủ công bò mất vai trò sản xuất độc lập, là những người lao động bò bần cùng
mang nặng mặc cảm về thân phận hèn mọn mà không hề nhận thấy vai trò tích cực của
mình trong quá trình phát triển của lòch sử.
Tuy nhiên trong lòch sử trung đại vẫn ghi nhận những ngoaiï lệ. Đó là sự xuất hiện của
những phong trào dò giáo xã hội chủ nghóa mang tính cách mạng ở nhiều nước vào các
thế kỷ khác nhau.
- Trước hết là phong trào Đônsinô (thế kỷ XIII, Bắc Ý). Những cuộc khởi nghóa và
chiến tranh nông dân ở Italia sôi sục nổ ra đã ảnh hưởng đến giáo phái Đônsinô. Đônsinô
cho rằng “giang sơn thánh thần” sẽ được xác lập dựa trên tiền đề là những phong trào
cách mạng của nông dân. Sau một năm phong trào thất bại.
- Phong trào Giôn Bôn (thế kỷ XIV, Anh) là một trong những phong trào dò giáo diễn
ra trong bối cảnh quan hệ phong kiến tan rã nhanh chóng ở Anh. Giôn Bôn, giáo só bình
dân Anh, nhà tư tưởng dò giáo nông dân và bình dân thuộc phái Lônlac. Giôn Bôn là một
trong những lãnh tụ của cuộc khởi nghóa nông dân năm 1381 tại Uốt Tailơ, có tư tưởng
phản kháng ách bóc lột rất tiến bộ. Ông chỉ ra rằng chính nhờ lao động của những người
nông dân cùng khổ mà bọn quý tộc có thể sống xa hoa phè phỡn trong các lâu đài sang

trọng. Theo ông, cuộc sống ở Anh sẽ không tốt hơn chừng nào mà chưa co chế độ tài sản
chung, chưa hết quý tộc và nông nô, chưa có sự bình đẳng… Dựa vào Kinh thánh, Giôn
4

C. Mác - Ph.Ăngghen: Tuyển tập, NXB Sự thật, Hà Nội, 1981, t.2, tr.206


Bôn phê phán sự bất bình đẳng. “Quyền hành của họ từ đâu ra- Giôn Bôn nói về quý tộc,
nếu như họ không phải là những kẻ tiếm quyền? Bởi vậy thời am đào đất còn Eva dệt
vải thì đâu đã có quý tộc.”5. Cuộc khởi nghóa cũng chỉ tồn tại khoảng một năm. Giôn Bôn
bò kết án tử hình.
- Phong trào Taborít là đỉnh cao của chủ nghóa cộng sản dò giáo trung cổ nổ ra vào
thế kỷ XV ở Tiệp Khắc. Lúc bấy giờ Tiệp Khắc là một trong những nước phát triển nhất
châu Âu và tập trung những mâu thuẫn gay gắt giữa các tập đoàn xã hội. Tại đây Giáo
hội Cơ đốc giáo đã cùng giới thương nhân gắn chặt với nhà nước quân chủ chuyên chế áp
bức bóc lột nhân dân lao động một cách tàn nhẫn. Khi nhà truyền giáo Ian Gaxơ bò Hội
nghò Giáo hội thiêu sống đã trở thành nguyên cớ trực tiếp của cuộc cách mạng năm 1419.
Những người khởi nghóa chia làm hai phái: phái ôn hòa (trung tâm là thành phố Praha),
phái dân chủ cấp tiến (trung tâm là thành phố Taborơ).
Phái dân chủ cấp tiến còn gọi là phái Taborít. Nguyên tắc chung của phái này vẫn là
những nguyên tắc của các phong trào dò giáo cộng sản chủ nghóa trước đó. Khẩu hiệu
chung vẫn là “giang sơn ngàn năm của Chúa”, “mọi người đều bình đẳng, mọi của cải
đều là của chung”… Ph.Ăngghen nhận xét rằng ở phái Taborit “ đã xuất hiện xu hướng
cộng hòa dưới cái vỏ thần quyền, xu hướng đó sau này được tiếp tục phát triển ở những
đại biểu của bình dân Đức vào cuối thế kỷ XV và đầu thế kỷ XVI”6.. Trong quá trình
phát triển của cách mạng từ năm 1419 -1434 phong trào Taborít lại phân hóa thành phái
hòa bình và phái cực tả.
+ Phái hòa bình chủ trương không chống nhà nước bằng vũ khí mà bằng cách không
tham gia vào nhà nước.
+ Phái cực tả phủ nhận chế độ tư hữu, phủ nhận hôn nhân gia đình, chủ trương không

phụ thuộc bất kỳ mệnh lệnh nào từ bên ngoài, muốn quay về cuộc sống của Adam và
Eva như trong truyền thuyết tôn giáo. Do đó phái này tự gọi là phái amít.
Phái amít đã bò phái hòa bình tiêu diệt. Nhưng sau đó phái hoà bình cũng tự từ bỏ
những yêu cầu chống nhà nước và chấp nhận chế độ tư hữu.
- Phong trào Tômát Muynxơ là phong trào dò giáo cộng sản chủ nghóa ở Đức vào đầu
thế kỷ XVI. Nền công nghiệp của nước Đức trong giai đoạn này không được phát triển
như các nước khác ở Tây Âu nhưng những phường hội thủ công nghiệp thành thò cũng đã
thay thế phường hội thủ công nghiệp phong kiến nông thôn và đáp ứng được nhu cầu
rộng lớn của xã hội. Về chính trò nước Đức chưa thống nhất lãnh thổ và chưa tập trung
quyền lực. Cơ cấu giai cấp phức tạp gồm: giai cấp quý tộc, tầng lớp hiệp só, giới tăng lữ,
tầng lớp bình dân. Cuộc đấu tranh của tầng lớp bình dân này nhằm chống lại các giai cấp
và tầng lớp bên trên là không tránh khỏi. Một trong những phong trào đấu tranh của tầng
lớp bình dân là phong trào Tômát Muynxơ. Tômát Muynxơ (Thomas Munzer) sinh tại
Xtônbéc vào năm 1490, xuất thân trong một gia đình thợ mỏ. Năm 15 tuổi ông lập trong
trường một hội kín chống giám mục Mơbua và nhà thờ La Mã. Ông là tiến só thần học
5
6

C.Mac- Ph.Ăngghen: Tuyển tập, tập 2,NXB. Sự thật, Hà Nội, 1981, , tr.208
C.Mac-Ph.Ăngghen: Tuyển tập, t.2,NXB.Sự thật, Hà Nội 1981, tr.209


và làm tu só ở Halơ. Theo ông, vấn đề ở Đức lúc này là cải cách tôn giáo và lập lại trật
tư cho nước Đức. Tômát Muynxơ là đại biểu của phái cải cách tôn giáo cực đoan, thể
hiện những yêu sách của nông dân và các tầng lớp bình dân khác.
Năm 1520, ông đến Xơvichxcau truyền đạo và tập hợp những người tin vào thuyết
“nước Chúa ngàn năm”. Xơvichxcau trở thành một trung tâm có khuynh hướng chống
Gíao hội bằng bạo lực vũ trang. Tômát Muynxơ tuyên bố sẽ vận động dân chúng đứng
lên làm loạn. Với tư tưởng táo bạo và quả quyết, Muynxơ công khai hoạt động với tư
cách là một nhà cổ động chính trò. Nội dung tuyên truyền của ông ngày càng có tính chất

