Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

BÁO cáo SÁNG KIẾN xuân 19

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (201.34 KB, 26 trang )

THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1. Tên sáng kiến : “ Một số biện pháp dạy trẻ kỹ năng sống cho trẻ

4- 5 tuổi lớp mẫu giáo ghép Phiêng Sày, Trường mầm non Nà Sản, xã Hát
Lót - Mai Sơn- Sơn La”
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến : Giáo dục Mầm non
3. Tên tác giả :
- Họ và tên: Kiều Thị Xuân. Giới tính: Nữ
- Trình độ chuyên môn: Đại học
- Chức vụ, đơn vị công tác: Giáo viên trường mầm non Nà Sản
- Số điện thoại: 0975179786; Email: kieuxuanmnns @gmail.com
- Tỷ lệ đóng góp tạo ra sáng kiến: 100%
4. Đơn vị áp dụng sáng kiến: Lớp mẫu giáo ghép Phiêng Sày, trường
mầm non Nà Sản.
- Địa chỉ: Tiểu khu Nà Sản - Xã Hát Lót – Mai Sơn – Sơn La
5. Thời gian áp dụng sáng kiến lần đầu: Từ ngày 10/9/2018 đến ngày 05/
5/2019.

1


PHẦN MỞ ĐẦU
I. Bối cảnh của giải pháp :
Câu thành ngữ “ Tiên học lễ, hậu học văn ” của ông cha ta từ ngàn xưa đã
để lại đến bây giờ vẫn không thể thiếu trong các trường học. Kỹ năng sống là nét
đẹp văn hoá được đặt lên hàng đầu khi đánh giá về một con người
Trong những năm gần đây, giáo dục không ngừng đổi mới về hình thức
nội dung và phương pháp giáo dục, dạy học hướng vào học sinh, lấy học sinh
làm trung tâm, học sinh chủ động và tham gia và lĩnh hội kiến thức, một cách
thoải mái. Nhìn chung kết quả giáo dục đã có sự tiến bộ giáo dục rõ rệt, thông
qua việc giáo dục cho ta thấy, để học sinh hứng thú học tập và tích cực tham gia


vào các hoạt động học tập và tích cực tham gia vào các hoạt động giáo dục thì
việc dạy trẻ kỹ năng sống là vấn đề then chốt nền móng là cơ sở phát huy tối đa
hiệu quả giáo dục đặc biệt là ở lứa tuổi mầm non.
Như chúng ta đã biết, đất nước hiện nay nền kinh tế phát triển trên đường
hội nhập Quốc tế, chúng ta phải giao lưu với nhiều nền kinh tế trên thế giới
Trẻ thiếu kinh nghiệm sống, dễ bị lôi kéo, kích động. Hiện nay, thế hệ trẻ
thường xuyên chịu tác động đan xen của những yếu tố tích cực và tiêu cực, luôn
được đặt vào hoàn cảnh phải lựa chọn những giá trị phải đương đầu với những
khó khăn, trách nhiệm, những áp lực tiêu cực, nếu thiếu kỹ năng sống các em dễ
bị lôi kéo vào các hành vi tiêu cực, bạo lực, và lối sống ích kỉ lại càng thực
dụng, dễ bị phát triển lệch lạc về nhân cách
Vậy để thế hệ trẻ chúng ta nhận thức và giữ vững được nền văn hoá của
dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa đến nay và trong thời đại mới là nhiệm vụ cần
thiết nhất trong các mục tiêu xây dựng phát triển con người toàn diện trong thời
đại hiện nay để sớm đào tạo cho xã hội những con người tài đức vẹn toàn.
Ở độ tuổi mầm non, trẻ xuất hiện tình trạng thụ động, không biết ứng phó
trong những hoàn cảnh nguy cấp, không biết cách tự bảo vệ bản thân trước
nguy hiểm, tìm kiếm sự giúp đỡ... Có nhiều nguyên nhân khác nhau gây ra tình
trạng này, trong đó việc thiếu kỹ năng sống là nguyên nhân sâu xa nhất, ảnh
hưởng đến việc ra quyết định hay lựa chọn hành động của trẻ hay không.
Các kỹ năng sống được học tốt nhất thông qua các hoạt động tích cực của
trẻ, đối với trẻ mầm non, trẻ thường học các hành vi thông qua việc bắt chước,
nhập tâm, qua luyện tập thực hiện hàng ngày, lâu dần trở thành kỹ năng của trẻ.
Để giáo dục kỹ năng sống cho trẻ một cách hiệu quả, giáo viên có thể sử dụng
các biện pháp như: Làm gương, trải nghiệm, trò chơi, trò chuyện, đàm thoại...
Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ có thể tiến hành trong tất cả các hoạt động
giáo dục hàng ngày vui chơi, học tập, chăm sóc sức khỏe, lễ hội, tham quan...
Mỗi hoạt động có ưu thế riêng đối với việc dạy những kỹ năng sống cần thiết
với cuộc sống của trẻ.
Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non giúp trẻ có kinh nghiệm trong

cuộc sống, biết điều nên làm và không nên làm, giúp trẻ tự tin, chủ động và biết
cách xử lý các tình huống trong cuộc sống, khơi gợi khả năng tư duy sáng tạo
2


của trẻ, đặt nền tảng cho trẻ trở thành người có trách nhiệm và có cuộc sống hài
hòa trong tương lai. Do đó, cần thiết phải giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm
non. Kỹ năng sống còn thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Để có được kỹ năng
sống trẻ cần phải có thời gian, trong một quá trình tập luyện thường xuyên với
sự hỗ trợ của người lớn và bạn bè. Những năm gần đây, nhu cầu học kỹ năng
sống, các chuẩn mực đạo đức của trẻ em đã “bùng nổ”. Điều đó thể hiện sự quan
tâm của các bậc phụ huynh đối với việc giáo dục.
Phong trào “ Xây dựng trường học thân thiện - học sinh tích cực” được
Bộ Giáo dục và Đào tạo đưa vào trường học với yêu cầu tăng cường sự tham gia
một cách hứng thú của học sinh trong các hoạt động giáo dục trong nhà trường
và tại cộng đồng với thái độ tự giác, chủ động và ý thức sáng tạo. Trong năm nội
dung thực hiện có nội dung rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh. Thời gian gần
đây, chủ đề dạy kỹ năng sống cho trẻ được rất nhiều phụ huynh quan tâm. Bên
cạnh đó, để đáp ứng nhu cầu về kỹ năng sống cho trẻ, các trung tâm dạy kỹ năng
sống cũng lần lượt ra đời. Tuy nhiên dạy trẻ kỹ năng sống như thế nào lại là một
vấn đề cần đặt ra nhiều câu hỏi nên tôi chọn sáng kiến “ Một số biện pháp dạy
trẻ kỹ năng sống cho trẻ 4- 5 tuổi lớp mẫu giáo ghép Phiêng Sầy, Trường
mầm non Nà Sản”
II. Lý do chọn giải pháp:
Kỹ năng sống chính là phương tiện không thể thiếu để giúp trẻ tăng năng
lực hội nhập, tích cực, chủ động, sáng tạo, mạnh dạn, tự tin vững vàng trước mọi
khó khăn thử thách.
Kỹ năng sống chính là chiếc chìa khóa vàng cho sự sống còn, sự phát
triển và sự thành công của mỗi con người.
Ở lứa tuổi mẫu giáo, kỹ năng sống chiếm một vị trí hết sức quan trọng nó

góp phần giúp trẻ hình thành và phát triển nhân cách con người, giúp trẻ học
tập, lĩnh hội những kinh nghiệm xã hội để trẻ vận dụng trong cuộc sống sau này.
Trong xã hội hiện nay, kiến thức của con người ngày càng phát triển và mở rộng,
từng cá nhân, nếu không được bồi dưỡng, cập nhật thông tin thường xuyên sẽ
trở thành lạc hậu. Bên cạnh đó, yêu cầu về chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ
ngày càng cao. Để hình thành và có được các kỹ năng cho trẻ trong cuộc sống
hàng ngày trước tiên giáo viên phải có kiến thức, kỹ năng về chăm sóc giáo dục
trẻ. Giáo viên phải có kiến thức để tổ chức các hoạt động cho trẻ được trải
nghiệm, để trẻ được cuốn hút vào các hoạt động đa dạng khác nhau c ùng với
các bạn trong nhóm lớp. Tạo ra nhiều cơ hội để trẻ tương tác, giao tiếp với nhau
trong lớp như: Thảo luận, trao đổi ý kiến, giải quyết xung đột, chia sẻ kinh
nghiệm, trải nghiệm những vai trò khác nhau...Tạo ra nhiều cơ hội để trẻ được
tham gia và cảm thấy mình là một thành viên trong nhóm chơi và trẻ có cơ hội
để phát triển trí tưởng tượng, sáng tạo, mạnh dạn, tự tin, góp phần thúc đẩy sự
phát triển, tình cảm, kỹ năng xã hội cho trẻ.
Như chúng ta đã biết, khoảng cách giữa nhận thức và hành động luôn khá
lớn. Ngày xưa trong giáo dục truyền thống, trẻ chỉ việc nghe lời cha mẹ. Những
3


gì học ở gia đình và xã hội lại giống nhau. Những gì trẻ học trong gia đình và tác
động của xã hội rất khác nhau qua bạn bè, truyền thông đại chúng, phim ảnh ...
trong nhiều trường hợp, trẻ phải tự ứng phó một mình. Có khi cha mẹ có đó,
nhưng theo không kịp những biến động xã hội ngày càng dồn dập. Với sự bùng
nổ thông tin, trẻ tiếp cận với đủ thứ loại tác động, tốt có, xấu có. Do ngày càng
có nhiều việc phải quyết định một mình nên trẻ không chỉ cần được biết thế nào
là điều hay lẽ phải mà còn phải có khả năng hành động theo nhận thức.
Để dạy trẻ kỹ năng sống, chính người lớn hãy tỏ ra rằng mình là người
sống có kỹ năng và hình thành kỹ năng sống cho trẻ thông qua chính việc hình
thành ý thức cho trẻ trong việc thực hiện các hành động trong giao tiếp cũng như

