Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

HOẠT ĐỘNG PHỤC vụ GIẢI TRÍ CÔNG CỘNG của các đơn vị sự NGHIỆP văn hóa CÔNG lập tại THÀNH PHỐ hồ CHÍ MINH (TRƯỜNG hợp bảo TÀNG, NHÀ hát, TRUNG tâm văn hóa)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (263.89 KB, 26 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------

Trịnh Đăng Khoa

HOẠT ĐỘNG PHỤC VỤ GIẢI TRÍ CÔNG CỘNG
CỦA CÁC ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP VĂN HÓA CÔNG LẬP
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
(TRƯỜNG HỢP BẢO TÀNG, NHÀ HÁT,
TRUNG TÂM VĂN HÓA)
Chuyên ngành: Văn hóa học
Mã số: 62317001

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh – năm 2019


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------

Trịnh Đăng Khoa

HOẠT ĐỘNG PHỤC VỤ GIẢI TRÍ CÔNG CỘNG
CỦA CÁC ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP VĂN HÓA CÔNG LẬP
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
(TRƯỜNG HỢP BẢO TÀNG, NHÀ HÁT,
TRUNG TÂM VĂN HÓA)
Chuyên ngành: Văn hóa học


Mã số: 62317001

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC
Người hướng dẫn khoa học:

PGS.TS. Đỗ Ngọc Anh
TS. Trần Ngọc Khánh

Thành phố Hồ Chí Minh – năm 2019


CÁC BÀI BÁO LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ĐÃ CÔNG BỐ
1. Trịnh Đăng Khoa. (2017). Hoạt động giải trí công cộng ở trung
tâm văn hóa tại thành phố Hồ Chí Minh. Tạp chí Văn hóa nghệ thuật,
(ISSN 0866-8655), Số 395, 31-24.
2. Trịnh Đăng Khoa. (2018). Hoạt động giải trí công cộng qua
mạng lưới rạp phim tư nhân ở thành phố Hồ Chí Minh. Tạp chí Văn hóa
nghệ thuật, (ISSN 0866-8655), Số 411, 79-82.
3. Trịnh Đăng Khoa. (2013). Giải trí – tiếp cận từ quan điểm
nghiên cứu liên ngành. Thông tin khoa học, Trường Đại học Văn hóa Tp.
HCM, Số 3(37), 19-25.


1
DẪN NHẬP
1. Lý do chọn đề tài
Giải trí là một nhu cầu cơ bản, thiết yếu không thể thiếu trong đời sống
tinh thần của của con người. Theo từ điển Tiếng Việt thì giải trí được định
nghĩa là làm cho trí óc thảnh thơi bằng cách nghỉ ngơi hoặc tham gia các
hoạt động vui chơi (Hoàng Phê, 2003, tr.388).

Hiện nay, hoạt động giải trí công cộng đã được thị trường tham gia cung
ứng ngày càng nhiều hơn, nhưng nhà nước vẫn đóng một vai trò hết sức
quan trọng trong phục vụ các hoạt động giải trí chung của toàn xã hội. Bởi,
có những nhu cầu hoạt động giải trí chung, chính đáng của người dân và
cộng đồng, xã hội có thể sẽ bị sự từ chối của các nhà sản xuất và cung cấp
dịch vụ giải trí tư nhân do không hoặc khó đảm bảo việc thu hồi vốn và tìm
kiếm lợi nhuận. Mặt khác, hoạt động giải trí công cộng nếu chỉ có khu vực
tư nhân độc quyền cung cấp có thể sẽ dẫn tới việc độc quyền thị trường và
kéo theo sự tăng giá, ảnh hưởng tới người tiêu dùng. Chưa kể việc chạy
theo mục tiêu lợi nhuận tối đa có thể sẽ dẫn tới các sản phẩm giải trí kém
chất lượng, ảnh hưởng tiêu cực cho đời sống văn hóa của cá nhân và cộng
đồng, xã hội.
Chính vì lẽ đó, hoạt động văn hóa ở nước ta nói chung, trong đó có hoạt
động giải trí công cộng, tới nay vẫn đồng thời tồn tại cơ chế hoạt động sự
nghiệp văn hóa, gắn với vai trò quản lý, điều tiết và cung ứng của nhà nước.
Tuy nhiên, quan điểm nhà nước quản lý, điều tiết và thậm chí trực tiếp phục
vụ các hoạt động văn hóa giải trí không có nghĩa là nhà nước bao tiêu tràn
lan và độc quyền toàn bộ trong lĩnh vực này như trước đây trong thời bao
cấp. Mà chủ trương của nhà nước ta kể từ khi đổi mới tới nay là khuyến
khích xã hội tham gia ngày càng nhiều hơn vào việc tổ chức phục vụ các
hoạt động vui chơi giải trí chính đáng của nhân dân. Nhà nước chỉ tham gia
tổ chức phục vụ các hoạt động giải trí công cộng nào mà khu vực tư nhân
và xã hội khó, không hoặc chưa thể thực hiện.
Từ thực tế đó, kết hợp cùng với đặc thù chuyên môn nghề nghiệp và yêu
cầu công tác trong lĩnh vực quản lý văn hóa, chúng tôi chọn vấn đề “Hoạt
động phục vụ giải trí công cộng của các đơn vị sự nghiệp văn hóa công lập
tại Thành phố Hồ Chí Minh (Trường hợp bảo tàng, nhà hát, trung tâm văn
hóa” làm đề tài nghiên cứu cho luận án tiến sĩ chuyên ngành văn hóa học.



2
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
2.1. Các công trình nghiên cứu ngoài nước
Công trình Hoạt động văn hóa giải trí của hai tác giả A.D. Zarkov và
V.M. Chizikov (1998) trình bày về phương pháp hoạt động văn hóa – giải
trí là một hệ thống gồm các bộ phận công việc khác nhau, gắn bó hữu cơ
thống nhất trên cơ sở ý tưởng và cách thức để thực hiện ý tưởng đó, trong
sự tương tác giữa chủ thể và khách thể để đạt mục tiêu hoạt động. Nội dung
này sẽ được kế thừa trong luận án nghiên cứu như là một quan điểm nghiên
cứu để phân tích, nhận định, đánh giá thực tiễn hoạt động giải trí công cộng
tại Thành phố Hồ Chí Minh.
- Công trình Quản lý chiến lược đối với dịch vụ công (Quản lý dịch vụ
công) của tác giả Paul Joyce (1999) có giá trị lý luận và thực tiễn về quản
trị dịch vụ công. Nội dung được tác giả khái quát gồm: (1) cung cấp hiểu
biết về lý thuyết quản lý chiến lược; (2) giới thiệu những ý tưởng hướng
dẫn thực hành có hiệu quả trong quản lý chiến lược các dịch vụ công
(không sao chép những thói quen của khu vực tư nhân mù quáng); (3) đưa
ra các công cụ và tài liệu khái niệm (dưới dạng bảng) có thể được sử dụng
để thực hiện việc phân tích và lập kế hoạch; (4) tìm hiểu các vấn đề chính
cho các nhà quản lý khu vực công bao gồm quản trị, các chiến lược công,
biến đổi, quản lý khủng hoảng và lập kế hoạch chiến lược liên tổ chức; (5)
dựa trên nghiên cứu từ các quốc gia khác nhau; (6) xem xét cách quản lý
chiến lược có thể được áp dụng và phát triển để giúp cải thiện các dịch vụ
công.
2.2. Các công trình nghiên cứu trong nước
- Công trình Xã hội học văn hóa của tác giả Đoàn Văn Chúc (1997b)
phân tích mối quan hệ giữa nhu cầu và nhu cầu giải trí, qua đó tác giả luận
giải vấn đề thời gian rỗi và hoạt động rỗi.
- Công trình Đời sống văn hóa đô thị và khu công nghiệp Việt Nam do
Đình Quang và các tác giả khác (2005) thực hiện điều tra xã hội học khá

quy mô về đời sống văn hóa đô thị và khu công nghiệp Việt Nam (khảo sát
ở ba thành phố lớn Hà Nội, Hồ Chí Minh và Đà Nẵng cùng với Khu công
nghiệp Bình Dương).
- Công trình Hoạt động giải trí ở đô thị Việt Nam hiện nay – Những vấn
đề lý luận và thực tiễn của Phạm Duy Đức và các tác giả khác (2004). Các
bài viết đã phân tích cơ sở khoa học của hoạt động giải trí, nhu cầu giải trí ở
đô thị nước ta trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; đặc
biệt nhấn mạnh vai trò của nó trong xã hội đô thị; đánh giá thực trạng các
loại hình giải trí gắn với các hoạt động cộng đồng ở đô thị (qua các đơn vị


