Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

Tiểu luận cao cấp chính trị: Vận dụng việc xây đựng và nâng cao vai trò của giai cấp công nhân, nước lao động trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (159.26 KB, 38 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
Chủ nghóa xã hội thế giới đang trải qua một thời
kỳ khủng hoảng nghiêm trọng. Chủ nghóa tư sản và
bọn cơ hội ráo riết tấn công vào chủ nghóa Mác –
Lênin, phủ nhận sứ mệnh lòch sử của giai cấp công
nhân và vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản, từ
đó phủ nhận chủ nghóa xã hội. Trước tình hình đó,
việc coi trọng và nâng cao vai trò lãnh đạo của giai
cấp công nhân, người lao động trong thời kỳ công
nghiệp hoá, hiện đại hóa là vấn đề mang tính thời
sự cấp bách, để luận giải về sứ mệnh lòch sử của
giai cấp công nhân dựa trên nguyên lý cơ bản của
chủ nghóa Mác - Lênin về lý luận, chính trò để giữ
vững lòng tin vào sự nghiệp cách mạng của giai cấp
công nhân, bác bỏ những luận điệu xuyên tạc của
các thế lực thu đòch.
Ở nước ta, xây đựng chủ nghóa xã hội theo
hướng công nghiệp hoá, hiện đại hóa dưới sự lãnh
đạo của Đảng cộng sản Việt Nam trong những năm
gần đây gặp không ít khó khăn trở ngại, kẻ thù
không từ một thủ đoạn nào, cả từ bên trong và
bên ngoài luôn tìm cách xuyên tạc, phá hoại hòng
lật đổ chế độ, xoá bỏ sự lãnh đạo của Đảng cộng
sản, hạ thấp vai trò của giai cấp công nhân.
Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu nguyên lý cơ
bản của chủ nghóa Mác - Lênin về sứ mệnh lòch sử
của giai cấp công nhân nói chung trong đó vận dụng
việc xây đựng và nâng cao vai trò của giai cấp công
nhân, nước lao động trong thời kỳ công nghiệp hoá,
hiện đại hóa của Việt Nam nói riêng trong giai đoạn
cách mạng XHCN hiện nay có một ý nghóa to lớn và


mang tính sống còn nhằm giữ vững lòng tin của nhân
dân lao động vào sự nghiệp cách mạng của giai cấp
công nhân, xây đựng thành công CNXH ở nước ta.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam cho thấy: vấn đề
sứ mệnh lòch sử của giai cấp công nhân vẫn là


tiêu điểm của các cuộc đấu tranh về tư tưởng và lý
luận, nhất là trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện
đại hóa hiện nay. Vì vậy, muốn bảo vệ được chủ
nghóa Mác - Lênin, bảo đảm cho đất nước tiếp tục
phát triển đúng đònh hướng XHCN, Đảng cộng sản
Việt Nam cần phải ra sức tập trung xây đựng giai cấp
công nhân ngày càng lớn mạnh cả về số lượng lẫn
chất lượng, ngày càng trưởng thành để có thể đủ
sức gánh vác sứ mệnh lòch sử giao phó, góp phần
thắng lợi vào công cuộc xây đựng công nghiệp hoá,
hiện đại hóa.

PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ SỨ MỆNH LỊCH SỬ
CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN
1/. Khái niệm về giai cấp công nhân:
Giai cấp công nhân là một tập đoàn xã hội ổn
đònh, hình thành và phát triển cùng với cách mạng
công nghiệp, với nhòp độ phát triển của lực lượng
sản xuất hiện đại có tính xã hội ngày càng cao. Là
lực lượng sản xuất cơ bản, tiên tiến trong các quy trình
công nghệ, dòch vụ công nghiệp. Trực tiếp tham gia

vào quá trình sản xuất, tái sản xuất ra của cải vật
chất và cải tạo các quan hệ xã hội, là động lực
chính của tiến trình lòch sử từ CNTB lên CNXH.
Cùng với sự tiến triển của lòch sử, sự phát triển
của nền đại công nghiệp, giai cấp công nhân cũng
luôn phát triển và ngày càng có thêm những đặc
trưng mới. Các nhà lý luận về chủ nghóa xã hội
khoa học đã nhiều lần đề cập và đưa ra những khái
niệm cơ bản về giai cấp công nhân trong đó Mác –
Ăngghen đã nêu những thuộc tính cơ bản nhất của
giai cấp công nhân, xuất phát từ nguồn gốc kinh
tế, gắn liền với đại công nghiệp hiện đại, coi giai


cấp công nhân là sản phẩm của nền đại công
nghiệp, với những đặc trưng chủ yếu: đó là những
người lao động công nghiệp, trực tiếp hay gián tiếp
vận hành các công cụ sản xuất công nghiệp, tạo ra
của cải vật chất; dưới chế độ TBCN, giai cấp công
nhân là những người lao động không có tư liêu sản
xuất, phải bán sức lao động làm thuê cho tư bản và
bò tư bản bóc lột giá trò thặng dư ngày càng tăng
theo sự phát triển của nền đại công nghiệp. Giai cấp
công nhân là đại biểu cho phương thức sản xuất tiên
tiến, là hiện thân của lực lượng sản xuất hiện đại,
mang bản chất cách mạng nhất, triệt đễ nhất và có
tinh thần đoàn kết giai cấp, có tính tổ chức kỷ luật
cao nhất. Những đặc trưng cơ bản đó đến nay vẫn
mang một ý nghóa hết to lớn, nó là cơ sở, phương
pháp luận khoa học để nghiên cứu về giai cấp công

nhân.
Dưới chủ nghóa xã hội giai cấp công nhân là giai
cấp cơ bản, là lực lượng tiên tiến trong sản xuất của
cải vật chất và cải tạo các quan hệ xã hội. Là giai
cấp lãnh đạo xã hội, làm chủ các công cụ tư liệu
sản xuất chủ yếu đại đa số làm việc trong các nhà
máy, xí nghiệp, cơ sở sản xuất… thuộc sở hữu nhà
nước và một bộ phận làm việc trong những thành
phần kinh tế cá thể, tư nhân, công ty hợp doanh…
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, giai cấp công nhân liên
minh chặt chẽ với giai cấp nông dân và tầng lớp trí
thức thực hiện cuộc cách mạng xây đựng chủ nghóa
xã hội tiến lên chủ nghóa cộng sản.
Ở nước ta, hiện nay đang đứng ở chặng đường
đầu tiên của thời kỳ quá độ lên chủ nghóa xã hội,
giai cấp công nhân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của
Đảng tiên phong đã cùng dân tộc đoàn kết giành
nhiều thắng lợi vẻ vang, hoàn thành cuộc cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân bước sang thực hiện sứ
mệnh lòch sử mới xây đựng xã hội XHCN và trong
thời kỳ quá độ ban đầu, sự tồn tại của nền kinh tế


nhiều thành phần với nhiều hình thức sở hữu cũng
là tất yếu khách quan. Vì vậy, cơ cấu giai cấp công
nhân Việt Nam trong thời kỳ này bao gồm những
người lao động công nghiệp và dòch vụ mà họ có
tính chất lao động công nghiệp. Những cán bộ, kỹ sư,
đội ngũ trí thức tham gia vào quá trình sản xuất, tái
sản xuất của cải vật chất, lao động trong các xí

