Tải bản đầy đủ (.pdf) (165 trang)

Luận án tiến sĩ triết học quan điểm của v i lênin về chế độ tập trung dân chủ và sự vận dụng của đảng ta từ khi đổi mới đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.43 MB, 165 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ HỒNG NGON

QUAN ĐIỂM CỦA V.I.LÊNIN
VỀ CHẾ ĐỘ TẬP TRUNG DÂN CHỦ VÀ SỰ VẬN DỤNG
CỦA ĐẢNG TA TỪ KHI ĐỔI MỚI ĐẾN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI - 2019


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ HỒNG NGON

QUAN ĐIỂM CỦA V.I.LÊNIN
VỀ CHẾ ĐỘ TẬP TRUNG DÂN CHỦ VÀ SỰ VẬN DỤNG
CỦA ĐẢNG TA TỪ KHI ĐỔI MỚI ĐẾN NAY

Ngành: NCDVBC&CNDVLS
Mã số: 9 22 90 02

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS. Nguyễn Thị Lan Hương


2. TS. Nguyễn Đình Hòa

HÀ NỘI - 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, tư liệu được sử dụng trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng;
những phát hiện đưa ra trong luận án là kết quả nghiên cứu của tác giả.

TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Lê Hồng Ngon


MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU……………………………………………………………………….. 1
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu ………………………………............ 1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án………………………....... 3
2.1. Mục đích của luận án ………………………………………………… 3
2.2. Nhiệm vụ của luận án ………………………………………………... 3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án …………………………… 4
4. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu …………………… 4
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án ………………………………….. 4
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án …………………………………. 5
6.1. Ý nghĩa lý luận …………………………………………………………….. 5

6.2. Ý nghĩa thực tiễn ………………………………………………………….. 5
7. Kết cấu của luận án ……………………………………………………….. 5
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI ………………………………………………………………….. 6
1.1. Những công trình nghiên cứu quan điểm của V.I.Lênin về tập trung
dân chủ và chế độ tập trung dân chủ ……………………………………….. 6
1.1.1. Những công trình nghiên cứu của các nhà khoa học nước ngoài …….. 6
1.1.2. Những công trình nghiên cứu của các nhà khoa học trong nước …….. 9
1.1.3. Những công trình bàn về các thuật ngữ: Chế độ tập trung dân chủ hay
nguyên tắc tập trung dân chủ …………………………………………………. 13
1.2. Những công trình nghiên cứu sự vận dụng quan điểm của V.I.Lênin về
chế độ tập trung dân chủ của Đảng ta trong thời kỳ đổi mới ……………. 17
1.2.1. Hồ Chí Minh - một kiểu mẫu trong vận dụng quan điểm của V.I.Lênin
về chế độ tập trung dân chủ ………………………………………………….. 17
1.2.2. Thực hiện chế độ tập trung dân chủ phải có “điều kiện tiên quyết”, mà
thiếu nó thì không thể thực hiện đúng đắn được …………………………….. 19
1.2.3. Thực hiện chế độ tập trung dân chủ phải gắn liền với đổi mới sự lãnh
đạo của Đảng …………………………………………………………………. 21
1.2.4. Những thành tựu và hạn chế chủ yếu khi thực hiện chế độ tập trung dân
chủ của Đảng ta trong thời kỳ đổi mới ……………………………….............. 22
1.3. Những công trình nghiên cứu giải pháp nâng cao hiệu quả vận dụng
quan điểm của V.I.Lênin về chế độ tập trung dân chủ …………………… 25
1.3.1. Giải pháp đề cao giáo dục nhận thức, thể chế hoá nguyên tắc thành quy
chế, quy định cụ thể, tăng cường tự phê bình và phê bình …………………… 25
1.3.2. Giải pháp đề cao kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực, thực hiện


nghiêm pháp chế, đề cao tinh thần thượng tôn pháp luật …………………….. 27
1.3.3. Giải pháp đề cao dân chủ, bảo đảm dân chủ đầy đủ trong Đảng …… 28
1.4. Đánh giá khái quát về các công trình nghiên cứu đã có và những vấn

đề cần nghiên cứu tiếp . …………………………………………………….. 29
Tiểu kết chương 1 …………………………………………………………… 32
CHƯƠNG 2. QUAN ĐIỂM CỦA V.I.LÊNIN VỀ CHẾ ĐỘ TẬP TRUNG
DÂN CHỦ ……………………………………………………………………. 33
2.1. Quan điểm của V.I.Lênin về tập trung và dân chủ trong Đảng …...… 33
2.1.1. Quan điểm của V.I.Lênin về tập trung trong Đảng …………………. 33
2.1.2. Quan điểm của V.I.Lênin về dân chủ trong Đảng …………………... 39
2.1.3. Quan điểm tập trung và dân chủ thể hiện trong tư tưởng của V.I.Lênin
về chính đảng vô sản kiểu mới ……………………………………………….. 42
2.2. Chế độ tập trung dân chủ với tư cách một nguyên tắc trong xây dựng
Đảng kiểu mới và với tư cách một chế độ nhà nước ………………….…... 48
2.2.1. Chế độ tập trung dân chủ được diễn đạt với tư cách một nguyên tắc
trong xây dựng Đảng kiểu mới …………………………………………..…… 48
2.2.2. Chế độ tập trung dân chủ được diễn đạt với tư cách là một chế độ nhà
nước .……………………………………………………………..………… …52
2.3. Bảo vệ “người yếu thế”, “phái thiểu số” trong chế độ tập trung dân chủ
…………………………………...…………..................................................... 57
2.3.1. V.I.Lênin quan niệm về “người yếu thế”, “phái thiểu số” ….………. 57
2.3.2. Cách hành xử của V.I.Lênin với “người yếu thế” “phái thiểu
số”………………………………...………………………………………….... 59
2.3.3. V.I.Lênin là một hình mẫu cho phong cách làm việc nghiêm túc, theo
dõi xử lý công việc đến tận cùng trong bảo vệ “người yếu thế” ……… …….. 63
2.3.4. V.I.Lênin kiên quyết xử lý tổ chức, cá nhân gây hại ………………...64
2.4. Chế độ tập trung dân chủ: những nội dung cơ bản cần quán triệt ….64
Tiểu kết chương 2 …………………………………………………………… 70
CHƯƠNG 3. THỰC TRẠNG VẬN DỤNG CHẾ ĐỘ TẬP TRUNG DÂN
CHỦ CỦA ĐẢNG TA TỪ KHI ĐỔI MỚI ĐẾN NAY …………………….72
3.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về tập trung dân chủ …………………………73
3.1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về tập trung trong Đảng …………………… 73
3.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong Đảng ……………...……... 74

