Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

Giáo trình dạy học môn đạo đức ở tiểu học phần 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (206.24 KB, 19 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA GIÁO DỤC TIỂU HỌC

#"

LÝ LUẬN

DẠY HỌC MÔN ĐẠO ĐỨC Ở TIỂU HỌC

LÊ THỊ THANH CHUNG

LƯU HÀNH NỘI BỘ - 2002
1


LỜI GIỚI THIỆU
Trong hệ thống giáo dục quốc dân, giáo dục tiểu học ngày càng chứng tỏ có vò trí, vai trò
quan trọng: “Giáo dục tiểu học là bậc học bắt buộc đối với mọi trẻ em”, “Giáo dục tiểu học
nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về
đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học trung học cơ
sở” (Điều 22, 23 Luật giáo dục). Với những yêu cầu bức thiết đó, khoa Giáo dục Tiểu học
trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh luôn cố gắng hoàn thành tốt trách nhiệm đào tạo
giáo viên tiểu học cho các tỉnh, thành phía Nam. Để góp phần ngày càng nâng cao chất lượng
đào tạo giáo viên và thực hiện tốt chương trình tiểu học mới, Ban chủ nhiệm khoa cùng các
thầy cô giáo khoa Giáo dục Tiểu học luôn quan tâm đến việc đổi mới phương pháp dạy học để
phát huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh.
Nhằm thực hiện được yêu cầu trên và giúp sinh viên khoa Giáo dục Tiểu học tiếp cận
chương trình tiểu học mới với các môn học nói chung và môn Đạo đức nói riêng, chúng tôi đã
biên soạn cuốn giáo trình “ Lý luận dạy học môn Đạo đức ở tiểu học”. Cuốn giáo trình này
giúp sinh viên có một cách nhìn khái quát toàn bộ chương trình môn Phương pháp dạy học đạo
đức ở tiểu học, là một trong những môn học của khoa Giáo dục Tiểu học trường ĐHSP TP. Hồ


Chí Minh. Giáo trình gồm 2 phần:
- Phần I: Đại cương về Đạo đức học, bao gồm các chương I, II và chương III. Đây là phần
cung cấp cho sinh viên những kiến thức cơ bản về đạo đức học, có liên quan trực tiếp đến nội
dung phần phương pháp dạy học môn đạo đức ở tiểu học.
- Phần II: Một số vấn đề về dạy học môn Đạo đức ở tiểu học, bao gồm các chương I, II và
chương III. Phần này cung cấp cho sinh viên những kiến thức về mục tiêu, nội dung, chương
trình, sách giáo khoa và phương pháp dạy học môn Đạo đức theo yêu cầu của chương trình
tiểu học mới.
Ngoài ra giáo trình còn có phần: “Tài liệu tham khảo”, gồm những văn bản quy đònh của
Bộ Giáo dục & Đào tạo về chương trình Giáo dục tiểu học mới và những tài liệu khác mà sinh
viên có thể tìm đọc thêm.
Sau cùng tác giả xin bày tỏ lời cám ơn chân thành đến Ban chủ nhiệm hai khoa Tâm lýGiáo dục và Giáo dục Tiểu học, các bạn đồng nghiệp đã giúp đỡ động viên thường xuyên để
tác giả hoàn thành giáo trình. Đặc biệt tác giả xin cám ơn PGS-TS. Trần Tuấn Lộ và TS Trần
Dục Quang đã góp những ý kiến quý báu để giáo trình có chất lượng cao hơn.
Vì thời gian có hạn, giáo trình không tránh khỏi những thiếu sót, tác giả rất mong nhận
được sự góp ý của các đồng nghiệp và các bạn sinh viên.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 10 - 4 - 2002.
Tác giả

2


PHẦN I
ĐẠI CƯƠNG VỀ ĐẠO ĐỨC HỌC

Chương I
ĐẠO ĐỨC HỌC LÀ MỘT KHOA HỌC

I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ ĐẠO ĐỨC.
1. Khái niệm đạo đức.

Cùng với sự xuất hiện con người trên trái đất là sự xuất hiện các hiện tượng đạo đức. Từ
những buổi bình minh của lòch sử, con người đã biết ứng xử với nhau theo những phong tục,
tập quán và quy đònh chung của các bộ tộc để cùng nhau chung sống và lao động sản xuất.
Những ứng xử của họ được xem là biểu hiện về hành vi đạo đức. Khi xã hội phát triển thì
những yêu cầu về các phong tục, tập quán cũng như những quy đònh nói chung của xã hội
cũûng thay đổi theo. Trong cuộc sống hàng ngày, con ngừơi cần có hiểu biết về các quy đònh
hành vi ứng xử và có nhu cầu thể hiện hành vi đạo đức ra bên ngoài trong các mối quan hệ xã
hội. Dù họ là ai và đang tham gia hoạt động gì thì cũng rất cần đến đạo đức để khẳng đònh
được giá trò của chính mình trong xã hội. Làm được điều này, con người không những đạt được
lợi ích, hạnh phúc của cá nhân mà còn góp phần vào sự tiến bộ chung của xã hội. Khi đó, cá
nhân được tập thể, cộng đồng coi là người có đạo đức. Ngược lại, nếu cá nhân có biểu hiện
hành vi ứng xử trái với lợi ích của xã hội và cộng đồng thì bò coi là người thiếu đạo đức.
Có thể hiểu đạo đức một cách khái quát như sau:
“Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tổng hợp những nguyên tắc, quy tắc chuẩn mực
xã hội, nhờ đó con người tự giác điều chỉnh hành vi của mình sao cho phù hợp với lợi ích,
hạnh phúc của con người và sự tiến bộ xã hội trong quan hệ giữa con người với con người,
giữa cá nhân và xã hội”.
Dưới các góc độ khoa học khác nhau có thể phân tích khái niệm đạo đức như sau:
- Dưới góc độ triết học, đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, một bộ phận của kiến trúc
thượng tầng. Đạo đức thực hiện chức năng điều chỉnh hành vi của con người trong mọi lónh
vực của cuộc sống. Làø một hình thái ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội, đạo đức xuất hiện
rất sớm và khi tồn tại xã hội thay đồi thì ý thức xã hội cũng thay đổi theo. Sự nảy sinh và
hoàn thiện của đạo đức có nguồn gốc trong hoạt động vật chất của con người, trong đó lao
động sản xuất đóng vai trò quyết đònh.
- Dưới góc độ tâm lý học, đạo đức là tổng hợp những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã
hội, nhờ đó con người tự giác điều chỉnh hành vi của mình sao cho phù hợp với lợi ích, hạnh
phúc của con người và sự tiến bộ xã hội trong quan hệ giữa con người với con người, giữa cá
nhân và xã hội. Như vậy ở góc độ tâm lý học, đạo đức của một người phản ánh nhân cách của
ngưới đó, đạo đức là bộ mặt đích thực của mỗi người.
2. Bản chất của đạo đức.

2.1. Tính nhân bản của đạo đức:
3


Bản chất của đạo đức là sự quan tâm tự giác, tự nguyện của con người đến lợi ích, hạnh
phúc của nhau và của xã hội. Hành động của con người là hành động có đạo đức, bởi lẽ hành
động đó chứa đựng các yếu tố về mục đích, nội dung, phương pháp và các hình thức để thực
hiện. Các yếu tố này là điều kiện cơ bản để phân biệt hành động con người với hành động
con vật và cũng là dấu hiệu để khẳng đònh bản chất đạo đức đối với hành động của con người.
Chính điều này làm cho đạo đức mang tính người.
Đạo đức lưu truyền được qua các thời kỳ phát triển của lòch sử, nhờ có tính nhân bản, đạo
đức suy cho cùng cũng vì cuộc sống của con người, vì sự tồn tại của cộng đồng người và sự
phát triển của họ. Đạo đức có ý nghóa hợp lý phục vụ cho con người và vì nó con người lưu
giữ như máu thòt của mình.
2.2. Tính lòch sử của đạo đức:
Đạo đức gắn liền với lòch sử. Đạo đức được hình thành từ quá khứù và được lưu truyền từ
thế hệ này qua thế hệ khác. Là một hình thái ý thức xã hội, đạo đức phát triển rất sớm trong
lòch sử phát triển nhân loại và được mọi xã hội, mọi thời đại quan tâm. Sự phát triển đạo đức
của xã hội dựa trên cơ sở phát triển của sức sản xuất vật chất và thông qua sự đấu tranh, gạn
lọc, kế thừa, nhờ thế mà nội dung đạo đức ngày càng phong phú và hoàn thiện hơn.
2.3 Tính giai cấp của đạo đức:
Khi xã hội phân chia thành giai cấp thì đạo đức phản ánh quyền lợi của giai cấp thống trò
và giải quyết mọi mốâi quan hệ giữa con người với con người, giữa cá nhân và xã hội theo
quan điểm của giai cấp thống trò.
Vào thời kỳ đầu của xã hội loài người, dưới chế độ công xã nguyên thủy, cơ sở của quan
hệ xã hội là chế độ công hữu tư liệu sản xuất. Mọi người trong xã hội đều làm chung và
hưởng chung những sản phẩm mà họ làm ra. Họ cùng nhau săn bắn, hái lượm và chống kẻ
thù, bảo vệ quyền lợi và cuộc sống chung cho cả thò tộc. Kỷ luật và quy tắc lao động bấy giờ
được duy trì bằng sức mạnh của phong tục tập quán, bằng uy tín và sự tôn kính đối với người
tộc trưởng. Phong tục, tập quán và truyền thống biểu thò mối quan hệ giữa các thành viên với