phiếm thần luận. Ông cho rằng: thần linh không tồn tại ngoài con người. Thần linh chính
là lý tính của con người. Lòng tin là sự thức tỉnh của lý tính. Khi con người có niềm tin và
lý tính thì con người giống với thần thánh và có thể giành lấy hạnh phúc cho mình. Các
tín đồ của Chúa phải thiết lập thiên đường trên mặt đất. Không có thiên đường, đòa ngục
nào sau khi mất. Không có quỷ dữ nào ngoài dục vọng xấu xa của con người. Chính vì
thế Ăngghen nhận đònh: tôn giáo của Muynxơ là gần với thuyết vô thần. Cương lónh
chính trò của ông đã đề ra những điều kiện để giải phóng cả những phần tử vô sản bắt
đầu xuất hiện trong đám bình dân chứ không chỉ dừng lại ở yêu sách thiết lập “giang sơn
ngàn năm của Chúa”. Cương lónh chính trò ấy gần với chủ nghóa cộng sản.
Chính Muynxơ tổ chức hiệp hội ở nhiều vùng và cho xuất bản những văn kiện đả kích
bọn áp bức, bóc lột, dựng lên một bức tranh xã hội bình đẳng và kêu gọi: “Hãy chiến
đấu! Thắng lợi của chúng ta sẽ dẫn bọn bạo chúa đến chỗ diệt vong”. Muynxtơ đã trở
thành nhà tiên tri của cách mạng và kêu gọi lật đổ chế độ đương thời “bằng sự phê phán
của vũ lực”7 Phong trào cách mạng của quần chúng ngày càng dâng cao, đỉnh điểm là
cuộc khởi nghóa tháng Tư năm 1525. Nhiều nơi hưởng ứng, như vùng Sơvaben,
Phơrăngken, Thuyrinhken và Dăcsen. Muynxơ là một trong những lãnh tụ của cuộc cách
mạng. Năm 1526, phong trào thất bại. Muynxơ bò thương và bò bắt tra tấn dã man. Cuối
cùng ông bò chém vào năm 38 tuổi. Theo Ăngghen, “chỉ ở Muynxtơ, những tia tư tưởng
cộng sản mới lần đầu trở thành biểu hiện của những khát vọng của một bộ phận hiện
thực trong xã hội, chỉ ở ông ta lần đầu tiên chúng mới được diễn đạt rõ rệt đến một mức
độ nhất đònh, và bắt đầu từ ông ta chúng ta thấy chúng dần dần hoà thành một với phong
trào vô sản hiện đại; cũng giống như trong thời trung cổ, cuộc đấu tranh của nông dân tự
do chống sự thống trò phong kiến đang ngày càng ràng buộc họ, hòa làm một với những
cuộc đấu tranh của nông nô và nông dân phụ thuộc để thủ tiêu hoàn toàn ách thống trò
phong kiến”8 ,”Muynxtơ là một nhà dân chủ chân chính có thể có vào lúc bấy giờ”ø 9.
Chủ nghóa xã hội chủ nghóa dò giáo ở Đức tiếp tục với phái “Rửa tội lại”. Tinh thần
của phái “Rửa tội lại” đã thể hiện trong cuộc khởi nghóa ở thành phố Muynxtơ vào những
năm 40 của thế kỷ XVI. Những người khởi nghóa đã giành được chính quyền và thực hiện
nhiều cải cách chính trò- xã hội theo cương lónh của phái “Rửa tội lại”. Sau hơn một năm,
thành bang Muynxơ đã sụp đổ trước sự tấn công của nhà nước quân chủ chuyên chế và

Giáo hội.
7

C.Mac-Ph.Ăngghen:Tuyển tập,t.2, NXB. Sự thật, Hà Nội 1981, tr.222.
C.Mac-Ph.Ăngghen :Tuyển tập,t.2, NXB.Sự thật, Hà Nội 1981, tr.211.
9
C.Mac-Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.2,NXB.Sự thật , Hà Nội, 1983, tr.134.
8


Chương II

TƯ TƯỞNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA THẾ KỶ XVI Ở NƯỚC ANH

I. HOÀN CẢNH LỊCH SỬ CỦA NƯỚC ANH VÀO THẾ KỶ XVI

Về kinh tế, tại Anh nền kinh tế tư bản chủ nghóa phát triển rất sớm. Chế độ nông nô bò
thủ tiêu từ cuối thế kỷ XIV do những cuộc khởi nghóa của nông dân và sự nảy sinh của
mối quan hệ sản xuất tư bản chủ nghóa. Đa số nông dân trở thành nông dân tự do vào thế
kỷ XV. Đầu thế kỷ XVI có những biến đổi lớn trong nông nghiệp Anh với sự xuất hiện
của những yếu tố tư bản chủ nghóa như những trang trại của phú nông. Do tham gia vào
nền sản xuất hàng hóa mà một ít nông dân trở nên giàu có. Họ tìm cách mở rộng trang
trại, thuê cố nông – những nông dân bò phá sản, qua đó bóc lột sức lao động của những cố
nông này. Như vậy những trang trại này đã biến thành cơ sở sản xuất nông nghiệp mang
tính chất tư bản chủ nghóa. Tuy nhiên nhìn chung thì số nông dân làm thuê còn ít và bản
thân phú nông cũng tham gia lao động, nên tính chất tư bản chủ nghóa chưa sâu sắc.
Ngoài ra, những nông trang của đòa chủ phong kiến cũng ra đời. Trước nhu cầu to lớn về
các mặt hàng nông sản của thò trường, các đòa chủ thay đổi cách bóc lột: sử dụng sức lao
động của người làm thuê thay cho nông dân lệ thuộc. Bản thân những quý tộc phong kiến
ở nông thôn này đã trở thành quý tộc mới- quý tộc đã tư sản hóa. Những trại ấp của các

nhà tư sản nông nghiệp cũng là biểu hiện của yếu tố tư bản chủ nghóa trong nông nghiệp.
Những nhà tư sản này vốn là nông dân giàu có hoặc là thò dân khá giả, thuê đất của lãnh
chúa lập ra trại ấp. Như vậy, kinh tế nông nghiệp phong kiến dần được thay thế bởi nông
nghiệp tư bản chủ nghóa.
Trong thủ công nghiệp có thêm nhiều ngành nghề với kỷ thuật mới, đặc biệt là ngành
công nghiệp dệt len dạ. Quy mô lẫn số lượng công trường thủ công ngày càng tăng.
Công trường thủ công là hình thức sản xuất mang tính chất tư bản chủ nghóa đầu tiên
trong lónh vực công nghiệp. Công trường thủ công có hai dạng chính: công trường thủ
công phân tán và công trường thủ công tập trung. Về bản chất hai dạng này là giống
nhau. Sự xuất hiện của công trường thủ công phân tán gắn liền với hoạt động của lái
buôn bao mua. Những thợ thủ công làm việc tại nhà theo yêu cầu của lái buôn nên trên
thực tế thì những người thợ này hợp thành tập đoàn sản xuất. Tuy công trường này vẫn
mang hình thức sản xuất nhỏ nhưng đã bước đầu có sự phân công lao động: mỗi loại thợ
thủ công chỉ làm một khâu trong quá trình hoàn thành sản phẩm. Còn công trường thủ
công tập trung ra đời chủ yếu là do những thợ thủ công khá giả. Những người thợ này mở
rộng quy mô sản xuất, thuê các thợ thủ công không có tư liệu sản xuất. Tính chất tập
trung của lao động thể hiện rõ. Sự phân công lao động trong những công trường này đã
đến mức tỉ mỉ. Công cụ sản xuất được cải tiến thường xuyên. Những công trường này đặt
cơ sở cho việc thiết lập nền đại công nghiệp tư bản chủ nghóa sau này.
Sản xuất hàng hóa tư bản chủ nghóa phát triển kéo theo sự phát triển của thương
nghiệp và nghề hàng hải. Thương nhân Anh đi khắp nơi. Sự giàu có về tài nguyên cùng


sự dồi dào sức lao động ở các châu Á, châu Phi, châu Mỹ đã góp phần thúc đẩy sự phát
triển của chủ nghóa tư bản ở Anh.
Như vậy thời kỳ tích luỹ ban đầu của chủ nghóa tư bản đang diễn ra tại Anh gắn liền
với quá trình thay thế quan hệ sản xuất phong kiến lạc hậu bằng quan hệ sản xuất tư bản
chủ nghóa tiến bộ hơn.
Về xã hội, sự phát triển của kinh tế tất yếu dẫn đến sự biến đổi của cơ cấu giai cấp.
Trong xã hội Anh khi ấy giai cấp quý tộc phong kiến đang suy yếu nhưng vẫn nắm giữ

