Tải bản đầy đủ (.doc) (119 trang)

Pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (493.91 KB, 119 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TRẦN THỊ HỒNG NHUNG

PHÁP LUẬT VỀ CẠNH TRANH
TRONG LĨNH VỰC KINH DOANH BẢO HIỂM
TẠI VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2013

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TRẦN THỊ HỒNG NHUNG

PHÁP LUẬT VỀ CẠNH TRANH
TRONG LĨNH VỰC KINH DOANH BẢO HIỂM
TẠI VIỆT NAM
Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số

: 60 38 50

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC


Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Lan Hương

HÀ NỘI - 2013

2


Lời cam đoan

Tôi xin cam đoan đây là công
trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.
Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác
và trung thực. Những kết luận khoa học
của luận văn cha từng đợc ai công bố
trong bất kỳ công trình nào khác.

Tác giả luận văn

Trần Thị Hồng Nhung

3


4


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa

Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
Danh mục các biểu đồ
1

MỞ ĐẦU

Chương 1:

KHÁI QUÁT PHÁP LUẬT VỀ CẠNH TRANH TRONG

8

KINH DOANH BẢO HIỂM

1.1.

Khái niệm, ý nghĩa của cạnh tranh

8

1.2.

Khái niệm và vai trò của bảo hiểm

11

1.2.1. Khái niệm bảo hiểm


11

1.2.2. Vai trò của bảo hiểm

13

1.3.

Khái quát pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực kinh doanh
bảo hiểm

16

Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ CẠNH TRANH TRONG

24

LĨNH VỰC KINH DOANH BẢO HIỂM VÀ THỰC TIỄN
ÁP DỤNG TẠI VIỆT NAM

2.1.

Thực trạng pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực kinh doanh
bảo hiểm tại Việt Nam

24

2.1.1. Pháp luật về các hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, cạnh
tranh không lành mạnh theo Luật cạnh tranh năm 2004


24

2.1.2. Pháp luật về cạnh tranh theo các quy định của Luật Kinh
doanh bảo hiểm

38

2.2.

49

Thực tiễn áp dụng pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực kinh
doanh bảo hiểm tại Việt Nam

5


2.2.1. Các nhân tố ảnh hưởng đến cạnh tranh trong lĩnh vực kinh
doanh bảo hiểm

49

2.2.2. Thực trạng kiểm soát các hành vi cạnh tranh phổ biến trong
lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm

54

2.2.3. Những vướng mắc, bất cập trong các quy định của pháp luật
về cạnh tranh và pháp luật về kinh doanh bảo hiểm

hiện hành

64

Chương 3:

MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VỀ VIỆC XÂY DỰNG VÀ HOÀN

80

THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ CẠNH
TRANH TRONG LĨNH VỰC KINH DOANH BẢO HIỂM

3.1.

Yêu cầu và định hướng hoàn thiện pháp luật về cạnh tranh
trong lĩnh vực kinh danh bảo hiểm

80

3.1.1. Yêu cầu hoàn thiện pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực
kinh doanh bảo hiểm

80

3.1.2. Định hướng cơ bản liên quan đến hoàn thiện pháp luật về
cạnh tranh trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm

82


3.2.

Hoàn thiện các quy định của luật cạnh tranh và pháp luật về
cạnh tranh trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm

86

3.2.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật liên quan đến thỏa
thuận hạn chế cạnh tranh

86

3.2.2. Hoàn thiện các quy định của pháp luật về hành vi cạnh tranh
không lành mạnh trong luật cạnh tranh và luật kinh doanh
bảo hiểm

93

3.3.

97

Đề xuất/khuyến nghị các giải pháp khác nhằm hạn chế và
kiểm soát các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong
lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm

3.3.1. Khuyến nghị đối với các cơ quan quản lý nhà nước

97


3.3.2. Đối với Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam

99

3.3.3. Đối với các doanh nghiệp bảo hiểm

100
102

KẾT LUẬN

6


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

7

104


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

DNBH

: Doanh nghiệp bảo hiểm

KDBH

: Kinh doanh bảo hiểm


CTKLM

: Cạnh tranh không lành mạnh

WTO

: Tổ chức Thương mại Thế giới

8


DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu

Tên bảng

Trang

Các hình thức xử lý vi phạm đối với thỏa thuận hạn chế

30

bảng
2.1

cạnh tranh
2.2


Thống kê các vụ hạn chế cạnh tranh trong giai đoạn

64

2006-2012
2.3

Thống kê các vụ hạn chế CTKLM trong giai đoạn 2006-2012

65

2.4

Số tiền phạt các vụ việc CTKLM từ 2007- 2012

65

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ

Số hiệu

Tên biểu đồ

Trang

biểu đồ
2.1

Thị phần các DNBH phi nhân thọ năm 2010


9

49


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Thời gian qua, có thể nhận thấy hoạt động kinh doanh bảo hiểm (KDBH)
tại Việt Nam đã có sự phát triển mạnh mẽ, không chỉ ở sự gia tăng số lượng
các doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH) mà điều này còn biểu hiện ở tốc độ tăng
trưởng doanh thu của toàn thị trường. Nếu như năm 1999 mới chỉ có 10
DNBH hoạt động thì đến cuối năm 2010, trên thị trường đã có 29 DNBH phi
nhân thọ và 12 DNBH nhân thọ, 11 doanh nghiệp môi giới bảo hiểm và 01
doanh nghiệp tái bảo hiểm. Tổng doanh thu phí bảo hiểm ước tính cả năm
2010 đạt khoảng 30.201 tỷ đồng (đạt tỷ trọng doanh thu phí bảo hiểm/GDP
khoảng 1,7%), trong đó doanh thu phí bảo hiểm phi nhân thọ khoảng 16.547
tỷ đồng, doanh thu phí bảo hiểm nhân thọ khoảng 13.654 tỷ đồng. Tổng số
tiền bồi thường và trả tiền bảo hiểm ước khoảng 11.347 tỷ đồng đảm bảo sự
phát triển ổn định của các tổ chức, cá nhân không may gặp rủi ro, qua đó góp
phần vào sự phát triển của nền kinh tế xã hội [35]. Quá trình phát triển của thị
trường bảo hiểm trong nước đã cho thấy sự cạnh tranh gay gắt giữa các
DNBH trong việc tăng trưởng doanh thu và chiếm lĩnh thị trường.
Bên cạnh đó, hiện nay các cam kết của Tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO) trong lĩnh vực bảo hiểm đã có hiệu lực, cùng với sự ra đời của Luật
sửa đổi Luật KDBH năm 2010 cho phép các DNBH nước ngoài sẽ được phép
cung cấp các dịch vụ bảo hiểm như bảo hiểm vận tải quốc tế, tái bảo hiểm và
môi giới bảo hiểm, dịch vụ đánh giá rủi ro, giải quyết khiếu nại và tư vấn bảo
hiểm và đặc biệt là được phép cung cấp dịch vụ bảo hiểm cho các dự án,
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam mà không cần thành lập

pháp nhân tại Việt Nam. Như vậy, các cam kết WTO trong lĩnh vực bảo hiểm
đã dần dần được cụ thể hóa trong các văn bản pháp lý, và đồng nghĩa với đó,

10


thị trường bảo hiểm Việt Nam sẽ chịu tác động cả về quy mô, chất lượng,
cạnh tranh trong lĩnh vực bảo hiểm sẽ ngày càng trở lên gay gắt.
Trong nền kinh tế thị trường, việc cạnh tranh là tất yếu, là bản chất,
cạnh tranh giữa các nhà cung cấp sẽ giúp người mua có sự thể lựa chọn được
sản phẩm tốt hơn, rẻ hơn. Đây là điều được khuyến khích và là động lực phát
triển kinh tế, phát triển doanh nghiệp. Thế nhưng, trên thực tế đối với một lĩnh
vực đặc thù như bảo hiểm thì sự cạnh tranh trong thị trường bảo hiểm thời
gian qua bên cạnh những mặt tích cực còn có rất nhiều vấn đề cần phải bàn
đến, một trong những vấn đề nổi cộm đó là thực trạng bùng nổ của những
hành vi cạnh tranh không lành mạnh (CTKLM), những hành vi hạn chế cạnh
tranh có ảnh hưởng xấu đến thị trường tài chính nói chung và thị trường bảo
hiểm nói riêng.
Một trong những vụ việc liên quan đến cạnh tranh trong lĩnh vực
KDBH nổi lên thời gian qua phải kể đến vụ việc ngày 29/07/2010 Hội đồng
cạnh tranh đã ra quyết định số 14/QĐ-HĐXL về việc xử lý vụ việc cạnh tranh
KNCT-HCCT-009 đối với 19 doanh nghiệp bảo phi nhân thọ vì hành vi ấn
định phí bảo hiểm đối với bảo hiểm vật chất xe cơ giới được coi là hành vi
thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, vi phạm các hành vi bị cấm theo quy định của
Luật Cạnh tranh. Theo đó, 19 DNBH tham gia ký kết thỏa thuận này đã bị
Hội đồng cạnh tranh xử phạt bằng hình thức phạt tiền. Ngoài ra, ngay trong
quyết định xử lý vụ việc, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh cũng đưa ra một
số các kiến nghị, trong đó có kiến nghị ngoài việc tăng cường công tác tuyên
truyền, phổ biến pháp luật về cạnh tranh, các cơ quan nhà nước có liên quan
phải hoàn thiện hệ thống pháp luật về cạnh tranh và pháp luật về KDBH phù