3.1.3. Những phát triển mới của Hồ Chí Minh về chế độ tập trung dân chủ..75
3.2. Những thành công của Đảng ta trong vận dụng quan điểm của
V.I.Lênin về chế độ tập trung dân chủ từ khi đổi mới đến nay ………….. 81
3.2.1. Về phương diện nhận thức ………………………………………….. 81
3.2.2. Về phương diện hành động …………………………………………. 89
3.3. Một số hạn chế của Đảng ta trong vận dụng quan điểm của V.I.Lênin


về chế độ tập trung dân chủ từ khi đổi mới đến nay ………………...…..... 96
3.3.1. Sự bất cập trong nhận thức của Đảng ta về chế độ tập trung
dân chủ …………………………………………………………………………96
3.3.2. Hạn chế trong vận dụng quan điểm của V.I.Lênin về chế độ tập trung
dân chủ …………………………………………………………………………98
3.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế ………………………...……….. 111
Tiểu kết chương 3 .......................................................................................... 114
CHƯƠNG 4. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ VẬN
DỤNG QUAN ĐIỂM CỦA V.I.LÊNIN VỀ CHẾ ĐỘ TẬP TRUNG DÂN
CHỦ ………………………………………………………………………….115
4.1. Nhóm giải pháp liên quan đến nhận thức về chế độ tập trung dân chủ
………………………………………………………...………………………115
4.1.1. Nhận thức đúng về chế độ, nguyên tắc tập trung dân chủ …………. 115
4.1.2. Đề cao ý thức tự giác học tập lý luận chính trị, nâng cao năng lực thực
hành nguyên tắc tập trung dân chủ .…………………………………………. 116
4.1.3. Quán triệt những yêu cầu chung, cần thiết đối với các cấp ủy trong quá
trình tổ chức học tập nâng cao trình độ nhận thức ………………………….. 118
4.2. Nhóm giải pháp liên quan đến thực hiện chế độ tập trung dân chủ .. 120
4.2.1. Thể chế hóa chế độ tập trung dân chủ thành quy chế, quy định cụ
thể………………………………………………….………………………… 120
4.2.2. Thực hiện nghiêm túc chế độ tập thể lãnh đạo cá nhân phụ trách …. 124
4.2.3. Thực hiện tự phê bình và phê bình, phát huy vai trò của cấp ủy và

người đứng đầu, nâng cao chất lượng sinh hoạt đảng ………………………. 127
4.2.4. Nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát; tăng cường
kỷ cương, kỷ luật; khuyến khích quần chúng tham gia xây dựng Đảng…….. 130
4.2.5. Thực hiện nghiêm công tác phát triển đảng viên, công tác cán bộ; Xây
dựng cơ chế bảo vệ người yếu thế ………………………………………….. 134
4.2.6. Tiếp tục nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung, điều chỉnh cơ chế kiểm soát
quyền lực, hoàn thiện hệ thống pháp luật hiện hành, bảo đảm thực hiện cơ chế
phát huy dân chủ trong điều kiện một đảng cầm quyền …………………….. 138
Tiểu kết chương 4 ………………………………………………………….. 144
KẾT LUẬN ………………………………………………………………… 145
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ ……………………………. 148
TÀI LIỆU THAM KHẢO ………………………………………………… 149


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CNH, HĐH

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá

CNXH

Chủ nghĩa xã hội

PB &TPB

Phê bình và tự phê bình

MTTQ


Mặt trận Tổ quốc

TTDC

Tập trung dân chủ

UBND

Ủy ban nhân dân


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Trong lý luận về xây dựng đảng của giai cấp vô sản, khi nhấn mạnh
tầm quan trọng của tổ chức, C.Mác đã từng nói: Người nghệ sĩ, nếu một mình
điều khiển cây đàn thì tự chỉ huy mình; đã là một dàn nhạc giao hưởng thì bắt
buộc phải tuân theo cây đũa thần của người nhạc trưởng. Như vậy, theo
C.Mác, sức mạnh của tổ chức cũng như hiệu quả hoạt động của toàn đảng
phải dựa trên nguyên tắc thống nhất và tính tự giác. Kế thừa và phát triển
quan điểm của C.Mác, V.I.Lênin đã xây dựng và thực hiện lý luận về đảng
kiểu mới của giai cấp công nhân; trong đó, chế độ tập trung dân chủ được
xem là nguyên tắc cốt lõi về tổ chức, sinh hoạt và hoạt động của Đảng. Người
luôn nhấn mạnh rằng, chế độ tập trung dân chủ phải là một cái gì đó khác xa
chế độ tập trung quan liêu, tự do vô chính phủ, đồng thời cũng giải thích một
cách thật cô đọng: Tập trung dân chủ là tự do trong thảo luận nhưng thống
nhất trong hành động. Trung thành với lý luận của V.I.Lênin, hầu hết các
đảng cộng sản trên thế giới được thành lập từ giữa thế kỷ XIX đến nay, nhất
là các đảng cộng sản cầm quyền, đều khẳng định tinh thần dân chủ trong đảng
và lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc cơ bản trong tổ chức, sinh hoạt và
hoạt động của mình.

Ðảng Cộng sản Việt Nam do Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện. Trong
mỗi thời kỳ cách mạng, Đảng ta luôn đề ra các quy định cụ thể bảo đảm thực
hiện tốt chế độ tập trung dân chủ trong Ðảng. Từ khi trở thành đảng cầm
quyền, Ðảng ta tiếp tục khẳng định tính đúng đắn của nguyên tắc đó và từng
bước có bổ sung, phát triển cả trong tư duy nhận thức lẫn trong hoạt động
thực tiễn. Trong đó, việc đẩy mạnh phát huy dân chủ nội bộ, thực hành chế độ
tập trung dân chủ trong Ðảng và kể cả trong tổ chức, hoạt động của Nhà nước
luôn được tổng kết thực tiễn, bổ sung lý luận. Vai trò lãnh đạo của Đảng đã
được nhân dân thừa nhận, tin tưởng và Đảng trở thành lực lượng lãnh đạo
Nhà nước và xã hội. Thực tế lịch sử của cách mạng Việt Nam đã chứng minh
1


tính đúng đắn và sức mạnh vô địch của chế độ tập trung dân chủ không chỉ
trong Ðảng mà còn được áp dụng rộng rãi trong các tổ chức chính trị - xã hội.
Ðảng là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành động. Trong Ðảng,
mọi đảng viên đều bình đẳng trong thảo luận và biểu quyết các công việc của
Ðảng theo nguyên tắc đa số; được ứng cử, đề cử và bầu cử cơ quan lãnh đạo
các cấp của Ðảng; được phê bình, chất vấn về hoạt động của các tổ chức đảng
và đảng viên ở mọi cấp; v.v... Vì thế, như Hồ Chí Minh đã khẳng định, Ðảng
ta tuy nhiều người, nhưng “khi tiến đánh như một người”.
Tuy nhiên, những kinh nghiệm rút ra trong các kỳ đại hội Đảng gần đây
về công tác xây dựng Đảng, nhất là những hạn chế, khuyết điểm đã được
Đảng ta chỉ rõ trong Nghị quyết Trung ương 4 khoá XI và khoá XII mới
đây… buộc chúng ta phải suy nghĩ. Vì sao có những chủ trương lớn, huy
động cả trí tuệ tập thể để bàn và biểu quyết theo đa số mà vẫn cứ sai? Công
tác đề bạt, bổ nhiệm cán bộ làm đúng theo nguyên tắc tập trung dân chủ, rất
đúng “quy trình” mà vẫn còn nhiều khuyết điểm, đến mức “sờ đâu sai đó”?.
Khuyết tật này ở đâu cũng có: Trung ương có, bộ ngành, địa phương càng có,
đến cấp cơ sở thì khuyết điểm này càng nhiều hơn, phức tạp và nghiêm trọng