nhau và với cả thò tộc. Đó cũng là những điều mà họ phải tuân thủ thường xuyên trong sinh
hoạt xã hội. Chính vì những lý do đó mà những nhà nghiên cứu đã chứng minh rằng đạo đức
con người trong chế độ công xã nguyên thủy là thẳng thắn, trung thực, kiên cường, dũng cảm
theo đúng nghóa vụ của con người đối với con người và đối với toàn bộ thò tộc lúc bấy giờ.
Chế độ chiếm hữu nô lệ, thời kỳ đầu xã hội loài người phân chia thành giai cấp và đạo
đức của con người bắt đầu có tính giai cấp. Giai cấp bóc lột trong thời kỳ này là giai cấp chủ
nô, chúng không những có quyền mua bán mà còn có quyền sinh, quyền sát đối với người nô
lệ, biến họ thành những công cụ kỳ quặc của mình. Cùng với sự xuất hiện giai cấp, phụ nữ
cũng mất quyền bình đẳng trước kia và trở thành nô lệ của người chồng. Thời kỳ này pháp
luật và đạo đức của chủ nô cho phép tha hồ hành hạ, giết chết người nô lệ, biến họ thành
những hàng hóa mua đi bán lại của chúng.
Chế độ phong kiến dựa trên nền tảng sở hữu ruộng đất lớn, là một giai đoạn cao hơn trong
sự phát triển sản xuất. Thời kỳ này bọn chúa phong kiến vẫn có quyền bán nông nô, nhưng
không có quyền giết họ. Đạo đức thống trò trong xãû hội phong kiến lúc này cũng biểu hiện lợi
ích kinh tế và danh vọng của bọn chúa phong kiến, đó là bắt nông dân phải trung với đòa chủ,
tôi phải trung với vua, chư hầu phải trung với thiên tử.
4


Chế độ tư bản là một bước tiến bộ mới trên đường phát triển của xã hội thay thế chế độ
phong kiến. Giai cấp tư sản đã tạo ra giai cấp công nhân làm thuê và chúng đã hành hạ, giết
hại công nhân một cách kín đáo (chúng không hề coi đó là hành vi trái với đạo đức). Trong
xã hội này, đạo đức tư sản là đạo đức thống trò của xã hội. Nói theo Mác và Ăng –ghen, giai
cấp tư sản đã “làm cho giữa người với người không có mối liên hệ nào khác ngoài quan hệ lợi
hại trắêng trợn và sự giao dòch tiền bạc lạnh lẽo, biến con người thành giá trò đổi chác”.
Chế độ xã hội chủ nghóa, giai cấp công nhân là giai cấp tiên tiến gánh vác sứ mệnh lòch sử
lãnh đạo xã hội, tiến lên giải phóng con người, giải phóng xã hội. Đạo đức của họ là đạo đức
cộng sản, giai đoạn cao nhất trên con đường tiến lên của đạo đức con người và trong tương lai
nó sẽ trở thành đạo đức của loài người. So với nền đạo đức trước đây, đạo đức cộng sản là
một thứ chất mới. Con đường phát triển và đi tới thắng lợi của đạo đức cộng sản phải thông

qua đấu tranh chống lại những thế lực và truyền thống của xã hội bóc lột cũ, xây dựng một xã
hội mới.
3. Chức năng của đạo đức.
3.1 Chức năng đònh hướng giáo dục:
Chứùc năng đònh hướng giáo dục của đạo đức nhằm hình thành cho con người có nhận thức
đúng đắn về nguyên tắc, quy tắc và chuẩn mực xã hội để từ đó họ có tình cảm và nhu cầu
thể hiện hành vi đạo đức phù hợp với các nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực đó. Nhận thức
đúng đắn này giúp con ngừơi có khả năng lựa chọn, kiểm tra, đánh giá đúng các hiện tượng
đạo đức xã hội cũng như tự kiểm tra, tự đánh giá về nhận thức, tình cảm, hành vi đạo đức
của chính mình. Các nhà giáo dục nói chung và người thày giáo trong nhà trường nói riêng
cần giúp học sinh hiểu đúng các chuẩn mực xã hội. Từ đó học sinh sẽ dễ dàng có niềm tin và
hành vi đúng trong các mối quan hệ với thày cô, bạn bè ở trường, ông bà, cha mẹ ở gia đình
và mọi người trong xã hội. Chính vì thế công tác giáo dục đạo đức có vai trò quan trọng trong
việc phát triển nhân cách học sinh. Khẩu hiệu trong các trừơng học: “Tiên học lễ, hậu học
văn” đã thể hiện được vai trò quan trọng đó.
3.2 Chức năng điều chỉnh hành vi:
Con người trong các mối quan hệ xã hội luôn thể hiện hành vi của bản thân. Vì vậy cần có
một hệ thống quy tắc, chuẩn mực nhằm kết hợp bằng cách này hay cách khác giữa lợi ích cá
nhân với lợi ích tập thể, xã hội để hành vi con người phù hợp với sự tiến bộ xã hội. Do đó
chức năng điều chỉnh hành vi của đạo đức luôn gắn bó mật thiết với chức năng quản lý xã
hội. Mặt khác khi tham gia vào các mối quan hệ xã hội, mỗi cá nhân có khả năng lựa chọn và
trải nghiệm hành vi đạo đức ở các mức độ khác nhau. Việc giải quyết mọi mối quan hệ
không chỉ dừng ở trong suy nghó mà còn phải bằng hành động: làm hay không nên làm, làm
bằng cách này hay cách khác. Đặc biệt là các quan hệ có liên quan đến lợi ích giữa cá nhân
với cá nhân, giữa cá nhân với xã hội, nếu như các mối quan hệ đó không dựa vào hệ thống
quy tắc, chuẩn mực xã hội thì cá nhân không thể lựa chọn, trải nghiệm hành vi đạo đức cho
phù hợp. Như vậy trong đời sống xã hội, chức năng giáo dục và điều chỉnh của đạo đức gắn
liền với nhau.
3.3 Chức năng kiểm tra, đánh giá:
Căn cứ vào quy tắc, chuẩn mực xã hội, chủ thể đạo đức có thể xem xét, đối chiếu hành

vi của chính mình hoặc của người khác để khẳng đònh giá trò đạo đức của bản thân hoặc của
5