nghiệp quốc doanh, quốc phòng, công ty hợp doanh, tư
bản tư nhân, hợp tác liên doanh với nước ngoài,
công ty cổ phần, tiểu công nghiệp. Họ đã và đang
là lực lượng lãnh đạo, lực lượng xã hội nòng cốt, có
vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế – văn
hoá – xã hội ở nước ta.
Tóm lại, giai cấp công nhân là một tập đoàn
người lao động sản xuất mang tính công nghiệp ngày
càng hiện đại, do vậy họ là nhân tố quyết đònh trong
cách mạng cải tạo, xây đựng và phát triển của lòch
sử xã hội. trong đó giai cấp công nhân Việt Nam
cũng là một bộ phận và sứ mệnh lòch sử hiện nay
là của cách mạng XHCN đảm bảo cho việc xây đựng
và nâng cao vai trò của giai cấp công nhân Việt Nam
trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất
nước cũng là một yêu cầu mang tính lòch sử khách
quan.
2/. Những điều kiện khách quan quy đònh sứ
mệnh lòch sử của giai cấp công nhân.
Giai cấp công nhân là giai cấp được nền đại công
nghiệp “ tuyển lựa” từ tất cả các giai cấp tầng lớp
lao động trong dân cư mà chủ yếu là nông dân. Sự
ra đời của giai cấp công nhân gắn liền với nền sản
xuất đại công nghiệp, họ trở thành một giai cấp ổn
đònh khi nền sản xuất công nghiệp đã thay thế về cơ
bản nền sản xuất thủ công. Dưới chế độ TBCN, giai
cấp công nhân còn gọi là giai cấp vô sản, là giai
cấp hoàn toàn không có tư liệu sản xuất gì, phải
bán sức lao động cho tư bản để kiếm sống. Vì vậy,
trong sản xuất họ là giai cấp bò phụ thuộc trong phân



phối là giai cấp bò bóc lột giá trò thặng dư, do đó là
giai cấp đối lập trực tiếp về lợi với giai cấp tư bản.
Giai cấp công nhân là giai cấp gắn liền với nền sản
xuất đại công nghiệp và nền đại công nghiệp rèn
luyện. Giai cấp công nhân có tính tổ chức kỷ luật
cao và có điều kiện thuận lợi tập hợp lực lượng, biểu
thò sức mạnh của mình. Giai cấp công nhân kiên
quyết đấu tranh chống lại giai cấp tư sản, có khả
năng đoàn kết với quần chúng lao động bò áp bức
bóc lột trong cuộc đấu tranh chung. Chủ nghóa Mác –
Lênin khẳn đònh: giai cấp công nhân là giai cấp có
sứ mệnh lòch sử hết sức to lớn là xoá bỏ chế độ
bóc lột tư bản chủ nghóa, thực hiện sự chuyển biến
cách mạng từ xã hội tư bản chủ nghiã lên xã hội
xã hội chủ nghóa và cộng sản chủ nghóa. Và sứ
mạng ấy là một yếu tố khách quan trong tiến trình
phát triển của xã hội loài người.
Cuộc đấu tranh ấy dẫn đến hình thành ý thức
chính đảng của giai cấp công nhân. Thông qua chính
đảng tiên phong của mình, giai cấp công nhân lãnh
cuộc đấu tranh giành chính quyền, tiến hành cuộc
cải biến cách mạng đối với xã hội TBCN làm sáng
tỏ sứ mạng lòch sử ấy của giai cấp công nhân tạo ra
điều kiện xây dựng một xã hội không có giai cấp
Mác - Ăngghen nghiên cứu một cách khoa học lòch sử
của xã hội loài người và bản thân của xã hội tư
bản chủ nghóa. Từ quan điểm duy vật lòch sử, hai ông
chúng minh lòch sử xã hội phát triển như một chuỗi

hình thái kinh tế – xã hội khác nhau nhưng nối tiếp
nhau. Động lực quan trọng nhất thúc đẩy sự chuyển
biến của một hình thái kinh tế xã hội này sang hình
thái xã hội khác là sự phát triển của lực lượng sản
xuất và những quan hệ sản xuất tương ứng. Một khi
quan hệ sản xuất không còn phù hợp với sự phát
triển của lực lượng sản xuất, trở thành xiềng xích
trói buộc nó, sẽ xảy ra xung đột gay gắt trong xã
hội… lúc đó một giai cấp tiên tiến trong xã hội, đại


diện cho lực lượng sản xuất mới sẽ lãnh đạo cuộc
đấu tranh lật đổ giai cấp thống trò đương thời, đại
diện cho quan hệ sản xuất củ; thiết lập quan hệ sản
xuất mới phù hợp với nhu cầu phát triển của lực
lượng sản xuất đã thay đổi thì thượng tầng kiến trúc
cũng thay đổi theo, do đó hình thái kinh tế xã hội
cũng được thay thế bằng hình thái kinh tế xã hội
mới cao hơn. Đó là quy luật phát triển cơ bản của
xã hội loài người được lòch sử chứng minh, không
một học thuyết nào ác bỏ được. Quan niệm này vận
dụng vào nghiên cứu xã hội tư bản, trở thành khoa
học luận chứng cho sứ mệnh lòch sử của giai cấp
công nhân.
Sự phát triển không ngừng của lực lượng sản
xuất trong chủ nghóa tư bản làm cho nó mang tính
chất xã hội hoá ngày càng cao, mâu thuẫn với quan
hệ sản xuất TBCN dựa trên chế độ chiến hữu tư
nhân tư liệu sản xuất, tạo ra mâu thuẫn trong xã hội
tư bản, mâu thuẫn lỗi thời mà đại diện là giai cấp

tư sản, với lực lượng sản xuất mới, đại diện là giai
cấp công nhân và theo quy luật quan hệ sản xuất
nhất đònh phù hợp với tính chất sản xuất và trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất, sớm muộn giai
cấp công nhân – người đại diện cho lực lượng sản
xuất mới – sẽ lãnh đạo nhân dân lao động đấu tranh
lật đổ giai cấp tư sản – người đại diện cho quan hệ
sản xuất lỗi thời, thiết lập quan hệ sản xuất mới
mở đường cho lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển.
Là đại biểu cho lực lượng sản xuất tiên tiến, do vậy,
giai cấp công nhân là giai cấp duy nhất có khả năng
sáng tạo ra phương tức sản xuất mới tiến bộ hơn
( PTSX CSCN ). Đồng thời là một giai cấp đối lập về
lợi ích trực tiếp với giai cấp tư sản, giai cấp công
nhân là đại biểu cho lợi ích của toàn bộ các giai cấp
va tầng lớp lao động trong xã hội do đó họ trở thành
lãnh tụ tự nhiên của quần chúng lao động trong cuộc