nặng nề hơn. Trong khi đó, các báo cáo của các địa phương đều khẳng định,
mọi việc trong Đảng đều tuân thủ theo nguyên tắc tập trung dân chủ… Những
bài học đau xót trong công tác cán bộ như trường hợp Trịnh Xuân Thanh,
Nguyễn Xuân Anh1 đã chỉ ra, có nguyên nhân từ sự yếu kém về năng lực,
giảm sút sức chiến đấu của chi bộ, tổ chức đảng nơi cán bộ, đảng viên sinh
hoạt trực tiếp; việc chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ không nghiêm;
tinh thần tự phê bình và phê bình giảm sút.
Những biểu hiện trên cho thấy sự cần thiết phải khắc phục những hạn
chế, yếu kém trong nhận thức lý luận về bản chất của chế độ tập trung dân
chủ. Bởi vì, nhận thức đúng đắn là tiền đề cho hành động đúng đắn, đặc biệt
Trịnh Xuân Thanh - nguyên Phó chủ tịch tỉnh Hậu Giang, Nguyễn Xuân Anh - nguyên Bí thư
Thành uỷ Đà Nẵng
1

2


là trong hoạt động lãnh đạo của Ðảng. Trong điều kiện một Ðảng duy nhất
cầm quyền, việc thực hiện nghiêm túc, đúng đắn chế độ tập trung dân chủ
trong Ðảng có ý nghĩa quyết định đối với việc thực hiện tập trung dân chủ
trong toàn xã hội. Trên tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về tăng
cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
trong nội bộ, việc trở lại với những chỉ dẫn của V.I.Lênin trong lý luận về xây
dựng Đảng Cộng sản kiểu mới, đặc biệt là chế độ tập trung dân chủ là yêu cầu
khách quan và đòi hỏi chính đáng của công tác xây dựng Đảng.
Ý thức được trách nhiệm trước yêu cầu tăng cường xây dựng, chỉnh
đốn Đảng trong tình hình mới, từ giác độ triết học, nghiên cứu sinh đã lựa
chọn vấn đề “Quan điểm của V.I.Lênin về chế độ tập trung dân chủ và sự vận
dụng của Đảng ta từ khi đổi mới đến nay” làm đề tài nghiên cứu cho luận án

tiến sĩ của mình với mong muốn góp phần nhận thức sâu sắc hơn về một
trong những nguyên tắc hết sức quan trọng trong tổ chức và hoạt động của
một Đảng mácxít cầm quyền. Đây là việc làm có ý nghĩa lý luận và thực tiễn
cấp bách, nhất là trong tình hình hiện nay khi toàn Đảng đang tập trung đẩy
mạnh thực hiện Nghị quyết Trung ương 4, 5, 6 khóa XII của Đảng.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích của luận án
Trên cơ sở luận chứng, làm rõ những nội dung cốt lõi trong quan điểm
của V.I.Lênin về chế độ tập trung dân chủ; đồng thời phân tích sự vận dụng
quan điểm đó của Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi đổi mới đến nay, luận án
đề xuất một số nhóm giải pháp nhằm tiếp tục nâng cao hiệu quả vận dụng
trong thời gian tới.
2.2. Nhiệm vụ của luận án
Từ mục đích trên, luận án cần giải quyết những nhiệm cơ bản vụ sau:
Một là, luận chứng làm rõ thực chất quan điểm của V.I.Lênin về chế độ
tập trung dân chủ.
3


Hai là, phân tích, đánh giá thực trạng vận dụng quan điểm của
V.I.Lênin về chế độ tập trung dân chủ của Đảng ta từ khi đổi mới đến nay.
Ba là, đề xuất một số nhóm giải pháp chủ yếu nhằm tiếp tục nâng cao
hiệu quả vận dụng quan điểm của V.I.Lênin về chế độ tập trung dân chủ trong
Đảng hiện nay và giai đoạn tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
Đối tượng nghiên cứu:
Luận án nghiên cứu quan điểm của V.I.Lênin về chế độ tập trung dân
chủ và sự vận dụng quan điểm này của Đảng ta thông qua xử lý nguồn tài liệu
là những tác phẩm kinh điển của V.I.Lênin về dân chủ và chế độ tập trung
dân chủ; các văn kiện và các nghị quyết của Đảng Cộng sản Việt Nam qua

các kỳ đại hội từ năm 1986 đến nay về vấn đề này.
Phạm vi nghiên cứu:
Xuất phát từ góc độ triết học, phạm vi nghiên cứu của luận án giới hạn
trong vấn đề lý luận và thực tiễn của chế độ tập trung dân chủ trong Đảng,
mà không đi sâu nghiên cứu sang các lĩnh vực khác của Đảng.
Về mặt thời gian, luận án tập trung vào giai đoạn hình thành và phát
triển quan điểm về chế độ tập trung dân chủ của V.I.Lênin; điểm qua sự vận
dụng quan điểm này ở Hồ Chí Minh và tập trung nghiên cứu sâu quá trình vận
dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam giai đoạn từ 1986 đến nay.
4. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử
của chủ nghĩa Mác - Lênin. Bên cạnh đó, luận án cũng sử dụng các phương
pháp cụ thể, bao gồm: Phương pháp lôgíc - lịch sử, phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp so sánh kết hợp với khái quát hóa.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Một là, luận án góp phần hệ thống hoá quan điểm của V.I.Lênin về chế
độ tập trung dân chủ cũng như làm rõ thực chất, nội dung cơ bản của quan
điểm này.
4


Hai là, luận án làm rõ những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân chủ
yếu của thực trạng vận dụng quan điểm của V.I.Lênin về chế độ tập trung dân
chủ trong điều kiện một Đảng mácxít cầm quyền.
Ba là, luận án đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả của
việc vận dụng quan điểm của V.I.Lênin về chế độ tập trung dân chủ trong
điều kiện hiện nay của Đảng ta.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận án góp phần cung cấp những luận cứ khoa học cho việc nhận thức
và vận dụng đúng đắn quan điểm của V.I.Lênin về chế độ tập trung dân chủ

của Đảng ta, nhất là trong công tác xây dựng Đảng hiện nay.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận án có thể được dùng làm tài liệu phục vụ nghiên cứu và giảng dạy
trong các chuyên ngành triết học, xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính
trị,… cũng như cho tất cả những ai quan tâm đến vấn đề này.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận án
gồm có 4 chương, 13 tiết.