người khác trong các mối quan hệ xã hội. Điều này còn phụ thuộc vào khả năng tự giáo dục
của chủ thể đạo đức.
Trong trường học, chức năng kiểm tra, đánh giá của đạo đức giúp từng học sinh rèn luyện
đạo đức theo yêu cầu của nhà trường đồng thời cũng là căn cứ để nhà giáo dục xếp loại đạo
đức cho học sinh theo những thang bậc đã đựơc Bộ Giáo dục và Đào tạo quy đònh. Vì thế
người thày giáo cần hướng dẫn, theo dõi và động viên hoặc nhắc nhở học sinh thường xuyên
thực hiện tốt nội quy, quy đònh của trường học.
II- ĐẠO ĐỨC HỌC LÀ MỘT KHOA HỌC.
1. Đạo đức học là khoa học nghiên cứu về đạo đức.
Thời thượng cổ đạo đức là hiện tượng xã hội xuất hiện cùng với sự xuất hiện con người và
chưa tách thành một khoa học độc lập. Tuy vậy khi đề cập tới những vấn đề đạo đức các nhà
triết học phương Tây như Xôcrát, Platôn, Aritxtốt hoặc ở phương Đông như Khổng Tử, Mạnh
Tử… đã đề cập đến các nội dung rất cơ bản về đạo đức: khái niệm cái thiện, cái ác, nghóa vụ,
lương tâm… Khi với tư cách là một khoa học độc lập thì đạo đức học nghiên cứu về những
quy tắc, chuần mực, hành vi cách ứng xử tự giác trong mối quan hệ giữa con người với con
người, con người với tự nhiên, với xã hội và với chính bản thân mình nhằm làm rõ tính người
của đạo đức. Hay hiểu cách khác đạo đức học là khoa học nghiên cứu về đạo đức.
Trở thành một khoa học độc lập, đạo đức học xây dựng một hệ thống tri thức về phạm trù,
khái niệm, đối tượng và phương pháp nghiên cứu góp phần vào việc giáo dục nhân cách và
cải tạo xã hội ngày càng tốt đẹp hơn.
Đối tượng của đạo đức học là đạo đức, là tính tất yếu của sự hình thành và phát triển đạo
đức, là những quy luật phải giữ để cho cái đúng, cái công bằng, cái thiện. Lòch sử đạo đức học
mang tính đa dạng, phức tạp trong các trào lưu đối đòch nhau (duy tâm, duy vật..) phản ánh
một cách đặc sắc trong những công trình nghiên cứu đạo đức xã hội.
2. Chức năng và nhiệm vụ chủ yếu của đạo đức học là nhận thức các hình thái lòch sử của
đạo đức, nghiên cứu những quy luật hình thành và phát triển của đạo đức về lý luận cũng như

thực tiễn, nghiên cứu nguyên nhân tồn tại và biến đổi của ý thức đạo đức và hành vi đạo đức,
thực chất của các nguyên tắc đạo đức, chuẩn mực đạo đức …
Nhiệm vụ chủ yếu của đạo đức học là tìm ra con đường để khắc phục sự bất lực của con
người trước những cám dỗ, vươn lên làm chủ bản năng, điều khiển được những nhu cầu,
những ham muốn trong cuộc sống để đạt tới sự phát triển lành mạnh và hạnh phúc chân chính
của con người, đạt đến nền văn minh đạo đức của nhân loại.
3. Các phương pháp nghiên cứu của đạo đức học.
Cùng với các khoa học khác, đạo đức học góp phần tìm ra quy luật giúp con ngừơi cải tạo
xã hội và cải tạo chính bản thân mình. Vì thế đạo đức học phải lấy nền tảng của chủ nghóa
duy vậy biện chứng và duy vật lòch sử Mác- xít làm cơ sở phương pháp luận.
Do có mối quan hệ mật thiết với các khoa học khác như tâm lý học, giáo dục học, xã hội
học, dân tộc học, mỹ học, luật học… cho nên đạo đức học có thể lựa chọn và vận dụng tổng
hợp các phương pháp nghiên cứu của nhiều ngành khoa học để nghiên cứu hình thái đạo đức.
Song với tư cách là một khoa học độc lập, đạo đức học có những phương pháp nghiên cứu sau:
6


a) Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận: người nghiên cứu về đạo đức phải sưu tầm,
đọc, phân tích tài liệu của các khoa học có liên quan để tổng hợp lên những nét chung và đặc
thù về đạo đức của xã hội hoặc cá nhân.
b) Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: người nghiên cứu về đạo đức phải tiếp cận
với đối tượng, thực tế đang thường xuyên vận động và biến đổi không ngừng để phát hiện ra
bản chất, tính đặc thù, tính quy luật trong quá trình phát sinh và phát triển của đạo đức, kiểm
nghiệm giá trò đạo đức trong các điều kiện lòch sử- xã hội khác nhau.

HƯỚNG DẪN HỌC TẬP

1. Phân tích khái niệm đạo đức, chức năng của đạo đức. Cho ví dụ minh họa.
2. Phân tích bản chất của đạo đức. Cho ví dụ minh họa.
3. Đối tượng, nhiệm vụ chủ yếu và phương pháp nghiên cứu của đạo đức học? Cho ví dụ

minh họa và nêu kết luận sư phạm.

7


Chương II
MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẠO ĐỨC VÀ
CÁC HÌNH THÁI Ý THỨC XÃ HỘI KHÁC

I- MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẠO ĐỨC VÀ CHÍNH TRỊ.
1. Khái niệm chính trò.
Theo Từ điển Tiếng Việt - Viện khoa học xã hội Việt Nam 1992 “Chính trò” được hiểu
với các nghóa như sau:
- Những vấn đề về tổ chức và điều khiển bộ máy nhà nước trong nội bộ một nước và về
quan hệ về mặt nhà nước giữa các nước với nhau.
- Những hoạt động của một giai cấp, một chính đảng, một tập đoàn xã hội nhằm giành
hoặc duy trì quyền điều khiển bộ máy nhà nước.
- Những hiểu biết về mục đích, đường lối, nhiệm vụ đấu tranh của một giai cấp, một chính
đảng nhằm duy trì quyền điều khiển bộ máy nhà nước.
- Những hoạt động nâng cao giác ngộ chính trò do quần chúng tổ chức thực hiện một đường
lối, những nhiệm vụ chính trò nhất đònh.
2. Mối quan hệ giữa đạo đức và chính trò.
Đạo đức và chính trò đều thể hiện lợi ích kinh tế của một giai cấp nhất đònh và phục vụ lợi
ích của giai cấp ấy. Trong phạm vi tác động lẫn nhau trên cơ sở kinh tế chung giữa chính trò và
đạo đức thì chính sách của giai cấp thống trò có ảnh hưởng quyết đònh đối với sự hình thành
của đạo đức. Mặt khác những mục đích chung của con người và của toàn thể xã hội được hình
thành trong chính trò là kết quả tác động của những học thuyết chính trò tới quan niệm về ý
nghóa cuộc sống và lý tưởng con người. Theo E.Kant - giữa đạo đức và chính trò có sự thống
nhất: “Sự lương thiện là chính trò tốt nhất, nếu đối lập đạo đức với chính trò là không khoa học,
là phản động”. Từ xưa, Aristote đã nói rằng nhiệm vụ của đạo đức là tác động thuận lợi tới

hạnh phúc của xã hội, còn chính trò là khoa học và nghệ thuật mưu cầu hạnh phúc cho xã hội.
Theo ý ông: mọi tri thức và nghệ thuật, trong đó có đạo đức và đạo đức học phải phục tùng
chính trò. Chính trò là giềng mối quyết đònh tính chất và nội dung của đạo đức (Aristote, Đạo
đức học của Nicomaquye). Helvetius viết: “Đạo đức học sẽ không có nội dung nếu nó không
hòa lẫn với pháp chế” (K.A. Helvetius, Bàn về trí tuệ, tr 94, 1958).
Song giữa đạo đức và chính trò có những biểu hiện độc lập riêng biệt khi thực hiện nhiệm
vụ của hình thái ý thức xã hội. Trong suốt quá trình phát triển lòch sử xã hội loài người, đạo
đức phản ánh phong tục, tập quán, dư luận xã hội. Tuy nhiên trong quá trình đó, những phong
tục, tập quán, dư luận xã hội nào không phù hợp thì bò lọai trừ khỏi chuẩn mực đạo đức của xã
hội. Chính điều này làm cho đạo đức có tính tương đối ổn đònh.
Khác với đạo đức, chính trò phản ánh đường lối, chính sách của một Nhà nước, một chính
đảng nên có sự thay đổi thường xuyên theo sự thay đổi của các điều kiện xã hội.
Xét về mặt chức năng: Đạo đức thực hiện các chức năng như đònh hướng giáo dục, điều
chỉnh, kiểm tra, đánh giá hành vi của con người. Trong khi đó chức năng của chính trò là vũ
khí đấu tranh giai cấp (trong xã hội có giai cấp) để giành lấy lợi ích cho giai cấp mình.
8