trong việc bảo vệ chính bản thân trẻ. Kỹ năng sống cho trẻ có thể tiến hành trong
tất cả các hoạt động giáo dục hàng ngày như: Vui chơi, học tập, chăm sóc sức
khỏe, lao động vừa sức, lễ hội, tham quan. Mỗi hoạt động có ưu thế riêng với
việc dạy và học, những kỹ năng sống cần thiết với cuộc sống của trẻ. Để có
được kỹ năng sống trẻ cần phải có thời gian, trong qúa trình tập luyện thường
xuyên với sự hỗ trợ của người lớn và bạn bè.
Kỹ năng sống chính là những nhịp cầu giúp con người biến kiến thức
thành thái độ, hành vi và thói quen tích cực lành mạnh. Khi hiểu được bản chất
của việc dạy kỹ năng sống cho trẻ: "đưa hành động vào trong ý thức" thì việc
dạy kỹ năng sống cho trẻ trở nên đơn giản và các bậc cha mẹ và thầy cô đều có
thể thực hiện được mà không phải băn khoăn là làm sao để dạy trẻ kỹ năng sống.
Trong thời gian đầu trẻ mới đến lớp, trẻ còn nhút nhát, hay khóc, không
giao tiếp với bạn bè, cô giáo. Trẻ chưa biết chào hỏi, chưa biết xin lỗi khi trẻ
mắc lỗi, không biết cảm ơn khi được giúp đỡ…
Một số trẻ đi chân không, không đi dép, tất, quần áo, mũ..vứt để lung
tung, không cất đúng nơi quy định.
Trẻ đi vệ sinh không đúng nơi quy định.
Các cháu thường vứt rác lung tung.Trước tình hình đó tôi đã rất băn
khoăn.
Làm sao để trẻ có kỹ năng sống tốt, làm thế nào để hình thành được ý thức của
trẻ thông qua các hành động? Việc dạy hành động cho trẻ quá đơn giản: nhặt rác,
nói một câu xin lỗi, một câu cám ơn, nhận biết những hành động, nơi chốn và
con người có thể gây nguy hại cho trẻ...Nhưng để trẻ hiểu được ý nghĩa của các
hành động trên và thực hiện hành động trên và chính ý thức của trẻ thúc đẩy trẻ
làm chứ không phải do bị ép buộc thì lại là một vấn đề khác. Chính vì vậy tôi đã
chọn sáng kiến“ Một số biện pháp dạy trẻ kỹ năng sống cho trẻ 4- 5 tuổi lớp
mẫu giáo ghép Phiêng Sầy, Trường mầm non Nà Sản”
III. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu:
1. Phạm vi nghiên cứu:
Tại lớp mẫu giáo ghép Phiêng Sày- Trường Mầm non Nà Sản- Xã Hát

Lót- Mai Sơn- Sơn La.
4


2. Về đối tượng nghiên cứu:
Học sinh 4- 5 tuổi lớp mẫu giáo ghép Phiêng Sày.
3. Về thời gian:
Từ ngày 10/9/2018 đến ngày 05/5/2019.
IV. Mục đích nghiên cứu:
Sáng kiến đưa ra những giải pháp nhằm tăng cường nâng cao nhận thức
và bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho giáo viên về chăm sóc giáo dục các kĩ
năng cho trẻ trong trường mầm non.
Qua sáng kiến một số biện pháp rèn kỹ năng sống cho trẻ nhằm tìm ra
một số biện pháp nhằm hình thành kĩ năng sống cho trẻ 4 - 5 tuổi trong trường
mầm non.
Giáo dục kỹ năng sống có tác dụng phát triển nhân cách trẻ về thể chất,
tình cảm xã hội, giao tiếp, ngôn ngữ, nhận thức và chuẩn bị tâm thế sẵn sàng vào
lớp 1.
Giáo dục kỹ năng sống giúp trẻ được an toàn, khỏe mạnh, nhanh nhẹn,
khéo léo, bền bỉ, tháo vát, thích ứng với các điều kiện sống thay đổi.
Giáo dục kỹ năng sống giúp trẻ mạnh dạn, tự tin, tôn trọng người khác,
giao tiếp có hiệu quả.
Giáo dục kỹ năng sống giúp trẻ biết nói năng lịch sự, lắng nghe, hòa nhã
và cởi mở.
Giúp giáo viên xác định những kĩ năng sống cơ bản cần thiết cần dạy trẻ ở
lứa tuổi mầm non, cụ thể hóa những kĩ năng cơ bản mà giáo viên cần dạy trẻ,
nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng của việc rèn kỹ năng sống cho trẻ đồng thời
có những biện pháp tích cực hơn nữa trong việc rèn kỹ năng sống cho trẻ 4 - 5
tuổi ở trường mầm non.
Giúp trẻ phát triển kĩ năng sống, giúp trẻ biết được những điều nên và

không nên làm, biết và thực hiện được một số kỹ năng sống đơn giản, phù hợp
thông qua việc tham gia vào các hoạt động trong trường mầm non nhằm giúp trẻ
phát triển toàn diện về mọi mặt đức - trí - thể - mỹ.

5


PHẦN NỘI DUNG;
I. Thực trạng của giải pháp đã biết
* Trong thời gian đầu trẻ mới đến lớp, trẻ còn nhút nhát, hay khóc, không
giao tiếp với bạn bè, cô giáo. Trẻ chưa biết chào hỏi, chưa biết xin lỗi khi trẻ
mắc lỗi, không biết cảm ơn khi được giúp đỡ…
Có trường hợp trẻ bị gia đình luôn mắng chửi, không quan tâm sẽ làm
cho trẻ có cảm giác không ai gần gũi, không trao đổi với người thân được, do đó
mà ngôn ngữ không phát triển, trẻ chưa giao tiếp tốt với bạn bè, cô giáo và mọi
người xung quanh.
* Một số trẻ được đáp ứng quá đầy đủ về nhu cầu mà trẻ cần.
Ví dụ: Trẻ chỉ cần nhìn vào một đồ dùng, đồ vật nào là được đáp ứng ngay
mà không phải dùng lời để yêu cầu hoặc xin phép. Đây cũng là một trong những
nguyên nhân làm trẻ giao tiếp không đạt kết quả cao.
Một số trẻ không được bố mẹ quan tâm chăm sóc trẻ chưa có kỹ năng tụ
phục vụ: Trẻ không đi dép, tất, quần áo, mũ..vứt để lung tung, không cất đúng
nơi quy định.
Trẻ đi vệ sinh không đúng nơi quy định. Các cháu thường vứt rác lung
tung. Trẻ chưa có kỹ năng tự phục vụ.
* Bản thân tôi là 1 giáo viên có trình độ chuẩn về chuyên môn, nhiệt tình,
yêu nghề mến trẻ, có kiến thức về kỹ năng sống cho trẻ mầm non, ham học hỏi
nâng cao chuyên môn nghiệp vụ.
* Về phía các bậc phụ huynh luôn quan tâm đến việc làm sao để kích
thích tính tích cực học tập của trẻ, ai cũng muốn con mình được học đọc và học

viết ngay trong những năm tháng học ở mẫu giáo, đặc biệt là các bậc cha mẹ có
con chuẩn bị vào lớp một.
Phụ huynh còn chiều chuộng con cái khiến trẻ không có kỹ năng tự phục
vụ, không chú ý đến con mình ăn uống như nào, trẻ có biết sử dụng những đồ
dùng ăn uống hay không ? phụ huynh không dạy con cách tự phục vụ cho bản
thân như đi giày dép, chải đầu tóc, hay mặc quần áo, rửa mặt, rửa tay, chân.
100% phụ huynh là người dân tộc nên chưa quan tâm đến việc rèn 1 số
kỹ năng trong quá trình sống cho trẻ, vì cho đó là công việc của người lớn làm,
nên chưa quan tâm rèn cho trẻ những thói quen trẻ có thể làm được mà không
cần sự giúp đỡ của người lớn.
* Cơ sở vật chất:
Cơ sở vật chất trang thiết bị tương đối đầy đủ phòng học rộng rãi thoáng
mát. Lớp học có đầy đủ bàn ghế và đúng quy cách, có đồ dùng đồ chơi phong
phú, đa dạng đảm bảo an toàn, hợp vệ sinh. Lớp có sân chơi rộng rãi sach sẽ,
xung quanh lớp có nhiều cây xanh tỏa bóng mát, có vườn hoa, cây cảnh.
Trong quá trình rèn kỹ năng sống cho trẻ, trong quá trình thực hiện sáng
kiến kinh nghiệm này bản thân tôi dạy trẻ kỹ năng sống về tự tin, kỹ năng sống
6


hợp tác, kỹ năng thích tò mò, kỹ năng giao tiếp trong những kỹ năng trên tôi có
được một số thuận lợi, khó khăn như sau:
Được sự quan tâm của các cấp lãnh đạo, của Ban giám hiệu nhà trường đã
triển khai các văn bản, cung cấp nhiều kiến thức về kỹ năng sống cho trẻ mầm
non trong các buổi họp chuyên môn để giáo viên nắm vững.
Được sự tín nhiệm và tin cậy của phụ huynh. Phụ huynh học sinh đều đã
hiểu được tầm quan trọng của bậc học mầm non nên việc phối kết hợp với phụ
huynh trong chăm sóc giáo dục trẻ được thuận lợi hơn
* Ưu điểm:
Đa số trẻ đi học rất đều.