3
sự nghiệp văn hóa như thư viện, bảo tàng, sân thể thao, trung tâm văn hóa);
hoạt động nghệ thuật với việc đáp ứng các yêu cầu giải trí của công chúng
hiện nay; các dịch vụ văn hóa cũng như các phương tiện thông tin đại chúng
với việc đáp ứng yêu cầu giải trí của người dân đô thị hiện nay; dự báo xu
hướng phát triển hoạt động giải trí ở đô thị nước ta; cũng như đề xuất
phương hướng và giải pháp giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc
trong các hoạt động vui chơi giải trí ở khu vực đô thị thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
2.3. Về hoạt động giải trí tại Thành phố Hồ Chí Minh
- Công trình Nghiên cứu và xây dựng mô hình nhà văn hóa tại Thành
phố Hồ Chí Minh - Thực trạng, nhu cầu và tổ chức thực hiện của Trần
Ngọc Khánh và các tác giả khác (2015) đã nghiên cứu chuyên sâu về thiết
chế nhà văn hóa - trung tâm văn hóa ở Thành phố Hồ Chí Minh. Các tác giả
đã phân tích và lý giải nguồn gốc, sự ra đời cũng như vai trò, chức năng
mang tính bản chất cốt lõi của nhà văn hóa trên cơ sở tiếp cận từ nhiều
nguồn tài liệu của các nước trên thế giới; từ đó nhận định, đối chiếu với quá
trình ra đời, xây dựng và phát triển nhà văn hóa ở Việt Nam, trong đó có
Thành phố Hồ Chí Minh.

- Công trình Hoạt động giải trí nơi công cộng của thanh thiếu niên
Thành phố Hồ Chí Minh - Thực trạng, xu hướng và giải pháp của Viện
nghiên cứu Phát triển Thành phố Hồ Chí Minh (2013), tập trung nghiên cứu
những hoạt động giải trí đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa nghe nhìn; nhu
cầu sáng tạo nghệ thuật, rèn luyện kỹ năng, phát triển năng khiếu nghệ
thuật; nhu cầu vận động, vui chơi, giao lưu. Phản ánh nhu cầu, khả năng đáp
ứng nhu cầu và mức độ hài lòng cũng như không hài lòng của thanh niên đối với
một số các thiết chế văn hóa, giải trí công cộng phổ biến; chỉ ra những mặt ưu
điểm, nổi trội của các thiết chế giải trí tư nhân đối với sự lựa chọn của thanh niên
thành phố.
- Công trình Thiết chế văn hóa hướng tới việc xây dựng một thành phố
có chất lượng sống tốt, văn minh, hiện đại, nghĩa tình của Viện Nghiên cứu
Phát triển (Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh) và Ban Văn hóa - Xã
hội (Hội đồng nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh) (2016), tập hợp các bài
viết mang tính lý luận và tổng kết thực tiễn về thực trạng hoạt động của các
thiết chế văn hóa và định hướng giải pháp phát triển hoạt động của các thiết
chế này trong bối cảnh hiện nay của thành phố, trong đó có một số bài viết
liên quan lĩnh vực hoạt động giải trí công cộng.
3. Đối tượng, mục đích và phạm vi nghiên cứu


4
Đối tượng nghiên cứu: hoạt động phục vụ giải trí công cộng của đơn vị
sự nghiệp văn hóa công lập tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Mục đích nghiên cứu: góp phần làm rõ những vấn đề lý luận về hoạt
động phục vụ giải trí công cộng của các đơn vị sự nghiệp văn hóa công lập.
Làm rõ cách thức tổ chức các hoạt động phục vụ giải trí công cộng của các
đơn vị sự nghiệp công lập để chỉ ra những tồn tại, hạn chế. Đánh giá mức
độ đáp ứng nhu cầu giải trí công cộng của công chúng của các đơn vị sự
nghiệp văn hóa công lập.

Phạm vi không gian: chúng tôi lựa chọn nghiên cứu hoạt động phục vụ
giải trí công cộng của hệ thống các đơn vị sự nghiệp văn hóa công lập lĩnh
vực bảo tàng, nhà hát và trung tâm văn hóa cấp thành phố và cấp
quận/huyện, tập trung ở 5 quận/ huyện của Thành phố Hồ Chí Minh (bao
gồm 3 quận nội thành và 2 huyện ngoại thành).
Phạm vi thời gian luận án chủ yếu nghiên cứu vấn đề phục vụ giải trí
công cộng của hệ thống bảo tàng, nhà hát, trung tâm văn hóa công lập tại
Thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, quá trình
khảo sát, nghiên cứu chúng tôi sẽ chú ý tìm hiểu theo cả hai chiều lịch đại
và đồng đại. Đặc biệt tập trung vào giai đoạn từ năm 2014 tới nay.
4. Câu hỏi và giả thuyết nghiên cứu
Câu hỏi nghiên cứu của luận án:
Thực trạng hoạt động phục vụ giải trí công cộng của các đơn vị sự
nghiệp văn hóa công lập tại Thành phố Hồ Chí Minh như thế nào?
Vai trò quản lý của nhà nước đối với hoạt động phục vụ giải trí công cộng
của các đơn vị sự nghiệp văn hóa công lập tại Thành phố Hồ Chí Minh ra sao?
Cần có những giải pháp gì để nâng cao chất lượng phục vụ giải trí công
cộng của các đơn vị sự nghiệp văn hóa công lập tại Thành phố Hồ Chí Minh?
Các giả thuyết sau:
Các đơn vị sự nghiệp văn hóa công lập tại Thành phố Hồ Chí Minh thực hiện
chưa hiệu quả hoạt động phục vụ giải trí công cộng trong bối cảnh hiện nay.
Công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động phục vụ giải trí công cộng của
các đơn vị sự nghiệp văn hóa công lập còn nhiều tồn tại hạn chế, bất cập.
Cần có những giải pháp cải cách, đổi mới về tổ chức và quản lý để nâng
cao chất lượng hoạt động phục vụ giải trí công cộng của các đơn vị sự
nghiệp văn hóa công lập trong thời gian tới.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp khảo sát, phương pháp thống kê – so sánh, phương pháp hệ
thống cấu trúc, phương pháp nghiên cứu trường hợp, phương pháp tiếp cận liên
ngành.



5
6. Những đóng góp mới của luận án
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận liên quan đến hoạt động văn hóa
giải trí, quản lý công trong lĩnh vực hoạt động văn hóa, hoạt động của các
đơn vị sự nghiệp văn hóa công lập ở Việt Nam trong bối cảnh hiện nay.
- Giới thiệu một cách có hệ thống thực tiễn công tác tổ chức phục vụ giải trí
công cộng của các đơn vị sự nghiệp văn hóa công lập tại Thành phố Hồ Chí
Minh; phân tích, đánh giá, dự báo xu hướng vận động và phát triển hoạt động
phục vụ giải trí công cộng của các đơn vị sự nghiệp văn hóa công lập ở Việt
Nam nói chung và tại Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng.
- Kết quả nghiên cứu của luận án là tài liệu tham khảo cho các cơ sở đào
tạo, nghiên cứu, ứng dụng trong lĩnh vực văn hóa; các nhà nghiên cứu; cơ
quan nghiên cứu và hoạch định chính sách văn hóa; cơ quan quản lý và tổ
chức hoạt động văn hóa ở Việt Nam.
7. Bố cục luận án
Ngoài phần dẫn nhập và kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án
gồm các chương sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn
Chương 2: Thực trạng hoạt động phục vụ giải trí công cộng của các đơn
vị sự nghiệp văn hóa công lập tại Thành phố Hồ Chí Minh
Chương 3: Nhận định và đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng hoạt
động phục vụ giải trí công cộng của các đơn vị sự nghiệp văn hóa công lập
trong giai đoạn hiện nay.