Vận dụng những tư tưởng đã nêu ở trên vào việc giáo dục học sinh ở trường tiểu học: thực
hiện nhiệm vụ tuyên truyền và giáo dục tư tưởng chính trò cho học sinh nhằm giúp các em có
hiểu biết, có niềm tin để thực hiện nghiêm chỉnh đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước.
Hiện nay một số biện pháp trường tiểu học có thể thực hiện được là:
- Thông qua các buổi sinh hoạt toàn thề học sinh dưới cờ để giúp học sinh hiểu về
đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước.
- Đưa học sinh tham gia vào các hoạt động xã hội: phòng chống các tệ nạn xã hội, phong
trào đền ơn đáp nghóa, phong trào “sạch và xanh”…
- Hướùng học sinh vào các hoạt động xây dựng trường, lớp.
II. MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẠO ĐỨC VÀ PHÁP LUẬT.
1. Khái niệm pháp luật.
Pháp luật là những quy phạm hành vi do Nhà nước ban hành mà mọi người dân buộc phải

tuân theo nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội và bảo vệ trật tự xã hội. (Từ điển Tiếng Việt Viện khoa học xã hội Việt Nam 1992).
2. Mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật.
Là những bộ phận của kiến trúc thượng tầng, đạo đức và pháp luật có liên quan với khuôn
phép và quy tắc hành vi của con người. Vì thế mà cả đạo đức và pháp luật cùng thực hiện
mục đích, nhiệm vụ là nhằm điều chỉnh, đánh giá tính chất những hành vi, hành động của con
người giữa cá nhân và cá nhân, cá nhân với xã hội và cả chính bản thân mình. Như vậy cả
đạo đức và pháp luật đều giúp con người có hành vi, hành động hướng tới cái thiện chống lại
cái ác góp phần đem lại hạnh phúc cho cá nhân và xã hội.
Pháp luật XHCN giáo dục cho con người có tinh thần thực hiện bổn phận, trách nhiệm của
người công dân trong mối quan hệ với gia đình, xã hội và với bản thân mình, đó cũng là thực
hiện những quy tắc của đạo đức. Mặt khác dư luận của đông đảo quần chúng lao động ủng hộ
pháp luật, chống lại bọn ăn cắp, chiếm đoạt tài sản chung của xã hội và tài sản riêng của
công dân. Trong chừng mực nào đó vi phạm luật pháp có thể coi là vi phạm đạo đức và ngược
lại. Như vậy đạo đức và pháp luật có mối quan hệ khắng khít với nhau.
Xét về mặt phạm vi thì sức mạnh của đạo đức là do dư luận ủng hộ. Dư luận khen, chê,
khâm phục hay phỉ nhổ của xã hội có tác động rộng rãi lâu dài đối với sự ghi nhận đánh giá
đạo đức trong nhân cách mỗi người. Khi thực hiện các quy tắc, chuẩn mực đạo đức mỗi người
cần rèn luyện ý thức tự giác, tự giáo dục. Con người có thể tôn trọng pháp luật, nhưng không
có đạo đức. Trong thực tế có thể xảy ra trường hợp pháp luật không trừng phạt nhưng bò đạo
đức lên án hoặc không thuộc phạm trù đạo đức nhưng lại vi phạm pháp luật nên bò pháp luật
trừng trò.
Quy phạm pháp luật do nhà nước quy đònh có tính bắt buộc và phổ cập, đó là những tiêu
chuẩn tối thiểu để mọi người thực hiện. Vì thế đã là người dân phải biết đến pháp luật. Bộ
máy để thực hiện pháp luật được tổ chức chặt chẽ từ Trung ương đến đòa phương như Tòa án,
cảnh sát, nhà giam… Xét về những yếu tố trách nhiệm thì quan điểm đạo đức và quan điểm
pháp lý không khác nhau. Chúng khác nhau ở mức độ khách quan khi đánh giá. Pháp luật kể
đến quy mô và tính xác đònh của những yếu tố khách quan nhiều hơn so với đạo đức. Cho
nên mức độ trừng trò tội ác tùy thuộc vào quy mô khách quan của nó. Còn sự đánh gía đạo
đức thì ít quan tâm đến sự phân hóa về lượng. Ví như ăn cắp chiếc nhẫn vàng và ăn cắp quả
9



trứng gà, đứng ở quan điểm đạo đứo thì tội này hay tội kia đều bò lên án như nhau, nhưng
đứng ở quan điểm pháp lý thì tội ăn cắp những món lớn và ăn cắp vặt khác nhau
Đạo đức trước đây đã tồn tại và tương lai sẽ tồn tại mãi mãi nhưng nó sẽ biến đổi theo sự
phát triển của xã hội. Khác với đạo đức, pháp luật không tồn tại mãi mãi. Trong chế độ Công
xã nguyên thủy, không có nhà nước, không có pháp luật, hành vi con người được điều chỉnh
bằng phong tục tập quán. Pháp luật và Nhà nước là kết quả xã hội phân chia giai cấp.
Đối với học sinh Tiểu học việc thực hiện pháp luật trong gia đình, nhà trường và ngoài xã
hội là những điều cần thiết. Chẳng hạn đó là luật hôn nhân gia đình, nội quy trường học, luật
giao thông…
III. MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẠO ĐỨC VÀ TÔN GIÁO.
1. Khái niệm tôn giáo.
-

Theo Từ điển Tiếng Việt - Viện khoa học xã hội Việt Nam 1992 “tôn giáo” là:
Hình thái ý thức xã hội gồm những quan niệm dựa trên cơ sở tin và sùng bái những lực
lượng siêu tự nhiên, quyết đònh số phận con người, con người phải phục tùng và tôn thờ.
Hệ thống những quan niệm tín ngưỡng một hay những vò thần linh nào đó và những hình
thức lễ nghi thể hiện sự sùng bái ấy.
2. Mối quan hệ giữa đạo đức và tôn giáo.

Đạo đức và tôn giáo là những hình thái ý thức xã hội khác nhau do quan hệ kinh tế xã hội
đẻ ra và biến đổi theo quan hệ kinh tế ấy. Trong suốt một thời kỳ lòch sử lâu dài của loài
người, người ta không hề biết đến một tôn giáo nào cả. Tôn giáo xuất hiện trong một giai
đoạn phát triển nhất đònh của chế độ Công xã nguyên thuỷ với tư cách là sự phản ánh tình
trạng bất lực của con người trước các lực lượng khủng khiếp và bí ẩn của lực lượng tự nhiên.
Trong xã hội có giai cấp đối kháng, nguồn gốc của tôn giáo chủ yếu gắn liền với sự bóc lột
của giai cấp thống trò và cảnh bần cùng của quần chúng. Như vậy rõ ràng rằng đạo đức xuất
hiện sớm hơn tôn giáo và tự nó tồn tại không dựa vào tôn giáo. Mặt khác tôn giáo không thể

sáng tạo ra đạo đức mà phải tuân theo quy tắc đạo đức, tôn giáo phải dựa vào đạo đức.
Đạo đức và tôn giáo xét về hình thức đều khuyên con người làm điều thiện tránh điều ác.
Thiên chúa giáo khuyên răn các tín đồ của mình: thảo kính với cha mẹ, chớ cướp của giết
người thực hiện theo khẩu hiệu:
“Tốt đạo, đẹp đời
Kính chúa yêu nước”
Đạo đức Phật giáo cũng đưa ra lời khuyên dạy “ngũ giới” là cấm kỵ 5 điều: giới sát, giới
dâm, giới tửu, giới vọng ngữ, giới đạo. Đạo Tin lành theo đường hướng: “Sống phúc âm,
phụng sự Thiên chúa, phục vụ Tổ quốc và dân tộc”. Nói chung những lời khuyên răn của các
tôn giáo đều mang tính đạo đức của nhân loại, song chúng ta cũng phải nhận thấy những hạn
chế vì sự chi phối bởi các quan điểm giai cấp, bới tính lòch sử trong các điều răn mang tính lý
tưởng đạo đức của các tôn giáo.
Nhà trường XHCN Việt Nam giáo dục học sinh theo quan điểm vô thần và tự do tín
ngưỡng. Vì thế nhà giáo dục cần giúp dục học sinh chống mê tín dò đoan, tin vào số mệnh,
song phải tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và tự do không tín ngưỡng của người khác.
IV. MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẠO ĐỨC VÀ KHOA HỌC.
10


1. Khoa học.
- Hệ thống tri thức tích luỹ trong quá trình lòch sử và được thực tiễn chứng minh, phản
ánh những quy luật khách quan của thế giới bên ngoài cũng như của hoạt động tinh thần
của con người, giúp con người có khả năng cải tạo thế giới hiện thực.
- Ngành của từng hệ thống tri thức nói trên.
(Từ điển Tiếng Việt- Viện khoa học xã hội Việt Nam 1992).
2. Mối quan hệ giữa đạo đức và khoa học.
Đạo đức và khoa học là các hình thái ý thức xã hội có chung mục đích là tạo ra mọi
điều kiện giúp con người cải tiến xã hội, xây dựng cuộc sống hạnh phúc cho cá nhân làm
cho xã hội ngày càng tốt đẹp hơn.
Khoa học là một hệ thống hài hoà những tri thức về thực tế xung quanh con người.