chính quyền. Để duy trì sự thống trò đang trên đà phá sản, chúng áp dụng các biện pháp
cai trò rất hà khắc.
Giai cấp tư sản mới nẩy sinh từ tầng lớp thò dân thời trung cổ, có thành phần xuất thân
phức tạp, khá mạnh về kinh tế nhưng chưa giành được thắng lợi quyết đònh về chính trò.
Lực lượng vô sản đang hình thành gồm những thợ thủ công, nông dân, dân nghèo thành
thò… bò phá sản. Một số làm thuê trong các công trường thủ công tư bản. Đây là lực
lượng tiền thân của giai cấp vô sản hiện đại. Một bộ phận không nhỏ khác lâm vào tình
trạng thất nghiệp, sống lang thang. Giai cấp nông dân cũng phân hóa thành những tầng
lớp khác nhau, như nông dân tự do, nông dân tá điền, cố nông.
Trong xã hội có hai mâu thuẫn cơ bản: mâu thuẫn giữa quý tộc phong kiến với giai
cấp tư sản, và mâu thuẫn giữa các giai cấp giàu có bóc lột với đông đảo quần chúng
nhân dân lao động mong thoát thảm cảnh xã hội.
Về văn hóa tư tưởng, có hai phong trào ảnh hưởng đến đời sống tinh thần của nước
Anh đương thời. Một là, phong trào Văn hoá phục hưng. Đây không chỉ là phong trào
phục hồi văn hoá Hy - La cổ đại đơn thuần mà nó mang nội dung mới, một ý thức giai
cấp mới - ý thức hệ tư sản. Phong trào bắt đầu ở Italia từ thế kỷ XIV. Sau đó, phong trào
Văn hoá phục hưng truyền sang Pháp, và nhiều nước khác ở Tây và Trung Âu. Tính chất
phản phong và chống lại Giáo hội, đề cao giá trò con người và tự do cá nhân thể hiện
trong phong trào là những nét tiến bộ của nó. Tính chất nhân bản của phong trào Văn hoá
phục hưng còn thể hiện ở việc đề cao tinh thần dân tộc. Phong trào Văn hoá phục hưng
để lại tên tuổi của nhiều nhà văn thơ lớn, như Đantê (1265-1321), Xecvantec (15471616), Sếchxpia (1564-1616)… Hai là phong trào cải cách tôn giáo. Phong trào cải cách
tôn giáo khởi đầu tại Đức vào thế kỷ XVI, hai đại biểu của phong trào cải cách tôn giáo
ở Đức thế kỷ XVI là Mactin Luthơ (1483 - 1546), cải cách ôn hòa), và Tômát Muynxơ
(1490 - 1528, cải cách cực đoan), đãø xâm nhập vào nước Anh dẫn đến sự ra đời của Anh
giáo.
Cả hai phong trào trên phản ánh hệ tư tưởng của giai cấp tư sản và phục vụ cho lợi ích
của giai cấp này, góp phần hình thành trào lưu nhân đạo chủ nghóa mà Thôma Morơ là
một đại biểu xuất sắc.



II. “KHÔNG TƯỞNG” - SỰ MỞ ĐẦU CÁC TRÀO LƯU XHCN VÀ CỘNG SẢN CHỦ
NGHĨA THỜI CẬN ĐẠI
1. Thôma Morơ và tác phẩm Không tưởng

Thôma Morơ (Thomas More, 1478- 1535) sinh trong một gia đình trí thức và là người
có học thức sâu rộng, là nhà văn xuất sắc, có tinh thần nhân đạo cao cả. Năm 26 tuổi ông
tham gia hoạt động chính trò, trúng cử vào nghò viện và phụ trách về ngoại giao. Năm
1529 ông trở thành Huân tước tể tướng nước Anh. Morơ tìm cách thay đổi các chính sách
hà khắc lúc bấy giờ. Đó là nguyên nhân gây mâu thuẫn giữa ông và nhà vua. Những
quan điểm nhân đạo và tiến bộ của ông bò vua Henry VIII quy kết thành tội “phản quốc”.
Sau 15 tháng bò giam cầm, Morơ bò xử tử vào ngày 6-7-1535.
Nhiều tác phẩm của Morơ đã ảnh hưởng đến đời sống tư tưởng lúc bấy giờ. Trong số
đó tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là Cuốn sách nhỏ vừa lý thú vừa bổ ích nói về chế độ
nhà nước nhà nước tốt đẹp nhất và hòn đảo Không tưởng. Không tưởng – utopi - theo
nguyên nghóa tiếng Hy Lạp là “không tồn tại ở đâu cả”. Tác phẩm này được viết vào
năm 1514, xuất bản bằng tiếng Latin sau đó 2 năm tại thành phố Luven (Bỉ), thường được
gọi tắt là Không tưởng. Đây là tác phẩm văn học viễn tưởng- một hình thức văn học phổ
biến đương thời. Tác phẩm đã thể hiện sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa trình độ học thức
cao, kinh nghiệm thực tiễn phong phú, sự nhạy cảm về chính trò cùng với tấm lòng nhân
đạo cao cả của tác giả.
2. Những quan điểm XHCN trong tác phẩm Không tưởng

Xét về nội dung, tác phẩm gồm hai phần.
Nội dung thứ nhất trong Không tưởng là phê phán xã hội đương thời. Đó là xã hội
phong kiến suy tàn với những quan hệ sản xuất tư bản chủ nghóa đang nẩy sinh. Đối với
chế độ phong kiến, Morơ lên án chính sách đối nội hà khắc và chính sách đối ngoại xâm
lược của bọn vua chúa. Những cuộc chiến tranh xâm lược đã tàn phá những nước bò xâm
lược đồng thời nó cũng gây tai họa cho nhân dân trong nước. Ở một mức độ nhất đònh,
More đã đoán ra bản chất của nhà nước. Ông viết: “qua việc nghiên cứu nhiều lần và kỹ
lưỡng những nhà nước phồn hưng thời này, tôi có thể khẳng đònh chắc chắn rằng chúng

không phải là cái gì khác ngoài mưu đồ của bọn nhà giàu trục lợi cá nhân dưới danh
nghóa và chiêu bài nhà nước.” Về thực chất, ông đã tiến tới nhận thức vai trò áp bức của
nhà nước khi ông mô tả tính chất phản nhân dân của nó. Những đạo luật đương thời đều
bảo vệ quyền lợi của những kẻ giàu có và không liên quan gì đến công lý. Nhà vua và
quan lại, quý tộc chỉ biết bóc lột và đàn áp nhân dân lao động. Những kẻ ăn bám ấy hợp
thành một lực lượng đông đảo, sống xa hoa lãng phí trong khi nhân dân lao động đói rách
lầm than. Đây chính là tệ nạn xã hội đầu tiên và cơ bản của xã hội. Morơ đã kêu gọi:
Hãy ngăn chặn hành động vơ vét của bọn nhà giàu, sự độc đoán của những kẻ chuyên
quyền, bắt chúng ăn ít đi nhưng làm thì nhiều hơn.
Đối với chủ nghóa tư bản, Morơ đặc biệt ghê tởm quá trình tích luỹ ban đầu của nó.
Quá trình này gắn liền với quá trình vô sản hóa người nông dân (tước đoạt ruộng đất).
Mượn lời nhận xét mỉa mai của Raphaen Ghítlôđây – một nhân vật trong truyện:
“…Những con cừu vốn hiền lành của các ngài thường ngày nó hiền lành, ăn rất ít là cũng


đủ rồi… thế mà bây giờ nghe nói chúng đã trở nên háu ăn và bất trò, đến mức ăn cả thòt
người, làm cho ruộng đồng, nhà cửa và thành phố bò phá sản tan hoang…”, Morơ đã khắc
họa quá trình này bằng hình tượng “cừu ăn thòt người” quái dò nhưng có thật, hình tượng
được Mác hai lần nhắc đến trong chương 24 của bộ Tư bản.
Trong buổi bình minh của chủ nghóa tư bản, những người lao động Anh đã phải làm
việc như súc vật từ 14-18 giờ/ ngày mà cuộc sống của họ vẫn khốn cùng. Nhiều người
trong số họ không thể sống một cách lương thiện. Điều ấy không thể không gây những ấn
tượng sâu sắc đối với con người nhân đạo chủ nghóa như Morơ. Trong Không tưởng, Morơ
đã nghiêm khắc lên án sự bóc lột lao động làm thuê của giai cấp tư sản Anh.
Điều đáng quý nhất và cũng là cái mới nhất trong Không tưởng là Morơ đã nhận thức
được nguyên nhân cơ bản của thực trạng là chế độ tư hữu. Theo Morơ, với chế độ tư hữu
thì không thể nói đến sự công bằng và hạnh phúc xã hội. Trong chế độ tư hữu mọi người
sẽ tìm cách chiếm lấy cái mà mình muốn. Khi ấy dù của cải có nhiều đến đâu thì cuối
cùng của cải cũng rơi vào tay một số ít người lang sói và không chân thật. Trong một nhà
nước có chế độ tư hữu thì dù có ban hành bao nhiêu đạo luật cũng vô ích. Những đạo luật