đấu tranh chống giai cấp tư bản và xây dựng xã hội
mới.
Ngày nay, nền kinh tế thế giới đã phát triển đến
trình độ cao, tạo ra lực lượng sản xuất phát triển, mang
tính xã hội hoá và quốc tế hoá cao chưa từng thấy.
Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất diễn ra hết sức gay gắt. Giai cấp tư sản tìm mọi
cách điều chỉnh các quan hệ sản xuất để níu giữ
chế độ thống trò, nhưng vẫn không sao khắc phục
được mâu thuẫn cơ bản trong nền sản xuất tư bản
chủ nghóa. Nền kinh tế tư bản chủ nghóa vẫn còn

khả năng phát triển, nhưng phải thường xuyên đương
đầu với các cuộc khủng hoảng nặng nề với nhiều
cơn suy thoái và nạn thất nghiệp của hàng chục
hàng triệu người. Phong trào công nhân tuy đứng
trước thử thách hết sức nặng nề, như sự phát triển
lực lượng sản xuất vẫn đang chuẩn bò những tiền đề
khách quan để giai cấp công nhân thực hiện sứ
mệnh lòch sử của mình.
Luận điểm Mác – Ăngghen, tạo ra những tiền đề
vật chất xã hội để thủ tiêu chế độ bóc lột người
vẫn giữ nguyên giá trò khoa học của nó. Luận điểm
này khẳng đònh lòng tin khoa học vào sự nghiệp cách
mạng của giai cấp công nhân trước thử thách hiện
nay. Mặt khác, nơi nào những tiền đề về vật chất
và xã hội do nền đại công nghiệp tạo ra chưa đầy
đủ, ở nơi đó, giai cấp công nhân lật đổ được sự
thống trò về chính trò của giai cấp tư sản thì thắng lợi
ấy cũng chỉ là bước đầu, giống như trước đây trong
lòch sử, khi điều kiện kinh tế chưa chín muồi cho sự
thống trò của giai cấp tư sản, thì việc lật đổ chế độ
quân chủ chuyên chế cũng chỉ diễn ra cục bộ và
chưa triệt để. Ngày nay, do bước đi quanh co, lòch sử,
giai cấp công nhân thường giành được chính quyền ở
những nước mà nền kinh tế phát triển chưa cao. Vì
vậy, việc chăm lo phát triển lực lượng sản xuất,
công nghiệp hoá đất nước theo hướng hiện đại, tạo


cơ sở vật chất kỹ thuật vững mạnh và đội ngũ giai
cấp công nhân đông đảo là yếu tố quyết đònh để

củng cố chế độ xã hội chủ nghóa vững vàng.
Để luận giải sức mạnh lòch sử của giai cấp công
nhân, chủ nghóa Mác còn được nghiện cứu sự đối
lập giai cấp không thể điều hoà được trong phương
thức sản xuất TBCN. Bằng sự khám phá ra quy luật
giá trò thặng dư, Mác đã bóc trần bí mật của sự
bóc lột GCCN trong xã hội tư bản. Ông đã chứng
minh một cách khoa học việc nhà tư bản mua sức lao
động của công nhân để tạo ra giá trò lớn hơn giá trò
sức lao động dó bỏ ra.Tổng giá trò thặng dư do giai
cấp công nhân tạo ra rốt cuộc biến thành tư bản
ngày càng không ngừng lớn lên. Đó chính là nguồn
gốc phát triển và bản chất bóc lột của chủ nghóa
tư bản .
Lý luận giá trò thặng dư chỉ ra rằng lợi ích của giai
cấp công nhân và giai cấp tư bản là đối lập trực
tiếp với nhau. Sự đối lập này bắt nguồn từ thực
chất của phương thức sản xuất tư bản chủ nghóa, do
đó không thể giải quyết được nếu phương thức sản
xuất ấy còn tồn tại. Trong xã hội có giai cấp, một
khi lợi ích của giai cấp đối lập trực tiếp với nhau thì
cuộc đấu tranh giai cấp sẽ diễn ra không thể điều
hoà được. Cũng như trong mọi cuộc đấu tranh giai cấp
trong lòch sử, cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp
công nhân và giai cấp tư bản chỉ có thể kết thúc
khi xoá bỏ được mâu thuẫn đối kháng về lợi ích. Nói
cách khác, khi giai cấp tư sản bò đánh đổ, khi tư liệu
sản xuất đã chuyển về tay xã hội, quy luật sản
xuất không còn phát huy tác dụng, do đó sự đối lập
giữa công nhân và tư bản không còn nữa.

Trong việc luận chứng về tính cách mạng của giai
cấp công nhân, Mác và Ăngghen có đề cập đến
hoàn cảnh sống của giai cấp công nhân, nhưng hai
ông không cho rằng hoàn cảnh cuối cùng của giai
cấp công nhân là nguyên nhân duy nhất thúc đẩy


giai cấp công nhân đấu tranh chống lại giai cấp tư
sản. Ngược lại hai ông đã chứng minh một cách khoa
học rằng: giai cấp công nhân đã được đẩy đến vò trí
cách mạng một cách khách quan, vừa với tư cách là
hiện thân của lực lượng sản xuất tiên tiến, vừa với
tư cách là lợi ích đối lập trực tiếp với giai cấp tư sản.
Mác và Ăngghen viết:” Trong tất cả các giai cấp
hiện đang đối lập với giai cấp tư sản thì chỉ có giai
cấp vô sản là thực sự cách mạng. Tất cả các giai
cấp khác đều suy tàn và suy vong cùng với sự phát
triển của đại công nghiệp còn giai cấp vô sản lại là
sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp”.
Việc chứng minh một cách sáng rõ sự đối lập
giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản không
những có ý nghóa về mặt lý luận mà còn có ý
nghóa trực tiếp về mặt chính trò. Trước đây, trong
nhiều cuộc luận chiến, Mác và Ăngghen đã kiên
quyết chống lại những khuynh hướng lấy việc cải
thiện đời sống nhỏ nhặt của công nhân để xoá
nhoà mâu thuẫn đối kháng giữa giai cấp công nhân
và giai cấp tư sản, từ đó xoá nhoà cuộc đấu tranh
giai cấp . hai ông chỉ ra rằng từ khi mới ra đời, giai
cấp công nhân đã tiến hành cuộc đấu tranh chống

giai cấp tư sản. Cuộc đấu tranh này lúc đầu diễn ra
từng mặt, sau diễn ra toàn diện hơn, phát triển dưới
những hình thức phong phú, khi ngấm ngầm, khi bộc
phát, nhưng cuối cùng sẽ dẫn đến đấu tranh chính trò
nhằm lật đổ sự thống tri của giai cấp tư sản.
Ngày nay, kẻ thù của chủ nghóa xã hội đang ra
sức tấn công vào học thuyết Mác - Lênin về sứ
mệnh lòch sử của giai cấp công nhân. Chúng khẳng
đònh rằng học thuyết đó không áp dụng được và giai
cấp công nhân hiện nay, bởi vì đại vò kinh tế – xã
hội của giai cấp này đã thay đổi nhiều và nó đang
được “ trung lưu hoá”. Thực tiễn chứng minh rằng quá
trình sản xuất tư bản chủ nghóa dù có mở rộng và
hiện đại đến đâu, những hình thức của nó có thể