Tôi đã có biện pháp đề ra kế hoạch, tìm tòi học hỏi, tìm tài liệu qua mạng
Internet, qua đồng nghiệp, để nghiên cứu tăng cường cho trẻ chơi các trò chơi
dân gian, lồng ghép giáo dục kỹ năng sống cho trẻ vào các tiết học, các hoạt
động mọi lúc, mọi nơi. Đồng thời tôi tranh thủ thời gian làm đồ dùng, đồ chơi
dân gian, để rèn kỹ năng sống cho trẻ. Bước đầu trẻ đã mạnh dạn, tự tin hơn, trẻ
biết hợp tác với bạn trong một số hoạt động như cùng chơi đóng vai với bạn
trong nhóm chơi. Kĩ năng giao tiếp của trẻ với cô giáo, các bạn và mọi người
xung quanh cũng được nâng lên. Một số trẻ đã có kỹ năng vệ sinh như rửa tay,
rửa mặt, chải tóc, tự cởi( mặc quần áo).
Về phía các bậc phụ huynh luôn quan tâm đến việc làm sao để kích thích
tính tích cực học tập của trẻ, ai cũng muốn con mình được học đọc và học viết
ngay trong những năm tháng học ở mẫu giáo, đặc biệt là các bậc cha mẹ có con
chuẩn bị vào lớp một.
* Nhược điểm:
100% trẻ là dân tộc Thái và dân tộc khơmú nên chưa có nhận thức về
công việc của cô giáo, chưa có vốn sống, trẻ còn chưa hiểu khi giao tiếp với
cô giáo, trẻ chưa được học qua các lớp nhà trẻ, lớp bé, lớp nhỡ nên trẻ còn
nhút nhát.
Ngôn ngữ của trẻ còn nghèo nàn, nhiều trẻ nói còn ngọng và nhận thức của
trẻ .không đồng đều.
Trẻ bị ảnh hưởng bởi cuộc sống hiện đại như: Internet, tivi, các trò chơi
điện tử...
Trẻ được sống trong môi trường quá bao bọc khiến trẻ quen dựa dẫm,
không có tính tự lập, ích kỷ, lãnh cảm với môi trường xung quanh.
Về phía các bậc phụ huynh trẻ luôn nóng vội trong việc dạy con, do đó,
khi trẻ về nhà mà chưa biết đọc thơ, biết hát, hoặc chưa biết được chữ số, hay
chữ cái thì lo lắng một cách thái quá. Đồng thời lại chiều chuộng, cung phụng
con cái khiến trẻ không có kỹ năng tự phục vụ, chỉ chú ý đến khâu dạy, không
chú ý đến con mình ăn, uống như thế nào, trẻ có biết sử dụng những đồ dùng,
7



vật dụng trong ăn uống hay không, không dạy con cách tự phục vụ cho bản thân
như trải đầu tóc hay mặc quần áo, rửa mặt, rửa chân, rửa tay, và vì sao chúng ta
cần những đồ dùng, vật dụng đó? Những đồ dùng đó để làm gì? 100 % trẻ là
người dân tộc nên cha mẹ chưa quan tâm đến việc rèn một số kỹ năng trong quá
trình sống cho trẻ, vì cho đó là chỉ những người lớn mới làm những công việc đó
nên chưa quan tâm rèn cho trẻ những thói quen trẻ có thể làm được không cần
sự giúp đỡ của người lớn.
Đối với giáo viên mầm non nội dung giáo dục kỹ năng sống cho trẻ là một
nội dung tương đối mới mẻ. Phong trào“ Xây dựng trường học thân thiện, học
sinh tích cực” tập trung nhiều nội dung chung cho các bậc học, giáo viên chưa
hiểu nhiều về nội dung phải dạy trẻ lứa tuổi mầm non những kỹ năng sống cơ
bản nào, chưa biết vận dụng từ những kế hoạch định hướng chung để rèn luyện
kỹ năng sống cho trẻ mầm non. Bên cạnh đó giáo viên thường tập trung cho
những trẻ có những vấn đề về hành vi và khả năng tập trung trong những năm
tháng đầu tiên trẻ đến trường. Đơn giản là vì những trẻ này thường không có khả
năng chờ đến lượt, không biết chú ý lắng nghe và làm việc theo nhóm, điều này
làm cho trẻ không thể tập trung lĩnh hội những điều cô giáo dạy! Vì vậy, giáo
viên phải tốn rất nhiều thời gian vào đầu năm học để giúp trẻ có được những kỹ
năng sống cơ bản ở trường mầm non.
* Thuận lợi :
Được sự quan tâm của phòng giáo dục và đào tạo huyện Mai Sơn, cùng
với sự quan tâm của ban giám hiệu nhà trường đã thường xuyên quan tâm, bồi
dưỡng và nâng cao chuyên môn nghiệp vụ cho giáo viên
Trẻ đi học chuyên cần, trẻ mạnh khoẻ, nhanh nhẹn, tích cực tham gia vào
các hoạt động của lớp
Bản thân tôi là 1 giáo viên mầm non, nắm vững chuyên môn, luôn nhiệt
tình yêu nghề, mến trẻ, tâm huyết với nghề, ham học hỏi nâng cao chuyên môn
nghiệp vụ, giáo viên ở lớp phối kết hợp thống nhất phương pháp, biện pháp dạy

học
* Khó khăn :
Trong năm học 2018-2019 tôi được phân công giảng dạy lớp mẫu giáo
ghép 4 – 5 tuổi Phiêng Sầy, trường mầm non Nà Sản với tổng số trẻ là 36 cháu,
trong đó 4 tuổi có 11 cháu, 5 tuổi có 25 cháu, có 19 cháu nam và 17 cháu nữ,
50% trẻ là dân tộc thái, 50% trẻ là dân tộc Khơmú, ngôn ngữ của trẻ còn nghèo
nàn, nhiều trẻ nói còn ngọng.
Đầu năm học các cháu chưa được qua lớp nhà trẻ, lớp bé, lớp nhỡ nên còn
hay khóc, các cháu chưa tự phục vụ được bản thân nên chưa có nề nếp, các cháu
còn bỡ ngỡ, nhút nhát khả năng tiếp thu bài còn chậm.
Phụ huynh còn chiều chuộng con cái khiến trẻ không có kỹ năng tự phục
vụ, không chú ý đến con mình ăn uống như nào, trẻ có biết sử dụng những đồ

8


dùng ăn uống hay không ? phụ huynh không dạy con cách tự phục vụ cho bản
thân như đi giày dép, chải đầu tóc, hay mặc quần áo, rửa mặt, rửa tay, chân.
100% trẻ là người dân tộc nên bố mẹ chưa quan tâm đến việc rèn 1 số kỹ
năng trong quá trình sống cho trẻ, vì cho đó là công việc của người lớn làm, nên
chưa quan tâm rèn cho trẻ những thói quan trẻ có thể làm được mà không cần sự
giúp đỡ của người lớn.
Địa bàn trường rộng, các điểm cách nhau lên việc học hỏi trao đổi kinh
nghiệm với đồng nghiệp còn bị hạn chế.
100% trẻ là dân tộc nên cô và trẻ còn bất đồng về ngôn ngữ trong giao
tiếp, lớp học ghép 2 độ tuổi nhận thức của trẻ không đồng đều dẫn đến khó khăn
trong việc rèn kỹ năng sống cho trẻ.
Điều đó dẫn đến thực trạng
* Kết quả khảo sát trẻ đầu năm:
Phân loại khả năng


Tốt

Khá

Trung bình

Yếu

Trẻ mạnh dạn tự tin

8/36=22.3%

7/36=19.4%

12/36=33.3%

9/36=25%

Kỹ năng hợp tác

7/36=19.4%

11/36=30.6%

8/36=22.3%

10/36=27.8%

Kỹ năng giao tiếp


8/36=22.3%

7/36=19.4%

10/36=27.8%

11/36=30.6%

Kỹ năng vệ sinh

7/36=19.4%

8/36=22.3%

11/36=30.6%

10/36=27.8%

Kỹ năng tự lập, tự
phục vụ

8/36=22.3%

9/36=25%

8/36=22.3%

11/36=30.6%


Qua kết quả khảo sát đầu năm trẻ còn nhút nhát chậm về các kỹ năng như:
kỹ năng mạnh dạn tự tin, kỹ năng hợp tác, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng vệ sinh,
Kỹ năng tự lập, tự phục vụ.
Trong năm học tôi dạy trẻ kỹ năng sống mỗi trò chơi vận động giúp trẻ
phát triển những khả năng khác nhau. Chơi bóng giúp luyện tập chân tay, tăng
cường sự khéo léo, nhanh nhẹn. Trò chơi leo trèo giúp phát triển khả năng giữ
thăng bằng. Các trò chơi vận động còn cho trẻ biết được mức độ dẻo dai, sức
chịu đựng của mình.
Chúng ta biết rằng tất cả trẻ đều yêu thích vận động: Chúng muốn chạy
nhảy, nô đùa, nhào lộn, leo trèo, đi thăng bằng trên ghế băng, …Những hoạt
động đó làm cho trẻ cảm thấy thỏa mãn và kích thích sự phát triển sức khỏe của
trẻ. Tuy nhiên, thực tế không đáp ứng được điểu đó.
Hãy cố gắng tạo tối đa các cơ hội để trẻ được vận động với một số vật
dụng đơn giản. Hãy cho phép trẻ nô đùa thay vì ra những mệnh lệnh buộc trẻ
“ngồi im”.
II: Nội dung của sáng kiến:
1. Bản chất của giải pháp mới:
9


1.1: Giải pháp 1: Lựa chọn những kỹ năng sống cơ bản cần dạy trẻ ở
lứa tuổi mầm non và cụ thể hóa nội dung những kỹ năng cơ bản mà giáo
viên cần dạy trẻ.
* Mục đích của giải pháp:
Nhằm lựa chọn các kỹ năng sống giúp trẻ được an toàn, khỏe mạnh,
nhanh nhẹn, khéo léo, bền bỉ, tháo vát, thích ứng với các điều kiện sống thay
đổi.
Giáo dục kỹ năng sống giúp trẻ mạnh dạn, tự tin, tôn trọng người khác,
giao tiếp có hiệu quả.
Giáo dục kỹ năng sống giúp trẻ biết nói năng lịch sự, lắng nghe, hòa nhã