ấy không có hiệu lực. Một con đường duy nhất đi tới hạnh phúc của xã hội là thừa nhận
nguyên tắc bình đẳng về tài sản. Nhưng bình đẳng và tư hữu là không dung hòa với nhau
được. Vì vậy cần thủ tiêu chế độ tư hữu. Những trang cuối cùng của phần thứ nhất trong
Không tưởng bàn luận về chế độ tư hữu là kết luận chung sau khi Morơ phê phán xã hội
đương thời cũng chính là tiền đề để ông miêu tả xã hội công bằng Không tưởng.
- Nội dung thứ hai của tác phẩm tạo nên sức hấp dẫn chủ yếu của Không tưởng là ở
dự án tổng thể về xã hội tốt đẹp mà nền văn hóa cổ đại chưa thểå phác họa. Xã hội
Không tưởng là một khối kinh tế thống nhất dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản
xuất và tư liệu tiêu dùng được tổ chức theo nguyên tắc cai trò bình đẳng. Khác với các
phong trào xã hội trước đó thường tuyên truyền sự cộng đồng là hợp với ý Chúa, Morơ
đã chứng minh sự cộng đồng là tốt đẹp nhất vì hợp lý trí nhất, và phù hợp nhất với lợi ích
trần thế của con người. Ở đây, Morơ đã giải thoát tính cộng đồng khỏi cái vỏ tôn giáo.
Trong xã hội Không tưởng, thành phố là nơi tổ chức trực tiếp sản xuất. Trong thành
phố, nghò viện là cơ quan tối cao của nhà nước có trách nhiệm tổ chức sản xuất, kiểm kê,
phân phối sản phẩm, phân bố và điều tiết lao động, làm công việc ngoại thương…
Tế bào kinh tế trong Không tưởng là gia đình – kinh tế, có thể bao gồm cả những
người không cùng huyết thống miễn là cùng làm một nghề thủ công nhất đònh. Hệ thống
kinh tế bao trùm trong xã hội Không tưởng là hệ thống thủ công nghiệp. Nghề thủ công
là công việc chủ yếu của người lao động. Trong xã hội Không tưởng nền nông nghiệp
bao gồm cả chăn nuôi lẫn trồng trọt. Lao động nông nghiệp là nghóa vụ chung của mỗi
công dân. Thời gian lao động nông nghiệp là 2 năm dưới hình thức luân phiên. Như thế
trong xã hội Không tưởng không còn nông thôn đúng nghóa mà chỉ có những trang trại để
người thành phố đến lao động nông nghiệp theo nghóa vụ. Hết thời hạn họ trở về thành
phố để làm những ngành nghề khác (thường là nghề thủ công).
Trong Không tưởng tất cả mọi người đều lao động một cách hăng say nên sản phẩm
lao động rất dồi dào. Mọi sản phẩm đều được nộp vào kho công cộng. Theo Morơ, nhờ


vậy có thể thực hiện phân phối theo nhu cầu. Tất nhiên trong điều kiện sản xuất còn ở
trình độ thấp như lúc bấy giờ, Morơ chỉ có thể dừng lại ở quan niệm thoả mãn những nhu

cầu tối thiểu: Trong xã hội mỗi người không đòi hỏi cái mà xã hội không có khả năng
cung cấp.
Trong quan niệm kinh tế, Morơ đã có một bước tiến dài từ lónh vực tiêu dùng đến
lónh vực sản xuất. Morơ là người đầu tiên quan tâm đến sự cộng đồng trong sản xuất và
đây là trọng tâm chú ý của ông mặc dù ông cũng không hề chống lại việc tổ chức tiêu
dùng chung. Những nhà ăn tập thể được xây dựng trong xã hội Không tưởng nhưng các
gia đình có thể nhận thực phẩm ở các chợ công cộng và tổ chức ăn uống trong gia đình.
Theo Morơ, tính chất cá thể của việc ăn uống không phải là mối nguy hại đối với chế độ
tư hữu. Mối nguy hại ấy chính là thái độ cá nhân chủ nghóa đối với nhà ở và ruộng đất.
Vì thế trong xã hội Không tưởng không ai có quyền sở hữu đối với nhà cửa và ruộng đất.
Mỗi gia đình sẽ được phân phối nhà cửa theo lối bốc thăm cứ 10 năm/ lần.
Khi phác họa xã hội Không tưởng ông đã hình dung ngoài thời gian lao động (6
giờ/ngày), mỗi người sẽ dành thời gian còn lại cho nghỉ ngơi (8 giờ/ngày), cho hoạt động
văn hoá, khoa học, nghệ thuật, vui chơi giải trí (10 giờ/ngày). Bởi theo Morơ, hạnh phúc
của con người được đo bằng sự thỏa mãn những nhu cầu vật chất và cả thời gian nhàn rỗi.
Cần phải làm cho người dân thoát khỏi sự nô lệ về vật chất, thể xác và dành nhiều thời
gian hơn cho sự tự do tinh thần và mở mang trí tuệ.
Trên phương diện chính trò Morơ đưa ra những dự kiến độc đáo. Trong xã hội Không
tưởng nhà nước được tổ chức vì nhu cầu của xã hội, vì hạnh phúc của con người và có
chức năng cơ bản là kiểm kê, điều hành lao động… Các quan chức được bầu: những quan
chức cấp thấp do các người cha trong gia đình bầu ra, và những quan chức cấp thấp sẽ
bầu ra quan chức cấp cao. Các quan chức có thể bò bãi miễn, nhưng nhìn chung thì họ là
những người “không hề tỏ ra ngạo mạn và gây sợ hãi… được gọi là Cha và hành động
xứng danh với mình…”. Những việc quan trọng đều được bàn luận tại Hội nghò nhân dân
toàn đảo hoặc Hội nghò các đội trưởng. V.P.Vônghin (1879-1963) gọi đó là một thể chế
chính trò dựa trên sự bình đẳng và tự do của toàn thể.
Tính chất dân chủ không chỉ thể hiện trong chế độ quản lý mà còn trong cả việc tổ
chức giáo dục. Mọi trẻ em không phân biệt nam nữ đều được giáo dục như nhau trong hệ
thống giáo dục công cộng. Đối với thanh niên thì giáo dục cao cấp là bắt buộc. Sự giáo
dục không chỉ bằng sách vở mà còn bằng thực tiễn với việc học nghề thủ công và nông

nghiệp.
Trong lónh vực hôn nhân gia đình, xã hội Không tưởng quy đònh tuổi thành hôn của nữ
là từ 18 tuổi, của nam là từ 22 tuổi trở lên. Morơ nêu lên quan điểm hôn nhân tự do, mọi
người có quyền lựa chọn vợ hoặc chồng. Chế độ hôn nhân 1 vợ –1 chồng được xã hội
bảo vệ. Quyền ly hôn được thừa nhận nhưng rất ít khi xảy ra bởi vì xã hội Không tưởng
luôn giáo dục quan niệm“ đi tìm một cuộc hôn nhân mới ít có lợi hơn việc củng cố tình
yêu vợ chồng”.
Xã hội Không tưởng là xã hội có tôn giáo nhưng là một tôn giáo được duy lý hóa tức
tôn giáo đã gạt bỏ những yếu tố mà lý trí cho là có hại đối với cuộc sống xã hội và cá