6
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

1.1 Cơ sở lý luận
1.1.1. Một số khái niệm
- Khái niệm giải trí công cộng
Giải trí công cộng là quá trình con người chủ động, tự do, tự nguyện sử
dụng thời gian rỗi tham gia vào các hoạt động văn hóa chung của cộng
đồng, xã hội để giải tỏa những căng thẳng trí não, tìm sự vui thú, sảng khoái
tâm hồn và nâng cao đời sống văn hóa tinh thần
- Khái niệm thiết chế văn hóa
Thiết chế văn hóa là một chỉnh thể văn hóa hội đủ các yếu tố về nhân
lực, vật lực, tài lực, thể chế và hoạt động văn hóa. Thiết chế văn hóa là nơi
đảm bảo cho các hoạt động sáng tạo/sản xuất, bảo quản/phân phối, trao
đổi/tiêu dùng các sản phẩm văn hóa được diễn ra một cách tập trung; để lưu
giữ và chuyển tải các giá trị văn hóa đến từng cá nhân và cộng đồng, xã hội.
- Khái niệm hoạt động phục vụ giải trí công cộng của các đơn vị sự
nghiệp văn hóa công lập
Hoạt động phục vụ giải trí công cộng của các đơn vị sự nghiệp văn hóa
công lập là quá trình nhà nước sử dụng các nguồn lực công để tạo ra sản
phẩm văn hóa, phục vụ nhu cầu giải trí chung của người dân, cộng đồng, xã
hội; theo nguyên tắc không vụ lợi; đảm bảo sự công bằng và ổn định xã hội.
1.1.2. Đặc điểm của hoạt động phục vụ giải trí công cộng
(1) Hình thành các ý tưởng sáng tạo. (2) Sáng tác/sản xuất. (3) Phân
phối. (4) Bảo quản.
1.1.3. Phân loại hoạt động phục vụ giải trí công cộng
a. Phân theo tiêu chí phương thức cung ứng dịch vụ công: gồm (1) nhà
nước trực tiếp phục vụ, (2) nhà nước ủy quyền phục vụ, (3) nhà nước hợp
danh hoặc liên doanh phục vụ, (4) nhà nước hợp đồng mua từ bên ngoài
phục vụ, (5) nhà nước thực hiện các ưu đãi phục vụ.
b. Phân theo tiêu chí chủ thể cung ứng dịch vụ công: gồm (1) do nhà
nước trực tiếp cung ứng, (2) do nhà nước ủy nhiệm cung ứng.
1.1.4. Vai trò của Nhà nước đối với hoạt động phục vụ giải trí công

cộng
- Nhà nước không chỉ trực tiếp phục vụ các nhu cầu giải trí công cộng
cho người dân, xã hội; mà còn có vai trò - nhiệm vụ hỗ trợ, khuyến khích,
tạo điều kiện thuận lợi để các tổ chức phi chính phủ, tổ chức tự quản của
cộng đồng, tổ chức tư nhân… tham gia vào việc phục vụ này.


7
- Nhà nước là người chịu trách nhiệm cuối cùng trước xã hội về số
lượng, chất lượng và hiệu quả của các hoạt động giải trí công cộng.
1.1.5. Lý thuyết nghiên cứu
- Lý thuyết nhu cầu: hoạt động phục vụ giải trí công cộng với tư cách là
đối tượng để thỏa mãn nhu cầu giải trí, chúng tôi sử dụng lý thuyết nhu cầu
và nấc thang nhu cầu làm cơ sở để xây dựng nền tảng lý luận cơ bản về nhu
cầu giải trí công cộng; tìm hiểu, phân tích, nhận định, đánh giá về sự đa
dạng, phong phú của nhu cầu giải trí công cộng; và khả năng, kết quả, hiệu
quả của hoạt động phục vụ giải trí công cộng của các đơn vị sự nghiệp văn
hóa công lập tại Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.
- Lý thuyết thời gian rỗi và hoạt động rỗi: lý thuyết thời gian rỗi và hoạt
động rỗi chỉ ra mối quan hệ biện chứng giữa thời gian rỗi và hoạt động rỗi.
Thời gian rỗi là cơ sở quan trọng cho hoạt động giải trí. Chúng tôi vận dụng
lý thuyết thời gian rỗi và hoạt động rỗi trong luận án này để: nhận diện ra
bản chất văn hóa của hoạt động giải trí; tính hệ thống của hoạt động giải trí
trong mối quan hệ giữa các yếu tố nhu cầu, thời gian rỗi và hoạt động rỗi;
từ đó làm cơ sở để xây dựng khái niệm hoạt động giải trí công cộng.
- Lý thuyết hoạt động: hoạt động là một tổ hợp các quá trình con người
tác động vào đối tượng, nhằm đạt mục đích thỏa mãn một nhu cầu nhất định
và chính kết quả của hoạt động là sự cụ thể hóa nhu cầu của chủ thể. Chúng
tôi sử dụng lý thuyết hoạt động để xác định chủ thể, đối tượng và mục đích
của hoạt động phục vụ giải trí công cộng của các đơn vị sự nghiệp văn hóa

công lập.
- Lý thuyết dịch vụ công: đề tài này xác định lựa chọn những hoạt động
phục vụ giải trí công cộng do Nhà nước trực tiếp cung ứng thông qua hệ
thống các đơn vị sự nghiệp văn hóa công lập. Vì vậy, chúng tôi sử dụng lý
thuyết dịch vụ công để hoàn chỉnh cơ sở lý luận về hoạt động phục vụ giải
trí công cộng của các đơn vị sự nghiệp văn hóa công lập.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Khái quát về hoạt động giải trí công cộng ở Thành phố Hồ Chí
Minh
Có thể khái quát một số hoạt động phục vụ nhu cầu văn hóa giải trí công
cộng của người dân ở Thành phố Hồ Chí Minh kể từ sau chủ trương xã hội
hóa các hoạt động văn hóa, qua một số lĩnh vực phổ biến sau: điện ảnh,
nghệ thuật biểu diễn, bảo tàng, di tích, karaoke, vũ trường, công viên văn
hóa - khu vui chơi giải trí tổng hợp.
Có thể nói Thành phố Hồ Chí Minh là địa phương có hệ thống các thiết chế
văn hóa phục vụ nhu cầu giải trí công cộng khá phong phú, đa dạng và quy mô


8
vào bậc nhất ở Việt Nam hiện nay. Các thiết chế văn hóa này đã và đang phục
vụ tương đối tốt nhu cầu giải trí công cộng của người dân; tuy nhiên, trong mỗi
thiết chế văn hóa vẫn tồn tại những hạn chế nhất định.
1.2.2. Tổng quan về các đơn vị sự nghiệp văn hóa công lập phục vụ
giải trí công cộng tại Thành phố Hồ Chí Minh
Để thực hiện các chức năng của mình, Sở Văn hóa, Thể thao Thành phố
Hồ Chí Minh đã thành lập một hệ thống các đơn vị sự nghiệp văn hóa công
lập bao gồm hệ thống bảo tàng, nhà hát, các trung tâm văn hóa, nghệ thuật,
thể thao, thông tin triển lãm, báo chí, trường học từ trung tâm cho tới khắp
các quận/huyện, phường/xã, khu phố/ấp trên địa bàn Thành phố Hồ Chí
Minh. Hiện nay Sở Văn hóa, Thể thao Thành phố Hồ Chí Minh có 34 đơn vị

sự nghiệp trực thuộc. Trong phạm vi giới hạn của luận án này, chúng tôi xin
khái quát hệ thống các đơn vị sự nghiệp văn hóa công lập thuộc ba lĩnh vực
hoạt động: bảo tàng, nhà hát và trung tâm văn hóa.
- Hệ thống bảo tàng công lập: Hiện nay, Sở Văn hóa, Thể thao Thành
phố Hồ Chí Minh trực tiếp quản lý 07 bảo tàng công lập, bao gồm: bảo tàng
Thành phố Hồ Chí Minh, bảo tàng Chứng tích Chiến tranh, bảo tàng Mỹ
thuật Thành phố Hồ Chí Minh, bảo tàng Lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh,
bảo tàng Hồ Chí Minh - Chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh, bảo tàng Phụ
nữ Nam bộ, bảo tàng Tôn Đức Thắng.
- Hệ thống nhà hát công lập: Hiện nay, trên địa bàn thành phố có 06 nhà
hát công lập là: nhà hát Kịch Thành phố, nhà hát Cải lương Trần Hữu Trang,
nhà hát Nghệ thuật Hát Bội, nhà hát Ca múa nhạc dân tộc Bông Sen, nhà hát
Nghệ thuật Phương Nam, nhà hát Giao hưởng - Nhạc, Vũ kịch.
- Hệ thống trung tâm văn hóa: Mạng lưới trung tâm văn hóa ở Thành
phố Hồ Chí Minh được tổ chức thành ba hệ thống gồm: hệ thống trung tâm
văn hóa do Sở văn hóa và thể thao quản lý; hệ thống trung tâm văn hóa của
các tổ chức đoàn thể và hệ thống trung tâm văn hóa thuộc sự quản lý của lực
lượng vũ trang. Hệ thống mạng lưới trung tâm văn hóa thuộc sự quản lý
chuyên môn của Sở Văn hóa và Thể thao thành phố được phân bố đều khắp tất
cả các địa bàn, với ba cấp độ: thành phố, quận/huyện và phường/xã. Trong đó,
cấp thành phố có 01 trung tâm văn hóa; cấp quận/huyện có 24 trung tâm văn
hóa; cấp phường/xã có 81 nhà văn hóa.
1.3. Tiểu kết
Trong chương I, luận án đã tiến hành nghiên cứu và trình bày một số vấn
đề cơ bản sau: giới thiệu và phân tích một cách có hệ thống các khái niệm
liên quan tới đề tài. Tổng hợp và giới thiệu một số lý thuyết liên quan tới đề
tài và chỉ ra việc vận dụng các lý thuyết đó trong công trình nghiên cứu.