5


CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Những công trình nghiên cứu quan điểm của V.I.Lênin về tập trung
dân chủ và chế độ tập trung dân chủ
1.1.1. Những công trình nghiên cứu của các nhà khoa học nước ngoài
Tác giả A.V.Xamôxuđốp (Liên Xô), Nguyên tắc tập trung dân chủ và
sự thống nhất của Đảng mácxít lêninnít [86, tr.138]. Theo tác giả, nguyên tắc
tập trung dân chủ là điều kiện quan trọng để các đảng mácxít lêninnít thực
hiện thắng lợi vai trò lãnh đạo của mình, là biện pháp củng cố sự thống nhất
trong Đảng. Nhấn mạnh tính đoàn kết, thống nhất trong tổ chức, tác giả dẫn
câu nói của V.I.Lênin là phải “thống nhất trên thực tế khách quan”. Do vậy,
đòi hỏi phải có một chính đảng thống nhất của giai cấp vô sản, chính đảng
này hành động như một lực lượng đoàn kết có tổ chức. Việc củng cố sự thống
nhất của Đảng là một quá trình được quy định bởi những nguyên tắc khách
quan và được chỉ dẫn một cách có ý thức. Tác giả lên án mạnh mẽ những kẻ
phê phán tính đúng đắn của nguyên tắc tập trung dân chủ, đồng thời đề xuất
sự cần thiết phải áp dụng nguyên tắc này trên thực tế. Dẫn quan điểm của Ban

Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô tại Hội nghị lần thứ XXIV:
“Kinh nghiệm xác nhận rằng sức mạnh, năng lực hành động của Đảng phụ
thuộc nhiều vào chỗ nguyên tắc tập trung dân chủ được thực hiện triệt để và
đúng đắn đến đâu”, tác giả khẳng định, thực hiện triệt để và đúng đắn nguyên
tắc tập trung dân chủ (TTDC) là một điều kiện vô cùng quan trọng để đảm
bảo sự thống nhất hoạt động của Đảng.
Từ thực tiễn hoạt động của tổ chức đảng ở Xí nghiệp liên hợp cơ khí
nặng E.Tenlơman ở Mácđêbuốc (Cộng hoà dân chủ Đức), G.Vintecphen - tác
giả cuốn Chế độ tập trung dân chủ và các yêu cầu cao đối với đảng viên [86,
tr.158]; với kinh nghiệm phong trào công nhân, tác giả đã khái quát, chế độ
TTDC là nguyên tắc chỉ đạo trong việc xây dựng và trong hoạt động của đảng
6


mácxít lêninnít. Ông nhấn mạnh: “chúng tôi coi chế độ tập trung dân chủ là
sự thống nhất không tách rời giữa tập trung và dân chủ và do đó, cố gắng vận
dụng nó trong công tác hàng ngày”. G.Vintecphen đã coi chế độ tập trung
dân chủ là hai mặt thống nhất, biện chứng của một nguyên tắc trong xây dựng
Đảng, đó chính là nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng.
Với một cách tiếp cận khác, tác giả V.Cơrípsích (Liên Xô), trong tác
phẩm “Những nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin bàn về sự lãnh đạo tập thể
của Đảng” [124, tr.7] cho rằng, mỗi cuộc đấu tranh có sự tham gia đông đảo
của quần chúng cần đòi hỏi một mức cần thiết tối thiểu về tính tổ chức. Để tập
trung tất cả sức lực của những người tham gia đấu tranh thì phải xây dựng
những nguyên tắc tổ chức nhất định và có một cơ quan lãnh đạo, tức là đảng
chính trị, và nguyên tắc chỉ đạo hoạt động đó phải là nguyên tắc tập trung dân
chủ. Tác giả lý giải, một cá nhân, dù có lỗi lạc chăng nữa, cũng không thể
lãnh đạo được cuộc đấu tranh cách mạng, để thành công, chỉ có thể là một
đảng tập trung và lãnh đạo theo nguyên tắc TTDC thì mới đạt được kết quả
cao nhất. Tuy nhiên, để cho nguyên tắc xây dựng đảng phát huy tối đa trong

thực tế thì phải gắn hoạt động của tổ chức đảng với phong trào quần chúng.
Tác giả dẫn chứng, tại Hội nghị Tammécpho (1905), Ban Chấp hành Trung
ương Bônsêvích Nga đã thông qua nghị quyết về cải tổ Đảng và nguyên tắc
TTDC được phát triển hơn trong hội nghị. Hội nghị đã đề nghị thực hiện ngay
nguyên tắc này trong việc tổ chức bầu cử các uỷ ban địa phương. Tác giả
khẳng định, chính V.I.Lênin đã đề ra 6 nguyên tắc cơ bản về xây dựng Đảng.
Đó là: (1) Thiểu số phải phục tùng đa số, (2) Cơ quan cao nhất của Đảng
phải là đại hội Đảng, (3) Những cuộc bầu cử cơ quan Trung ương của Đảng
phải trực tiếp tiến hành trong đại hội, (6) Quyền của bất kỳ nhóm nào trong
Đảng cũng phải được xác định rõ ràng trong Điều lệ Đảng.
Tác giả cũng dành phần lớn trang viết đề cao nguyên tắc tập thể lãnh
đạo các nhân phụ trách. Trong Chương Nguyên tắc tập thể lãnh đạo của
Đảng trong Đảng Cộng sản (b) Nga và phong trào Quốc tế cộng sản, tác giả
7


mô tả tính cách phục tùng tuyệt đối nguyên tắc tập thể lãnh đạo của V.I.Lênin
qua nhận xét của Gh.V.Sisêrin2: “Đặc tính nổi bật nhất của V.I.Lênin trong
công tác thực tiễn của Người là sự phục tùng có ý thức vào tập thể, ngay cả
trong trường hợp, theo ý kiến của Người, tập thể phạm sai lầm” [124, tr.96].
Đồng thời, cũng phê phán hết sức gay gắt thái độ không tôn trọng, thậm chí
coi thường nguyên tắc tập trung dân chủ của các cá nhân lãnh đạo, cho dù họ
đang giữ chức vụ cao nhất trong Đảng. Tác giả đã dẫn ra trường hợp của
Gi.Xtalin3, người đã nhiều lần không chấp hành nghị quyết của Ban Chấp
hành Trung ương và các nghị quyết đại hội Đảng đã được thông qua, nhất là
trong những năm gần cuối đời. Lợi dụng sự tập trung trong tay nhiều quyền
lực, Gi.Xtalin tự đặt mình lên trên Đảng, không đếm xỉa đến ý kiến của tập
thể. Sự phá hoại ấy biểu hiện ở chỗ, hơn 13 năm không triệu tập đại hội Đảng
toàn quốc, ít họp hội nghị Ban Chấp hành, tự giải quyết những vấn đề quan
trọng của đất nước. Tác giả cho rằng đó là sự vi phạm nghiêm trọng nguyên

tắc TTDC trong Đảng và làm suy yếu Đảng, sẽ dẫn đến hậu quả khôn lường.
Ở đây, cũng cần nhắc đến Từ điển Petit Larousse đã định nghĩa “chế độ
tập trung là chế độ kéo theo sự quy tụ mọi quyết định và hành động vào cơ
quan đầu não của các đảng và các nghiệp đoàn” [125, tr.234]. Từ đây, nhiều
nhà nghiên cứu đã chứng minh chế độ tập trung là kết quả hoạt động tổ chức
của mọi giai cấp xã hội. Họ lý giải, dù là giai cấp phong kiến, giai cấp tư sản
cho đến giai cấp công nhân khi trở thành giai cấp cầm quyền đều kiên quyết
tập trung quyền lực. Vậy tập trung là nguyên tắc tổ chức của mọi giai cấp
trong xã hội. Tập trung là nguyên tắc tổ chức của mọi chính đảng. Còn dân
chủ mới là tính chất cần xây dựng, làm nền tảng cho nguyên tắc tập trung của
các đảng cộng sản. Tính chất có thể cho phép phát triển từ “thấp” đến “cao”,
qua nhiều sắc thái, từ “nhạt” tới “đậm”. Còn nguyên tắc thì bất di bất dịch.