và cởi mở.
Giúp giáo viên xác định những kĩ năng sống cơ bản cần thiết cần dạy trẻ ở
lứa tuổi mầm non, cụ thể hóa những kĩ năng cơ bản mà giáo viên cần dạy trẻ,
nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng của việc rèn kỹ năng sống cho trẻ đồng thời
có những biện pháp tích cực hơn nữa trong việc rèn kỹ năng sống cho trẻ 4 - 5
tuổi ở trường mầm non.
Giúp trẻ phát triển kĩ năng sống, giúp trẻ biết được những điều nên và
không nên làm, biết và thực hiện được một số kỹ năng sống đơn giản, phù hợp
thông qua việc tham gia vào các hoạt động trong trường mầm non nhằm giúp trẻ
phát triển toàn diện về mọi mặt đức - trí - thể - mỹ.
* Các bước tiến thực hiện giải pháp:
Giáo viên cần tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm khuyến
khích sự chuyên cần, tích cực của trẻ, giáo viên cần phải biết khai thác phát huy
năng khiếu, tiềm năng sáng tạo ở mỗi trẻ. Vì mỗi đứa trẻ là một nhân vật đặc
biệt, phải giáo dục trẻ như thế nào để trẻ dễ thích ứng trong mọi tình huống của
cuộc sống.
Khi tôi dạy trẻ rằng: Con hãy lượm rác trên sân trường và trong lớp, trẻ
thực hiện yêu cầu của cô, đó là hành động. Hầu hết các trẻ lứa tuổi mầm non đều
biết các hành động đơn giản: Nhặt rác, chào hỏi người lớn, xin lỗi và cám ơn...
Nhưng để những hành động đó trở thành kỹ năng thì lại cần một quá trình. Hành
động của trẻ trở thành kỹ năng khi trẻ thấy một chiếc túi bóng, trẻ nhặt bỏ vào
thùng mà không cần ai nhắc nhở, vì khi đó trẻ làm vì ý thức: Thấy có rác là phải
bỏ vào thùng, chứ không làm vì người khác sai bảo.
Như vậy, bên cạnh việc dạy trẻ các hành động: Bảo vệ môi trường, tránh
xa nơi nguy hiểm, biết xin lỗi, cám ơn... chúng ta cần dạy trẻ ý thức được những
việc làm đó và trẻ thực hiện các hành động đó vì ý thức trẻ hiểu chứ không phải
vì người lớn bắt trẻ phải làm, khi đó kỹ năng sống của trẻ được hình thành và
theo trẻ đến suốt cuộc đời.
Ví dụ: Khi trẻ chơi với các bạn khi nô đùa chạy nhảy, hoạt động tích cực
ra nhiều mồ hôi trẻ biết tự cởi áo khoác ngoài ra để tránh bị ngấm mồ hôi dễ gây

ra ốm.
10


Giáo viên cần thường xuyên tổ chức các hoạt động giáo dục chăm sóc
giáo dục trẻ một cách thích hợp tuân theo một số quan điểm: Giúp trẻ phát triển
đồng đều các lĩnh vực: Thể chất, ngôn ngữ, nhận thức, tình cảm - xã hội và thẩm
mỹ. Phát huy tính tích cực của trẻ, giúp trẻ hứng thú, chủ động khám phá tìm tòi,
biết vận dụng vốn kiến thức, kỹ năng vào việc giải quyết các tình huống khác
nhau.
Ví dụ: Khi chúng ta dạy trẻ nói lời cám ơn khi nhận được sự giúp đỡ của
người khác hoặc khi người khác làm một điều gì đó cho mình. Nhưng trong mối
quan hệ giữa những người thân trong gia đình hoặc giữa các cô giáo và giữa cô
giáo với trẻ, người lớn không nói lời cám ơn thì trẻ cũng sẽ không hình thành
được ý thức của việc nên cám ơn người khác.
Khi thấy trên sân trường có lá cây, cô giáo đi qua và bảo trẻ: Con hãy nhặt
bỏ vào thùng rác đi. Khi ấy trẻ sẽ nhặt vì bị sai khiến.
Cũng tình huống trên: Cô nhặt lá cây bỏ vào thùng rác và hỏi trẻ: Con biết
tại sao cô bỏ lá cây vào thùng rác không? giải thích cho trẻ hiểu: Việc làm này
nhằm giữ sân trường sạch đẹp cho các con học và chơi. Lần sau thấy rác trẻ sẽ
tự động nhặt rác vì trẻ hiểu rằng: Nhặt rác là làm sạch sân trường.
Giáo viên cần giúp trẻ có được những mối liên kết mật thiết với những
bạn khác trong lớp, trẻ biết chia sẻ chăm sóc, trẻ cần phải học về cách hành xử,
biết lắng nghe trình bày và diễn đạt được ý của mình khi vào trong các nhóm trẻ
khác nhau, giúp trẻ luôn cảm thấy tự tin khi tiếp nhận các thử thách mới. Điều
này liên quan tới việc đứa trẻ có cảm thấy thoải mái, tự tin hay không đối với
mọi người xung quanh, cũng như việc mọi người xung quanh chấp nhận đứa trẻ
đó như thế nào? Cần chuẩn bị cho trẻ sự tự tin, thoải mái trong mọi trường hợp
nhất là trong việc ăn uống để chúng ta không phải xấu hổ vì những hành vi
không đẹp của trẻ.

Thường xuyên liên hệ với phụ huynh để kịp thời nắm tình hình của trẻ,
trao đổi với phụ huynh những nội dung và biện pháp chăm sóc và giáo dục trẻ
tại nhà, bàn bạc cách giải quyết những khó khăn gặp phải.
Đối với tâm sinh lý trẻ em sáu tuổi thì có nhiều kỹ năng quan trọng mà trẻ
cần phải biết trước khi tập trung vào học văn hoá. Thực tế kết quả của nhiều
nghiên cứu đều cho thấy các kỹ năng quan trọng nhất trẻ phải học vào thời gian
đầu của năm học là chính là những kỹ năng sống như: Sự hợp tác, tự kiểm soát,
tính tự tin, tự lập, tò mò, khả năng thấu hiểu và giao tiếp. Việc xác định được các
kỹ năng cơ bản phù hợp với lứa tuổi sẽ giúp giáo viên lựa chọn đúng những nội
dung trọng tâm để dạy trẻ.
Kỹ năng sống tự tin: Một trong những kỹ năng đầu tiên mà giáo viên cần
chú tâm là phát triển sự tự tin, lòng tự trọng của trẻ. Nghĩa là giúp trẻ cảm nhận
được mình là ai, cả về cá nhân cũng như trong mối quan hệ với những người
khác. Kỹ năng sống này giúp trẻ luôn cảm thấy tự tin trong mọi tình huống ở
mọi nơi, rèn cho trẻ đi vệ sinh, đi đúng nơi quy định của trường lớp, để cho trẻ
tự giác lần sau không phải nhắc nhở trẻ.
11


Ví dụ: Cô giáo thường xuyên quan tâm đến những trẻ nhút nhát không tự
tin vào bản thân mình như cởi mở cùng trò chuyện với trẻ, đồng thời gợi mở để
trẻ tin tưởng nói lên những điều mình cảm thấy chưa biết.
+ Kỹ năng sống hợp tác: Bằng các trò chơi, câu chuyện, bài hát tôi giúp
trẻ học cách cùng làm việc với bạn như hoạt động theo nhóm đây là một công
việc không nhỏ đối với trẻ ở lứa tuổi này. Khả năng hợp tác sẽ giúp trẻ biết cảm
thông và cùng làm việc với các bạn. Hoặc trong những ngày lễ của bà, của mẹ,
cô giáo tôi giúp trẻ chuẩn bị những món quà như: Bưu thiếp chúc mừng, chọn và
cắm hoa, hay cùng cô giáo và các bạn chuẩn bị bày sinh nhật cho bạn…từ những
công việc tưởng như đơn giản nhưng đó là một trong những kỹ năng rất cần thiết
trong cuộc sống của trẻ sau này. Ví dụ: Bé cùng tổ chức sinh nhật với bạn,


cùng bạn quét lớp, hay quét sân.
+ Kỹ năng thích tò mò, ham học hỏi, khả năng thấu hiểu: Đây là một
trong những kỹ năng quan trọng nhất cần có ở trẻ vào giai đoạn này là sự khát
khao được học. Giáo viên cần sử dụng nhiều tư liệu và ý tưởng khác nhau để
khêu gợi tính tò mò tự nhiên của trẻ. Nhiều nghiên cứu cho thấy rằng, các câu
chuyện hoặc các hoạt động và tư liệu mang tính chất khác lạ thường khêu gợi trí
não nhiều hơn là những thứ có thể đoán trước được.
+ Kỹ năng giao tiếp: Tôi dạy trẻ biết thể hiện bản thân và diễn đạt ý
tưởng của mình cho người khác hiểu, trẻ cần cảm nhận được vị trí, kiến thức của
mình trong thế giới xung quanh nó. Đây là một kỹ năng cơ bản và khá quan
trọng đối với trẻ. Nó có vị trí chính yếu khi so với tất cả các kỹ năng khác như
đọc, viết, làm quen với con số. Nếu trẻ cảm thấy thoải mái khi nói về một ý
tưởng hay chính kiến nào đó, trẻ sẽ trở nên dễ dàng học và sẽ sẵn sàng tiếp nhận
những suy nghĩ mới. Đây chính là yếu tố cần thiết để giúp trẻ sẵn sàng học mọi
thứ.
* Hiệu quả của giải pháp:
Sau khi áp dụng biện pháp 1 tôi nhận thấy phần trăm trẻ đạt yêu cầu đã
tăng lên cụ thể như sau:
Phân loại khả năng