Khoa học diễn đạt những kết quả nghiên cứu đựơc dứơi dạng những khái niệm và quy
luật, nhờ đó con người làm chủ và cải thiện được cuộc sống.
Nhà khoa học chân chính phải trở thành người chiến só đấu tranh cho chân lý và muốn
vậy họ cần phải có lòng can đảm, có dũng khí, có tinh thần chí công vô tư… nghóa là phải
có phẩm chất đạo đức. Con người trong quá trình nhận thức tri thức khoa học để hình
thành thế giới quan thì cũng đồng thời hình thành nhân sinh quan. Đạo đức là một mặt của
nhân sinh quan biểu hiện cụ thể bằng thái độ hành vi, cách ứng xử giữa con người với con
người, con người với tự nhiên với xã hội và với bản thân mình. Thế giới quan và nhân sinh
quan của con người được hình thành từ khoa học và đạo đức. Hay nói cách khác đạo đức
và khoa học là hai hình thái ý thức xã hội giúp con người phát triển toàn diện nhân cách
(đức và tài).
Nhà triết học cổ đại Hy lạp - Socrate cho rằng tương quan giữa sự hiền minh và đức
hạnh là nền tảng của những vấn đề đạo đức học. Tri thức là ngọn nguồn và cơ sở của cái
thiện và con người hiểu biết (tri thức) càng nhiều thì nó càng có đức hạnh. Song tri thức
mà Socrate đề cập đến ở đây là tri thức về cuộc sống con người, về những khát vọng và lý
tưởng của con người. Mặt khác ông còn cho rằng chỉ có nhà triết học mới có thể sống
thanh thản, không biết sợ, có đức hạnh, theo ông nhà hiền triết là lý tưởng về con người
đạo đức.
Platon, học trò của Socrate đã phát triển vấn đề tương quan giữa tri thức và đạo đức
thành một hệ thống siêu hình học toàn vẹn. Ông đặt vấn đề ở một bình diện rộng hơn và
ông nghiên cứu tương quan giữa tư tưởng về cái chân, tư tưởng về cái đẹp và tư tưởng về
cái thiện.
Chủ tòch Hồ Chí Minh kính yêu cũng đã nhấn mạnh “Nếu khoa học mà không có đạo
đức thì trở nên tàn bạo, nhưng có khoa học mà không có đạo đức cũng trở nên ngu muội”
hay: “Có tài mà không có đức là người vô dụng, có đức mà không có tài thì làm việc gì
cũng khó”.
Ngày nay với những thành tựu khoa học hiện đại của con người như việc chế tạo ra vũ
khí hạt nhân, nhân bản vô tính …vẫn rất cần đến đạo đức để chống lại việc sử dụng những
thành tựu khoa học đó mà làm nguy hại đến xã hội như chiến tranh giữa các nước, nhân
11



bản vô tính ở người … Theo R.R Sing nhà giáo dục nổi tiếng n Độ, con người có thêm
nhiều tri thức cũng chưa đủ, còn cần phải có khả năng phân biệt tri thức nào có lợi sự cho
sự tiến bộ của nhân loại cả về mặt xã hội lẫn nhân văn và loại tri thức nào chỉ dẫn đến sự
phá hoại môi trường làm thoái hóa nhân cách.
Song giữa đạo đức và khoa học có những nét riêng biệt. Đạo đức là tổng hợp những
nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội. Khoa học là hệ thống tri thức tích luỹ trong quá
trình lòch sử và được thực tiễn chứng minh. Với vai trò là những kiến trúc thượng tầng, đạo
đức thực hiện chức năng đònh hướng, điều chỉnh, kiểm tra, đánh giá hành vi con người để
giúp con người tạo giá trò nhân sinh quan còn khoa học thực hiện chức năng khám phá,
giải thích về nguồn gốc và sự phát triển thế giới.
Trường tiểu học cung cấp cho học sinh hệ thống tri thức khoa học toàn diện, bao
gồm tri thức khoa học tự nhiên và tri thức khoa học xã hội. Đó là cơ sở để học sinh tiểu
học hình thành thế giới quan khoa học – là nền tảng của đạo đức học Mác- xít.
HƯỚNG DẪN HỌC TẬP
1. Phân tích mối quan hệ giữa đạo đức với các hình thái ý thức xã hội sau: Chính trò,
Pháp luật, Tôn giáo, Khoa học.
2. Cho ví dụ minh hoạ về các mối quan hệ nêu trên và rút ra những kết luận sư phạm cần
thiết.

12


Chương III
MỘT SỐ PHẠM TRÙ CƠ BẢN CỦA ĐẠO ĐỨC HỌC

I- KHÁI QUÁT CHUNG VỀ PHẠM TRÙ VÀ PHẠM TRÙ ĐẠO ĐỨC.
1. Khái niệm phạm trù.
Theo Từ điển Tiếng Việt- Viện khoa học xã hội Việt Nam 1992 “phạm trù” được hiểu như

sau:
- Khái niệm khoa học phản ánh những thuộc tính và mối quan hệ chung, cơ bản nhất của
các hiện tượng.
- Khái niệm khoa học biểu thò loại sự vật, hiện tượng hay những đặc trưng chung nhất của
chúng.
2 Nét riêng biệt của phạm trù đạo đức.
Đạo đức học cũng như tất cả các khoa học khác được cấu trúc bởi một hệ thống các phạm
trù, khái niệm liên hệ với nhau theo những quy luật xác đònh. Các phạm trù cơ bản của đạo
đức có những đặc điểm riêng biệt quy đònh nó về mặt nguồn gốc, quá trình hình thành, sự biến
đổi không giống với những hiện tượng khác trong xã hội loài người. Nhờ lónh hội được các
phạm trù cơ bản này mà con người nhận thức được một cách đầy đủ toàn diện bộ mặt đạo đức
của xã hội và soi chiếu cho từng cá nhân. Những nét riêng biệt của các phạm trù của đạo đức
học là:
1) Phạm trù đạo đức chứa đựng nội dung thông báo và nội dung đánh giá có tính lòch sử và
giai cấp. Nó chẳng những cung cấp cho con người những tri thức nhất đònh về thế giới, đặc
biệt về mối quan hệ với thế giới tự nhiên và xã hội, mà còn đưa lại cho họ những chuẩn mực
giá trò phù hợp với những giai đoạn lòch sử nhất đònh.
2) Phạm trù đạo đức còn bao hàm trong nó những quan điểm, tư tưởng, tình cảm, thái độ
hành vi…của con người đối với thế giới xung quanh, nên nó có ý nghóa nhân sinh quan.
3) Phạm trù đạo đức có tính chất phân cực : phủ đònh hoặc khẳng đònh, không có phạm trù
trung gian. Vì vậy, các phạm trù đạo đức học có ý nghóa điều chỉnh suy nghó và hành động
của con người.
4) Phạm trù đạo đức có tính tương đối vì tuy nó phản ánh nội dung khách quan như các
phạm trù của các khoa học khác, nhưng phạm trù đạo đức luôn gắn với cảm xúc, trách nhiệm
và sự lựa chọn của cá nhân nên có thể biểu hiện ra những phán đoán, những hành vi chủ
quan. Ví dụ quan niệm về hạnh phúc là khác nhau trong những thời đại khác nhau và ngay
trong một thời đại cũng khác nhau đối với giai cấp khác nhau.
II- MỘT SỐ PHẠM TRÙ CƠ BẢN CỦA ĐẠO ĐỨC HỌC.
1. Thiện và ác.
Thiện và ác là một cặp phạm trù đạo đức được mọi người quan tâm và xem là cặp phạm

trù đạo đức nổi bật của nhân loại, người ta dùng nó để đánh giá về mặt đạo đức hành vi của
con người (của các tập đoàn, của các giai cấp), cũng như những hiện tượng xã hội theo quan
điểm giai cấp nhất đònh.
13