thay đổi như thế nào vẫn không ngừng tái sinh ra
quan hệ sản xuất tư bản chủ nghóa. Cuộc đấu tranh
mà giai cấp công nhân tiến hành nhằm thực hiện
sứ mệnh lòch sử của mình, dù có trải qua những
bước thăng trầm, nhưng vẫn theo quy luật khách quan
của lòch sử.
3. Những nhân tố chủ quan của giai cấp
công nhân hoàn thành sứ mệnh lòch sử của
mình.
Trong học thuyết tri thức về sứ mệnh lòch sử của
giai cấp công nhân, các nhà sáng lập ra chủ nghóa
Mác - Lênin đã chỉ rõ mối quan hệ biện chứng giữa
các điều kiện khách quan và những nhân tố chủ
quan và xem xét việc phát huy những nhân tố chủ

quan như những điều kiện quyết đònh trực tiếp để giai
cấp công nhân hoàn thành sứ mệnh lòch sử của
mình.
Điều quan trọng trước hết là đưa ra ý thức giai
cấp, ý thức vô sản của quần chúng công nhân,
biến những cuộc đấu tranh tự phát của giai cấp công
nhân chống áp bức bóc lột của bọn chủ xí nghiệp
thành cuộc đấu tranh tự giác chống chế độ tư bản.
Vì vậy, việc rèn luyện ý thức giai cấp chân chính
của giai cấp công nhân là quá trình đấu tranh thường
xuyên và quyết liệt giữa hệ tư tưởng tư sản và vô
sản. Muốn đạt được thắng lợi trong sự nghiệp này,
phải làm cho giai cấp công nhân và phong trào công
nhân thấm nhuần lý luận khoa học của chủ nghóa
Mác - Lênin, nhiệm vụ này phải do Đảng của giai
cấp công nhân lấy chủ nghóa Mác - Lênin làm hệ tư
tưởng của mình. Chỉ có một Đảng như vậy mới có
khả năng “ đưa phong trào công nhân tự phát những
lý tưởng xã hội chủ nghóa thật rõ rệt, gắn phong
trào đó với những tư tưởng xã hội chủ nghóa –
những tư tưởng này phải đạt tới trình độ khoa học
hiện đại…”.


Nhiệm vụ giáo dục ý thức cho giai cấp công nhân
hiện nay là bức xúc không những ở những nước giai
cấp công nhân chưa giành được chính quyền mà còn
cả ở những nước đã giành được chính quyền. Ở
nhiều nước TBCN, đội ngũ công nhân rất đông đảo,
nhưng giác ngộ ý thức chưa đầy đủ nên dễ bò lôi

cuốn vào các trào lưu cơ hội chủ nghóa. Ở những
nước giai cấp công nhân đã giành được chính quyền,
nhưng do ý thức vô sản chưa cao nên công nhân
không còn là lực lượng nòng cốt bảo vệ những
thành quả cách mạng trước sự tấn công của các
thế lực thù đòch.
Gắn với điều kiện thứ nhất, điều kiện vô cùng
quan trọng thứ hai để giai cấp công nhân hoàn thành
sứ mệnh lòch sử của mình là tổ chức đội tiên phong
của giai cấp công nhân thành một Đảng Mácxít –
Lênin nít, trung thành với sứ mệnh lòch sử của giai
cấp công nhân.
Trong cuộc đấu tranh để giành chính quyền và
lãnh đạo xây đựng xã hội mới, giai cấp công nhân
không có vũ khí nào quan trọng hơn là tổ chức. Hình
thức tổ chức cao nhất của giai cấp công nhân là
Đảng cộng sản. Khi không có một đảng theo học
thuyết cách mạng và khoa học của chủ nghóa Mác Lênin thì không những giai cấp công nhân không vươn
tới cuộc đấu tranh giai cấp có ý thức, mà cũng
không thể trở thành giai cấp lãnh đạo quần chúng
lao động bò áp bức, bóc lột, nhưng giai cấp công
nhân vẫn có thể trở thành một lực lượng vô đòch,
nếu xây đựng được một đảng thu hút tất cả những
phần tử ưu tú của giai cấp mình. Đảng phải vừa hấp
thụ những kinh nghiệm đấu tranh trên tinh thần cách
mạng, sự hiểu biết và năng lực vận dụng sáng tạo
những nguyên lý của chủ nghóa Mác - Lênin, vừa
phải đủ sức lãnh đạo và lôi cuốn giai cấp công
nhân và nhân dân lao động đi theo mình. Hiểu những
nguyện vọng bức thiết, lợi ích nhất thời của quần



chúng nhân dân và nâng quần chúng lên trình độ
giác ngộ sứ mệnh lòch sử của giai cấp. Đảng không
theo đuôi phong trào công nhân một cách tự phát;
có thế, Đảng mới đủ tư cách, đủ sức làm cho giai
cấp công nhân tránh được con đường của chủ nghóa
công liên và mới biến giai cấp công nhân thành
một lực lượng chính trò đặc biệt. Với tư cách như vậy,
Đảng mới thực sự là đội tiên phong của giai cấp
công nhân.
Tuy nhiên khi nói Đảng là đội tiên phong, phải
luôn nhớ rằng Đảng là một bộ phận của giai cấp,
gắn bó mật thiết với giai cấp. Chừng nào trong xã
hội còn có giai cấp, còn các thế lực thù đòch, thì
còn phải phân biệt rõ giữa Đảng và giai cấp, giữa
giai cấp công nhân với các giai cấp và các tầng lớp
xã hội . về mặt lợi ích, Đảng có thể đại biểu cho lợi
ích chân chính của đông đảo quần chúng nhân dân,
nhưng về tính chất, Đảng chỉ là của giai cấp công
nhân, là đội tiên phong của giai cấp công nhân,
không thể có Đảng của nhiều giai cấp, “ đảng toàn
dân”. Nhưng đảng sẽ mất hết sức mạnh, thậm chí sẽ
biến chất trở thành một tổ chức biệt phái nếu
không thường xuyên liên hệ với giai cấp công nhân
và nhân dân lao động, phản ánh nguyện vọng và
đấu tranh cho lợi ích thiết thân của họ.
Trong tình hình hiện nay, cần làm rõ tính thời sự
cấp bách của tư tưởng trên đây. Thực tiễn ở một
số nước cho thấy rằng, giai cấp công nhân đả

giành được chính quyền, nhưng do không xây đựng
đảng chặt chẽ, bảo đảm tính tiên phong của giai cấp
công nhân nên đã làm cho đội ngũ phân hoá phức
tạp: một số đảng viên mơ hồ về lập trường giai cấp
công nhân, đặc quyền, đặc lợi, xa rời quần chúng ,
bò quần chúng xa lánh. Vì vậy nhiều đảng viên bò
mất tín nhiệm với giai cấp công nhân và quần
chúng lao động trước sự phản kích của kẻ thù, một
số đảng viên bò chia rẻ đi đến tan rã.