Tốt

Khá

Trung bình

Yếu

Trẻ mạnh dạn tự tin


10/36=27.8%

11/36=30.6%

9/36=25%

6/36=16,6%

Kỹ năng hợp tác

10/36=27.8%

11/36=30.6%

9/36=25%

6/36=16,7%

Kỹ năng giao tiếp

9/36=25%

9/36=25%

10/36=27.8%

8/36=22.3%

Kỹ năng vệ sinh


9/36=25%

10/36=27.8%

9/36=25%

8/36=22,3%

10/36=27.8%

11/36=30.6%

9/36=25%

6/36=16,7%

Kỹ năng tự lập, tự
phục vụ

* Đặc điểm khác biệt, tính mới của giải pháp:
Chú trọng trang trí lớp, giúp hình thành các kỹ năng sống cho trẻ mọi
lúc, mọi nơi
12


dựng trang trớ cng thay i hp dn tr, khc sõu cỏc k nng sng
cho
tr.
Tớch cc i mi phng phỏp ging dy nhm khuyn khớch s chuyờn

cn, tớch cc ca tr.
Khai thỏc phỏt huy nng khiu, tim nng sỏng to mi tr.
Tr c tri nghim ho mỡnh vo cỏc hot ng tri nghim ca lp.
1.2. Gii phỏp 2: Xỏc nh nhim v c bn trong vic dy tr k
nng sng.
* Mc ớch ca gii phỏp:
Trong giao tip giỳp tr cú c nhng mi liờn kt mt thit vi nhng
bn khỏc trong lp, tr bit chia s chm súc, tr cn phi hc v cỏch hnh x,
bit lng nghe trỡnh by v din t c ý ca mỡnh khi vo trong cỏc nhúm tr
khỏc nhau, giỳp tr luụn cm thy t tin khi tip nhn cỏc th thỏch mi. iu
ny liờn quan ti vic a tr cú cm thy thoi mỏi, t tin hay khụng i vi
mi ngi xung quanh, cng nh vic mi ngi xung quanh chp nhn a tr
ú nh th no? Cn chun b cho tr s t tin, thoi mỏi trong mi trng hp
nht l trong vic n ung chỳng ta khụng phi xu h vỡ nhng hnh vi
khụng p ca tr. Tr bit nhng nhn cỏc em nh trong lp bit giỳp cỏc
em nh khi cha bit chi cỏc trũ chi, tr bit tri túc v buc c túc khi
khụng cú ngi ln bo.
* Cỏc bc tin thc hin gii phỏp:
Thng xuyờn liờn h vi ph huynh kp thi nm tỡnh hỡnh ca tr,
trao i vi ph huynh nhng ni dung v bin phỏp chm súc v giỏo dc tr
ti nh, i vi tr cũn nh phi bn bc cỏch gii quyt nhng khú khn gp
phi.
Thng xuyờn rốn cho tr cú tớnh t lp t ph v bn thõn nh: bit chi
túc, buc túc, bit t thay qun ỏo, bit ra tay, chõn, bit t i v sinh ỳng ni
quy nh.
Rèn luyện cho trẻ thói quen biết chào hỏi thông qua các
bài hát nh: Bé ngoan, Lời chào buổi sáng, Mẹ yêu không nào
tôi luôn tôn trọng trẻ và hết sức công bằng, sử dụng khen, chê
đúng mực. Khen và chê có tác dụng mạnh đến hành vi vâng
lời của trẻ, nhng không nên khen quá đáng mà chê trách chung

chung, nên tôi thờng khen những gơng tốt để trẻ bắt chớc.
Ví dụ: Cô khen những trẻ đi học ngoan, đúng giờ, mặc
quần áo, đầu tóc gọn gàng, sạch đẹp. Biết chào cô khi đến
lớp, không khóc nhè thông qua các bài hát, bài thơ, câu
chuyện và mọi lúc mọi nơi, cũng có thể giúp trẻ có thói quen
nề nếp tốt hơn hoặc cô không nên chê trẻ trớc tập thể lớp mà
13


nên gần gũi để góp ý nhỏ với trẻ về một số nề nếp cha tốt hay
trong lớp còn một vài cháu hay nhõng nhẽo không nghe lời cô do
sự nuông chiều của ông bà, bố mẹ...
To mụi trng giao tip v giỳp cho tr cú cm giỏc thoi mỏi, cú nhu
cu giao tip bng li.Cú ngha l trong tt c mi hot ng ca tr, mi giỏo
viờn MN luụn phi dựng nhiu trũ chi, cõu kớch thớch tr tham gia, qua
ú giỳp tr c t nhiờn hn.
Vớ d: Trong lp, Hoa l tr rt ớt núi, nhỳt nhỏt.Vỡ th m tụi thng cho
bộ chi cựng mt nhúm tr mnh dn hn.Trong gi chi, tụi cho bộ chi trũ
chi oỏn tờn bn.Vớ d: Cụ ang ngh v mt bn mc qun xanh dng,ỏo
thun en cú in hỡnh con cp v núi vi tr: Hoa i!cụ ang ngh v bn no
vy?Ti sao con bit? Tr s núi ngay tờn bn ú v vỡ sao tr li oỏn c.
Thng xuyờn rốn tr bit cỏch dựng thỡa, dựng bỏt trong n ung, bit t
xỳc cm n, n khụng ri vói, khụng núi chuyn trong khi n.
Thng xuyờn rốn tr bit t ly gi, ly chn ca mỡnh i ng, ng
dy bit ct gi, ct chn vo ỳng ni quy nh.
* Hiu qa ca gii phỏp:
Phõn loi kh nng

Tt


Khỏ

Trung bỡnh

Yu

Tr mnh dn t tin

12/36=33,3%

11/36=30.6%

9/36=25%

4/36=11,1%

K nng hp tỏc

10/36=27.8%

11/36=30.6%

11/36=30.6%

4/36=11,1%

K nng giao tip

11/36=30.6%


10/36=27.8%

9/36=25%

6/36=16,7%

K nng v sinh

12/36=33,3%

10/36=27.8%

9/36=25%

5/36=13,9%

K nng t lp, t
phc v

12/36=33,3%

11/36=30.6%

8/36=25%

5/36=13,9%

* c im khỏc bit, tớnh mi ca gii phỏp:
Thng xuyờn t chc cỏc hot ng giỏo dc, chm súc tr mt cỏch
thớch hp tuõn theo mt s quan im giỳp tr phỏt trin ng u

Phỏt huy tớnh tớch cc ca tr, giỳp tr hng thỳ, ch ng khỏm phỏ tỡm
tũi, bit vn dng vn kin thc, k nng vo vic gii quyt cỏc tỡnh hung.
1. 3: Gii phỏp 3: Bin phỏp giỳp tr phỏt trin cỏc k nng sng qua
vic t chc cỏc hot ng tp th vui ti, lnh mnh.
* Mc ớch ca gii phỏp:
Giỏo viờn cn giỳp tr cú c nhng mi liờn kt mt thit vi nhng
bn khỏc trong lp, tr bit chia s chm súc, tr cn phi hc v cỏch hnh x,
bit lng nghe trỡnh by v din t c ý ca mỡnh khi vo trong cỏc nhúm tr
khỏc nhau, giỳp tr luụn cm thy t tin khi tip nhn cỏc th thỏch mi. iu
ny liờn quan ti vic a tr cú cm thy thoi mỏi, t tin hay khụng i vi
mi ngi xung quanh, cng nh vic mi ngi xung quanh chp nhn a tr
14


đó như thế nào? Cần chuẩn bị cho trẻ sự tự tin, thoải mái trong mọi trường hợp
nhất là trong vui chơi của trẻ.
Căn cứ vào nội dung trên, tôi đã xây dựng kế hoạch và thực hiện nhiều
hoạt động một cách thiết thực, khuyến khích sự tham gia chủ động, tự giác của
trẻ, cụ thể như sau:
Tổ chức cho trẻ thi góc chơi “khám phá khoa học” theo chủ đề bản thân,
giáo viên lên tiếp thực hành giúp trẻ trải nghiệm bằng các giác quan, những trải
nghiệm trong đời sống hàng ngày của trẻ, bổ sung đồ chơi, vào các hoạt động
góc. VD: Bé cùng đóng vai mẹ và bé, hoặc bé làm cô giáo…
* Các bước tiến thực hiện giải pháp:
Thường xuyên tổ chức cho trẻ chơi các trò chơi dân gian, những trò chơi
rèn kỹ năng tự tin, mạnh dạn giúp trẻ phát triển nhận thức, thẩm mỹ thông qua
đó thông tin tuyên truyền các bậc cha mẹ về kiến thức chăm sóc nuôi dưỡng,
bảo đảm an toàn, phòng bệnh cho trẻ để bảo vệ sức khỏe cho trẻ.
Như chúng ta đã biết ở trẻ mẫu giáo hoạt động vui chơi giữ vai trò chủ
đạo, thông qua hoạt động này bộc lộ rõ nét những hành vi tốt và không tốt. Vì

vậy tôi luôn uốn nắn và sử sai ngay cho trẻ trong khi chơi đặc biệt qua các trò
chơi ở góc phân vai.
Ví dụ: Qua góc chơi “bán hàng” thông qua trò chơi này ngoài việc trẻ hiểu
được công việc của người bán hàng và mua hàng trẻ còn phải biết thưa gửi lễ
phép. Giai đoạn đầu trẻ còn chưa mạnh dạn trong khi chơi, tôi nhập vai làm
người bán hàng khi cháu mua hàng tôi chủ động hỏi trẻ “ Bác ơi bác mua thứ gì
nào? Trẻ nói mua rau – trả tiền nè. Tôi phải sửa ngay cho trẻ. Khi mua hàng con
phải hỏi bác ơi bao nhiêu tiền một mớ rau, bán cho tôi một mớ ạ, nếu trẻ đã biết
thưa gửi lễ phép tôi sẽ gắn cho trẻ một bông hoa vào áo và cuối ngày nhận xét
trước lớp. Với hình thức này các cháu rất thích.
Thông qua hoạt động vui chơi: Tôi đưa kỹ năng sống hợp tác cho trẻ: Ở
độ tuổi này trẻ bắt đầu quan tâm đến bạn trong nhóm. Tình bạn ổn định bắt đầu
nảy sinh. Chúng sẵn sàng chia sẻ với bạn và tình bạn trở nên quan trọng với trẻ.
Bằng các trò chơi, câu chuyện, bài hát giáo viên giúp trẻ học cách cùng làm
việc với bạn, đây là một công việc không nhỏ đối với trẻ lứa tuổi này. Khả năng
hợp tác sẽ giúp trẻ biết cảm thông và cùng làm việc với các bạn. Ở kỹ năng này
tôi sử dụng trò chơi để dạy trẻ:
Ví dụ: Ở trò chơi đóng vai. Với góc chơi xây dựng trong chủ đề “Giao thông”
trong khi xây dựng thì tất cả trẻ trong nhóm phải cùng nhau thảo luận, phân
công công việc cho nhau và cùng làm công việc được giao cuối cùng trẻ hoàn
thành công trình đã xây dựng. Đó là một cách hợp tác cùng làm việc
Ví dụ: Trong góc chơi học tập.