2
3

Gh.V.Sisêrin: nhà hoạt động chính trị của Đảng và Nhà nước Liên Xô
Gi.Xtalin: nguyên Tổng bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô

8


Nói chung, các nhà khoa học ở các nước xã hội chủ nghĩa đều thống
nhất rằng, nguyên tắc TTDC chủ do V.I.Lênin đề ra là nguyên tắc cơ bản của
Đảng. Trong đó, tập trung và dân chủ là hai mặt thống nhất biện chứng,
không thể tách rời. Nguyên tắc tập thể lãnh đạo cá nhân phụ trách là sự phản
ánh một mặt khác của nguyên tắc TTDC, bổ sung cho nguyên tắc này và làm
cho nguyên tắc xây dựng Đảng giàu sức sống. Chế độ tập trung dân chủ hay
nguyên tắc tập trung dân chủ có cùng cách hiểu: Đó là nguyên tắc tập trung
dân chủ trong Đảng.

1.1.2. Những công trình nghiên cứu của các nhà khoa học trong nước
Trong nước có rất nhiều công trình nghiên cứu về TTDC và chế độ
TTDC, nhiều nhất là các bài viết trong các tạp chí lý luận khoa học. Chúng tôi
chọn lọc và giới thiệu một số tác phẩm phản ánh rõ nhất quan điểm của
V.I.Lênin về chế độ tập trung dân chủ, được công bố trong những năm gần
đây. Có thể tóm lược các quan điểm này qua một số nội dung sau:
Thứ nhất, theo V.I.Lênin, Đảng phải có tổ chức và nhất thiết phải hoạt
động theo chế độ tập trung dân chủ. Tập trung sẽ làm cho Đảng có sức mạnh
vô địch.
Thể hiện tư tưởng này có Nguyễn Văn Huyên với công trình “Về các
nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng Cộng sản Việt Nam” [36, tr.94].
Theo tác giả, V.I.Lênin là người nhận thức sâu sắc tầm quan trọng đặc biệt
của tổ chức. Người từng nói rằng: “Hãy cho tôi một tổ chức, tôi sẽ đảo lộn
nước Nga lên!”. Nhưng tổ chức mà V.I.Lênin nêu ở đây là tổ chức có trật tự,
kỷ cương và có nguyên tắc. V.I.Lênin kiên quyết phản đối tệ “tổ nhóm”, phản
đối “phương thức thủ công nghiệp”, phân tán, tản mạn, vô tổ chức. Cho nên,
năm 1899, Người đã đề ra nhiệm vụ thành lập một đảng thống nhất - đảng
phải được tổ chức và hoạt động theo chế độ tập trung và dân chủ. Trong tác
phẩm “Làm gì?” và “Một bước tiến hai bước lùi”, V.I.Lênin lập luận và lý
giải rõ ràng sức mạnh của chế độ tập trung và chế độ dân chủ. Người đặc biệt
nhấn mạnh tầm quan trọng và ý nghĩa quyết định của chế độ tập trung trong
9


mọi hoạt động của Đảng; đồng thời chỉ rõ rằng, nếu không hoạt động theo
nguyên tắc của chế độ tập trung thì chính đảng của giai cấp vô sản không thể
trở thành một chính đảng chiến đấu, đảng đó cũng không thể lãnh đạo giai cấp
vô sản hoàn thành sứ mệnh trọng đại là lật đổ chủ nghĩa tư bản, xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội. Theo Người, tập trung mà không có dân chủ thì
đảng đó cũng chỉ là đảng của một nhóm người, thậm chí, của một người; họ

dùng quyền hành có tổ chức, của tập thể như thể quyền hành của riêng mình,
do đó sẽ thao túng tất cả nhằm đạt mục đích, mưu đồ cá nhân.
Thống nhất cao với lập luận trên, tác giả Nguyễn Bá Dương, với bài “Ý
nghĩa thời sự của học thuyết Lênin về xây dựng Đảng cầm quyền” [9, tr.15],
đã khẳng định, V.I.Lênin là người không chỉ bổ sung, phát triển sáng tạo
những tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen về xây dựng chính đảng độc lập
của giai cấp vô sản, mà còn nâng tầm cao những tư tưởng đó thành học thuyết
khoa học, cách mạng về xây dựng đảng mácxít kiểu mới của giai cấp công
nhân với tư cách đảng cầm quyền, lãnh đạo. Qua phân tích, tác giả đã chỉ ra ý
nghĩa thời sự của học thuyết đối với cuộc vận động, xây dựng và chỉnh đốn
Đảng ta hiện nay thành một đảng thật sự trong sạch, vững mạnh, một đảng
vừa là “đạo đức”, vừa là “văn minh”. Bám sát thực tiễn đấu tranh cách mạng
của phong trào công nhân và dựa vào chế độ tập trung dân chủ do C.Mác,
Ph.Ăngghen đề ra, V.I.Lênin đã phát triển toàn diện cơ chế đó và khẳng định
rằng, tập trung dân chủ không chỉ là nguyên tắc tổ chức xây dựng đảng
mácxít kiểu mới, mà còn là nguyên tắc mang tính khoa học trong quản lý nhà
nước, tổ chức cộng đồng, chỉ đạo các hoạt động cách mạng một cách có văn
hoá. Tác giả nhấn mạnh, thực chất của chế độ tập trung dân chủ là sự kết hợp
hữu cơ giữa chế độ tập trung với chế độ dân chủ triệt để vốn có của giai cấp
công nhân, bắt nguồn từ những đòi hỏi của nền sản xuất đại công nghiệp với
trình độ khoa học, công nghệ tiên tiến, hiện đại. Từ trong bản chất, chế độ
TTDC đã loại bỏ hoàn toàn khuynh hướng vô chính phủ, sự thiếu thống nhất
về lãnh đạo, chỉ đạo của các tổ chức, cá nhân hòng phá hoại sự thống nhất ấy,
10


đồng thời cũng loại bỏ khuynh hướng độc đoán, chuyên quyền, gia trưởng,
cục bộ, bản vị mà một số lãnh tụ của các đảng chính trị thường mắc phải.
Cũng theo tác giả, với V.I.Lênin, chế độ TTDC hoàn toàn không phải là
sự tự phát, những biểu hiện ngẫu hứng, cứng nhắc, đơn độc của một cá nhân