9

Giới thiệu và phân tích khái quát tổ chức hoạt động văn hóa giải trí công
cộng ở Việt Nam và bức tranh nhu cầu văn hóa giải trí của người dân Thành
phố Hồ Chí Minh trong bối cảnh hiện nay; hệ thống hóa mạng lưới các thiết
chế văn hóa phục vụ vui chơi giải trí công cộng. Phân tích những nét cơ bản
nhất của một số lĩnh vực/loại hình hoạt động giải trí công cộng phổ biến
hiện nay trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.
Trình bày tổng quan về hệ thống mạng lưới các đơn vị sự nghiệp văn
hóa công lập lĩnh vực bảo tàng, nhà hát, trung tâm văn hóa trực thuộc sự
quản lý nhà nước và chuyên môn của Sở Văn hóa và Thể thao Thành phố
Hồ Chí Minh trong vai trò, chức năng tổ chức phục vụ công các nhu cầu
văn hóa giải trí công cộng cho người dân, cộng đồng xã hội.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG PHỤC VỤ GIẢI TRÍ CÔNG
CỘNG CỦA CÁC ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP VĂN HÓA CÔNG LẬP
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
2.1. Hoạt động phục vụ giải trí công cộng của bảo tàng
2.1.1. Nhu cầu giải trí công cộng đối với bảo tàng
Kết quả khảo sát của đề tài cho thấy mức độ người dân thường xuyên
đến bảo tàng rất ít, chỉ có 3,9% người dân cho biết họ đã đến bảo tàng được
ba lần; có 31,2 % trả lời đến bảo tàng được hai lần; trong khi đó, số trả lời
lần đầu tiên (một lần) đến bảo tàng chiếm 59,7%. Tuy nhiên, đa số những
người đến bảo tàng đều xác định rõ mục đích, mong muốn của mình khi
đến với các thiết chế này; theo đó, lý do đến bảo tàng để tham quan, tìm
hiểu chiếm tỉ lệ cao nhất là 87,0%; tiếp sau đó là đến bảo tàng để thư giãn,
giải tỏa căng thẳng chiếm tỉ lệ tương đối cao là 48,1%; chỉ có 15,6% trả lời
là đến bảo tàng để nghiên cứu, học tập. Điều này cho thấy mặc dù mức độ
đến bảo tàng của người dân là chưa cao; song, mục đích đến bảo tàng để
tham quan - giải trí, giảm căng thẳng, tạo sự thoải mái tinh thần khi đến với
bảo tàng là khá lớn.
2.1.2. Tổ chức hoạt động phục vụ giải trí công cộng của bảo tàng

2.1.2.1. Sản phẩm giải trí công cộng ở bảo tàng công lập
Có thể nói, hiện vật là tài sản lớn nhất của các bảo tàng. Hiện nay, 07
bảo tàng công lập do Sở Văn hóa, Thể thao Thành phố Hồ Chí Minh trực
tiếp quản lý có hơn 194.000 hiện vật và tài liệu; trong đó, bảo tàng Thành
phố Hồ Chí Minh có số lượng nhiều nhất là hơn 45.000 hiện vật, tài liệu.
Hiện nay các bảo tàng công lập ở Thành phố Hồ Chí Minh có một số sản
phẩm văn hóa giải trí công cộng phổ biến sau:


10
Trưng bày - triển lãm hiện vật, tài liệu. Các cuộc thi, chiếu phim tư liệu,
họp mặt giao lưu
2.1.2.2. Chủ thể tổ chức hoạt động
Từ thực tiễn, nhận thấy có một số phương thức đa dạng hóa chủ thể tổ
chức hoạt động phục vụ nhu cầu văn hóa giải trí công cộng ở các bảo tàng
công lập tại Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay như sau:
(1) Do cán bộ nhân viên của các bảo tàng trực tiếp tổ chức toàn bộ các
hoạt động phục vụ nhu cầu văn hóa giải trí của công chúng. (2) Do các bảo
tàng công lập tại thành phố Hố Chí Minh phối hợp với nhau, hoặc bảo tàng
công lập tại Thành phố Hồ Chí Minh phối hợp với bảo tàng công lập của
các tỉnh, thành phố khác trong nước, hay bảo tàng công lập của Thành phố
Hồ Chí Minh phối hợp với bảo tàng tư nhân ở Thành phố Hồ Chí Minh, bảo
tàng ở ngoài nước tổ chức các cuộc trưng bày hiện vật, tài liệu phục vụ
công chúng. (3) Do các bảo tàng công lập tại Thành phố Hồ Chí Minh phối
hợp với các cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân, chủ thể xã hội khác tổ chức
các cuộc trưng bày - triển lãm phục vụ công chúng.
2.1.2.3. Không gian tổ chức hoạt động
Hiện nay, không gian tổ chức hoạt động trưng bày – triển lãm và các
hoạt động văn hóa giải trí của bảo tàng chủ yếu diễn ra hai dạng cơ bản là
trưng bày thường xuyên, cố định và không thường xuyên, lưu động.

2.1.2.4. Thời gian tổ chức hoạt động
Một thời gian dài, các bảo tàng công lập tại Thành phố Hồ Chí Minh,
cũng chỉ mở và đóng cửa phục vụ theo khung giờ chung của các cơ quan
hành chính Nhà nước. Gần đây, khi nhu cầu tham quan của du khách trong
và ngoài nước có xu hướng tăng cao và sự thay đổi cơ chế hoạt động
chuyển mạnh hơn sang hướng khai thác dịch vụ công thì việc tăng thêm
thời gian phục vụ, mở cửa phục vụ liên tục, kể cả giờ nghỉ trưa, mới bắt đầu
được đề cập và quan tâm chi tiết, cụ thể hơn.
2.1.2.5. Cơ sở vật chất, trang thiết bị
Do quá trình lịch sử hình thành và phát triển đã lâu, cùng với khả năng
trùng tu, tôn tạo, sửa chữa còn nhiều hạn chế, cho nên hiện trạng của một số
bảo tàng hiện nay đã có dấu hiệu xuống cấp. Trước thực trạng đó, bản thân
các bảo tàng này đã có những báo cáo cụ thể về thực trạng cơ sở vật chất,
trang thiết bị của đơn vị. Bên cạnh đó, bản thân các bảo tàng cũng đã chủ
động tìm được các đối tác, đơn vị tài trợ để tháo gỡ những khó khăn và
giảm bớt chi phí ngân sách nhà nước cho việc cải tạo, nâng cấp cơ sở vật
chất, trang thiết bị, nhằm tạo ra cảnh quan văn hóa đẹp hơn, điều kiện hoạt
động tốt hơn cho các bảo tàng.


11
2.1.2.6. Dịch vụ và giá cả
Các nội dung hoạt động dịch vụ của bảo tàng công lập đã được quy định
cụ thể, rõ ràng trong Thông tư số 18/2010/TT-BVHTTDL của Bộ Văn hóa,
Thể thao và Du lịch (2010). Hoạt động văn hóa giải trí của các bảo tàng
công lập ở Thành phố Hồ Chí Minh vẫn chưa có sự đa dạng về hệ thống
dịch vụ bổ trợ. Về giá cả các dịch vụ, nhận thấy, từ lâu hoạt động phục vụ
nhu cầu văn hóa giải trí của bảo tàng công lập tại Thành phố Hồ Chí Minh, với
quan niệm phục vụ công của một đơn vị sự nghiệp văn hóa công lập, hầu như
không quan tâm nhiều tới mức giá vé tham quan, sinh hoạt tại các bảo tàng hay