Trong khi hướng nỗ lực vào việc xây đựng đảng
thành một chính đảng tiên phong gắn bó mật thiết
với giai cấp công nhân và quần chúng lao động,
chủ nghóa Mác - Lênin vạch rõ tính chất không khoan
nhượng của Đảng đối với chủ nghóa cơ hội dưới mọi
hình thức.
Hiện nay sự nghiệp cách mạng của giai cấp công
nhân thế giới đang trải qua những khúc quanh công
nhân, nhưng đặc điểm lớn nhất của thời đại chính trò
ngày nay là giai cấp công nhân đã, đang và sẽ vươn
lên nắm quyền lực nhà nước. Bởi lẽ, nó là giai cấp
duy nhất đại diện cho lực lượng sản xuất hiện đại. Giai
cấp công nhân là người đại diện cho lợi ích và quyền
lực của nhân dân, của nhân loại. Thực tế cuộc đấu
tranh của giai cấp công nhân vẫn đang diễn ra ở các
nước tư bản chủ nghóa dưới nhiều hình thức phong
phú với nhiều nội dung cụ thể khác nhau. Có những
quan điểm cho rằng luận điểm của Mác về sứ mệnh
lòch sử của giai cấp công nhân không còn đúng trong

thời đại ngày nay. Thời đại ngày nay là thời đại của
nền “ văn minh trí tuệ” thời đại mà “ khoa học đã trở
thành lực lượng sản xuất trực tiếp” thì trí thức mới là
lực lượng tiên phong của cách mạng. Đó là quan điểm
sai lầm cả về thực tiễn lẫn lý luận. Trí thức có vai
trò quan trọng, trực tiếp và đi đầu trong sự nghiệp
phát triển các lý thuyết khoa học – công nghệ, khoa
học quản lý, khoa học quân sự, khoa học xã hội –
nhân văn. Trong việc nâng cao dân trí trong một xã
hội nhất đònh. Song, tầng lớp trí thức không thể
đóng vai trò lãnh đạo cách mạng thay thế giai cấp
công nhân. Bởi lẽ:
- Trí thức chỉ là một tầng lớp xã hội đặc biệt
không thuần nhất. Trí thức chưa bao giờ và không bao
giờ là một giai cấp. Nó không đại biểu cho một
phương thức sản xuất độc lập, không phải là một
lực lượng kinh tế, chính trò độc lập với các giai cấp
và tầng lớp xã hội khác. Do đó, trí thức không có


hệ tư tưởng độc lập với các giai cấp và tầng lớp
xã hội khác, chỉ đi theo và chòu ảnh hưởng của giai
cấp mà nó phục vụ.
- Tầng lớp trí thức, không có lợi ích đối kháng trực
tiếp với giai cấp tư sản. Trí thức cũng là người làm
thuê và bò bóc lột, nhưng lại là tầng lớp làm thuê
đặc biệt, được giai cấp tư sản đào tạo, sự dụng với
sự ưu đãi. Trí thức không phải là tầng lớp xã hội bò
áp bức, bóc lột nhất.
Dưới chế độ tư bản, quyền lợi của tầng lớp trí

thức thường gắn liền với quyền lợi của giai cấp tư
sản. Về mặt lý luận, đưa giới trí thức lên vò trí đội
tiên phong cách mạng trong thời đại ngày nay là
xuyên tạc thế giới quan khoa học của chủ nghóa Mác Lênin, đưa mâu thuẫn đối kháng cơ bản của xã hội
tư bản ra khỏi lónh vực vật chất, chuyển sang lập
trường giải thích các quá trình xã hội theo kiểu duy
tâm.
- Thực tế lòch sử phát triển của xã hội cho thấy
chưa bao giờ tầng lớp trí thức lãnh đạo thành công
một cuộc cách mạng xã hội nào. Các cuộc đấu
tranh của tầng lớp trí thức tuy có tiếng vang nhất
đònh, nhưng mục tiêu của các cuộc đấu tranh ấy
không vượt qua khuôn hổ của hiến pháp tư sản và
sự chấp nhận của giai cấp tư sản. Với tư cách là
một tầng lớp, họ sẵn sàng thoả hiệp với giai cấp tư
sản khi những yêu cầu tối thiểu đưa ra được chấp
nhận. Họ không bao giờ đưa cuộc đấu tranh ấy đến
cùng nhằm giải phóng giai cấp công nhân và nhân
dân lao động. Trí thức có vai trò to lớn trong cuộc
đấu tranh giành chính quyền và trong công cuộc xây
đựng xã hội mới. vì vậy, giai cấp công nhân cần
phải có chính sách đúng đắn để thu hút đội ngũ trí
thức phục vụ đắc lực cho sự nghiệp cách mạng của
mình trong mỗi giai đoạn cách mạng. Đồng thời giai
cấp công nhân phải chú trọng xây đựng đội ngũ trí
thức của mình, nhất là trong sự nghiệp xây đựng xã


hội mới. trí thức chỉ phát huy được sức mạnh của
mình khi gắn liền với một giai cấp đại diện cho sự

tiến hoá của xã hội loài người, ngày nay đó là giai
cấp công nhân.
- Điểm khác biệt về chất sứ mệnh lòch sử của
giai cấp công nhân với sứ mệnh lòch sử của các giai
cấp trước đó trong lòch sử chính là:
+ Về kinh tế, sứ mệnh lòch sử của giai cấp công
nhân không phải là thực hiện sự chuyển biến từ
một chế độ tư hữu sang một chế độ tư hữu khác
nhằm là thay đổi hình thức bóc lột này bằng hình
thức bóc lột khác mà là từng bước xoá bỏ chế
độ tư hữu các tư liệu sản xuất chủ yếu để cuối
cùng xoá bỏ mọi hình thức người bóc lột người. Tuy
nhiên, đây là một quá trình hết sức lâu dài, Lênin
đã chỉ ra rằng phải căn cứ vào sự phát triển của
lực lượng sản xuất để bắt những “ chiếc cầu nho”
trên con đường xoá bỏ dần chế độ tư hữu.
+ Sứ mệnh lòch sử của giai cấp công nhân khác
hẳn về tính chất và mục đích với sứ mệnh lòch sử
của các giai cấp khác trong xã hội. Trong tuyên ngôn
của Đảng cộng sản, Mác và Ăngghen đã nêu rõ: “
Phong trào vô sản là phong trào độc lập của tuyệt
đại đa số, mưu lợi ích cho tuyệt đại đa số”. Giai cấp
công nhân có khả năng liên minh với đông đảo
quần chúng lao động để nhân sức mạnh lên gấp
bội trong cuộc đấu tranh với giai cấp tư sản và chỉ
dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, thông qua
chính đảng tiên phong của nó, các cuộc cách mạng
trong thời đại ngày nay mới mang tính triệt để và
giành được thắng lợi. Chủ nghóa Mác - Lênin đã
khẳng đònh: Giai cấp công nhân nếu tiến hành cuộc