hay một nhóm người đầy thiên kiến, hẹp hòi, mà là cả một quá trình và kết
quả của lao động trí tuệ, một sự gạn lọc tinh chất nhất, một sự sáng tạo triệt để
nhất để dân chủ trở thành sức sống, có tác dụng thúc đẩy sự phát triển, cải tạo
thực tiễn. V.I.Lênin khẳng định, nếu không có chế độ TTDC thì Đảng Cộng
sản không thể là đội tiền phong chiến đấu có tổ chức và là tổ chức cao nhất
của giai cấp công nhân và Đảng không thể tránh khỏi bị chia rẽ, tản mạn,
mang tính cục bộ; thoái hóa về tư tưởng chính trị, suy đồi về đạo đức cách
mạng và lối sống văn hóa. Người còn cho rằng, ai đó tự thừa nhận mình là
đảng viên của Đảng Cộng sản mà lại phủ nhận chế độ TTDC, nghĩa là phủ
nhận tính tổ chức và kỷ luật của Đảng thì người ấy đã rơi vào chủ nghĩa cơ
hội, xét lại và đang biến đảng cộng sản thành “câu lạc bộ tranh luận”; và
chính nó là biểu hiện rõ ràng nhất về sự suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức
và lối sống. Lập luận của tác giả có giá trị và ý nghĩa thời sự trong triển khai
học tập, thực hiện Nghị quyết Trung ương 4, khoá XII của Đảng ta hiện nay.
Thứ hai, tập trung dân chủ là một chế độ, cơ chế lãnh đạo; thực hiện
tốt cơ chế này sẽ đảm bảo cho Đảng có sức mạnh thống nhất về tư tưởng,
chính trị và tổ chức.
Trước tiên, phải kể đến công trình khoa học “Dân chủ và tập trung dân
chủ - lý luận và thực tiễn” của Nguyễn Tiến Phồn [89, tr.24]; tác giả cho
rằng, V.I.Lênin luôn nhất quán quan điểm coi “tập trung dân chủ là một chế
độ, một nguyên tắc quản lý, lãnh đạo”. Tác giả luận giải, trước đây C.Mác đã
từng nhấn mạnh giá trị của chế độ tập trung bằng một so sánh đậm chất nghệ
thuật: Người nghệ sĩ vĩ cầm tự mình điều khiển cây đàn thì tự mình chỉ huy
lấy mình. Còn với một dàn hợp xướng thì bắt buộc phải có sự chỉ huy của
người nhạc trưởng với cây đũa thần trong tay họ. Tác giả khẳng định, sau
11


này, chính V.I.Lênin đã nhắc lại ý tưởng ấy của C.Mác, đồng thời phát triển
lên tầm cao mới, thành bản chất của chế độ tập trung dân chủ.

Cũng theo Nguyễn Tiến Phồn, trong mối quan hệ giữa tập trung với
dân chủ thì tập trung là phương thức, là điều kiện, còn dân chủ là cơ sở, là
mục đích. Tác giả quan niệm, dân chủ là điểm xuất phát, sau đó, thông qua
tập trung mà dân chủ được giữ vững, được thực hiện và trở thành mục đích.
Không dựa trên dân chủ thì tập trung trở thành quan liêu, chuyên chế độc tài.
Không gắn với tập trung thì dân chủ không có sức mạnh thực tế hành động,
không thành tổ chức cố kết và sẽ dẫn tới phân tán, cục bộ, cát cứ, phường hội
và tự do vô chính phủ. Mặt khác, dân chủ càng phát triển cao thì càng tăng
cường tính đúng đắn, chính xác của tập trung, giúp người lãnh đạo và quản lý
tránh được sai lầm do chủ quan, duy ý chí, phiêu lưu chuyên chế, độc tài. Tác
giả khẳng định: Tập trung dân chủ là một loại cơ chế thực hiện dân chủ.
Thực hiện tốt cơ chế tập trung dân chủ sẽ bảo đảm cho sự thống nhất ý
chí, thống nhất hành động trong toàn Đảng, giúp Đảng tăng thêm sức mạnh.
Tác giả Nguyễn Phú Trọng với công trình “Xây dựng chỉnh đốn Đảng-một số
vấn đề lý luận và thực tiễn” đã luận giải: TTDC là nguyên tắc cơ bản của một
Đảng Mác – Lênin chân chính, xuất phát từ tính chất, chức năng, vai trò, trách
nhiệm của Đảng, phản ánh đặc điểm và bản chất của giai cấp công nhân hiện
đại. Nguyên tắc ấy do V.I.Lênin đề ra từ đầu thế kỷ XX. Theo tác giả, việc
thực hiện nguyên tắc TTDC là điều kiện bảo đảm phát huy sáng kiến và tính
tích cực sáng tạo của mọi tổ chức đảng, mọi đảng viên; đồng thời, bảo đảm sự
thống nhất ý chí, thống nhất hành động của toàn Đảng. Bởi vì, nguyên tắc
TTDC là sự kết hợp chặt chẽ, hài hoà giữa hai mặt tập trung và dân chủ trong
một mối quan hệ hữu cơ, biện chứng, chứ không phải chỉ là tập trung hoặc chỉ
là dân chủ. Hai mặt đó tuy mâu thuẫn nhau nhưng lại bổ sung cho nhau, thống
nhất với nhau, làm thành một nguyên tắc hoàn chỉnh. Dân chủ là điều kiện, là
tiền đề của tập trung, cũng như tập trung là cơ sở, là cái bảo đảm cho dân chủ
được thực hiện. Tác giả nhấn mạnh: Không nên hiểu dân chủ là “tính từ” của
12



tập trung hoặc tập trung là “tính từ” của dân chủ. Tuyệt đối hoá một mặt nào
đó đều có thể dẫn đến những sai lầm nguy hiểm, có hại cho sự lãnh đạo và
sức mạnh của Đảng. Để củng cố thêm lập luận của mình, tác giả đã dẫn ra
việc ngay từ những ngày đầu đấu tranh để thành lập Đảng Công nhân dân chủ
- xã hội Nga, V.I.Lênin đã nêu ra những yêu cầu phải kết hợp chặt chẽ tính
tập trung, kỷ luật thống nhất của Đảng với tính dân chủ rộng rãi, tức là thực
hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ [112, tr.335].
Rõ ràng là, nếu phá vỡ chế độ TTDC thì tính chất và bản chất của Đảng
Cộng sản cũng bị tổn hại và Đảng đứng trước nguy cơ tan rã, không thể trở
thành đội tiền phong gương mẫu - bộ tham mưu chiến đấu có tổ chức và là tổ
chức cao nhất của giai cấp công nhân, và đương nhiên, Đảng không có khả
năng vạch ra một cương lĩnh hành động triệt để, khoa học, cách mạng; không
có sức mạnh toát lên từ sự nêu gương, làm mẫu; từ đó giáo dục, thuyết phục,
vận động quần chúng nhân dân học tập, làm theo một cách tự giác để thực
hiện thắng lợi cương lĩnh đã đề ra. Cũng do vậy, một khi nguyên tắc của chế
độ TTDC bị phá vỡ, Đảng không còn đủ uy tín để lãnh đạo cách mạng; không
được nhân dân suy tôn là người lãnh đạo, người “đầy tớ thật trung thành của
nhân dân”; và quần chúng nhân dân sẽ không đứng về phía Đảng, dành cho
Đảng sự đồng tình, ủng hộ trong đấu tranh cách mạng; thậm chí sẽ hoài nghi
về mục tiêu, lý tưởng của Đảng là đấu tranh xóa bỏ áp bức, bóc lột, bất
công để tự giải phóng mình; sẽ mất phương hướng và chìm đắm trong mê
muội, an phận bởi cuộc sống đau khổ, tối tăm của thân phận làm nô lệ.
1.1.3. Những công trình bàn về các thuật ngữ: Chế độ tập trung dân
chủ hay nguyên tắc tập trung dân chủ
Theo tác giả Mạch Quang Thắng, trong bài “Nguyên tắc tập trung dân
chủ trong xây dựng Đảng - những vấn đề nhận thức thêm” [99], thì tập trung
dân chủ là nguyên tắc cơ bản của việc xây dựng Đảng Cộng sản. Vấn đề này
đã được V.I.Lênin xác định trong học thuyết về xây dựng đảng kiểu mới của
giai cấp vô sản, sau đó được các đảng cộng sản của Quốc tế Cộng sản (Quốc
13