tham gia vào các sự kiện của bảo tàng.
2.1.3. Đánh giá hoạt động phục vụ giải trí công cộng của bảo tàng
Đánh giá về chất lượng hoạt động văn hóa - giải trí công cộng của các
bảo tàng, hầu hết các bảo tàng đều đạt tiêu chí, chỉ tiêu đề ra hàng năm.
Hoạt động phục vụ của bảo tàng có sự chú ý nhiều hơn tới việc phối hợp
cùng hoạt động du lịch trên địa bàn thành phố, tạo nên các điểm tham quan
thu hút du khách. Tuy nhiên, kết quả khảo sát về mức độ hài lòng của người
dân đối với hoạt động văn hóa giải trí công cộng của các bảo tàng công lập
tại Thành phố Hồ Chí Minh cho thấy một số vấn đề tồn tại như sau: Mức độ
hài lòng của người dân khi đến với các bảo tàng đa số đều đạt chỉ số trung
bình. Theo đó, tỷ lệ người dân đánh giá rất hài lòng và hài lòng về nội dung
và hình thức các cuộc trưng bày - triển lãm của các bảo tàng công lập ở
mức 48,1%; tỷ lệ này còn thấp hơn khi đánh giá về số lượng hiện vật và
chất lượng thuyết minh, tương ứng là 44,1% và 44,2%. Hoạt động của các
bảo tàng công lập, rất cần tìm hiểu thêm nhu cầu từ phía công chúng và chủ
động nhiều hơn nữa trong việc nghiên cứu thị trường, phát triển và đa dạng
hóa các khách hàng mục tiêu, tiềm năng.
2.2. Hoạt động phục vụ giải trí công cộng của nhà hát
2.2.1. Nhu cầu giải trí công cộng đối với nhà hát
Tỷ lệ công chúng yêu thích và có nhu cầu đến với các nhà hát, sân khấu
biểu diễn nghệ thuật rất khiêm tốn. Công chúng trẻ thành phố có xu hướng
ưu tiên yêu chuộng loại nhạc trẻ, nhạc nước ngoài hơn là các dòng nhạc âm
hưởng dân ca dân tộc, hay truyền thống cách mạng. Theo kết quả khảo sát
cho thấy, mức độ người dân thường xuyên đến nhà hát là rất ít, chỉ có 9,2%
người dân thường đến nhà hát công lập xem biểu diễn nghệ thuật; trong khi
đó có tới 28,9% chỉ đến nhà hát một tới hai lần/năm; và có tới 30,4% người
dân trả lời rất hiếm khi tới nhà hát.
2.2.2. Tổ chức hoạt động phục vụ giải trí công cộng của nhà hát
2.2.2.1. Sản phẩm giải trí công cộng ở nhà hát công lập



12
Vở diễn sân khấu kịch nói. Vở diễn sân khấu kịch hát. Trích đoạn sân
khấu. Chương trình ca múa nhạc, tạp kỹ
2.2.2.2. Chủ thể tổ chức hoạt động
Hoạt động phục vụ công trong lĩnh vực nhà hát, thời gian qua tại Thành
phố Hồ Chí Minh, có hai dạng thức cơ bản là: (1) do nhà nước trực tiếp
phục vụ (thông qua mạng lưới các nhà hát công lập) và (2) nhà nước gián
tiếp phục vụ thông qua hình thức chuyển giao trách nhiệm cung ứng dịch vụ
công cho các tổ chức khác có điều kiện thực hiện hiệu quả hoạt động phục
vụ nhu cầu thưởng thức nghệ thuật sân khấu của công chúng, xã hội (các
hội nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tư nhân…).
2.2.2.3. Không gian tổ chức hoạt động
Qua khảo sát của đề tài cho thấy, các trụ sở nhà hát có thể sử dụng để
biểu diễn được hiện nay chỉ thuần túy đạt tiêu chuẩn là một sàn diễn có
trang bị các phương tiện kỹ thuật phục vụ đủ cho diễn viên biểu diễn và
khán giả ngồi xem; các khu vực phục vụ công chúng như quầy vé, khu vệ
sinh, khu gửi xe, khu thông tin quảng bá, khu dịch vụ giải khát, khu phục vụ
theo nhu cầu… đều cũ kỹ, xuống cấp; chưa được quan tâm đầu tư, khai
thác, sử dụng đúng công năng và sáng tạo; dẫn tới thiếu thẩm mỹ và không
tiện lợi trong phục vụ đa dạng nhu cầu công chúng nghệ thuật.
2.2.2.4. Thời gian tổ chức hoạt động
Xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ chính trị của một cơ quan - đơn vị sự
nghiệp văn hóa và nhu cầu văn hóa giải trí của công chúng, theo đó, lịch
biểu diễn của các nhà hát công lập thường rơi vào hai thời điểm cơ bản là:
phụ thuộc vào khoảng thời gian và yêu cầu tổ chức các hoạt động chính trị
của ban tổ chức và căn cứ vào thời gian rỗi nhiều nhất trong ngày, dịp nghỉ
nhiều ngày của công chúng.
2.2.2.5. Cơ sở vật chất, trang thiết bị
Tình trạng cơ sở vật chất và trang thiết bị chuyên dùng của hấu hết các

đơn vị nhà hát công lập hiện nay ở Thành phố Hồ Chí Minh đều nằm trong
tình trạng chưa hoặc không thể đảm bảo theo yêu cầu cho công tác tập
luyện, biểu diễn của người làm nghề và cả nhu cầu của khán giả. Các dự án
đầu tư cải tạo, sửa chữa, mua sắm mới đều chậm, rời rạc và thiếu sự quản lý
chặt chẽ. Những hạn chế này thuộc về trách nhiệm của hệ thống các cơ
quan tổ chức, quản lý nhà nước trong lĩnh vực văn hóa.
2.2.2.6. Dịch vụ và giá cả
Xét ở góc độ dịch vụ công cộng, các nhà hát hiện nay hầu như đều thực
hiện cả hai dạng thức là dịch vụ văn hóa nghệ thuật công gắn với trách
nhiệm phục vụ, cung ứng không vì mục tiêu lợi nhuận của Nhà nước; và


13
dịch vụ văn hóa nghệ thuật thuần túy, gắn với cung ứng dịch vụ văn hóa
nghệ thuật vì mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận.
2.2.3. Đánh giá hoạt động phục vụ giải trí công cộng của nhà hát
Các đơn vị nghệ thuật công lập trực thuộc Sở Văn hóa, Thể thao thành
phố đã hoàn thành tốt chương trình biểu diễn phục vụ công chúng. Tuy
nhiên, chất lượng nội dung và hình thức các vở diễn và chương trình biểu
diễn của các nhà hát chưa tạo được sự hài lòng cao cho công chúng. Mức độ
rất hài lòng đối với nội dung và hình thức các sản phẩm của nhà hát là chưa
cao (nội dung 28,9% và hình thức 31,6%); mức độ hài lòng đạt ở chỉ số
trung bình khá (nội dung 59,2% và hình thức 52,6%); về số lượng các sản
phẩm biểu diễn nhận được mức độ tương đối hài lòng của công chúng khá
cao (47,4%); yếu tố được đánh giá thấp nhất trong khâu tổ chức phục vụ là
hoạt động truyền thông, quảng bá sản phẩm, chỉ có 25% hài lòng, trong khi
có tới 67,1% đánh giá tương đối hài lòng.
2.3. Hoạt động phục vụ giải trí công cộng của trung tâm văn hóa
2.3.1. Nhu cầu giải trí công cộng đối với trung tâm văn hóa
So với hai loại hình thiết chế văn hóa công lập bảo tàng và nhà hát thì hệ

thống mạng lưới trung tâm văn hóa có số lượng nhiều hơn và phân bổ rộng
khắp các địa bàn dân cư theo cả chiều dọc từ trung ương tới cơ sở và chiều
ngang với mạng lưới bao phủ đều khắp các quận/huyện, phường/xã và khu
phố/ấp. Bên cạnh đó, các hình thức hoạt động văn hóa giải trí của hệ thống
mạng lưới trung tâm văn hóa cũng tương đối phong phú và đa dạng hơn so
với các bảo tàng và nhà hát; nhất là có nhiều loại hình văn hóa giải trí có thể
giúp người dân được sáng tạo văn nghệ quần chúng.
2.3.2. Tổ chức hoạt động phục vụ giải trí công cộng của trung tâm
văn hóa
2.3.2.1. Sản phẩm giải trí công cộng ở trung tâm văn hóa
Chương trình biểu diễn nghệ thuật. Sáng tạo/sáng tác văn hóa văn nghệ
quần chúng (không chuyên). Liên hoan, hội thi, hội diễn. Câu lạc bộ, đội,
nhóm. Đọc sách. Lễ hội
2.3.2.2. Chủ thể tổ chức hoạt động
Hoạt động vui chơi giải trí công cộng của hệ thống trung tâm văn hóa
hiện nay tại Thành phố Hồ Chí Minh nhận thấy có hai nhóm chủ thể tổ chức
cơ bản: (1) Thứ nhất, do trung tâm văn hóa trực tiếp đứng ra tổ chức thực
hiện theo kế hoạch hoạt động, nhằm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ đã
được phê duyệt hàng năm. Các hoạt động này chủ yếu dựa vào nguồn kinh
phí được cấp từ ngân sách Nhà nước hoặc từ nguồn xã hội hóa (vận động
tài trợ). (2) Thứ hai, do các tổ chức tư nhân, cá nhân liên kết hoặc thuê mặt