nhân. Điều lý thú là khi cuộc cải cách tôn giáo chỉ mới bắt đầu nhưng Morơ đã đưa vào
xã hội Không tưởng những đường nét dò giáo như: thực hiện chế độ bầu cha cố, tôn thờ
những người có đạo đức…
Thể hiện ước mơ của Morơ - cũng là của nhân dân lao động, xã hội Không tưởng là
một xã hội yêu chuộng hòa bình. Những cư dân của Không tưởng rất căm ghét chiến
tranh xâm lược. Họ xem đó là điều dã man tàn ác, và sẵn sàng “tiến hành chiến tranh để
bảo vệ bờ cõi của mình, để đuổi kẻ thù, hoặc vì lòng nhân ái đối với nhân dân một nước
nào đó bò chế độ tàn bạo áp bức, họ cần dùng lực lượng của mình để giải phóng nhân dân
nước đó khỏi ách tàn bạo và nô lệ”.
Như vậy, Morơ đã bênh vực những con người cụ thể- những con người lao động bò áp
bức bóc lột đang chết dần mòn trong xã hội tối tăm ngột ngạt đương thời. Với sự phẫn nộ,
Morơ đã vẽ lên một bức tranh toàn cảnh của xã hội phong kiến phản động đang suy tàn
và đưa vào đó những chi tiết mới do chủ nghóa tư bản đem lại. Cũng với tấm lòng vì con
người, Morơ đã dành cho con người những gì tốt đẹp nhất trong xã hội Không tưởng của
mình. Trên mọi lónh vực của xã hội này Morơ đều hướng đến việc đem lại cho con người
cuộc sống đầy đủ, tự do và hạnh phúc. Có thể nói, không có cái gì thuộc về con người mà
Morơ không quan tâm một cách sâu sắc.
Tất nhiên Không tưởng còn nhiều hạn chế. Không tưởng chỉ là một tác phẩm văn học
viễn tưởng, không phải là tác phẩm lý luận, càng không là cương lónh cách mạng. Trong

lời kết luận, chính Morơ tự thừa nhận: “…trong nhà nước của xã hội Không tưởng có
nhiều cái mà tôi có thể chúc cho các nước của chúng ta hơn là hy vọng rằng cái đó sẽ
xảy ra …”. Tự bản thân Morơ cũng không tin một xã hội tốt đẹp như thế là có thực.
Trong Không tưởng vẫn còn nhiều mâu thuẫn. Morơ mong muốn xã hội văn minh nhưng
trong Không tưởng vẫn còn tồn tại những hình phạt man rợ, vẫn duy trì hình thức lao động
nô lệ cưỡng bức. Morơ muốn phát triển nền kinh tế hàng hóa - tiền tệ nhưng lại phản đối
tiền, vàng…
Mặc dù vậy, với tác phẩm Không tưởng, Morơ là người đầu tiên nêu ra mô hình
tương đối toàn diện và chi tiết về xã hội xã hội chủ nghóa, trong đó nét đặc sắc nhất là tư
tưởng xóa chế độ tư hữu và đề cao sự thống nhất về sản xuất. Morơ đã dũng cảm phê
phán xã hội đương thời, phát triển tư tưởng nhân đạo của mình đến mức nêu lên được
một mô hình xã hội cao hơn rất nhiều so với trình độ ý thức xã hội đương thời. Với những
giá trò tư tưởng ấy, Không tưởng được thừa nhận là tác phẩm mở đầu các trào lưu xã hội
chủ nghóa thời cận đại. Và từ Không tưởng trở thành tính từ gắn với những trào lưu tư
tưởng xã hội chủ nghóa trước Mác.


Chương III

NHỮNG TƯ TƯỞNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA THẾ KỶ XVII

Trong thế kỷ XVII, những tư tưởng xã hội chủ nghóa không tưởng đặc sắc nhất được
thể hiện trong các tác phẩm của Tômô Campanenla (Italia) và Giêrắc Uynxtenly
(Anh).
I. NHỮNG TƯ TƯỞNG XHCN CỦA TÔMÔ CAMPANENLA (1568 -1639)
1. Hoàn cảnh lòch sử của Italia vào thế kỷ XVII

Trong khoảng từ thế kỷ XIV-XV, Italia là một trong những nước phát triển nhất châu
Âu về mọi mặt. Nhưng Italia vẫn chưa thống nhất được thò trường trong nước. Nền kinh tế
lại phụ thuộc vào thò trường thế giới, nhất là thò trường châu Âu.. Đến cuối thế kỷ XVI đầu thế kỷ XVII, kinh tế Italia lâm vào khủng hoảng. Trong xã hội có nhiều giai cấp,

tầng lớp phức tạp: quý tộc phong kiến, Giáo hội - tăng lữ, tư sản mới, nông dân, thợ thủ
công… Mâu thuẫn giữa các giai cấp tầng lớp về mặt lợi ích ngày càng gay gắt, đối
kháng.
Thực dân Pháp, Đức, Tây Ban Nha giành nhau quyền bá chủ Italia và đã xâu xé đất
nước này. Cuối cùng miền Nam Italia bò thực dân Tây Ban Nha chiếm. Kinh tế khủng
hoảng, chiến tranh tàn phá, những cuộc xung đột nội bộ… đã đẩy nhân dân lao động
Italia vào tình cảnh khốn cùng nhất châu Âu.
Mặc dù chính trò không ổn đònh, kinh tế thăng trầm nhưng trong khoảng thời gian từ
thế kỷ XIV đến thế kỷ XVII về phương diện tư tưởng - văn hóa ở Italia có sự phát triển
rõ rệt với nhiều nhà khoa học, nhà tư tưởng nổi danh như Đantê (1265-1321)â, Galilê
(1564-1642)â, Lêôna Đơ Vanhxi (1452-1519), Tômô Campanenla (1568-1639),…
2. Tômô Campanenla và tác phẩm Thành phố Mặt Trời

Tômô Campanenla (Tommaso Campanella, 1568 -1639) sinh ở Calabri thuộc miền
Nam Italia trong một gia đình thợ thủ công làm giày. Tuy vậy ông đã được gia đình cố
gắng cho ăn học. Ông đã nghiên cứu thần học, triết học, văn học… trong các tu viện. Tác
phẩm đầu tay của ông là một tác phẩm triết học mang tên Triết học dựa trên cảm giác rất
nổi tiếng, xuất bản khi ông 23 tuổi. Chính vì những quan niệm chống lại triết học kinh
viện thời trung cổ thể hiện trong tác phẩm này mà ông bò toà án Giáo hội kết án 2 năm
tù. Từ năm 1598, ông tổ chức khởi nghóa chống thực dân Tây Ban Nha. Cuộc khởi nghóa
được chuẩn bò khá chu đáo, thu hút nhiều giai cấp tầng lớp nhân dân yêu nước. Tuy nhiên
âm mưu bại lộ, ông bò bắt giam 27 năm. Mặc dù bò tra tấn dã man, ông vẫn kiên cường
“… bò giam cầm mà vẫn tự do, một mình mà không đơn độc…” như ông viết. Ông tiếp
tục viết nhiều tác phẩm trong tù và bí mật chuyển ra ngoài. Năm 1626 khi ra tù ông lại
mưu sự khởi nghóa. Chỉ sau một tháng ông lại bò bắt giam 2 năm. Sau đó Campanenla bò
quản thúc trong tu viện. Cuối cùng ông buộc phải sống lưu vong ở Pháp để tránh sự giám
sát ngặt nghèo của kẻ thù. Trong những năm cuối đời ông vẫn phải luôn trốn tránh sự săn
đuổi âm mưu bức hại của Giáo hội.