tế III) cũng như nhiều đảng cộng sản của phong trào cộng sản quốc tế vận
dụng vào trong các hoạt động của đảng mình. Theo tác giả, C.Mác và
Ph.Ăngghen chưa đề cập thật rõ vấn đề TTDC trong xây dựng Đảng của giai
cấp công nhân. Trong Điều lệ của Đồng minh những người cộng sản, nội
dung về chế độ hay nguyên tắc TTDC chưa được xác định rõ nét lắm; chỉ đề
cập vấn đề tổ chức và có thể bãi miễn các thành viên, v.v.. V.I.Lênin mới là
người đầu tiên xác định một cách rõ ràng nhất nguyên tắc TTDC trong xây
dựng đảng kiểu mới của giai cấp vô sản (Đảng Cộng sản), nhưng trong điều
kiện cụ thể của nước Nga và sau này là Liên Xô, việc thực hiện nguyên tắc ấy
có lúc còn nặng về tập trung. Chế độ TTDC hay nguyên tắc TTDC đều cùng
một nghĩa, đó là nguyên tắc trong tổ chức và hoạt động của Đảng. Cũng theo
tác giả, Hồ Chí Minh – lãnh tụ của Đảng Cộng sản Việt Nam – coi nguyên tắc
TTDC và chế độ dân chủ tập trung đều cùng nghĩa, là nguyên tắc rất quan
trọng trong xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam. Hồ Chí Minh coi tập trung
và dân chủ phải luôn luôn đi đôi với nhau; dân chủ phải đi đến tập trung và
tập trung trên cơ sở dân chủ. Trong Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam được
thông qua tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X năm 2006, nêu rõ: “Đảng
Cộng sản Việt Nam tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ”, đồng thời xác
định 6 nội dung cụ thể không những về “tổ chức” mà chủ yếu là về “hoạt
động” hoặc “sinh hoạt” của Đảng. Cũng theo tác giả, vấn đề cơ bản nhất cần
nhận thức lại chế độ tập trung dân chủ theo quan điểm của V.I.Lênin chính là
bảo đảm các điều kiện cơ bản và có tính tiên quyết, đó là Đảng phải trong
sạch, vững mạnh, đảng viên tốt chiếm số đông trong tổ chức.
Đồng quan điểm về cách hiểu các khái niệm nêu trên, tác giả Bùi Phan
Kỳ còn mở rộng thêm, khái niệm chế độ tập trung dân chủ hay chế độ dân
chủ tập trung cũng có cùng cách hiểu thống nhất. Để chứng minh lập luận của
mình, trong bài “Tập trung dân chủ, nguyên tắc tổ chức cơ bản giúp đảng
cộng sản loại bỏ mọi khuynh hướng của chủ nghĩa cơ hội” [41], tác giả đã

luận giải, do có thời gian đã tiếp thu những kinh nghiệm của cách
14


mạng Trung Quốc, nên nhiều từ ngữ được diễn đạt theo kiểu Hán–Việt,
như Đảng Cộng sản Đông Dương được viết là Đông Dương Cộng sản Đảng,
Đảng Tân Việt được gọi là Tân Việt Đảng, nguyên tắc tập trung dân chủ
được viết (và nói) là nguyên tắc dân chủ tập trung… Tìm lại nguồn gốc của
từ thì thấy, khi ghi nguyên tắc này vào Điều lệ của Đảng CNDCXH Nga năm
1906, V.I.Lênin viết là Democraticheskii centralism. Cụm từ này được các
nước châu Âu dịch là centralisme démocratique (Pháp) và democratic
centralism (Anh, Mỹ), nguyên văn dịch sang tiếng Việt phải là “chế độ tập
trung dân chủ”. Tập trung là danh từ, đóng vai trò chủ ngữ còn dân chủ là
tính từ, đóng vai trò vị ngữ hay thuộc ngữ, nói rành rọt ra là “sự tập trung
mang tính dân chủ”. Tác giả, cũng dẫn thêm rằng có một vài luận án tiến sĩ
phân tích về “hai mặt mâu thuẫn thống nhất, gắn bó với nhau, lồng vào
nhau, quy định lẫn nhau, thể hiện tính biện chứng của một nguyên tắc tổ
chức”, hoặc không ít người dày công phân tích “tính tập trung” phản ánh bản
chất của nền công nghiệp lớn, là nét đặc trưng của giai cấp công nhân. Chính
đảng của giai cấp công nhân phải phản ánh đúng bản chất của giai cấp
mình”, v.v.. Nhưng lịch sử các tổ chức chính trị của giai cấp công nhân trải
qua từ Quốc tế I đến Quốc tế II, không chứng minh điều đó; lịch sử các chính
đảng của giai cấp công nhân trước khi tự chấn chỉnh theo Quốc tế
III cũng không chứng minh thuyết phục. Những lập luận trên đây đã chạy
sang lĩnh vực “bình luận chính trị” mà không còn đứng vững trên bình diện
của “khoa học tổ chức”. Nét tinh tế, phức tạp nhất cần lay chuyển hiện nay
là những nhận thức được khẳng định như một chân lý về “tính tập trung dân
chủ của nguyên tắc tổ chức”.
Với một cách tiếp cận khác, tác giả Vũ Như Khôi, trong bài “Phát huy
dân chủ trong Đảng vừa là mục tiêu, vừa là động lực để nâng cao năng lực

lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng” [40, tr.61], cho rằng, do nước ta có
hoàn cảnh đặc thù về sản xuất, sinh sống và bảo vệ quyền độc lập tự chủ nên
sớm có được những tư tưởng và thiết chế dân chủ, nhưng đó không phải là
15