14
bằng của trung tâm văn hóa để tổ chức các hoạt động dịch vụ văn hóa công
cộng.
2.3.2.3. Không gian tổ chức hoạt động
Các hoạt động phục vụ nhu cầu giải trí công cộng ở trung tâm văn hóa tổ
chức thường được diễn ra tại hai không gian cơ bản: (1) Tại trụ sở của trung
tâm, với hệ thống sân bãi, sân khấu, hội trường, phòng chức năng cùng với

hệ thống trang thiết bị, âm thanh, ánh sáng chuyên dùng, cố định. (2) Tại
địa điểm khác ngoài trung tâm, như các sân vận động, các sân bãi trống, sân
của Ủy ban nhân dân, các cơ quan, tổ chức, đơn vị hay tại các công viên,
quảng trường phố đi bộ.
2.3.2.4. Thời gian tổ chức hoạt động
Hoạt động phục vụ nhu cầu giải trí công cộng ở các trung tâm văn hóa
diễn ra thường xuyên, liên tục ở cả bốn cấp độ thời gian: Cấp ngày, cấp
tuần, cấp tháng và cấp năm. Song lịch hoạt động này chỉ căn cứ vào lịch
công tác và thời gian làm việc hành chính của cơ quan sự nghiệp là chủ yếu.
Các trung tâm chưa chủ động điều tra, nghiên cứu nhu cầu và lịch sử dụng
thời gian rỗi từ phía người dân.
2.3.2.5. Cơ sở vật chất, trang thiết bị
Về cơ sở vật chất, trang thiết bị, đa số các trung tâm văn hóa đều có trụ
sở làm việc cố định; song một số các trung tâm văn hóa/nhà văn hóa chưa
được đầu tư đầy đủ và khang trang, một số nơi còn thiếu các phòng chức
năng theo quy định. Đa phần các trung tâm văn hóa cấp quận/huyện đều có
cơ sở hạ tầng không phù hợp với chức năng vốn có của một thiết chế văn
hóa, với đặc thù phục vụ phong trào văn nghệ quần chúng.
2.3.2.6. Dịch vụ và giá cả
Hoạt động của trung tâm văn hóa chú trọng công tác tuyên truyền phục
vụ nhiệm vụ chính trị nhiều hơn là hoạt động phục vụ nhu cầu vui chơi giải
trí. Các hoạt động phục vụ nhu cầu giải trí hầu như chỉ được tổ chức đan
xen cùng các dịp lễ, tết theo kế hoạch của thành phố hoặc địa phương, đơn
vị. Trung tâm chưa có sự quan tâm đúng mực, đầu tư bài bản và đặt hoạt
động tổ chức vui chơi giải trí thành một dịch vụ cấp thiết, đúng nghĩa. Hoạt
động phục vụ nhu cầu văn hóa giải trí công cộng ở các trung tâm văn hóa là
hầu hết các hoạt động phục vụ đều không thu phí, thu vé đối với người
tham dự.
2.3.3. Đánh giá hoạt động phục vụ giải trí công cộng của trung tâm văn hóa
Hoạt động văn hóa tại các nhà văn hóa, câu lạc bộ nhìn chung đã phần

nào đáp ứng được yêu cầu và nguyện vọng vui chơi giải trí của người dân.
Có thể thấy, số lượng nội dung hoạt động và chỉ tiêu phục vụ quần chúng


15
nhân dân hàng năm của các trung tâm văn hóa luôn dày và cao hơn nhiều so
với các loại hình giải trí công cộng khác như bảo tàng, nhà hát. Tuy nhiên,
giữa số lượng và chất lượng các chỉ tiêu dường như chưa có mức độ tỉ lệ
thuận với nhau theo chiều hướng tích cực.
2.4. Tiểu kết
Trong chương 2, luận án đã trình bày và đánh giá thực trạng tổ chức
phục vụ nhu cầu giải trí công cộng của các đơn vị sự nghiệp văn hóa công
lập bảo tàng, nhà hát, trung tâm văn hóa tại Thành phố Hồ Chí Minh và vai
trò của nhà nước trong quản lý, điều tiết hoạt động giải trí công cộng ở các
đơn vị này.
CHƯƠNG 3
NHẬN ĐỊNH VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG PHỤC VỤ GIẢI TRÍ CÔNG CỘNG
CỦA CÁC ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP VĂN HÓA CÔNG LẬP
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
3.1. Nhận định về các mặt tồn tại trong hoạt động phục vụ giải trí công
cộng và những vấn đề đặt ra
3.1.1. Một số tồn tại trong hoạt động phục vụ giải trí công cộng
3.1.1.1. Về cơ chế, chính sách
Cơ chế xã hội hóa các hoạt động văn hóa đã phát huy hiệu quả tốt tại
Thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian qua, đó là điều không thể phủ
nhận. Song, thực tế của hoạt động này cũng cho thấy, chúng ta vẫn chưa
định hình nên một quy hoạch, chiến lược hay kế hoạch dài hơi, thậm chí
nên là một quy chế riêng biệt cho việc phân chia lĩnh vực, loại hình hoạt
động công - tư trong lĩnh vực văn hóa giải trí công cộng này.

3.1.1.2. Về nguồn nhân lực
Đa số cán bộ nhân viên của các đơn vị này đều đã được trải qua đào tạo
chuyên môn, có hiểu biết và tay nghề nhất định, có sự yêu nghề và hiểu
được tính chất công việc đặc thù, chấp nhận các quyền lợi trong điều kiện
hoạt động nghĩa vụ như hiện nay tại các đơn vị. Song, cơ chế luân chuyển
cán bộ văn hóa cũng có sự tác động và làm biến động tới nguồn lực có tay
nghề của các đơn vị. Mức thu nhập vừa phải, thậm chí là hơi thấp so với
mức cần để chi tiêu; cơ chế trả lương mang tính bình quân đầu người, thiếu
sự phân loại theo chất lượng công việc; thiếu cơ chế, công việc làm thêm để
tăng thu nhập… chính là những cản trở lớn cho việc thu hút nhân lực có
chất lượng cao vào làm việc, cũng như phát huy năng lực vốn có của các
cán bộ văn hóa tại các đơn vị sự nghiệp.


16
3.1.1.3. Về cơ sở vật chất
Các đơn vị sự nghiệp văn hóa công có sẵn cơ sở vật chất, nhưng vì nhiều
lý do chủ quan và khách quan nên chưa được hoặc gặp nhiều khó khăn
trong việc tận dụng điều kiện sẵn có từ mặt bằng, cơ sở vật chất, nguồn
nhân lực, tài sản công khác để khai thác, sử dụng trong các hoạt động dịch
vụ văn hóa giải trí công.
Nhiều trụ sở đơn vị sự nghiệp văn hóa công lập được sửa chữa, nâng cấp
tốn kém rất nhiều kinh phí, nhưng chỉ để phục vụ một chức năng nhiệm vụ
duy nhất, thậm chí hoạt động đó không phục vụ cho nhu cầu của số đông
công chúng hiện nay trên địa bàn, hoặc là sau đầu tư thì không hoặc chưa
thể khai thác, sử dụng được.
3.1.1.4. Về tài chính
Kinh phí hoạt động của các đơn vị sự nghiệp văn hóa bảo tàng, nhà hát,
trung tâm văn hóa ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay đều được thực hiện
theo cơ chế tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập, theo quy định của

pháp luật và sự hướng dẫn của cơ quan tài chính chuyên ngành.
Nguồn kinh phí được cấp hàng năm cho các bảo tàng, nhà hát, trung tâm
văn hóa tại Thành phố Hồ Chí Minh đều chỉ đảm bảo chi tối thiểu cho tất cả
các nội dung hoạt động. Nếu có những hoạt động, hạng mục cần phải đầu
tư, phát triển hay thực hiện do phát sinh đều gặp khó khăn, thậm chí không
thể giải quyết được.
Hiện nay, đa số các đơn vị sự nghiệp văn hóa có nguồn thu thêm thông
qua một số hình thức như thu sự nghiệp (thu từ các hoạt động gắn với
chuyên môn, nghiệp vụ); thu mặt bằng (thu từ cho thuê, khai thác cơ sở vật
chất, trang thiết bị, mặt bằng); thu khác (thu qua tài trợ, hỗ trợ tài chính, vật
chất). Nhưng vẫn còn một số đơn vị chưa thực hiện tốt việc khai thác các
nguồn lực sẵn có của đơn vị để tăng thêm thu nhập; vẫn còn loay hoay,
xoay trở với nguồn kinh phí được cấp từ ngân sách.
3.1.1.5. Về thanh tra, kiểm tra
Thời gian qua, công tác này đã diễn ra nhưng chưa sâu sát, kịp thời và
toàn diện. Sau thanh tra, kiểm tra thì việc kết luận, xử lý sai phạm còn
chậm, chưa kịp thời, chưa khắc phục dứt điểm sai phạm.
3.1.2. Những vấn đề đặt ra
3.1.2.1. Vấn đề nhu cầu tiêu dùng giải trí công cộng
Từ nghiên cứu, khảo sát của đề tài cho thấy có những mâu thuẫn giữa
nhu cầu tiêu dùng giải trí trong thời gian rỗi của người dân Thành phố Hồ
Chí Minh đối với hoạt động phục vụ nhu cầu giải trí công cộng ở các đơn vị
sự nghiệp văn hóa công lập. Hoạt động phục vụ nhu cầu giải trí công cộng