đấu tranh một cách đơn độc chống giai cấp tư sản thì
sẽ thất bại. Ngược lại nếu giai cấp công nhân lôi
kéo, liên minh được với đại đa số quần chúng lao
động, chủ yếu là giai cấp công nhân, giữ vai trò


lãnh đạo cách mạng thì cách mạng sẽ hoàn toàn
thắng lợi.
Mác cho rằng: “ Cách mạng vô sản là một bài
đồng ca của hai giai cấp công nhân, nông dân. Nếu
không có được bài đồng ca ấy thì trong tất cả các
quốc gia nông dân, bài đơn ca của cách mạng vô
sản sẽ trở thành bai ai điếu”.
+ Sứ mệnh lòch sử của giai cấp công nhân phải
vừa mang tính dân tộc, vừa mang tính giai cấp, phải
kết hợp chặt chẽ giữa nghóa vụ dân tộc và nghóa vụ
quốc tế. Giai cấp công nhân chỉ có thể giải phóng
dân tộc mới giải phóng được giai cấp. Giải phóng
dân tộc đã bao hàm giải phóng giai cấp. Quyền lợi
dân tộc và quyền lợi giai cấp là thống nhất. Quyền
lợi dân tộc không còn thì quyền lợi mỗi giai cấp
cũng không thể thực hiện được. Mặt khác giai cấp
công nhân phải thực hiện tốt vấn đề dân tộc và
quốc tế. Một trong những đặc điểm quy đònh bản
chất của giai cấp công nhân cách mạng là sự đoàn
kết vô sản toàn thế giới. Vì vậy, không chỉ giải
quyết vấn đề dân tộc mà chủ nghóa dân tộc phải
là một bộ phận của chủ nghóa quốc tế vô sản.
Những vấn đề nêu trên đây được Đảng ta giải
quyết rất tốt trong các giai đoạn cách mạng giải

phóng dân tộc và cách mạng xây đựng chủ nghóa
xã hội. Đó là việc xây đựng khối đoàn kết liên
minh công nông. Đó là sự tôn trọng độc lập, chủ
quyền, hợp tác hữu nghò “ để cùng nhau bảo vệ hoà
bình và xây đắp dân chủ thế giới” ( Hồ Chí Minh )
trong chính sách đối ngoại.
Trong thời đại ngày nay, do sự phát triển không
đồng đều của chủ nghóa tư bản, do tác động của
cuộc cách mạng khoa học và công nghệ vào cơ cấu
giai cấp, do mức sống của giai cấp công nhân thay
đổi đã tạo thêm điều kiện mới để chia rẽ giai cấp
công nhân và khả năng mới để giai cấp tư sản lợi


dụng phá hoại sự đoàn kết của phong trào công
nhân. Song, sự phát triển của lực lượng sản xuất đã
đạt đến trình độ xã hội hoá và quốc tế hoá cao và
sự bùng nổ thông tin mạnh mẽ đã tạo ra những tiền
đề khách quan để thống nhất phong trào đấu tranh
của giai cấp công nhân.
Như vậy, phong trào công nhân luôn luôn tồn tại
hai xu hướng: Đoàn kết thống nhất và chia rẽ nội
bộ. Chừng nào còn giai cấp tư sản thì xu hướng đoàn
kết đấu tranh của giai cấp công nhân chống lại giai
cấp tư sản còn phát triển. Song, chừng nào còn chế
độ tư hữu tư bản chủ nghóa thì chưa thể loại trừ được
xu hướng chia rẽ trong phong trào công nhân.
Trong tình hình hiện nay, xu hướng thứ nhất biểu
hiện ở sự thành lập và hoạt động của Đảng Mácxít
– Lênin nít đang tổ chức, tập hợp và phát động quần

chúng đấu tranh cho mục tiêu cách mạng. Xu hướng
thứ hai biểu hiện rõ nhất trong hoạt động của các
lãnh tụ dân chủ – xã hội hữu khuynh – những người
đang thi hành chính sách cơ hội chủ nghóa làm cho
phong trào công nhân thích ứng với chủ nghóa tư bản.
Theo sự phát triển khách quan của lòch sử thì xu
hướng đoàn kết, thống nhất giai cấp công nhân là
xu hướng chủ đạo. Nhưng xu hướng ấy không thể
diễn ra một cách dễ dàng. Nó chỉ có thể là kết
quả của sự tập hợp, giáo dục, nâng cao ý thức giác
ngộ thường xuyên đối với giai cấp công nhân bằng
những hình thức hết sức phong phú đi đôi với đấu
tranh bền bỉ và kiên quyết chống chủ nghóa cơ hội
đủ mọi màu sắc. Tất nhiên trong cuộc đấu tranh
này, những người cộng sản phải khôn khéo kết hợp
việc vạch mặt chủ nghóa cơ hội và những người lãnh
đạo của nó với cuộc đấu tranh để thành lập mặt
trận thống nhất của phong trào công nhân chống
kẻ thù chung.


4/. Sứ mệnh lòch sử của giai cấp công nhân
trong giai đoạn mới.
Trong giai đoạn cách mạng hiện nay sứ mệnh lòch
sử của giai cấp công nhân bao gồm các nội dung
chủ yếu để tạo cơ sở vật chất cho xây đựng chủ
nghóa xã hội là:
- Giai cấp công nhân trước hết là chủ thể lao
động sản xuất công nghiệp để đóng góp cho xã
hội những sản phẩm vật chất và tinh thần ngày

càng phong phú, hiện đại hơn. Tách rời sản xuất
công nghiệp, giai cấp công nhân không còn là mình
nửa. Những thành tựu to lớn về sản xuất của tư
bản chủ nghóa hàng thế kỷ nay và những thành tựu
bước đầu xây đựng chủ nghóa xã hội đều có sự
đóng góp rất to lớn và quyết đònh của giai cấp
công nhân. Số lượng và chất lượng của giai cấp
công nhân ngày càng tăng, cả trong chủ nghóa tư
bản và chủ nghóa xã hội. Nếu để giai cấp công
nhân không có việc làm, không phát triển sản xuất
công nghiệp thì cùng là gạt bỏ một nội dung cơ bản
nhất của sứ mệnh lòch sử của giai cấp công nhân.
Chủ nghóa xã hội đang và sẽ từng bước khắc phục
tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm và nghèo khổ
của giai cấp công nhân, điều mà do bản chất của
mình, chế độ tư bản chủ nghóa qua hơn bốn thế kỷ
không giải quyết được.
- Giai cấp công nhân phải có những hoạt động
chính trò, tư tưởng, tổ chức để tiến tới cuộc đấu
tranh giành chính quyền, xoá bỏ chế độ chính trò của
xã hội cũ, xây đựng và bảo vệ chính quyền, xã hội
mới do giai cấp công nhân và nhân dân lao động
làm chủ dưới sư lãnh đạo của Đảng.
- Thông qua Đảng cộng sản lãnh đạo toàn xã hội
trên mọi lónh vực chính trò, kinh tế, văn hoá, xã hội…
( nhất là kinh tế) để từng bước hình thành và phát
triển xã hội mới theo đònh hướng xã hội chủ nghóa