15


Mỗi trẻ sẽ được phân công theo nhóm để nhận nhiệm vụ: bạn nào đồ chữ,
bạn nào xếp chữ bằng hột hạt, bạn nào học thẻ số, thẻ chữ….Từ đó trẻ sẽ học và
làm việc cùng nhau theo nhóm và biết tuân thủ theo mệnh lệnh của nhóm trưởng
Với hoạt động này tôi thường xuyên tổ chức cho trẻ chơi các trò chơi

như: Cô giáo, bác sỹ, xây dựng doanh trại, xây dựng ngã tư đường phố…Các
trò chơi đóng kịch, Cây tre trăm đốt, hai anh em, quả bầu tiên…Thông qua đó để
giáo dục những kỹ năng sống cho trẻ, bởi trong các trò chơi xã hội này trẻ sẽ
được hình thành và phát triển trí tưởng tượng, sáng tạo.
Giáo viên tích cực làm đồ dùng đồ chơi từ nguyên vật liệu sẵn có ở địa
phương làm đồ dùng đò chơi tự tạo để trang trí môi trường giáo dục, dạy trẻ
thông qua các hoạt động giáo dục .
Tổ chức các hoạt động tạo hình, hoạt động ngoài trời vào chiều thứ sáu
hàng tuần của tháng có sự tham gia cùng trẻ mọi hoạt động với trẻ sắp đặt đồ
dùng đồ chơi ngăn nắp, ngọn gàng, dạy trẻ cắm hoa tặng bà, tặng mẹ nhân ngày
quốc tế phụ nữ 8/3, dạy trẻ cách chăm sóc vườn hoa, qua đó rèn luyện cho trẻ kỹ
năng sử dụng các đồ dùng ăn uống, dạy trẻ những nghi thức văn hoá trong ăn
uống như ăn phải biết mời mọi người xung quanh, ăn gọn gàng, ăn xong biết
giúp người lớn thu dọn đồ dùng và để vào đúng nơi qua định, biết vệ sinh trước
và sau khi ăn: VD: Bé tập gấp quần áo rất giỏi.
* Hiệu quả của giải pháp:
Phân loại khả năng

Tốt

Khá

Trung bình

Yếu

Trẻ mạnh dạn tự tin

15/36=41,7%


11/36=30.6%

8/36=22,3%

2/36=5,6%

Kỹ năng hợp tác

17/36=47,2%

8/36=22,3%

9/36=25%

2/36=5,6%

Kỹ năng giao tiếp

15/36=41,7%

9/36=25%

9/36=25%

3/36=8.3%

Kỹ năng vệ sinh

15/36=41,7%


10/36=27.8%

8/36=22,3%

3/36=8.3%

Kỹ năng tự lập, tự
phục vụ

16/36=44,4%

8/36=22,3%

10/36=27.8%

2/36=5,6%

* Đặc điểm khác biệt, tính mới của biện pháp:
Tổ chức được các buổi văn nghệ, thể thao một cách thiết thực, khuyến
khích được sự tham gia chủ động, tự giác của trẻ.
Tổ chức được các trò chơi dân gian, các hoạt động vui chơi giải trí tích
cực, thu hút sự hào hứng tham gia nhiệt tình của trẻ.
1.4. Biện pháp 4: Biện pháp tuyên truyền các bậc cha mẹ cách dạy trẻ
kỹ năng sống trong gia đình.
* Mục đích của giải pháp:
Tuyên truyền đến cha mẹ của trẻ những kết quả giáo dục ở con mình, tạo
điều kiện cho giáo viên trao đổi hai chiều với các bậc cha mẹ những vấn đề có
liên quan đến trẻ, các thông tin của lớp, thông tin sức khỏe, ngược lại các bậc
16



cha mẹ có thể ghi chép những yêu cầu, đề nghị, thông tin cần trao đổi với giáo
viên.
Tuyên truyền, trao đổi, thảo luận với cha mẹ trẻ về kiến thức, phương
pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ ở mọi lúc, mọi nơi.
* Các bước tiến thực hiện giải pháp:
Tuyên truyền để cha mẹ trẻ không nên bực bội khi trẻ về đến nhà hoặc
cho rằng trẻ chỉ biết chơi suốt ngày. Cha mẹ cần có niềm tin với sự hướng dẫn
của giáo viên và năng khiếu tò mò bẩm sinh của trẻ, trẻ có thể lĩnh hội kinh
nghiệm nhằm giải quyết các vấn đề quan trọng, như làm quen chữ cái, làm quen
con số thử nghiệm một số kỹ năng khoa học khi chơi với nhau.
Cha mẹ trẻ cần phối hợp với giáo viên một cách chặt chẽ và hợp lý bằng
việc tham gia tình nguyện vào quá trình giáo dục trong nhà trường. Cha mẹ nên
tham gia vào các buổi trao đổi với giáo viên, tham gia các buổi họp của nhà
trường và dự một số giờ học, dự các hoạt động ngoại khoá; chỉ bằng cách đó
thôi cha mẹ đã giúp trẻ hiểu rằng học là phải học cả đời.
Cần giáo dục để trẻ cảm thấy thoải mái tự tin trong mọi tình huống của
cuộc sống. Nếu cha mẹ muốn giáo dục trẻ biết tự giữ kỷ luật, trước hết cần đánh
thức sự tự ý thức của trẻ, cố gắng khơi gợi để trẻ luôn nghĩ về bản thân mình
một cách tích cực và đừng bao giờ phá vỡ suy nghĩ tích cực về bản thân trẻ.
Trong gia đình, việc dạy trẻ những nghi thức văn hóa trong ăn uống rất
cần thiết. Để trẻ có được những kỹ xảo, thói quen sử dụng đồ dùng một cách
chính xác và thuần thục và khéo léo, không chỉ đòi hỏi trẻ phải thường xuyên
luyện tập, mà còn phải đáp ứng được những nhu cầu của trẻ, đó là cung cấp cho
trẻ những mẫu hành vi văn hóa, những hành vi đúng, đẹp, văn minh của chính
cha mẹ và những người xung quanh trẻ.
Trước hết, người lớn phải gương mẫu, yêu thương, tôn trọng, đối xử công
bằng với trẻ và đảm bảo an toàn cho trẻ.
Trong gia đình, cha mẹ luôn phiên cùng anh chị lớn đọc sách cho trẻ
nghe, hoặc thống nhất giờ đọc sách của gia đình, vào giờ đó các thành viên trong

gia đình đều đọc sách, báo hoặc đọc một thứ gì đó của mình.
Khi còn nhỏ cha mẹ cần dành ra 15 phút/ngày để trò chuyện, đọc sách
cho trẻ nghe các loại sách phù hợp với lứa tuổi. Khi trẻ có thể tự đọc được lúc
đó việc đọc sách trở thành là niềm vui có giá trị và có ý nghĩa hơn giúp trẻ phát
triển sự ham hiểu biết, tìm tòi phát triển nhân cách của trẻ.
Cô giáo, cha mẹ luôn khuyến khích trẻ nói lên quan điểm của trẻ, nói
chuyện với các thành viên trong lớp, trong gia đình về cảm giác và về những lựa
chọn của mình, cần giúp trẻ hiểu rằng nên có thông số để theo đó mà lựa chọn,
cố gắng không chỉ trích các quyết định của trẻ. Việc này sẽ hình thành kỹ năng
tự kiểm soát bản thân, rèn luyện tính tự tin cho trẻ khi tham gia các hoạt động và
các buổi thảo luận tại trường sau này.
17


Cô giáo, cha mẹ giúp trẻ phát triển sở thích, ý thích của mình và đảm bảo
rằng người lớn có thể cung cấp thêm phương tiện để trẻ thực hiện ý thích đó.
Ví dụ: Như trẻ thích vẽ, ngoài việc cho trẻ học năng khiếu vẽ thì cô giáo,
cha mẹ có thể cho trẻ thêm bút màu, giấy vẽ để trẻ tự vẽ…tự tạo nên những sản
phẩm theo ý thích của trẻ và hãy chỉ cho trẻ cách lưu giữ các bức tranh để tạo
thành một bộ sưu tập tranh vẽ của chính trẻ hoặc triển lãm tranh của trẻ ở góc
nhỏ trong nhà.
Cô giáo, cha mẹ cần dạy trẻ những nghi thức văn hóa trong ăn uống, biết
cách sử dụng các đồ dùng ăn uống, hơn nữa trẻ sẽ được dạy cách sử dụng các đồ
dùng đúng chức năng một cách chính xác và thuần thục. Việc này được thực
hiện trong giờ học, giờ sinh hoạt hàng ngày của trẻ tại lớp và trong bữa cơm gia
đình.
Cụ thể: Trẻ được làm quen với những đồ dùng, vật dụng khác nhau, ( bộ
đồ bếp, bộ đồ ăn, bộ đồ uống). Sự sạch sẽ, gọn gàng, một thói quen nề nếp, sự
sắp đặt ngăn nắp, ngay ngắn những bộ đồ dùng, vật dụng, thái độ, ăn uống từ
tốn, không vội vã, không khí cởi mở, thoải mái và đầm ấm, những cuộc trao đổi

nhẹ nhàng, dễ chịu… tất cả những yếu tố trên sẽ giúp trẻ có thói quen tốt để hình
thành kỹ năng tự phục vụ và ý nghĩa hơn là kỹ năng sống tự lập sau này.
* Hiệu quả của giải pháp:
Phân loại khả năng

Tốt

Khá

Trung bình

Yếu

Trẻ mạnh dạn tự tin

21/36=58,3%

12/36=30.6%

2/36=13,9%

1/36=2,8%

Kỹ năng hợp tác

22/36=61,1%

12/36=33.3%

2/36=5,6%


0%

Kỹ năng giao tiếp

21/36=58,3%

11/36=30,6%

3/36=8.3%

1/36=2,8%

Kỹ năng vệ sinh

20/36=55,6%

13/36=36.1%

3/36=8.3%

0%

Kỹ năng tự lập, tự
phục vụ

20/36=55,6%

11/36=30,6%


5/36=13,9%

0%

* Đặc điểm khác biệt, tính mới của giải pháp:
Thay đổi được nhận thức của phụ huynh về việc giáo dục trẻ là việc làm
của nhà trường và gia đình phối kết hợp mới có hiệu quả.
Cha mẹ trẻ biết cách phối hợp với giáo viên một cách chặt chẽ và hợp lý,
cha mẹ trẻ đã tham gia vào các buổi trao đổi với giáo viên.
Cha mẹ trẻ đã dạy trẻ được những nghi thức văn hoá trong ăn uống để trẻ
có được những thói quen, kỹ xảo sử dụng đồ dùng một cách chính xác.
Cha mẹ luôn khuyến khích trẻ nói lên quan điểm của trẻ, nói chuyện về
các thành viên trong lớp.
2. Ưu nhược điểm của giải pháp mới:
* Ưu điểm:
Kết quả cuối năm đạt như sau:
18