17
của các đơn vị này chưa khai thác được tính liên kết dịch vụ trong cùng một
sản phẩm, cũng như tính kết nối dịch vụ với nhau giữa các sản phẩm, để tạo
ra sự đáp ứng đồng thời hệ thống nhu cầu chính và phụ, cũng như tạo điều
kiện kích thích người tiêu dùng xuất hiện thêm những nhu cầu giải trí mới

trong quá trình tiêu dùng các sản phẩm giải trí hiện tại, góp phần hướng tới
tính đa mục tiêu trong hoạt động phục vụ nhu cầu giải trí công cộng.
3.1.2.2. Vấn đề tổ chức hoạt động phục vụ giải trí công cộng
Nhìn chung, thực trạng tổ chức các hoạt động phục vụ công cho nhu cầu
giải trí công cộng ở các đơn vị sự nghiệp văn hóa công lập vẫn còn tồn tại
những nhược điểm, hạn chế. Về đội ngũ cán bộ văn hóa: còn những hạn
chế, điểm yếu về nhận thức, phẩm chất, năng lực phục vụ công, nhất là kỹ
năng chuyên môn trong tổ chức hoạt động vui chơi giải trí và tinh thần trách
nhiệm trong phục vụ công. Không gian giải trí công cộng cố định tại nơi tọa
lạc của các đơn vị sự nghiệp văn hóa, mặc dù đã được đầu tư, sửa chữa,
nâng cấp qua nhiều năm, song vẫn chưa tạo ra sức hấp dẫn về cảnh quan
cũng như điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị để tạo ra các sản phẩm,
chương trình giải trí có sức hấp dẫn với công chúng. Nguồn kinh phí từ
ngân sách đầu tư cho hoạt động sự nghiệp văn hóa có tăng, song vẫn ở mức
hạn chế, không đảm bảo được chi phí cần thiết cho hoạt động của các đơn
vị sự nghiệp.
3.1.2.3. Vấn đề quản lý hoạt động phục vụ giải trí công cộng
Chủ trương xã hội hóa các hoạt động văn hóa, trong đó có lĩnh vực văn
hóa giải trí, mặc dù ra đời đã khá lâu, nhưng chưa được nhận thức thực sự
đầy đủ và đúng đắn và phổ biến trong đội ngũ cán bộ văn hóa cũng như các
chủ thể xã hội khác. Các bảo tàng, nhà hát, trung tâm văn hóa hiện nay gần
như hoàn toàn chịu sự quản lý trực tiếp của sở văn hóa và thể thao thành
phố, tương tự như một đơn vị hành chính, dẫn đến tình trạng các đơn vị này
không phát huy được tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong hoạt động và
phát triển của mình. Phương thức quản lý hoạt động phục vụ vui chơi giải
trí còn mang nặng tính thủ tục hành chính, thiếu sự linh hoạt; bộ máy nhân
sự đông, cồng kềnh, nhưng hiệu quả tổ chức phục vụ không cao, thiếu tính
chuyên nghiệp.
3.2. Kinh nghiệm phát triển ở các nước và xu hướng hoạt động phục vụ
giải trí công cộng ở nước ta

3.2.1. Chính sách văn hóa phát triển hoạt động giải trí công cộng ở
một số nước
3.2.1.1. Chính sách văn hóa của Nhật Bản
3.2.1.2. Chính sách văn hóa của Hàn Quốc


18
3.2.1.3. Chính sách văn hóa của Trung Quốc
3.2.2. Những xu hướng biến đổi trong hoạt động phục vụ giải trí công
cộng của các đơn vị sự nghiệp văn hóa công lập ở Việt Nam
3.2.2.1. Những xu hướng biến đổi về nhu cầu giải trí công cộng của
công chúng
Sự phân hóa ngày càng rõ rệt hơn trong mức sống, lối sống, nhu cầu, thị
hiếu, quan niệm về văn hóa thẩm mỹ… tất yếu sẽ dẫn tới sự thay đổi trong
nhu cầu, thị hiếu giải trí của người dân. Khả năng để có thể tham gia vào
các hoạt động giải trí của người dân thành phố hiện nay khá đa dạng, không
còn đơn giản, thuần nhất như các thời kỳ trước. Các điều kiện về hạ tầng cơ
sở, phương tiện kỹ thuật, công nghệ… đã góp phần to lớn cho quá trình đa
dạng hóa, hiện đại hóa các hoạt động giải trí công cộng; mở rộng cơ hội cho
người dân được tiếp cận ngày càng nhanh hơn, nhiều hơn với các sản phẩm
giải trí công cộng, tạo ra trong người dân những nhu cầu, mong muốn được
giải trí mới với những sản phẩm, hoạt động có xu hướng phức tạp hơn, có
sự đầu tư, trang bị nhiều và cao hơn.
Sự phân hóa trong quỹ thời gian rỗi cũng là một trong những yếu tố dẫn
tới sự biến đổi trong nhu cầu giải trí của người dân. Cho nên, tương ứng với
thời gian lao động, làm việc chính là quỹ thời gian giải trí của người dân
thành phố cũng có nhiều mức độ, cấp độ, phong phú và đa dạng khác nhau.
3.2.2.2. Những xu hướng biến đổi về sản phẩm giải trí công cộng ở các
đơn vị sự nghiệp văn hóa công lập
Nhu cầu giải trí nói chung và nhu cầu giải trí công cộng của người dân

Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay vô cùng phong phú và đa dạng, liên tục
biến đổi và không ngừng phát sinh nhu cầu mới. Nhu cầu giải trí của từng
đối tượng công chúng cũng không như nhau khi đến với các hoạt động phục
vụ nhu cầu văn hóa giải trí ở các đơn vị sự nghiệp văn hóa công lập.
Hai trong số nhiều yếu tố cần được điều chỉnh đầu tiên và trở thành đòn
bẩy cho sự đổi mới toàn diện hoạt động giải trí công cộng ở các đơn vị sự
nghiệp văn hóa công lập hiện nay tại Thành phố Hồ Chí Minh chính là đổi
mới trong mục đích và đổi mới trong phương pháp sáng tạo/sáng tác sản
phẩm văn hóa phục vụ nhu cầu giải trí công cộng.
3.2.2.3. Những xu hướng biến đổi về tổ chức hoạt động phục vụ giải trí
công cộng
Để tổ chức phục vụ tốt các nhu cầu giải trí công cộng, các đơn vị sự
nghiệp văn hóa công lập cần nhận thức rõ hơn về chức năng giải trí trong
hoạt động văn hóa, bản chất phục vụ công các nhu cầu giải trí ở các đơn vị


19
sự nghiệp và tính đa mục tiêu của hoạt động văn hóa trong bối cảnh xã hội
hiện nay.
3.2.2.4. Những xu hướng biến đổi về quản lý hoạt động phục vụ giải trí
công cộng
Các đơn vị sự nghiệp văn hóa công lập cần phải tăng cường đổi mới hoạt
động, phát huy tự chủ, giữ vai trò chủ đạo trong cung ứng các dịch vụ văn
hóa giải trí công cộng; Nhà nước phải tăng cường vai trò quản lý, điều tiết
nhằm phát huy tối đa các nguồn lực, phát triển thị trường dịch vụ sự nghiệp
công, hướng tới hoạt động văn hóa giải trí công cộng phát triển một cách
hài hòa và đa mục tiêu.
3.3. Khuyến nghị một số giải pháp
3.3.1. Nhóm giải pháp về tổ chức hoạt động phục vụ giải trí công cộng
3.3.1.1. Giáo dục năng lực thẩm mỹ, nâng cao nhu cầu, thị hiếu giải trí

công cộng của công chúng
- Cần có những hoạt động giáo dục nghệ thuật được thực hiện có căn cơ,
bài bản; có phân loại đối tượng cụ thể và chú trọng tới đối tượng công
chúng trẻ, vì chính họ sẽ là khán giả tiềm năng của thị trường giải trí trong
tương lai.
3.3.1.2. Đổi mới phương pháp tổ chức hoạt động phục vụ giải trí công cộng
- Điều chỉnh việc xác định mục đích cung ứng sản phẩm giải trí. Cần
phải đặt nhu cầu giải trí của công chúng là yếu tố trung tâm của quá trình
sản xuất, cung ứng sản phẩm giải trí.
- Cần có phương pháp xác định, đo lường nhu cầu giải trí công cộng của
công chúng, cộng đồng xã hội; hài hòa, cân đối giữa nhu cầu giải trí công
cộng của công chúng và yêu cầu giữ gìn, phát triển văn hóa của Nhà nước;
khắc phục tính chủ quan, tạo ra sản phẩm và phục vụ giải trí công theo kiểu
cấp phát một chiều, theo chỉ tiêu, lập thành tích thi đua, trong khi người dân
chỉ có quyền chấp nhận thụ động hoặc là từ chối tiêu dùng.
- Việc sáng tạo sản phẩm giải trí công cộng của các đơn vị sự nghiệp văn
hóa công lập cũng phải chú trọng tính đáp ứng và điều chỉnh nhu cầu, tính
văn hóa thẩm mỹ và tính hình tượng, tính thích ứng với nhu cầu công chúng
và tính định hướng nhu cầu; và phải luôn đặt trong trạng thái vận động, phát
triển liên tục, tránh rơi vào sự chủ quan, lối mòn, rập khuôn trong sáng tạo, dẫn
tới sự tạo ra sản phẩm quá cao hay quá thấp so với trình độ tiêu dùng giải trí;
tính giáo điều hay bỏ rơi văn hóa trong mỗi sản phẩm; tính bảo thủ, trì trệ trong
quá trình đổi mới nội dung, hình thức sáng tạo.
- Việc nghiên cứu thời gian rỗi và nhu cầu giải trí trong thời gian rỗi là rất cần,
vì nó sẽ góp phần tạo điều kiện thuận tiện và phù hợp cho các đơn vị này linh