Thời cổ đại nhiều nhà tư tưởng đã muốn tìm ra một số đặc tính cố đònh của con người để
giải thích nguồn gốc ý thức, hành vi đạo đức của mọi cá nhân đang biểu hiện ra muôn hình
muôn vẻ vô cùng phức tạp trong cuộc sống chung của xã hội. Theo quan niệm của các nhà
triết học cổ đại phương Tây như Xôcrát (470-399 tr. CN) và Platôn (427-347 tr.CN) thì “cái
thiện” là ý niệm chung, phổ biến và bất biến, là ý niệm cao nhất được coi là chúa giáng thế,
là mặt trời sinh ra muôn vật. Mọi ý niệm trong thế giới đều tồn tại, bất biến không sinh ra
cũng không mất đi.
Quan niệm của các học giả phương Đông như Khổng Tử (551-479 tr. CN) và Mạnh Tử
(372-289 tr. CN) thì cho rằng con người ta sinh ra đã mang bản chất mầm mống của cái thiện:
“nhân tri sơ tính bản thiện”. Người ta không ai là không thiện. Trái lại với Khổng Tử và Mạnh
Tử, Tuân Tử (289-238 tr. CN) cho rằng tính người là vốn ác. Như vậy các quan điểm trên đều
cho Thiện, Ác như là thuộc tính bản chất con người có từ khi con người mới sinh ra.
Theo đạo đức học Mác-xít thì “những quan niệm về thiện và ác thay đổi một cách mạnh
mẽ từ dân tộc này đến dân tộc khác, từ thế kỷ này đến thế kỷ khác, cho nên thường thường
chúng trái ngược hẳn với nhau“ (F. Ăngghen - Chống Duy- rinh). Mặt khác những quan niệm
về thiện và ác được thể hiện thông qua toàn bộ những yêu cầu về đạo đức cụ thể quy đònh
tiêu chuẩn của hành vi con người đang góp phần tích cực vào việc giải phóng nhân loại. Hành
vi của con người có thể được đánh giá là thiện hay ác tùy theo hành vi đó thúc đẩy hoặc ngăn
trở việc thỏa mãn những nhu cầu lòch sử của xã hội nói chung và lợi ích của giai cấp tiến bộ
thể hiện những nhu cầu đó. Trong một giai đoạn phát triển của xã hội, mỗi con người chân
chính đều phải đấu tranh để đề cao cái thiện, loại bỏ cái ác làm cho bộ mặt đạo đức của xã
hội ngày càng cao quý tốt đẹp hơn.
Cái thiện là một trong những giá trò đạo đức nổi bật của con người, của cuộc sống cộng
đồng, là sự biểu hiện cái tốt đẹp lòng nhân ái, thể hiện những lợi ích cá nhân phù hợp với sự

tiến bộ xã hội. Bản thân cái thiện mang tính sáng tạo. Nó đòi hỏi con người trong hoạt động
thực tiễn đạo đức phải tư duy, phải lựa chọn, đấu tranh động cơ để đònh hướng đúng hành vi
theo yêu cầu chuẩn mực xã hội.
Cái ác là cái đáng ghê tởm, cần gạt ra khỏi đời sống cá nhân và xã hội. Tuy nhiên cái ác
không phải là cái đối lập tuyệt đối của cái thiện. Chúng có tính lòch sử. Nhiều khi có những
cái đối với dân tộc này là thiện nhưng với dân tộc khác là ác. Ví dụ bộ tộc Hô-ten-hôt (Tây
châu Phi) có tục giết cha mẹ lúc già yếu để tránh sự đau ốm dai dẳng hoặc bộ tộc Pâylar
(Trung Phi) coi việc “thực táng” chia nhau ăn thòt người chết là việc làm thiêng liêng của
điều thiện. Nhưng đối với dân tộc khác thì coi đó như là những điều ác không thể chấp nhận
được. Hoặc giết người là tội ác nhưng trong chiến tranh bảo vệ đất nước chúng ta phải tiêu
diệt kẻ thù thì việc làm đó là vì chính nghóa, vậy nó là điều thiện.
Như vậy thiện, ác có thể chuyển hóa cho nhau tuỳ theo tình hình kinh tế, xã hội, tùy theo
quan điểm giai cấp, lập trường chính trò xã hội. Với bản chất tốt đẹp của con người chân
chính luôn đấu tranh để bảo vệ cái tốt đẹp, cái cao thượng. Đó chính là sự chiến thắng của cái
thiện, đấu tranh chống lại cái ác, loại trừ mọi hành vi vô đạo đức để xây dựng một xã hội tốt
đẹp. Hiện nay chúng ta đang phấn đấu để có một xã hội trong đó “dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, văn minh”. Đó là mục tiêu phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân ta trong giai
đoạn xây dựng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và cũng là cái thiện lớn lao nhất.
2. Nghóa vụ.
14


21. Khái niệm:
Trong cuộc sống hàng ngày, với những mối quan hệ đa dạng phức tạp và với tư cách là
một chủ thể có ý thức con người luôn cố gắng thực hiện trách nhiệm của mình trước công việc
và làm tròn bổn phận với gia đình và xã hội.
Phạm trù nghóa vụ xuất hiện rất sớm. Đêmôcrit là người đầu tiên đưa phạm trù nghóa vụ
vào đạo đức học. Ôâng cho rằng, ý thức nghóa vụ là động cơ sâu kín bên trong của con người.
Tôn giáo coi nghóa vụ là ý thức trách nhiệm trước thượng đế. Nghóa vụ con người là hy
sinh mọi nguyện vọng, nhu cầu của bản thân để phụng sự thánh thần với hy vọng được hưởng

hạnh phúc ở thế giới bên kia… Các nhà duy vật Pháp thế kỷ XVII- XVIII như Rútxô,
Hônbách thì cho rằng việc thực hiện nghóa vụ gắn liền với lợi ích của cá nhân trong phạm vi
của mình không xâm phạm đến lợi ích của người khác.
Như vậy theo các nhà duy vật Pháp thì phần nào họ đã xác đònh được nguồn gốc của nghóa
vụ đó là lợi ích của cá nhân. Song điểm hạn chế của họ là chưa xác đònh được mối tương quan
giữa lợi ích cá nhân với lợi ích xã hội khi con người thực hiện nghóa vụ.
Theo quan điểm duy vật biện chứng, xét về nguồn gốc thì nghóa vụ bắt nguồn từ các nhu
cầu và các nhiệm vụ mà xã hội đề ra cho mỗi cá nhân trong những giai đoạn lòch sử –xã hội
nhất đònh.
Các nhà duy vật biện chứng đã xác đònh nguồn gốc của nghóa vụ từ nhu cầu và nhiệm vụ
mà xã hội đề ra cho cá nhân. Như vậy khi con người thực hiện các nhu cầu cá nhân để đạt
được hạnh phúc cho cá nhân, xã hội thì đồng thời con người phải tự giác hướng thiện và hiểu
rõ công việc mình làm là mang lại lợi ích cho mọi người và cho xã hội. Hay nói một cách
khác nghóa vụ là ý thức và tình cảm của mỗi cá nhân biết đem nhu cầu và lợi ích của mình kết
hợp với nhu cầu và lợi ích của xã hội. Hơn thế nữa khi thực hiện nghóa vụ, mỗi người ý thức
được nhu cầu và nhiệm vụ mà mình thực hiện phải phù hợp với từng giai đọan lòch sử –xã
hội. Mỗi giai đọan lòch sử –xã hội khác nhau thì nhu cầu và nhiệm vụ con người là khác nhau
.Chẳng hạn, khi đất nước có giặc ngoại xâm thì nhiệm vụ của thanh niên là phải ra chiến
trường bảo vệ bờ cõi biên cương của Tổ quốc, bởi vì họ ý thức sâu sắc rằng đất nước, xứ sở,
quê hương là mảnh đất đã kết tinh bao mồ hôi, xương máu của thế hệ cha ông. Khác với khi
đất nước có chiến tranh, nhiệm vụ của thanh niên trong thời bình là xây dựng và bảo vệ đất
nước.
2.2. Các dạng biểu hiện:
Cuộc sống đa dạng và phức tạp của con người với nhiều mối quan hệ khác nhau, cho nên
cũng có nhiều nghóa vụ khác nhau: trong gia đình đó là nghóa vụ làm con phải kính trọng,
chăm sóc ông bà, cha me; ngoài xã hội làm người công dân có nghóa vụ xây dựng và bảøo vệ
Tổ quốc; trong trường học làm người học sinh có nghóa vụ thực hiện tốt nội quy trường học.
Như vậy khi con người thực hiện nghóa vụ trong các mối quan hệ với cộng đồng thì nghóa vụ
biểu hiện dưới 2 dạng : nghóa vụ đạo đức và nghóa vụ pháp lý:
* Nghóa vụ đạo đức là ý thức và tình cảm của con người tự nguyện, tự giác thực hiện các

hành vi, họat động của mình theo quy tắc, chuẩn mực chung của xã hội. Chính đặc điểm này
làm cho nghóa vụ có tính tự do và tự giác .
* Nghóa vụ pháp lý là ý thức của con người tôn trọng các quy đònh của pháp luật hiện hành
như một sự công bằng, một sự cần thiết khách quan không phụ thuộc vào ý muốn cá nhân.
15