Cơ sở triết học của những quan điểm có tính chất xã hội chủ nghóa của Campanenla
được thể hiện trong tác phẩm Triết học dựa trên cảm giác. Thế giới quan triết học của
ông vừa mang tính chất duy tâm chủ quan vừa mang màu sắc tôn giáo. Campanenla đã
khẳng đònh vai trò to lớn của nhận thức của con người trước thế giới. Ông là người đưa ra
luận điểm nổi tiếng: Tôi tư duy nên tôi tồn tại. Ông nhiệt thành bênh vực Galilê, cổ vũ
tinh thần tự do nghiên cứu khoa học.
Theo ông, Chúa là nguồn gốc sáng tạo muôn loài và hội tụ cảù ba yếu tố cơ bản - sức
mạnh, khôn ngoan và tình yêu. Ba yếu tố này bao trùm vũ trụ. Ông đặc biệt thần thánh
hóa mặt trời. Mặt trời là hiện thân của Chúa. Khái niệm Chúa của Campanenla có tính
chất phiếm thần luận khi ông đồng nhất Chúa với tự nhiên.
Tư tưởng xã hội chủ nghóa của Campanenla thể hiện trong tác phẩm Thành phố Mặt
Trời. Tác phẩm này được Campanenla viết vào mùa hè năm 1601 bằng tiếng Italia. Ông
tự dòch Thành phố Mặt Trời ra tiếng Latinh và xuất bản năm 1613. Tác phẩm ấy tái bản
tại Phơrăngphuốc bằng tiếng Đức (1623), tiếng Pháp (Pari, 1633), tiếng Nga (Pêtecbua,
1906). Thành phố Mặt Trời là một tác phẩm văn học viễn tưởng, được trình bày theo lối
kể chuyện. Truyện kể về một thủy thủ thám hiểm trên chiếc thuyền vượt biển và lạc vào
hòn đảo lạ. Trên hòn đảo này có một xã hội tốt đẹp. Đó là xã hội Thành phố Mặt Trời.
Những quan điểm có tính chất xã hội chủ nghóa đã được thể hiện trong sự mô tả chi tiết
các mặt của đời sống kinh tế, chính trò, văn hóa, xã hội của Thành phố Mặt Trời, đồng
thời Campanenla phê phán xã hội đương thời ở Italia bằng cách so sánh xã hội ấy với xã
hội lý tưởng theo mơ ước của Campanenla.
Xã hội Thành phố Mặt Trời dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Mọi cái
đều là của chung là sự phù hợp với luật tự nhiên. Chế độ tư hữu với sự phân chia cái “của
tôi”, “của anh” cần thủ tiêu bởi vì chế độ tư hữu là cội nguồn của những tệ nạn xã hội,
của bất công, đói nghèo, của sự tham lam chiếm đoạt. “… Do có tài sản riêng, nhà cửa,
vợ con mà con người nảy sinh lòng tự ái để cho con cái giàu có đòa vò vẻ vang, tài sản
lớn mà người ta tìm cách vơ vét nhà nước, giả nhân, giả nghóa, keo kiệt, phản bội…”.
Trong xã hội Thành phố Mặt Trời, những người có sức lao động đều làm việc theo
khả năng, không ai lười biếng, trộm cắp. Việc phân công lao động được thực hiện theo
hướng ưu tiên cho nữ. Nữ không phải lao động nặng nhọc tốn nhiều sức cơ bắp “… Việc

nghiên cứu khoa học, và nghề thủ công là việc chung của đàn ông và đàn bà; chỉ có một
điểm khác nhau là những nghề nặng nhất như cày bừa, gieo trồng, đập lúa, mộc rèn… thì
đàn ông làm; còn những việc vắt sữa, dệt, khâu vá, hội hoạ, âm nhạc… là của phụ nữ.”
Ngoài ra, Campanenla cho rằng con người cần bình đẳng nhưng mỗi người có những đặc
điểm, phẩm chất, năng khiếu, sở thích khác nhau do đó có thể làm việc và đóng góp cho
xã hội khác nhau. Vì vậy nhà nước phải có sự phân công, sử dụng, đãi ngộ… khác nhau.
Trong xã hội Thành phố Mặt trời, các ngành thủ công nghiệp, thương mại đều được
chú ý phát triển. Đặc biệt, việc nghiên cứu khoa học được chú trọng để góp phần nâng
cao đời sống của nhân dân.
Lao động nông nghiệp được coi là nghóa vụ, mọi người lần lượt thay nhau thực hiện.


Thời gian lao động trong xã hội Thành phố Mặt Trời chỉ là 4 giờ/ ngày, thời gian còn
lại dành cho hoạt động nghiên cứu khoa học, nghệ thuật…
Xã hội tôn trọng mọi ngành nghề, “Mỗi người dù được đặt vào công việc nào cũng
coi công việc của mình là vẻ vang nhất”. Thước đo giá trò chính là năng lực: những ai tài
giỏi đều được xã hội tôn trọng đến mức được xã hội gọi là “ vua”.
Hình thức lao động và quản lý là tổ chức tập thể (công xã). Những người giỏi, có uy
tín nhất được cử làm quản lý. Nhiều biện pháp quản lý được sử dụng: thi đua, tuyên
dương, trừng phạt…
Trong xã hội Thành phố Mặt Trời mỗi người đều nhận những thứ cần thiết cho nhu
cầu của bản thân ở các kho chung trong sự giám sát của nhà chức trách để đảm bảo cho
ai cũng “.. vừa giàu vừa nghèo…”- vì giàu có thì con người ngạo mạn, kiêu căng còn
nghèo nàn sẽ làm cho con người trở nên đê tiện, quỷ quyệt, gian lận. Theo Campanenla
việc phân phối bình quân theo nhu cầu như trong xã hội Thành phố Mặt Trời sẽ làm cho
ai cũng có tất cả (giàu) và cũng không ai có gì của riêng mình (nghèo). Quan niệm phân
phối này của Campanenla thể hiện rõ nét tính không tưởng, nó chỉ có thể tồn tại trong trí
tưởng tượng.
Trong xã hội Thành phố Mặt Trời mọi người đều thương yêu, tôn trọng nhau như
trong một gia đình. Không ai là nô lệ của ai. Những người già nua, neo đơn, tàn tật được

xã hội cưu mang, chăm sóc chu đáo.
Người đứng đầu nhà nước là “ông Mặt trời”- một linh mục. Dưới ông là những trợ lý
cao cấp: “đại biểu sức mạnh”, “đại biểu tình yêu”, “đại biểu trí tuệ”. Đó là 4 người được
dân lựa chọn và không bò bãi miễn, bò thay thế bởi đây là những người sáng suốt nhất,
hoàn hảo nhất.
Ông Mặt trời là người quyết đònh tối cao về mọi mặt. “Đại biểu sức mạnh” phụ trách
quân sự, bảo vệ tổ quốc. Nét độc đáo trong vấn đề quân sự ở Thành phố Mặt Trời là hệ
thống phòng thủ và tổ chức quân đội mang tính toàn dân. Thành phố Mặt Trời được bảo
vệ bằng một hệ thống phòng thủ kiên cố với bức tường thành gồm 7 vành đai mang tên 7
vì tinh tú. Mỗi vành đai có 4 cổng quay theo 4 hướng, có các pháo đài, súng thần công cỡ
lớn, hệ thống lỗ châu mai… Ngoài ra trên các bức tường đều có ghi những tri thức khoa
học cơ bản và có hệ thống phản âm, khuếch âm để truyền tin hoặc những giáo huấn của
các quan chức. “Đại biểu cho trí tuệ” phụ trách việc giáo dục, đào tạo, nghiên cứu khoa
học, văn học nghệ thuật, kiến trúc… “Đại biểu tình yêu” phụ trách những vấn đề sản
xuất, tổ chức, hôn nhân gia đình, sức khoẻ…
Dưới 4 người lãnh đạo này là những người quản lý do dân cử ra trong Hội nghò nhân
dân. Cứ mỗi tháng Hội nghò nhân dân được tổ chức 2 lần và lúc trăng non (đầu tháng) và
trăng tròn (giữa tháng), gồm những người từ 20 tuổi trở lên. Trong Hội nghò, toàn dân có
thể phê bình, góp ý, bãi miễn các quan chức (trừ 4 người tối cao). Như vậy theo nhà
nghiên cứu lòch sử tư tưởng xã hội chủ nghóa P.V.Vônghin thì nguyên tắc cai trò trong
Thành phố Mặt Trời là kết hợp giữa dân chủ với sự cai trò của những người khôn ngoan.