20
hoạt điều chỉnh lịch mở cửa phục vụ, đáp ứng đa dạng nhu cầu sử dụng thời gian
rỗi của công chúng, từ đó nâng cao hiệu quả khai thác, phục vụ nhiều hơn nhu

cầu hoạt động giải trí công cộng cho công chúng.
3.3.2. Nhóm giải pháp về quản lý hoạt động phục vụ giải trí công cộng
3.3.2.1. Thay đổi nhận thức chung về hoạt động phục vụ giải trí công
cộng ở các đơn vị sự nghiệp văn hóa công lập
- Cần tách hoạt động cung ứng dịch vụ công ra khỏi hoạt động quản lý
hành chính Nhà nước. Khắc phục tình trạng cơ quan quản lý Nhà nước các
cấp (cơ quan chủ quản) can thiệp quá sâu vào hoạt động của các đơn vị
cung ứng dịch vụ giải trí công. Nhà nước cần xây dựng cơ chế và đẩy mạnh
đổi mới việc tự chủ trong cung ứng dịch vụ giải trí công; bên cạnh đó cần
thực hiện tốt các chính sách nhằm khuyến khích thực hiện xã hội hóa cung
ứng dịch vụ giải trí công cộng.
- Cần có cơ chế, chính sách cụ thể để xác định, phân chia, tách bạch lĩnh
vực hoạt động giải trí công cộng.
- Các đơn vị sự nghiệp văn hóa giải trí công lập cần mở rộng hơn nữa
các cơ chế, biện pháp nhằm phát huy dân chủ trong tiêu dùng giải trí, Bên
cạnh đó, các đơn vị hoạt động giải trí công lập cũng thực sự cầu thị, tiếp thu
và điều chỉnh, đổi mới các hoạt động phục vụ theo hướng đáp ứng ngày
càng tốt hơn các nhu cầu văn hóa chính đáng của người dân và cộng đồng
xã hội trong hoạt động vui chơi giải trí.
- Thành phố cần xây dựng một chiến lược phát triển hoạt động vui chơi
giải trí có tính khoa học, hợp lý, ổn định lâu dài, phát triển bền vững và đáp
ứng xứng tầm với nhu cầu đời sống văn hóa tinh thần của một đô thị lớn
bậc nhất Việt Nam; xác định cụ thể các lĩnh vực giải trí công nào nên để các
chủ thể xã hội tổ chức cung ứng, lĩnh vực nào mà thị trường không thể và
không muốn cung ứng thì Nhà nước cần đặt hàng cho các đơn vị văn hóa
công lập, kể cả ngoài công lập tổ chức thực hiện.
3.3.2.2. Đổi mới tổ chức và cơ chế hoạt động phục vụ giải trí công cộng
của các đơn vị sự nghiệp văn hóa công lập
- Cần làm rõ vấn đề quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của các đơn vị
sự nghiệp văn hóa công lập cung ứng dịch vụ giải trí công.

3.3.2.3. Tăng cường xã hội hóa hoạt động phục vụ giải trí công cộng
- Nhà nước cần tăng cường và phát huy hơn nữa vai trò, trách nhiệm của
mình thông qua việc tạo ra các cơ chế, chính sách đổi mới việc cung ứng
dịch vụ giải trí công của các đơn vị sự nghiệp văn hóa công lập hiện tại;
khuyến khích xã hội hình thành những thiết chế văn hóa giải trí công cộng
mang bản chất một dịch vụ công mới.


21
- Cần đa dạng hóa các chủ thể cung ứng dịch vụ giải trí công.
- Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường đầy đủ, đồng bộ, hiện đại và phù
hợp với các cam kết quốc tế, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa, nhất là
các thể chế về giá, phí, lệ phí, về tiếp cận nguồn tài chính công, về hợp tác
công tư, về quản trị nội bộ và sử dụng nhân lực...
- Đổi mới cơ chế tài chính doanh nghiệp để khuyến khích các tổ chức
kinh doanh trong lĩnh vực vui chơi giải trí chuyển một phần lợi nhuận đầu
tư phát triển các hoạt động văn hóa giải trí phi lợi nhuận; áp dụng rộng rãi
hình thức đặt hàng, đấu thầu cung ứng dịch vụ giải trí công cộng cho các tổ
chức xã hội, tổ chức cộng đồng; thí điểm cổ phần hóa đơn vị sự nghiệp văn
hóa công lập hoạt động trong lĩnh vực vui chơi giải trí; cho thuê cơ sở vật
chất, tài sản của của các đơn vị sự nghiệp văn hóa công lập để kinh doanh
cung ứng dịch vụ giải trí công cộng và thực hiện cơ chế đơn vị sự nghiệp
văn hóa công hoạt động như doanh nghiệp công ích.
- Mở rộng hợp tác công - tư trong phát triển hoạt động giải trí công
cộng; hoàn thiện khung hành lang pháp lý và đi tới ban hành luật hợp tác
công tư, để áp dụng trong lĩnh vực hoạt động văn hóa nói chung, hoạt động
giải trí công cộng nói riêng.
- Cần lộ trình để chuyển đổi và vai trò của Nhà nước trong kiểm soát giá
dịch vụ giải trí công cộng. Chuyển đổi từ phí sang giá đối với các hoạt động
dịch vụ giải trí công cộng là vấn đề cấp bách, tạo điều kiện cho các đơn vị

sự nghiệp văn hóa công lập xác lập quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm và
thúc đẩy xã hội hóa đi vào thực chất, chiều sâu.
- Đổi mới phương thức sử dụng tài chính công. Chuyển từ cấp phát tài
chính theo dự toán ngân sách hàng năm cho các đơn vị sự nghiệp văn hóa
công lập sang đầu tư dựa vào hiệu quả thu được; áp dụng hình thức đặt
hàng, đấu thầu các hoạt động giải trí công cộng sử dụng ngân sách.
- Đổi mới hình thức hỗ trợ của Nhà nước đối với các đơn vị sự nghiệp
văn hóa công lập. Chuyển từ chỗ lồng ghép chính sách văn hóa xã hội thông
qua giá của hoạt động dịch vụ giải trí, sang hỗ trợ trực tiếp cho các đối
tượng cụ thể.
- Kiểm định chất lượng hoạt động giải trí công cộng của các đơn vị sự
nghiệp văn hóa công lập.
- Tiến hành xã hội hóa hoạt động giải trí công cộng một cách toàn diện,
đồng bộ.
3.4. Tiểu kết


22
Chương này chúng tôi đánh giá hoạt động giải trí công cộng ở các đơn
vị sự nghiệp văn hóa công lập bảo tàng, nhà hát và trung tâm văn hóa tại
Thành phố Hồ Chí Minh và nêu ra một số vấn đề hạn chế, bất cập.
Nhận định những yếu tố tác động và dự báo một số xu hướng biến đổi
trong nhu cầu giải trí công cộng của công chúng, trong sản phẩm phục vụ
giải trí công cộng, trong tổ chức phục vụ nhu cầu giải trí công cộng và trong
cơ chế quản lý hoạt động phục vụ nhu cầu giải trí công cộng của các đơn vị
sự nghiệp văn hóa công lập tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Trình bày kinh nghiệm hoạt động giải trí công cộng của một số quốc gia
như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc. Từ đó, khuyến nghị một số giải
pháp về tổ chức phục vụ giải trí công cộng và đổi mới công tác quản lý của
nhà nước, góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động phục vụ giải

trí công cộng của các đơn vị sự nghiệp văn hóa công lập trong bối cảnh hiện
nay tại Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng và Việt Nam nói chung.


×