và cộng sản chủ nghóa. Đây là nội dung cơ bản

nhất, quyết đònh nhất, phức tạp nhất và lâu dài
nhất trong sứ mệnh lòch sử của giai cấp công nhân.
Không thể nhận thức và hoạt động chủ quan duy ý
chí, đơn giản, nóng vội… cũng không thể mơ hồ, hữu
khuynh dẫn đến sự phát triển của tư bản chủ nghóa.
- Mở rộng và tăng cường hợp tác quốc tế với
giai cấp công nhân và nhân dân lao động tất cả
các nước vì hoà bình, độc lập dân tộc và xã hội
chủ nghóa. Đây là nội dung thể hiện bản chất quốc
tế của giai cấp công nhân.
- Thường xuyên đấu tranh chống mọi thứ chủ
nghóa cơ hội, xét lại, đấu tranh chống mọi biểu hiện
xa rời những quan điểm đường lối của chủ nghóa xã
hội. Đấu tranh chống mọi thế lực thù đòch với nhân
dân, với chủ nghóa xã hội, bảo vệ thành quả cách
mạng, bảo vệ xã hội xã hội chủ nghóa.
Sứ mệnh lòch sử của giai cấp công nhân do
những điều kiện tất yếu khách quan quy đònh, những
sứ mệnh lòch sử đó không “ tự nhiên” có được. Vì
vậy giai cấp công nhân không thể dừng lại, không
thể thoã mãn ở các hoạt động sản xuất kinh doanh,
ở đấu tranh kinh tế trước mắt mà phải vươn lên
thành lập và sử dụng thật vững mạnh các tổ chức
chính trò : công đoàn, nghiệp đoàn, Đảng. Giai cấp
công nhân phải ngày càng giác ngộ về giai cấp
mình, về chủ nghóa xã hội thông qua nhận thức về
các nguyên lý cơ bản của chủ nghóa Mác - Lênin.
Phong trào chủ nghóa kết hợp với giác ngộ chủ nghóa
Mác - Lênin và phong trào yêu nước đã dần dẫn
đến hình thành đảng tiên phong của giai cấp công

nhân – Đảng cộng sản. Đảng cộng sản là nhân tố
hàng đầu, quyết đònh ( nhân tố lãnh đạo, tự giác)
suốt quá trình tổ chức thực hiện sứ mệnh lòch sử
của giai cấp công nhân. Vì vậy, Đảng cộng sản phải
thường xuyên được củng cố, phát triển vững mạnh
về chính trò, tư tưởng và tổ chức để không ngừng


giữ vững bản chất của giai cấp công nhân. Kiên trì
lập trường chủ nghóa Mác - Lênin, nâng cao phẩm
chất, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
đảng, gắn bó ngày càng chặt chẽ với nhân dân lao
động, lãnh đạo thành công sự nghiệp xây đựng chủ
nghóa xã hội, chủ nghóa cộng sản.

CHƯƠNG II
XÂY DỰNG VÀ PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA GIAI
CẤP
CÔNG NHÂN VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ
CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HÓA
1/. Đặc điểm thực trạng của giai cấp công
nhân Việt Nam.
Ở một nước nửa thuộc đòa, nửa phong kiến cũng
như nông dân, giai cấp công nhân có hai mối thù
sâu sắc với đế quốc ( Mối thù dân tộc do áp bức
và mối thù giai cấp do bò bóc lột nặng nề). Vì vậy,
giai cấp công nhân có tinh thần cách mạng triệt để,
gắn bó với giai cấp nông dân và các tầng lớp



nhân dân lao động khác trong cả nước, lôi kéo họ đi
theo con đường cách mạng. Giai cấp công nhân nước
ta kế tục truyền thống yêu nước nồng nàn, đức tính
cần cù sáng tạo trong lao động của dân tộc.
Ra đời tuy có muộn so với giai cấp công nhân
các nước châu Âu và gắn với thuộc đòa của thực
dân Pháp ở Đông Dương, số lượng lúc đầu còn nhỏ
bé nhưng giai cấp công nhân Việt Nam đã sớm tỏ ra
là một đội ngũ kiên cường trong quá trình đấu tranh
cách mạng vì độc lập dân tộc và chủ nghóa xã hội.
Nêu tấm gương sáng về chủ nghóa quốc tế vô sản,
góp phần vào sự nghiệp cách mạng chung của phong
trào cộng sản và công nhân quốc tế.
Giai cấp công nhân Việt Nam bước lên vũ đài
chính trò giành quyền lãnh đạo sự nghiệp giải phóng
dân tộc khi Nguyễn Ái Quốc đưa chủ nghóa Mác Lênin vào nước ta, thành lập Đảng cộng sản Việt
Nam. Trong khi nhiều cương lónh của các giai cấp khác
và các tầng lớp yêu nước khác bò phá sản thì
Đảng cộng sản Việt Nam – Đội tiên phong của giai
cấp công nhân Việt Nam ra đời. Ngay từ đầu, đảng
đã biết vận dụng sáng tạo chủ nghóa Mác - Lênin
vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, đưa ra cương lónh
cứu nước đúng đắn cho dân tộc. Và do vậy, giai cấp
công nhân Việt Nam và chính đảng của nó đã đóng
vai trò tiên phong giành được quyền độc tôn lãnh đạo
cách mạng hơn 70 năm qua. Đảng cộng sản Việt Nam
đã thực tế độc quyền lãnh đạo cách mạng nước ta.
Dưới sụ lãnh đạo của đảng của giai cấp công nhân,
trong hơn nửa thế kỷ qua, dân tộc ta đã giành được
nhiều thắng lợi vẻ vang. Vai trò lãnh đạo của giai cấp

công nhân được hình thành trong lòch sử được quần
chúng nhân dân thừa nhận và cả dân tộc suy tôn.
Giai cấp công nhân Việt Nam đang thực sự nắm quyền
lãnh đạo và là lực lượng duy nhất lãnh đạo cách
mạng xã hội chủ nghóa ở nước ta. Đó là một thực
tế. Mục tiêu chính trò của cách mạng Việt Nam không


thay đổi. Vì thế vai trò lãnh đạo xã hội của giai cấp
công nhân Việt Nam không thay đổi.
Tuy nhiên giai cấp công nhân Việt Nam, do đặc
điểm của sự hình thành, do sinh sống trong những điều
kiện kinh tế xã hội kém phát triển… nên còn mang
trong mình những hạn chế nhất đònh. Nhưng những hạn
chế, nhược điểm này không thuộc bản chất, nó vẫn
đủ khả năng, điều kiện để đảm nhận và hoàn
thành thắng lợi sứ mệnh lòch sử của mình trong thời
kỳ quá độ đi lên chủ nghóa xã hội. Những khả
năng, điều kiện chủ yếu đó là:
- Trong các giai cấp ở Việt Nam hiện nay, giai cấp
công nhân vẫn là lực lượng xã hội tiên tiến nhất
về cả tư tưởng, lý luận lẫn thực tiễn sản xuất và
cải tiến xã hội.
- Giai cấp công nhân Việt Nam ngoài vai trò tiên
phong trong lãnh đạo cách mạng còn có vò trí quan
trọng trong xây đựng nền kinh tế đất nước theo đònh
hướng xã hội chủ nghóa.
- Giai cấp công nhân Việt Nam có mối quan hệ
chặt chẽ, máu thòt với giai cấp nông dân, khối liên
minh giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và

tầng lớp trí thức ngày càng được củng cố và tăng
cường.
- Giai cấp công nhân Việt Nam có đội tiên phong
là Đảng cộng sản Việt Nam dày dạn kinh nghiệm, có
bản lónh chính trò vững vàng, được thử thách, tôi
luyện và trưởng thành trong quá trình đấu tranh của,
lâu dài, gian khổ cũng như trước những bước ngoặt
của thời đại, của cách mạng.
- Giai cấp công nhân Việt Nam đã, đang và vẫn
là lực lượng sản xuất cơ bản, có vai trò quan trọng
ngày càng tăng trong nền kinh tế quốc dân đang
chuyển dòch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại
hóa.