Đặc điểm này thể hiện tính bắt buộc của phạm trù nghóa vụ. Tuy nhiên sự phân biệt sự khác
nhau giữa nghóa vụ đạo đức và nghóa vụ pháp lý chỉ có tính chất tương đối, vì chúng có mối
quan hệ khắng khít và chuyển hóa cho nhau.
3. Lương tâm.
3.1. Khái niệm:
Là con người có ý thức, trong các mối quan hệ với xã hội khi thực hiện các hành động của
mình thì con người luôn có nhu cầu tự đánh giá để đối chiếu những hành động đó với chuẩn
mực xã hội. Chức năng tự đánh giá hành động của mình chính là lương tâm. Vậy lương tâm là
tiếng nói bên trong xuất phát từ tấm “lòng” trong sáng của con người để giúp họ làm những
điều tốt lành, ngăn chặn điều xấu.
Nhà triết học cổ đại Hy lạp- Platôn cho lương tâm là sự mách bảo của thượng đế. Vì vậy
nó tồn tại vónh cửu. Kantơ cho lương tâm là sự “thao thức của tinh thần” nó gắn liền với con
người như bẩm sinh. Ông viết: “Quy luật tồn tại trong chúng ta được gọi là lương tâm… Cá
nhân mang trong mình cảm giác lương tâm không phụ thuộc vào điều kiện họ sống. Lương
tâm không phải là cái gì có thể tìm kiếm được… một con người với tư cách là một bản chất
đạo đức mang trong mình cảm giác lương tâm từ lúc mới sinh ra, như một người làm chứng
của chúa trời để phán xử chúng ta” (Kantơ-Khoa học sư phạm). Như vậy theo Kantơ cảm giác
lương tâm là tiên nghiệm.
Các nhà duy vậy thế kỷ XVI - XVIII đều phủ nhận lương tâm có nguồn gốc từ thượng đế.
Họ có xu hướng gắn lương tâm với ý thức của con người về lợi ích và thừa nhận vai trò xã hội
của lương tâm.
Theo quan điểm duy vật biện chứng của đạo đức học thì lương tâm là ý thức trách nhiệm
và tình cảm đạo đức của cá nhân về sự tự đánh giá những hành vi, cách cư xử của mình trong

đời sống xã hội.
Có thể lý giải phạm trù “Lương tâm” theo quan điểm duy vật biện chứng như sau:
- Đã là con người có ý thức thì khi hành động con người xác đònh được mục đích, ý nghóa
và trách nhiệm đối với hành động. Khi con người hành động càng đúng, càng tốt thì lương tâm
càng yên ổn và có cảm giác về lương tâm trong sạch, tức là con người tự ý thức được bản chất
lương thiện của mình, nó xuất hiện kèm theo các hoạt động đạo đức tạo ra cảm giác vững tin
vào ý thức và nhân phẩm của mình. Cảm giác về lương tâm trong sạch tức là sự ý thức được
bản chất lương thiện của mình. Không có cảm giác lương tâm trong sạch thì đạo đức sẽ mất
hết giá trò.
- Tình cảm đạo đức của con người đối với hoạt động càng mạnh thì chức năng tự kiểm tra
càng tích cực, sức mạnh của tình cảm đạo đức thể hiện ra ở cường độ của tính tích cực và tính
tự kiểm tra của nó. Do đó tình cảm đạo đức cũng là chức năng của lương tâm nên bản thân
lương tâm cũng là một hiện tượng tình cảm.
- Sự tự đánh giá những hành vi, cách cư xử của mình trong đời sống xã hội là chức năng
của lương tâm và nó là một hiện tượng trí tuệ có chứa đựng yếu tố ý thức. Trong thực tế, con
người khi hành động , không có hành động nào lại không có cảm giác về tình cảm lương tâm.
Ví dụ như làm việc tốt ta thấy vui vẻ, hài lòng, thỏa mãn với mình, làm việc xấu ta cảm thấy
áy náy, ân hận, xấu hổ đối với bản thân. Con người có được những cảm giác đó chính là nhờ
sự tự đánh giá về những hành vi, cách cư xử của mình trong đời sống xã hội và đó là người có
16


lương tâm. Sẽ là kẻ vô lương tâm nếu con người không biết tự đánh giá và cũng không biết
xấu hổ với chính mình.
Như vậy theo quan điểm duy vật biện chứng lương tâm vừa là ý thức vừa là tình cảm.
3.2. Sự hình thành lương tâm:
Sự hình thành lương tâm là một quá trình phát triển lâu dài từ thấp lên cao trong quá trình
lao động sản xuất và hoạt động giao tiếp xã hội của cá nhân theo các mức độ sau:
- Ýù thức về cái cần phải làm do sự sợ hãi bò trừng phạt bởi thiết chế xã hội hoặc ý niệm
tâm linh.

- Ýù thức về cái cần phải làm, cần phải tránh vì sự xấu hổ trước người khác và trước dư
luận xã hội.
- Ýù thức về cái cần phải làm vì sự xấu hổ trước bản thân.
Xấu hổ trước bản thân hay tự xấu hổ với hành vi của mình là bước đầu của cảm giác lương
tâm. Từ cảm giác đó đến sự phán xét các suy nghó và hành vi của mình là lương tâm. Chính vì
thế lương tâm cũng là ý thức trách nhiệm và tình cảm đạo đức của cá nhân.
3.3. Biểu hiện của lương tâm:
Lương tâm biểu hiện ở hai trạng thái khẳng đònh và phủ đònh:
- Giá trò của sự khẳng đònh được biểu hiện bằng sự thanh thản của lương tâm và đó là
những hành vi đối với cái thiện, cái công bằng, cái chính đáng
- Sự phủ đònh được biểu hiện bằng sự cắn rứt của lương tâm đó là hành vi đối với cái ác,
cái bất công…
Mỗi chủ thể đạo đức có cả hai trạng thái khẳng đònh và phủ đònh của lương tâm. Song điều
quan trọng đối với mỗi người là cần rèn luyện đạo đức để trạng thái khẳng đònh của lương
tâm đẩy lùi, loại trừ trạng thái phủ đònh.
4. Hạnh phúc.
4.1 Khái niệm:
Con người luôn mong muốn vươn tới hạnh phúc cho cá nhân, gia đình, xã hội và hơn thế
nữa hạnh phúc cũng là mối quan tâm lớn lao của toàn nhân loại. Hạnh phúc là một hiện tượng
xã hội vừa thuộc về vật chất vừa thuộc về tinh thần. Một hiện tượng như vậy thống nhất giữa
tâm và vật, có thể là một cảm giác, một cảm xúc, một trạng thái hoặc chức năng sinh lý và
tâm lý nhất đònh của con người. Vì thế hạnh phúc vừa là khát vọng tự nhiên vừa tác động đến
suy nghó, hành vi của con người. Do đó hạnh phúc cũng là một phạm trù cơ bản của đạo đức
học.
Trong quá trình phát triển của lòch sử xã hội loài người, con người đã bàn về hạnh phúc và
các quan niệm về hạnh phúc luôn thay đổi. Các nhà tư tưởng cổ đại Hy Lạp như Xôcrát (470399 TCN); Đêmôcrit (460 – 370); Aritxtốt (384-322) quan niệm hạnh phúc là sự yên tónh,
thanh thản của tâm hồn. Khả năng trí tuệ, khả năng chế ngự khát vọng, chế ngự nỗi đau khổ
sẽ đem lại hạnh phúc cho con người. Theo họ để đạt được hạnh phúc thì hoàn toàn phụ thuộc
vào yếu tố chủ quan của con người và phải hạn chế tối đa những nhu cầu của mình, bởi vì
những ham muốn, những nhu cầu, những khát vọng của con người là nguyên nhân gây nên sự

bất hạnh. Đây cũng là lý do chính để người nô lệ chấp nhận bò giai cấp chủ nô tước đoạt mất
mọi nhu cầu tối thiểu của con người.
17