Xã hội Thành phố Mặt Trời được quản lý bằng các loại luật khác nhau. Đó là những
luật được soạn thảo ngắn gọn, dễ hiểu, dễ làm, dễ kiểm tra và được ghi chép công khai
trên các bức tường của thành phố. Toàn dân đều có quyền tham gia xét xử, kết tội, thi
hành án với nhiều mức án khác nhau (cảnh cáo, không cho ăn ở nhà ăn chung, đánh đòn,
rút phép thông công, tử hình…). Điều này thể hiện tính chất vô chính phủ. Một trong
những tội nặng nhất ở xã hội này là tội chống Chúa. Chỉ có 4 người lãnh đạo cao nhất
của Thành phố Mặt Trời mới có quyền giảm tội, ân xá. Như vậy nhà nước trong xã hội

Thành phố Mặt Trời thể hiện quan điểm dân chủ, bình đẳng và công bằng xã hội.
Quan điểm của Campanenla về văn hóa, giáo dục, y tế, thể dục thể thao, nghệ thuật
cũng thể hiện rõ tính chất xã hội chủ nghóa mà đến nay vẫn còn nguyên giá trò. Chẳng
hạn về giáo dục, ông chủ trương thực hiện chế độ giáo dục phổ cập toàn xã hội, vừa giáo
dục văn hóa cơ bản vừa chú ý giáo dục nghề nghiệp gắn với thực hành sản xuất. Xã hội
quan tâm đến việc giáo dục, bồi dưỡng tình yêu lao động, yêu tổ quốc, yêu con người với
phương châm sống: Điều gì anh không muốn thì đừng làm cho người khác và điều gì anh
muốn người khác làm cho mình thì hãy làm cho người khác. Trong xã hội Thành phố Mặt
Trời, việc chăm sóc sức khoẻ, từ ăn, mặc, ở... đều được xã hội lo chung (ăn tại nhà ăn tập
thể, ở trong những ngôi nhà được cấp để sử dụng cứ 6 tháng một lần, y phục mọi người là
như nhau…)
Trong xã hội Thành phố Mặt Trời, nam nữ có quyền tự do tìm hiểu và kết hôn. Ở đây,
không ai được có con trước 21 tuổi (nam), và 19 tuổi (nữ) và tuy trong cư dân không qui
đònh sự chung vợ chung chồng nhưngï chế độ ấy được chấp nhận tự nhiên bởi lẽ đơn giản
là ở họ có quan niệm tất cả đều là của chung….
Như vậy, với những quan niệm đặc sắc phản ánh khát vọng tự do, bình đẳng xã hội,
những tư tưởng nhân đạo phê phán ách áp bức bóc lột và chế độ tư hữu, bảo vệ lợi ích
nhân dân lao động, Campanenla là một nhà tư tưởng xã hội chủ nghóa xuất sắc trong thế
kỷ XVII. Tất nhiên Campanenla không tránh khỏi những hạn chế nhất đònh, như Ăngghen
nhận đònh, là còn “thô kệch”, “chưa được đẽo gọt”. Ông có những quan điểm chính trò xã hội duy tâm, quan niệm công bằng xã hội thô thiển, máy móc (chủ nghóa bình quân,
chủ nghóa tập thể), chủ nghóa cộng sản mang tính chất trại lính…
II. NHỮNG TƯ TƯỞNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA CỦA GIÊRẮC UYNXTENLI (1609 - 1652)
1. Hoàn cảnh lòch sử của nước Anh vào nửa sau thế kỷ XVII

Bước vào thế kỷ XVII, thành phần kinh tế tư bản chủ nghóa ngày càng phát triển
mạnh mẽ trong nền kinh tế ở Tây Âu. Trong cuộc cách mạng tư sản ở Anh, như C. Mác
nhận đònh, “giai cấp tư sản, liên minh với tầng lớp quý tộc mới, đã đấu tranh chống chế
độ quân chủ, chống giai cấp quý tộc phong kiến và chống Giáo hội thống trò” 1 Cách
mạng tư sản Anh thắng lợi vào năm 1640 nhưng chưa thật triệt để. Nước Anh tiếp tục trải
qua hai cuộc nội chiến (1642 -1646 và 1648 -1649). Đến đầu năm 1649, vua Sáclơ I bò xử

tử. Nước Cộng hòa được tuyên bố thành lập. Lúc đầu các tầng lớp nhân dân lao động rất
oán ghét bọn quý tộc phong kiến và Giáo hội nên đã ủng hộ quý tộc mới, tư sản với hy
1

C.Mac-Ph.Ăngghen, tuyển tập, t.1,NXB Sự thật , Hà Nội 1980, tr.654.


vọng cải thiện điều kiện sống. Tuy nhiên cuộc cách mạng đã không đem lại lợi ích thiết
thực cho nhân dân lao động, mà ngược lại, cuộc nội chiến kéo dài ngót 10 năm đã làm họ
càng thêm bần cùng bởi thuế khóa, quyên góp phục vụ cho nội chiến. Tầng lớp “tiền vô
sản” ngày càng tăng trong dân cư và có xu hướng cách mạng rõ rệt. Cuộc đấu tranh giai
cấp đang diễn ra ở Anh trong những năm 40 của thế kỷ XVII đã nâng cao trình độ nhận
thức chính trò của nhân dân lao động trong đó có bộ phận tiến bộ của tầng lớp tiền vô
sản.
Chính trong bối cảnh lòch sử ấy những tư tưởng xã hội chủ nghóa của Giêrắc Uynxtenli
xuất hiện.
2. Giêrắc Uynxtenli và những tư tưởng XHCN của ông

Giêrắc Uynxtenli (Gerade Wilstanley, 1609 - 1652) sinh trong một gia đình buôn tơ
lụa ở tỉnh Lancátxia (Anh). Từ nhỏ Giêrắc Uynxtenli đã phải học buôn bán theo nghiệp
gia đình. Tuy nhiên ông là người có chí tự học và thích hoạt động xã hội. Hoàn cảnh kinh
tế, chính trò- xã hội của nước Anh đã ảnh hưởng sâu sắc đến Giêrắc Uynxtenli. Ông đã
nhạy cảm nhận ra mối mâu thuẫn giữa đông đảo quần chúng nhân dân lao động với
những kẻ áp bức, bóc lột đương thời. Năm 1648 ông viết một loạt bài báo đả kích tôn
giáo. Năm 1649 ông lãnh đạo phái “Đào đất” (digger) ở quận Xuarây cách Luân Đôn
không xa. Tác phẩm Luật công bằng mới (tháng 1-1649) của ông là cương lónh của phái
này. Phái “Đào đất” vốn gồm những người nghèo (nông dân không còn ruộng, những
người lao động thất nghiệp…) tập hợp lại để khai thác đất của Giáo hội hoặc đất công
đang bò bỏ hoang. Lúc đầu những người thuộc phái Đào đất dựa vào sức mạnh của giáo
lý và sự nêu gương. Họ tin là những công xã do họ lập nên sẽ được dân nghèo ủng hộ, và

nhân rộng mô hình này. Cuối cùng không phải chỉ những người nghèo mà toàn thể nhân
dân Anh sẽ đi theo con đường đó – tự nguyện xóa chế độ tư hữu, không mua bán đất và
sức lao động. Phái “ Đào đất” tuyên bố là không có ý đònh cướp quyền sở hữu của ai.
Phái “Đào đất” quan niệm Chúa tạo ra đất đai là để cho con chiên của Ngài canh tác sinh
sống do đó tin rằng việc họ làm sẽ được Giáo hội tán thành vì hợp ý Chúa. Tuy nhiên
phái “Đào đất” đã không nhận được sự ủng hộ của Gíao hội. Những trang trại do họ lập
nên đã bò tàn phá bởi những người nghe theo lời xúi giục của thế lực tư sản, phong kiến.
Năm 1650 phong trào bò thất bại hoàn toàn. Nhiều người cầm đầu phái này bò lùng bắt.
May mắn, Giêrắc Uynxtenli trốn thoát. Ông tiếp tục hoạt động. Thực tế đã cho những
người thuộc phái Đào đất nhận ra rằng quan niệm của họ là hết sức ngây thơ. Nhiều tác
phẩm của Uynxtenly ra đời trong giai đoạn này như Ngọn cờ của những người chủ trương
bình đẳng chân chính dựng nên, Món quà năm mới gởi nghò viện và quân đội… Đặc biệt
là trong Luật tự do (1652), Uynxtenly đã trình bày rõ nét nhất những tư tưởng xã hội chủ
nghóa của ông.
Mặc dù lập trường triết học của Giêrắc Uynxtenli là duy tâm chủ quan và có mầu sắc
tôn giáo nhưng trong thực tiễn ông là một người chống Gíao hội nổi tiếng. Ông cho rằng
có chân lý tôn giáo, và để nhận thức chân lý ấy không cần đến kinh thánh, không cần
đến trung gian là Gíao hội. Toàn bộ huyền thoại Cơ đốc giáo, ở Uynstenli, có tính chất
tượng trưng. Theo ông, thiên đường, đòa ngục, Chúa, quỷ dữ… không nằm ngoài con
người mà là lực và phản lực thường xuyên chống nhau trong tâm hồn con người. Đó là


cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác. Cuối cùng cái thiện sẽ chiến thắng vì ánh sáng
bên trong do Chúa đặt vào con người không thể bò dập tắt. Nước Anh sẽ là nước đầu tiên
giải phóng khỏi quyền lực của quỷ dữ, thực hiện trên trái đất giang sơn của tình yêu
thiêng liêng. Giáo hội nói Chúa, thiên đường, đòa ngục chờ đợi con người sau khi mất chỉ
là sự tưởng tượng, là thủ đoạn để khuất phục quần chúng nhân dân. Các tăng lữ đưa ra
mọi lý lẽ để chứng minh Chúa ngăn cấm quần chúng không đụng đến của cải tư hữu là
để bảo vệ quyền lợi của bọn quyền quý mà trước hết là quyền chi phối ruộng đất. Đối
với Giêrắc Uynxtenli thì những nghi lễ tôn giáo chỉ là trò phù thủy.