- Giai cấp công nhân Việt Nam thực sự có năng
lực, trí tuệ trong sản xuất, chiến đấu bảo vệ tổ
quốc cũng như trong việc tổ chức, quản lý, xây đựng
xã hội mới, có nhiều kinh nghiệm trong thực hiện hai
nhiệm vụ chiến lược xây đựng và bảo vệ tổ quốc
xã hội chủ nghóa.
Năng lực và trí tuệ của giai cấp công nhân Việt
Nam không ngừng được nâng cao cùng với sự phát
triển của lực lượng sản xuất trong quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hóa.
Thực trạng giai cấp công nhân Việt Nam đã trải
qua nhiều thời kỳ phát triển, khi nước ta bước vào
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa
với khoảng hơn bốn triệu công nhân công nghiệp ở
mọi thành phần kinh tế. Trong đó chỉ có khoảng 1,7

triệu công nhân đã được đào t5ao tay nghề ( từ bậc
1 đến bậc 7). Nhưng trong sự chuyển đổi cơ chế kinh tế
hiện nay, đa số khoảng 70 vạn công nhân Nhà nước
nghỉ việc hoặc chuyển sang các thành phần kinh tế
khác. Số công nhân kỹ thuật bậc 6 đến bậc 7
chiếm khoảng 0,7 tổng số công nhân kỹ thuật, ít hơn
số kỹ sư công nghiệp. Bò tác động của cơ chế thò
trường giai cấp công nhân Việt Nam đang bò phân hoá
về nơi làm việc ở các thành phần kinh tế, về nghề
nghiệp, về thu nhập, về mức sống… Tình trạng thiếu
việc làm và thất nghiệp còn nhiều. Trình độ văn
hoá, trình độ tay nghề, giác ngộ chính trò của giai cấp
công nhân Việt Nam còn thấp ( trình độ văn hoá
cấp 2 khoảng 70%). Về học vấn: số đảng viên chưa
biết chử phổ thông còn 0,8%, cấp 1 là 9,9%, cấp 2
là 31%, cao đẳng và đại học là 16,4%, trên đại học
chỉ có 0,4%. Trình độ lý luận chính trò: cao cấp 2,6%,
trung cấp 18,5%, sơ cấp 50,1%. Điều kiện làm việc
còn chậm được cải thiện, chưa an toàn, sức khoẻ và
tuổi thọ nghề nghiệp còn hạn chế. Như vậy, có thể
thấy trình độ học vấn, trình độ chính trò là vấn đề
cần được khắc phục để giai cấp công nhân Việt Nam


vươn lên đáp ứng những yêu cầu mới của cách
mạng. Do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế
khu vực và những yếu kém của bản thân nền kinh
tế nước ta, số công nhân thất nghiệp tăng trong
những năm gần đây. Hàng năm hàng chục vạn
người phải nghỉ việc và hàng vạn người không có

đủ việc làm thường xuyên. Số công nhân ở khu vực
doanh nghiệp nhà nước có việc làm thường xuyên
chỉ khoảng 80%. Là giai cấp lãnh đạo cách mạng
cùng với đảng của mình đề xướng sự nghiệp đổi
mới, nhưng đời sống của công nhân ở mức trung
bình thấp so với toàn xã hội và không ổn đònh, môi
trường lao động xấu, điều kiện lao động kém. Sự
phân hoá trong thu nhập của công nhân rất rõ rệt.
Có tới 20% cơ sở sản xuất kinh doanh mà ở đó,
công nhân lao động có thu nhập dưới mức lương tối
thiểu trong khi một số cơ sở có thu nhập nhiều triệu
đồng một tháng. Ở một số doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài, giới chủ thường tìm mọi cách
tăng giờ làm việc qúa quy đònh của luật lao động,
việc trả công lao động thấp hơn giá trò sức lao động.
Đó là chưa kể tình trạng xúc phạm nhân phẩm, đối
xứ thô bạo với người công nhân ngày càng tăng.
Tình hình đó làm cho người công nhân ở nhiều nơi
không được làm chủ và họ cảm thấy vai trò làm
của mình như một khái niệm trừu tượng, hình thức. Số
đông công nhân chưa được đào tạo cơ bản về nghề
nghiệp, công tác dạy nghề còn nhiều bất cập, yếu
kém. Chúng ta chưa có một hệ thống pháp luật và
chính sách về đào tạo và phát triển ngày một cách
hoàn chỉnh và đồng bộ.Việc đào tạo chủ nghóa kỹ
thuật và nhân viên nghiệp vụ lành nghề giảm sút
nên đội ngũ này đang thiếu hụt nghiêm trọng, nhất
là khi bước vào thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại
hóa. Từ năm 1997 đến nay, số trường dạy nghề giảm
từ 366 xuống còn 177, giảm 52%, quy mô đào tạo

giảm từ 25 vạn xuống còn 10 vạn, giảm 60%. Hiện
nay việc xác đònh rõ vai trò, nghiệm vụ lòch sử của


giai cấp công nhân, xây đựng giai cấp công nhân
ngày càng lớn mạnh về số lượng và chất lượng là
vấn đề quan trọng liên quan trực tiếp đến bản chất
công nhân của đảng, đến chế độ xã hội của nhà
nước ta. Trong thực tế đã có nhiều biểu hiện coi nhẹ
vò trí vai trò của giai cấp công nhân, chưa quán triệt,
quan tâm vá thực hiện đúng mức đến việc xây đựng
giai cấp công nhân Việt Nam. Trong xã hội và cả
cán bộ đảng viên cũng có những nhận thức không
đúng về vai trò, sứ mệnh lý lòch sử của giai cấp
công nhân. Bản thân giai cấp công nhân cũng có
một bộ phận lớn chưa hiểu gì về vai trò, sứ mệnh
lòch sử của giai cấp mình. Giai cấp công nhân nước ta
nói chung có lòng yêu nước rất cao nhưng giác ngộ
về sứ mệnh lòch sử và trách nhiệm của giai cấp
công nhân còn yếu do trình độ nhận thức và do chưa
được giáo dục thường xuyên. Ý thức tổ chức, kỹ
luật lao động, tác phong công nghiệp kém. Một bộ
phận công nhân thiếu tin tưởng vào đường lối, chính
sách của đảng và nhà nước, chạy theo lối sống thực
dụng, ít thiết tha với chính trò. tỷ lệ đảng viên, đoàn
công nhân viên công đoàn, đoàn thanh niên cộng
sản Hồ Chí Minh trong công nhân còn thấp. Đó là
chưa kể nạn cờ bạc, nghiện hút, rượu chè sinh trộm
cấp, tội phạm… phát triển cả trong và ngoài doanh
nghiệp.

2/. Vai trò của giai cấp công nhân trong thời
kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Sau hơn 17 năm đổi mới, những thành tựu trên
các lónh vực kinh tế, chính trò và xã hội đã bước đầu
làm chuyển biến bộ mặt xã hội nước ta. Tình hình
chính trò, kinh tế xã hội của đất nước tiếp tục ổn
đònh và bước đầu phát triển, nhiều công nhân đã
có việc làm, có điều kiện nâng cao tay nghề, cải
thiện đời sống lên một bước. Giai cấp công nhân
đã vược qua một bước khó khăn thử thách, có
những bước trưởng thành mới về nhận thức, giác


×