*Đối với học sinh.
Tổng số trẻ: 36/36

Nội dung

Trẻ mạnh dạn tự
tin

Kỹ năng hợp tác

Kỹ năng giao

tiếp

Kỹ năng vệ sinh

Kỹ năng tự lập,
tự phục vụ

Chưa áp dụng biện
pháp
XL

Số
lượng

Tốt

Sau khi áp dụng
biện pháp

So sánh

%

Số
lượng

%

8/36


22.3%

21/36

58.3%

Tăng 36%

Khá

7/36

19.4
%

12/36

30.6%

Tăng 11.2%

TB

12/36

33.3%

2/36

13.9%


Giảm 19.4%

Yếu

9/36

25%

1/36

2.8%

Giảm 22,2%

Tốt

7/36

19.4
%

22/36

61.1%

Tăng 41.7%

Khá


11/36

30.6%

12/36

33.3%

Tăng 2.7%

TB

8/36

22.3%

2/36

5.6%

Giảm 16.7%

Yếu

10/36

27.8%

0


0%

Giảm 27.8%

Tốt

8/36

22.3%

21/36

58.3%

Tăng 36%

Khá

7/36

19.4
%

11/36

30.6%

Tăng 12.2%

TB


10/36

27.8%

3/36

8.3%

Giảm 19.5%

Yếu

11/36

30.6%

1/36

2.8%

Giảm 27,8%

Tốt

7/36

19.4
%


20/36

55.6%

Tăng 36.2%

Khá

8/36

22.3%

13/36

36.1%

Tăng 13.8%

TB

11/36

30.6%

3/36

8.3%

Giảm 22.3%


Yếu

10/36

27.8%

0

0%

Giảm 27.8%

Tốt

8/36

22.3%

20/36

55.6%

Tăng 33.3%

Khá

9/36

25%


11/36

30.6%

Tăng 5.6%

TB

8/36

22.3%

5/36

13.9%

Giảm 8.4%

Yếu

11/36

30.6%

0

0

Giảm 30.6%


19


Qua bảng đánh giá cho thấy rèn kỹ năng sống cho trẻ tại trường mầm non
so với đầu năm, giữa năm tỉ lệ phần trăm đã tăng lên rõ dệt, trẻ đã có những kỹ
năng cơ bản.
97,2% trẻ đều được cô giáo và cha mẹ tạo mọi điều kiện khuyến khích
khơi dậy tính tò mò, phát triển trí tưởng tượng, năng động, mạnh dạn, tự tin,
100% trẻ được rèn luyện khả năng tự phục vụ trong các hoạt động tập thể.
100% trẻ có thói quen lao động tự phục vụ, được rèn luyện kỹ năng tự
lập; kỹ năng nhận thức; kỹ năng vận động thô, vận động tinh thông qua các hoạt
động hàng ngày trong cuộc sống của trẻ; ngoài ra có 100% trẻ mẫu giáo được
rèn luyện kỹ năng vận động tinh, vận động thô, kỹ năng tự kiểm soát bản thân,
phát triển óc sáng tạo, tính tự tin thông qua các hoạt động năng khiếu vẽ, thể
dục.
97,2% trẻ được rèn luyện kỹ năng xã hội, kỹ năng về cảm xúc, giao tiếp,
chung sống hòa bình, và tuyệt đối không xảy ra bạo hành trẻ em ở trường cũng
như ở gia đình.
100 % trẻ được giáo dục, chăm sóc nuôi dưỡng tốt, được bảo vệ sức khỏe,
được bảo đảm an toàn, phòng bệnh, được theo dõi cân đo bằng biểu đồ phát
triển.
Trẻ đi học đều hơn, đạt tỷ lệ chuyên cần đạt từ 98% trở lên và ít gặp khó
khăn khi đến lớp, có kỹ năng lao động tự phục vụ, trực nhật, tự biết ăn đồ ăn do
bố mẹ mua cho khi mang đến trường lớp tự biết bóc vỏ sữa, bim bim, hay đồ ăn
như sôi trẻ biết ăn tự phục vụ cho các nhân ăn song biết tự vệ sinh cá nhân
trường lớp…
*Về phía giáo viên
Cô giáo đã tạo cảm xúc cho trẻ hứng thú tham gia các hoạt động trong
ngày của trẻ nói chung và trong hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho trẻ nói
riêng.

Kết quả qua các lần tổ chức, phát động các phong trào, lớp đã nhận được
tham gia đông đảo trên 95% và ủng hộ nhiệt tình của cha mẹ trẻ em, bản thân tôi
được đánh giá chăm sóc cũng như giáo dục trẻ đều xếp loại giỏi, làm đồ dùng
xếp loại A, được phụ huynh tin yêu và tin tưởng giao con cho cô chăm sóc và
giáo dục.
*Kết quả từ phía các bậc cha mẹ.
Cha mẹ luôn coi trọng trẻ và tích cực tham gia vào các hoạt động giáo
dục trẻ ở nhà trường. Kết quả 95% các bậc cha mẹ tham gia sưu tầm các nguyên
vật liệu để cùng cô giáo tạo ra các đồ dùng dạy học và làm đồ chơi cho trẻ, tham
gia vào xây dựng một số hoạt động ngoài trời như sáng tạo trò chơi cho trẻ.
Các bậc cha mẹ đã có thói quen liên kết phối hợp chặt chẽ với cô giáo
trong việc dạy trẻ các kỹ năng sống, trao đổi với giáo viên bằng nhiều hình thức
thông qua bảng thông tin dành cho cha mẹ, bảng đánh giá trẻ ở lớp, số lượng
phụ huynh học sinh tham gia đông hơn kết quả phụ huynh dự họp trong cả hai
20


kỳ họp vừa qua ở các lớp đều đạt trên 95%, đúng đối tượng là cha hoặc mẹ đạt
95%.
Giao tiếp giữa cha mẹ và con cái tốt hơn, đa số cha mẹ dịu dàng, ít la
mắng trẻ, thay đổi trong cách rèn kỹ năng cho trẻ, phân việc cho trẻ, không cung
phụng trẻ thái quá, không còn hình ảnh ba bế con, mẹ đi sau xách cặp cho con,
tranh thủ đút cho con ăn, ngược lại xuất hiện khá nhiều hình ảnh trẻ tự đeo ba lô,
tự đi học, tự biết ăn không cần cha mẹ cho ăn, tự biết rửa tay, rửa mặt...
Cha mẹ cảm thấy mãn nguyện với thành công của trẻ, tin tưởng vào kết
quả giáo dục của nhà trường, không chê bai chỉ trích cô giáo ngược lại cha mẹ
thông cảm, chia sẻ những khó khăn của cô giáo, cung cấp vật liệu, phụ giúp giáo
viên trang trí lớp, làm đồ chơi.
Cô giáo thường xuyên trò chuyện với trẻ, trả lời những câu hỏi của trẻ đặt
ra, không la mắng, giải quyết hợp lý, công bằng với mọi tình huống xảy ra giữa

các trẻ trong lớp
Trong giảng dạy chú ý đến hoạt động cá nhân, hoạt động nhóm nhiều hơn,
mạnh dạn, tự tin điều khiển các cuộc họp phụ huynh học sinh, biết tự chuẩn bị
phối hợp chặt chẽ, trao đổi thường xuyên với cha mẹ trẻ
Đã tổ chức nhiều phong trào lễ hội: Trung thu, lễ hội mừng xuân, cho trẻ
chơi các trò chơi dân gian
Các bậc cha mẹ có thói quen liên kết chặt chẽ với cô giáo trong việc dạy
trẻ các kỹ năng sống, trao đổi với giáo viên bằng nhiều hình thức thông qua
bảng thông tin dành cho cha mẹ, bảng đánh giá trẻ ở lớp, sổ bé ngoan
Giao tiếp giữa cha mẹ và con cái tốt hơn, cha mẹ thay đổi trong cách rèn
kỹ năng sống cho trẻ, phân việc cho trẻ, không cung phụng trẻ thái quá
Cha mẹ cảm thấy mãn nguyện với thành công của trẻ, tin tưởng vào kết
quả giáo dục của nhà trường, chia sẻ những khó khăn của cô giáo, cung cấp
nguyên liệu phụ giúp giáo viên trang trí, làm đồ chơi
Việc kết hợp tốt giữa bốn giải pháp mới nêu trên sẽ có hiệu quả rất lớn
trong việc nâng cao phát triển kỹ năng sống cho trẻ, trẻ được nhìn, được trải
nghiệm do đỏ trẻ hứng thú học tập, dễ dàng nhận thức thế giới xung quanh
*Nhược điểm:
Nếu giáo viên quá lạm dụng vào hình thức tổ chức, cô nói quá nhiều
không cho trẻ được quan sát, trải nghiệm trực tiếp, không để cho trẻ tự làm dễ
dẫn đến trẻ chán nản.
Nguyên vật liệu phụ huynh mang đến làm đồ chơi cho trẻ không được
sạch sẽ ảnh hưởng đến sức khoẻ của trẻ, nên một điều nhất thiết phải làm là phải
chọn nguyên vật liệu đảm bảo, an toàn vệ sinh, phải rửa sạch trước khi thiết kế
sản phẩm.
III. Khả năng áp dụng sáng kiến:
21