Các tôn giáo đều cho rằng hạnh phúc không tồn tại ở trần thế mà chỉ có trên thiên giới.
Thiên chúa giáo hay Phật giáo… đều ra sức khuyến khích con người nhẫn nhục ở trần gian để
hưởng hạnh phúc cực lạc ở cõi niết bàn. Quan niệm đó được các giai cấp bóc lột sử dụng để
ru ngủ nhân dân lao động, hòng thủ tiêu đấu tranh giai cấp, bảo vệ chế độ người bóc lột
người.
Kantơ- nhà triết học giải thích nguồn gốc của hạnh phúc theo quan điểm duy tâm- cho
rằng hạnh phúc là đònh mệnh “Hãy để hạnh phúc như trời đònh”. Quan điểm trời đònh về hạnh
phúc của con người cũng rất phổ biến ở phương Đông.
Các nhà duy vật Pháp thế kỷ XVI- XVIII như Rênê Đêcáctơ (1596- 1650), Henvetiuýt
(1715- 1771) thì cho rằng hạnh phúc là sự thỏa mãn thường xuyên những nhu cầu vật chất và
tinh thần, là sự hùng mạnh và giàu có xuất phát từ lợi ích cá nhân (nhưng lợi ích cá nhân
không mâu thuẫn với lợi ích xã hội). P.Đ. Hônbách (1723- 1789) nhấn mạnh lợi ích trí tuệ vì
trí tuệ giúp người ta nhận thức được quy luật tự nhiên và sống hợp với quy luật tự nhiên. Như
vậy khi quan niệm về hạnh phúc các nhà duy vật Pháp đã chú ý đến sự “thỏa mãn” những nhu
cầu vật chất và tinh thần của con người, song họ chưa đặt được sự “thỏa mãn“ đó trong mối
quan hệ giữa cá nhân với xã hội.
Các quan niệm về hạnh phúc có sự khác nhau theo tiến trình phát triển của lòch sử – xã hội
loài người. Song sự thay đổi quan niệm về hạnh phúc còn phải dựa vào những điểm chung cho
tất cả các giai cấp, các dân tộc và những người riêng biệt đó là:
- Tất cả đều có lợi ích vật chất và tinh thần
- Những lợi ích ấy đều không ngừng lớn lên
- Tất cả đều cảm thấy hạnh phúc khi những lợi ích ấy được thỏa mãn tối đa.
Với ý nghóa như vậy, nhận thức chung về hạnh phúc đối với mọi người là thống nhất. Mỗi
người có thể có những lợi ích riêng và những mục đích cá nhân trong cuộc sống, song ý nghóa
chung của cuộc sống phải là thống nhất chung cho toàn nhân loại.

Trên cái nền của sự nhận thức chung về hạnh phúc và về ý nghóa cuộc sống như vậy, có
thể hiểu hạnh phúc ( theo nghóa rộng) là sự đánh giá chung nhất, tổng hợp những yếu tố thỏa
mãn nhu cầu, nguyện vọng của con người phù hợp với xã hội. Hạnh phúc với mỗi người là sự
thỏa mãn những nhu cầu và nguyện vọng. Khái niệm nhu cầu và thỏa mãn nhu cầu có ý nghóa
đặc biệt để hiểu rõ nội dung của hạnh phúc. Những nhu cầu của con người được thỏa mãn hết
sức đa dạng. Mỗi nhu cầu tương ứng với một chức năng hoặc một năng lực nhất đònh của con
người. Có thể hiểu nhu cầu của con người như sau:
- Con người như một sinh thể sống trước hết cần đến sự ăn uống. Đói và khát gây ra đau
khổ và sự thỏa mãn hai nhu cầu này đem lại sự thích thú. Nếu con người không biết đau khổ
vì đói khát thì nó không thể sống được. Đó là sự thoả mãn về vật chất, để thoả mãn các nhu
cầu ấy, con người phải suy nghó, phải cân nhắc có ý thức…
- Con người là một sinh thể có tư duy, có nhu cầu nhận thức hiện thực khách quan, có ý
thức được giá trò của chân lý và có xu hướng làm phong phú vốn tri thức của bản thân, phát
triển trí tuệ và trí thông minh. Đây là khả năng và nhu cầu đặc thù của con người. Do đó nhận
thức hiện thực khách quan là hạnh phúc của con người.
4.2. Tính chất:
Hạnh phúc của mỗi cá nhân có nội dung khách quan, đó là nhu cầu về vật chất hay tinh
thần của xã hội. Nội dung khách quan của hạnh phúc làm cho nó mang ý nghóa xã hội. Khi xã
18


hội văn minh tiến bộ thì vật chất và tinh thần xã hội ngày càng phát triển, đó là quy luật tất
yếu khách quan.
Trước sự tiến bộ của xã hội, cá nhân có sự lựa chọn tạo nên động cơ và phương hướng cho
hoạt động. Trong quá trình hoạt động con người bằng ý chí, năng lực của cá nhân nhằm thỏa
mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần cho cá nhân và cống hiến cho xã hội. Đó là mặt chủ
quan của hạnh phúc đối với mỗi cá nhân.
Như vậy nội dung khách quan và chủ quan của hạnh phúc đều tồn tại trong mỗi cá nhân.
Nếu mỗi cá nhân nhận thức rõ điều đó thì mới đạt được hạnh phúc chân chính. Hay nói một
cách khác để có được hạnh phúc con người phải tham gia vào các hoạt động của xã hội một

cách tích cực, sáng tạo để thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao hơn của cá nhân và xã hội vì hạnh
phúc không phải là vật có sẵn đến với mọi người. Theo ý nghóa đó Mác nói: “Hạnh phúc là
đấu tranh”.
Gíá trò cao nhất của hạnh phúc mỗi con người là kết hợp hài hòa giữa lợi ích xã hội và lợi
ích của cá nhân. Đây là yếu tố quan trọng đểå cá nhân vươn tới hạnh phúc chân chính. Những
lợi ích và xu hướng cá nhân chỉ có thể có ý nghóa và giá trò trên nền tảng chung của những lợi
ích và xu hướng xã hội vì bản thân cá nhân và cá tính của con người chỉ tồn tại trong xã hội
và nhờ vào xã hội mà thôi.
Ví như hạnh phúc của cá nhân là cảm giác thỏa mãn nhu cầu về của cải vật chất và nhu
cầu về tinh thần: tình yêu, sắc đẹp, sức khỏe, sự tích luỹ về tri thức, sự hoàn thiện về phẩm
chất... Tất cả những điều đó chỉ có giá trò và ý nghóa khi nó thực sự đóng góp vào sự phát triển
của xã hội. Vì thế, nếu người nào đặt toàn bộ hoạt động của mình chỉ nhằm thỏa mãn mục
đích riêng của cá nhân mà làm tổn hại đến lợi ích chung của xã hội thì dù họ có đạt tới mức
nào của sự thỏa mãn cũng không thể vươn tới hạnh phúc chân chính.
Hiện nay đất nước ta đang tiến hành công nghiệp hóa và hiện đại hóa, mọi người công dân
chân chính dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam phải biết hướng hoạt động của
mình vào việc thực hiện mục tiêu chung của xã hội: “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng
văn minh”.

HƯỚNG DẪN HỌC TẬP
1 Phân tích các phạm trù đạo đức sau đây theo quan điểm duy vật biện chứng: Thiện và Ác,
Nghóa vụ, Lương tâm, Hạnh phúc.
2 Hãy chứng minh sự cần thiết phải giáo dục các phạm trù đạo đức nêu trên đối với học sinh
tiểu học. Cho ví dụ minh họa.

19




×