dân chủ rộng rãi cho mỗi người dân mà là dân chủ cộng đồng, dân chủ công
xã. Từ khi bị thực dân Pháp xâm lược, đô hộ, xã hội nước ta trở thành xã hội
thuộc địa, nửa phong kiến thì dân chủ cộng đồng truyền thống bị thủ tiêu, mà
dân chủ tư sản cũng bị ngăn cấm. Quyền dân chủ đối với dân ta còn là điều xa
lạ. Đảng ta lại hoạt động trong hoàn cảnh bất hợp pháp, điều kiện thực hiện
tập trung còn rất khó khăn. Nên Hồ Chí Minh muốn nhấn mạnh thành tố “dân
chủ” trong nguyên tắc TTDC và diễn đạt là “dân chủ tập trung”. Theo tác giả,
trong quan niệm của Hồ Chí Minh, dân chủ vừa là mục đích, vừa là động lực
của sự phát triển xã hội. Cuộc cách mạng Việt Nam như Người xác định từ
đầu, đó là cuộc cách mạng tư sản dân quyền, sau đó gọi là cuộc cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân, nhưng tất cả đều đặt mục tiêu dân chủ của nhân
dân lên hàng đầu. Chẳng những thế, quốc hiệu đầu tiên của nước ta trong thời
đại mới cũng đặt tiêu chí đầu tiên là dân chủ: Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Từ khi nước ta giành được độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nói: Nước
ta là một nước dân chủ. Hồ Chí Minh là người Việt Nam đầu tiên tiếp thu chủ
nghĩa Mác – Lênin và trở thành người cộng sản đầu tiên của dân tộc. Người
chỉ ra các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng, trong đó có nguyên tắc
TTDC và theo cách diễn đạt phổ biến của Người, đó là nguyên tắc “dân chủ
tập trung”. Tác giả còn dẫn ra, từ Đại hội I (tháng 3-1935) đến Đại hội II
(tháng 2-1951), các văn kiện của Đảng đều ghi là “dân chủ tập trung”. Chỉ từ
Đại hội III đến nay thì Đảng ta mới chính thức sử dụng thuật ngữ “tập trung
dân chủ”. Tuy nhiên, tác giả không giải thích vì sao Hồ Chí Minh không sử
dụng thuật ngữ “dân chủ tập trung” từ Đại hội này (Đại hội III, 1960).
Tóm lại, các tác giả cùng thống nhất rằng, tư tưởng về xây dựng đảng

theo chế độ TTDC đã được C.Mác và Ph.Ăngghen là người đầu tiên nêu lên
và được ghi vào “Điều lệ của Liên đoàn những người cộng sản”, văn kiện
“Điều lệ hội Liên hiệp công nhân quốc tế”. Những tư tưởng về chế độ TTDC
của các ông được V.I.Lênin kế thừa và phát triển khi xây dựng nên học thuyết
về đảng kiểu mới của giai cấp công nhân, “Đảng phải là một đội ngũ có tổ
16


chức và là tổ chức chặt chẽ của giai cấp công nhân, Đảng phải là một khối
thống nhất về chính trị, tư tưởng”. Chính điều đó buộc Đảng phải thực hiện
chế độ TTDC trong xây dựng và hoạt động của Đảng như một tất yếu. Chế độ
tập trung dân chủ đòi hỏi Đảng phải có một điều lệ, một kỷ luật, một cơ quan
tuyên truyền và cổ động thống nhất, một cơ quan lãnh đạo tập trung thống
nhất, hoạt động theo nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng
cấp trên, toàn Đảng phục tùng Ban Chấp hành Trung ương và Đại hội Đảng
toàn quốc. Chỉ như vậy mới bảo đảm cho Đảng thật sự thống nhất và do đó,
mới thật sự mạnh mẽ, “muôn người như một”. Còn thuật ngữ chế độ tập
trung dân chủ hay nguyên tắc tập trung dân chủ đều cùng một cách hiểu
thống nhất.
1.2. Những công trình nghiên cứu sự vận dụng quan điểm của V.I.Lênin
về chế độ tập trung dân chủ của Đảng ta trong thời kỳ đổi mới
1.2.1. Hồ Chí Minh - một kiểu mẫu trong vận dụng quan điểm của
V.I.Lênin về chế độ tập trung dân chủ
Về nội dung này có một số công trình nghiên cứu của các tác giả như:
Lê Đức Bình, Tập trung dân chủ hay dân chủ tập trung; Hoàng Chí Bảo, Nét
đặc sắc trong phương pháp tiếp cận, trong quan điểm và quan niệm của Hồ
Chí Minh về dân chủ; của Nguyễn Minh Tuấn, Quan điểm của Hồ Chí Minh
về tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; Nguyễn Tiến Phồn, Tư tưởng Hồ Chí
Minh về thực hiện dân chủ và nguyên tắc tập trung dân chủ trong hoạt động
quản lý nhà nước [88, tr.57]. Nhìn chung, các tác giả khá thống nhất trong

nhận xét, đánh giá sự vận dụng quan điểm của V.I.Lênin về chế độ tập trung
dân chủ ở Hồ Chí Minh trên một số tư tưởng chủ yếu như sau:
Thứ nhất, trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh, dân chủ có một vị trí đặc
biệt nổi bật. Người chẳng những để lại cho chúng ta một hệ thống các quan
niệm, quan điểm sâu sắc và hiện đại về dân chủ, xét về mặt lý luận, mà xét về
mặt thực tiễn còn nêu tấm gương mẫu mực về thực hành dân chủ cho chúng ta
noi theo. Đặc biệt trong tình hình hiện nay, khi toàn Đảng đang tiếp tục đẩy
17


mạnh việc học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh,
triển khai cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo Nghị quyết Đại hội
XII.
Thứ hai, về chế độ TTDC, các tác giả cho rằng, đây là một phương diện
cấu thành nội dung tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh. Ở đây, Hồ Chí Minh
có sự sáng tạo khi vận dụng nguyên lý kinh điển mácxit về dân chủ. Hồ Chí
Minh diễn đạt nguyên tắc này là dân chủ tập trung. Cái mới ở Hồ Chí Minh là
đặc biệt chú trọng tới dân chủ, vận dụng đúng đắn quan hệ giữa dân chủ và
tập trung, bảo đảm cho mối quan hệ này lành mạnh, tích cực, không bị lệch
lạc, cực đoan. Người nhiều lần giải thích rằng thảo luận, tranh luận thẳng
thắn, nói rõ và nói hết ý kiến, cùng nhau tìm tòi chân lý, đạt tới sự thống nhất,
đó là dân chủ. Tôn trọng quyết định, chỉ thị, nguyên tắc, chấp hành mệnh lệnh
chỉ huy, chấp hành nghị quyết của các cấp lãnh đạo, của người lãnh đạo, đó là
tập trung. Tập thể lãnh đạo là dân chủ. Cá nhân phụ trách là tập trung. Kết
hợp giữa tập thể lãnh đạo với cá nhân phụ trách, đó là dân chủ tập trung.
Đảng là một tổ chức cách mạng, phải thống nhất tư tưởng, ý chí, hành động.
Kỷ luật của Đảng nghiêm minh, là “kỷ luật sắt” nhưng là kỷ luật tự giác.
Cũng có khi Người sử dụng khái niệm tập trung dân chủ nhưng vẫn luôn nhấn
mạnh dân chủ, tập trung trên cơ sở dân chủ. Người cũng thẳng thắn phê bình
một số cán bộ lãnh đạo của Đảng có lúc, có nơi không được dân chủ, cần phải

chú trọng sửa chữa. Dân chủ không đối lập với tập trung, rất cần tập trung.
Tập trung không đối lập với dân chủ, phải luôn dựa trên cơ sở dân chủ. Nội
dung chế độ TTDC là thực hiện nghiêm quy định: Thiểu số phục tùng đa số,
cấp dưới phục tùng cấp trên, toàn Đảng phục tùng Trung ương và Đại hội.
Tuy nhiên, cái khó là sự cụ thể hóa và vận dụng sao cho thật đúng đắn các
nguyên tắc ấy trong thời kỳ đổi mới, nhất là trong hoạt động lãnh đạo của
Đảng hiện nay.
Thứ ba, là một nhà dân chủ giữ vững nguyên tắc, nhưng rất tinh tế
trong ứng xử, Hồ Chí Minh luôn đề cao tự phê bình và phê bình, tôn trọng ý
18


×