- Sáng kiến được áp dụng tại lớp mẫu giáo ghép Phiêng Sày, trường mầm

non Nà Sản năm học 2018 – 2019
- Lĩnh vực áp dụng : Giáo dục mầm non.
- Điều kiện áp dụng sáng kiến:
+ Giáo viên có trình độ chuyên môn đạt chuẩn, có kiến thức dạy kỹ năng
sống cho trẻ.
+ Học sinh lớp mẫu giáo Phiêng Sày.
+ Cơ sở vật chất: Lớp học rộng rãi, thoáng mát về mùa hè, ấm áp vào mùa
đông, có đầy đủ đồ dùng, đồ chơi đảm bảo an toàn và hợp về sinh…phục vụ cho
cô và các cháu hoạt động.
- Phạm vi áp dụng: Sáng kiến có thể áp dụng cho tất các lớp trong trường
mầm non Nà Sản và các trường trong huyện.
IV. Hiệu quả của sáng kiến:
1: Hiệu quả kinh tế:
Khi giáo dục phát triển giúp trẻ nhận thức được kỹ năng sống có hiệu quả
kinh tế: Trẻ biết tự phục vụ, có kỹ năng vệ sinh…nên giáo viên và phụ huynh có
nhiều thời gian công sức để làm các công việc khác để tạo ra nhiều sản phẩm có
giá trị mang lại giá trị kinh tế…Trẻ có kỹ năng sống tốt sẽ có nhiều cơ hội để
học tập, lao động đạt kết quả cao hơn tạo tiền đề cho phát triển kinh tế đất nước
sau này.
Sưu tầm tranh ảnh về hình thức, nội dung rèn kỹ năng sống cho trẻ.
Sưu tầm băng đĩa, tranh ảnh cho trẻ làm quen với hoạt động kỹ năng sống
trên máy chiếu.
Cùng phụ huynh làm đồ dùng đồ chơi tự tạo từ nguyên vật liệu sẵn có ở
địa phương để trang trí lớp học được 2 bộ trị giá số tiền là: 500 nghìn đồng.
2: Hiệu quả xã hội:
Góp phần giúp trẻ có các kỹ năng tự phục vụ bản thân
Giúp giáo viên trau dồi thêm kỹ năng, kỹ xảo và nghệ thuật lên lớp
Nâng cao ứng dụng công nghệ thông tin cho bản thân.
Góp phần giúp trẻ học được các kỹ năng sống, nâng cao khả năng kỹ năng
sống của mình trong mỗi một hoạt động.

Làm tốt công tác tuyên truyền vận động phụ huynh cùng tham gia chăm sóc
giáo dục trẻ.
Nâng cao kỹ năng làm đồ chơi sáng tạo.
Giúp cho giáo viên biết cách tạo môi trường hoạt động với các kỹ năng
sống cho trẻ.

22


Sau khi áp dụng “Một số kinh nghiệm dạy trẻ kỹ năng sống cho trẻ lớp
mẫu giáo ghép 4 -5 tuổi Phiêng Sầy. Trường mầm non Nà Sản” trong cả năm
học tôi thấy có những chuyển biến rõ rệt, phần lớn trẻ đã mạnh dạn, tự tin hơn
trong các kỹ năng hợp tác, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng vệ sinh, kỹ năng tự phục
vụ bản thân
PHẦN KẾT LUẬN :
1. Những bài học kinh nghiệm được rút ra từ quá trình áp dụng sáng
kiến.
Với những khả năng ứng dụng kết quả của sáng kiến kinh nghiệm đạt
được, bản thân tôi chỉ muốn nêu lên những kinh nghiệm chung nhất do nghiên
cứu tài liệu, do tích luỹ được trong suốt quá trình thời gian công tác với mong
muốn gửi đến cô giáo, cha mẹ trẻ những thông điệp mang tính thuyết phục với
một số điều cần làm và cần tránh nhằm giúp cô giáo, cha mẹ trẻ dạy trẻ mầm
non những kỹ năng sống cơ bản như sau:
Điều cần làm trước hết là người lớn phải là tấm gương sáng, yêu thương,
tôn trọng, đối xử công bằng với trẻ và đảm bảo an toàn cho trẻ.
Nhân cách ý chí tình cảm của trẻ được hình thành thông qua chơi, chơi để
lớn lên. Vì thế, người lớn cần tạo cơ hội để trẻ chơi, từ đó giúp trẻ tìm ra nhiều
cách học khác nhau, những kinh nghiệm trẻ nhận được trong các trò chơi là nền
tảng tạo nên sự hăng hái học tập lâu dài ở trẻ, bởi trẻ nhận ra rằng, học vừa vui
mà vừa có ý nghĩa. Đồng thời, khi trẻ tham gia vào trò chơi, trẻ cần biết lập kế

hoạch chơi, sáng tạo với các cách chơi và cố gắng đạt mục đích đây chính là
những kỹ năng cơ bản để sống và làm việc sau này.
Thường xuyên chỉ ra cái mới mà người lớn cũng tìm tòi một cách hăng
hái bằng nhiều cách, hãy trao đổi với trẻ về những thông tin mà cô giáo, cha mẹ
cần tham tích cực vào các hoạt động cùng với trẻ để thấy được khả năng của
từng trẻ từ đó bồi dưỡng cũng như quan tâm đến trẻ nhiều hơn.
Học hỏi những kinh nghiệm của đồng nghiệp, của chuyên môn, tham
khảo từ các nguồn thông tin đại chúng, báo đài để có nhiều kinh nghiệm trong
công tác chăm sóc và giáo dục trẻ.
Để hình thành và phát triển ở trẻ những thói quen, nghi thức văn hóa trong
ăn uống cần thiết không chỉ có sự tập luyện mà còn cần sự thống nhất những
cách thức và phương thức giữa gia đình và trường, lớp mầm non. Chỉ có sự kiên
trì, nhẫn nại, sự đồng cả, sự quan tâm, chú ý và sự giúp đỡ quý báu của người
lớn mới giúp trẻ vượt qua những khó khăn, trở ngại, mới tạo được một bầu
không khí thân ái, đầm ấm cần thiết trong bữa ăn.
Luôn tôn trọng trẻ, không hạ thấp trẻ: Cứ mỗi lần chúng ta nói những lời
hạ thấp khả năng trẻ là chúng ta đã phá vỡ những suy nghĩ tích cực về chính bản
thân trẻ. Không nên tạo cho trẻ thói quen kiêu ngạo nhưng cũng không nên lăng
nhục trẻ.

23


Không bắt trẻ hứa hẹn: Vì sự hứa hẹn hoặc doạ nạt không có ý nghĩa đối
với trẻ vì nếu trẻ cảm nhận được và cắn rứt vì không làm tròn lời hứa thì ở trẻ sẽ
phát triển cảm giác hối lỗi, ngược lại trẻ. Không bao bọc trẻ một cách thái qúa sẽ
làm trẻ yếu đuối: Cha mẹ thường không đánh giá đúng khả năng của trẻ cho
rằng trẻ còn nhỏ sẽ không làm được một điều gì cả. Sự bao bọc thái qúa sẽ dẫn
trẻ đến ý nghĩ rằng bản thân trẻ không thể làm điều gì nên thân.
Không nên yêu cầu trẻ phục tùng theo ý người lớn ngay lập tức vì sự

phục tùng một cách thái quá không có sự thoả thuận giữa các bên không tạo điều
kiện phát triển tính tự lập ở trẻ. Không yêu cầu những điều không phù hợp với
lứa tuổi của trẻ vì những yêu cầu ở trẻ phải thực hiện một hành vi chính chắn mà
trẻ chưa có khả năng hoặc trẻ phải làm các yêu cầu mang tính thống nhất và liên
tục trong việc cho phép hoặc cấm đoán sẽ ảnh hưởng không tốt đến sự phát triển
tính nhận thức ở trẻ.
Không thúc giục trẻ, không biến thời gian tiếp nhận thức ăn thành một
cuộc chiến nhằm thực hiện những nhiệm vụ giáo dục. Sự nóng giận của người
lớn đối với những sai sót của trẻ không những làm trẻ ăn mất ngon, mất hứng
thú đối với đồ ăn, mà còn gây cản trở nghiêm trọng cho trẻ trong việc hình thành
những thói quen ăn uống văn hóa.
Tôi thấy nếu được kết hợp chặt chẽ từ các yếu tố trên để rèn kỹ năng
sống cho các cháu thì tôi tin tưởng rằng: Quá trình rèn kỹ năng sống cho trẻ mẫu
giáo không có gì khó khăn mà còn đem lại hiểu quả và hình thành được cho trẻ
thói quen về thái độ hành vi, sự tự tin vào bản thân, có tinh thần trách nhiệm với
hành động của mình. Từ đó hình thành cho các cháu kỹ năng sống để trở thành
người công dân tốt cho xã hội
3. Kiến nghị.
+ Với nhà trường
Qua kết quả khảo sát sáng kiến nghiệm rèn kỹ năng sống cho trẻ đã có kết
quả cao đối với lớp mẫu giáo ghép Phiêng Sầy, tôi mong muốn nhân rộng sáng
kiến kinh nghiệm rèn kỹ năng sống cho trẻ tới toàn thể giáo viên để truyền thụ
nhân rộng cho các lớp trong trường mầm non Nà Sản để thực hiện kỹ năng sống
cho học sinh từng khu.
Nhà trường tạo môi trường phong phú về cảnh vật, thiên nhiên xung
quanh trường giúp trẻ có điều kiện được mở rộng vốn hiểu biết về thế giới xung
quanh.
Tổ chức hội thảo“ Rèn kỹ năng sống cho trẻ mầm non” về thực trạng và
giải pháp ở trường tạo điều kiện giúp giáo viên nhận ra những ưu điểm, hạn chế,
thuận lợi, khó khăn cùng trao đổi các biện pháp thực hiện từ đó rút ra bài học

kinh nghiệm và hoàn chỉnh thành văn bản.
+ Với phòng giáo dục và đào tạo huyện Mai Sơn.
Các cấp quản lý tạo điều kiện về cơ sở vật chất cho trường, bổ xung tài
liệu cho giáo viên về các kỹ năng sống. Tổ chức các lớp bồi dưỡng cho giáo viên
24


mầm non về cách thức kỹ năng sống trong các hoạt động ở trường mầm non,
động viên, khuyến khích giáo viên sưu tầm, lựa chọn các kiến thức và kỹ năng
sống và sử dụng chúng trong các hoạt động làm quen với giáo dục thể chất nhằm
góp phần phát huy tính tích cực, độc lập của trẻ trong các hoạt động này. Đổi
mới các phương pháp, biện pháp, hình thức tổ chức các hoạt động giáo dục thể
chất cho trẻ mầm non, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh thực tiễn của địa
phương.
3. Cam kết không sao chép vi phạm bản quyền:
Tôi xin cam đoan không sao chếp, không vi phạm bản quyền, nếu vi phạm
tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hát Lót, ngày 02 tháng 5 năm 2019
CƠ QUAN ĐƠN VỊ ÁP DỤNG SÁNG KIẾN

TÁC GIẢ SÁNG KIẾN

Kiều Thị Xuân

25


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×