Giêrắc Uynxtenli phản đối chế độ tư hữu nhất là tư hữu ruộng đất. Theo ông, đấng
sáng tạo tối cao đã sáng tạo ra ruộng đất làm kho tàng chung cho con người và những
động vật khác. Trong trái tim con người có một luật lệ đã được vạch ra, con người phải
tuân theo luật lệ ấy. Đấy là luật hạnh phúc chung: Lý trí nói với con người rằng con
người phải tìm hạnh phúc cho người khác cũng như cho chính mình. Thế nhưng dục vọng
xác thòt đã đẩy con người vào chỗ mù quáng, xui họ chỉ biết đến hạnh phúc cá nhân. Hâïu
quả là con người tìm cách xâm chiếm, cướp đoạt ruộng đất mà lẽ ra phải được sử dụng
chung. Như vậy người ta có được quyền tư hữu ấy bằng cách vi phạm những lời răn của
Chúa (Điều răn thứ 7 và thứ 8 – đừng giết người, đừng trộm cắp). Quyền tư hữu này là
“đáng nguyền rủa”. Nó khiến cho “một số ít người trở thành chủ ruộng, còn những người
khác thì trở thành đày tớ của họ, trở thành nô lệ của đồng loại”. Với chế độ tư hữu ruộng
đất, luật lệ của bóng tối sẽ thống trò. Mọi người sẽ tranh giành và thù hằn lẫn nhau. Luật
lệ của ánh sáng, của tinh thần, của tự do chân chính là sử dụng chung ruộng đất. Lập luận
này của Giêrắc Uynstenli gần gũi với phái duy lý không tưởng thế kỷ XVIII. Chế độ hiện
thời đối với G.Uynstenli là kết quả của sự mù quáng của lý trí con người. Tuy nhiên bên
cạnh tính chất duy lý, lập luận của ông còn mang dấu ấn tôn giáo một cách rõ nét, khi
ông nhiều lần viện dẫn đến “tiếng nói của Chúa” để chứng minh cho lập luận của mình.
Trong Luật công bằng mới, ông tuyên bố: Tôi nghe thấy những lời sau đây: “hãy cùng
nhau làm việc, cùng nhau ăn bánh; hãy tuyên bố điều đó ở khắp mọi nơi”.
Từ chỗ phê phán quyền tư hữu, ông cũng lên án cả việc chuyển đổi quyền tư hữu
(mua bán) ruộng đất. Các chế độ sẽ không thể đem kiếm rèn thành lười cày và thoát khỏi
chiến tranh, chừng nào mà việc mua bán ấy chưa bò xóa bỏ.
Thay cho chế độ tư hữu, Giêrắc Uynxtenli chủ trương xây dựng xã hội mới dựa trên
chế độ cộng đồng về ruộng đất và các sản phẩm lao động. Bởi vì đấng tạo hoá tối cao đã
tạo ra ruộng đất cho tất cả mọi người và của cải là sản phẩm lao động của mọi người nên
mọi người phải có quyền như nhau đối với chúng.
Theo ông cần đưa ra luật tự do sử dụng ruộng đất và lao động tập thể. Trên nền tảng
ấy, chế độ cộng hòa chân chính được thiết lập trên những đất vô chủ, đất “hoang”. Kinh
tế được xây dựng theo kiểu công xã. Trong công xã, gia đình là đơn vò sản xuất nông
nghiệp hoặc thủ công nghiệp và có sự gắn bó với sản xuất xã hội. Có những công xưởng

xã hội huấn luyện kỷ thuật cho sản xuất gia đình. Sản phẩm lao động của gia đình được
nộp vào kho chung và nhà nước sẽ phân phối cho toàn xã hội theo nguyên tắc bình quân


chủ nghóa. Tuy nhiên không phải mọi của cải gia đình đều là của chung như Campanenla
đã từng quan niệm.
Giêrắc Uynxtenli hình dung trong xã hội mới nhờ chú ý cải tiến kỷ thuật mà thời gian
lao động mỗi này được giảm dần nhưng năng suất lao động vẫn tăng. Không ai phải lao
động quá 40 tuổi. Thời gian sau đó là để mỗi người nghỉ ngơi, hưởng thụ, và hoàn thiện
bản thân.
Như vậy, tư tưởng bình đẳng của Giêrắc Uynxtenli trước hết là bình đẳng trong kinh
tế.
Những quan điểm chính trò - xã hội, văn hóa của Giêrắc Uynxtenli cũng có nhiều yếu
tố tiến bộ. Trong các tác phẩm của mình Uynxtenly luôn lên án nhà nước đương thời là
“công cụ của bọn nhà giàu”, còn pháp quyền là “xiềng xích trên cơ thể nhân dân”. Ông
viết: “Vương quyền nước Anh hiện nay là vương quyền của sự tham lam … là quyền lực
của sự ích kỷ… do dó phải gọi nó là tên giết người… Dân lao động mong muốn một
chính phủ công bằng… Nước Anh hiện nay là nhà tù. Những luật sư là bọn cai ngục, còn
dân nghèo là tù nhân…”. Như vậy ông đã nhận thức tính chất giai cấp của nhà nước và
pháp quyền bóc lột. Thay cho nhà nước ấy, cần phải thiết lập nhà nước cộng hòa - tự do dân chủ chân chính cho mọi người. Điều này là phù hợp với ý Chúa. Nhà nước cộng hoà
ấy là do dân bầu, có nhiệm kỳ một năm. Đứng đầu nhà nước là nghò viện. Trong nhà
nước không có sự tham gia của Gíao hội và tăng lữ. Các đạo luật do nó thông qua sẽ có
hiệu lực nếu trong vòng một tháng không có sự phản đối của nhân dân. Các biện pháp
trừng phạt nghiêm khắc (tử hình, lao động cải tạo, nhục hình…) được áp dụng cho những
kẻ mưu toan phục hồi chế độ tư hữu, những kẻ sát nhân, những kẻ ăn bám…
Về giáo dục, Giêrắc Uynxtenli đề cao hệ thống giáo dục nhà trường. Phương châm
giáo dục của ông là học đi đôi với làm, khuyến khích sự sáng tạo, phát huy sáng kiến.
Trong vấn đề hôn nhân gia đình, cũng như nhiều nhà không tưởng khác, Giêrắc
Uynxtenli có những quan niệm tiến bộ như: tự do kết hôn, hôn nhân dựa trên tình yêu, tự
nguyện, hôn nhân 1 vợ – 1 chồng, mỗi gia đình có đời sống riêng, chống bạc đãi phụ nữ

và trẻ em… (luật hôn nhân - Giêrắc Uynxtenli).
Nhìn chung, Giêrắc Uynxtenli chống tôn giáo, nhưng chưa triệt để, quan niệm có
nhiều điểm thần bí. Ông đã đặt nhiều hy vọng vào những cải cách hoà bình trong việc
xây dựng xã hội mới. Ông cũng như phái Đào đất tin rằng “ánh sáng bên trong” của lý trí
và công lý sẽ chiến thắng bóng tối mà không cần dùng đến bất kỳ bạo lực nào, sẽ giành
được cả thế giới bằng tình yêu. Tuy vậy mô hình chế độ cộng hoà chân chính của ông
thấm nhuần chủ nghóa nhân đạo và ông đã có nhiều cố gắng để thực hiện lý tưởng của
bản thân trong thực tế (công xã phái Đào đất). Lòch sử thừa nhận ông là một trong những
nhà xã hội chủ nghóa không tưởng xuất sắc vào thế kỷ XVII.



×