hợp với tình hình mới về cam kết của Việt Nam khi gia nhập các điều ước
quốc tế, trong đó có cam kết gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).
Có thể nhận thấy, chưa có thời điểm nào việc nghiên cứu đồng bộ các quy
định về cạnh tranh cũng như bảo hiểm để hoàn thiện pháp luật về cạnh tranh

11


liên quan đến bảo hiểm lại đặt ra cấp thiết như thời điểm hiện nay. Xuất phát
từ thực tế này, đề tài nghiên cứu "Pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực
kinh doanh bảo hiểm tại Việt Nam" được người viết lựa chọn làm luận văn
thạc sĩ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu
Để các hành vi cạnh tranh trong lĩnh vực bảo hiểm thật sự lành mạnh,
tạo tiền đề cho sự phát triển không ngừng đi lên của thị trường bảo hiểm Việt
Nam thì trước tiên đòi hỏi phải có cơ sở pháp lý cơ bản đầy đủ và đồng bộ
làm tiền đề hoạt động kinh doanh mang tính cạnh tranh của các DNBH, đồng
thời phải xác định rõ được các hành vi hạn chế cạnh tranh, CTKLM chủ yếu
của thị trường này cũng như các chế tài pháp lý để xử lý nghiêm các hành vi
vi phạm.
Cùng với sự ra đời của Luật Cạnh tranh năm 2004, các quy phạm pháp
luật liên quan đến cạnh tranh cũng đã dần được cụ thể hóa vào từng lĩnh vực
cụ thể của nền kinh tế, trong đó có hoạt động KDBH. Trong thời gian vừa qua
đã có rất nhiều các bài viết phản ánh trên các tạp chí về hoạt động cạnh tranh
và các hành vi CTKLM trên thị trường bảo hiểm Việt Nam, đặc biệt trong giai
đoạn vụ việc xử lý hành thỏa thuận ấn định về phí bảo hiểm vật chất xe được
coi là thỏa thuận hạn chế cạnh tranh như đã nói ở trên được Hội đồng xử lý vụ
việc cạnh tranh đưa ra xem xét, xử lý. Bên cạnh đó còn có các nghiên cứu
tổng quan mang tính chuyên sâu hơn như nghiên cứu về "Những hành vi hạn
chế cạnh tranh, cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực bảo hiểm ở Việt

Nam" của Tiến sĩ Nguyễn Đình Quang, Nguyễn Bá Linh - Tổng Công ty Bảo
hiểm Bảo Việt; hay tác giả Thanh Hương với nghiên cứu tổng hợp "Thực
trạng cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực bảo hiểm tại Việt Nam và
một số kiến nghị đối với các bên liên quan trên thị trường". Tuy nhiên, các
nghiên cứu này mới chỉ dừng ở việc xem xét các hành vi CTKLM phổ biến
của thị trường bảo hiểm mà các doanh nghiệp thường sử dụng để tăng trưởng

12


doanh thu, thị phần, chưa có sự xem xét, đánh giá toàn diện với các quy định
của pháp luật về cạnh tranh cũng như đánh giá được mức độ tương đồng, phù
hợp của pháp luật về bảo hiểm với các quy định liên quan đến pháp luật về
cạnh tranh hiện hành. Do vậy, việc nghiên cứu các vấn đề pháp luật về cạnh
tranh trong lĩnh vực KDBH mang tính tổng thể hiện nay là cần thiết.
Dựa trên thực trạng cạnh tranh trong lĩnh vực bảo hiểm Việt Nam hiện
nay và nhìn nhận hành vi cạnh tranh này dưới góc độ pháp luật, trong sự
tương đồng với các ngành luật có liên quan khác, người viết chọn đề tài
"Pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm tại Việt Nam"
làm luận văn với hy vọng có thể tìm hiểu sâu rõ hơn về các đặc thù của sản
phẩm bảo hiểm và thị trường bảo hiểm, các vấn đề pháp lý hiện hành điều
chỉnh hành vi cạnh tranh trong hoạt động KDBH của thị trường bảo hiểm Việt
Nam, những vướng mắc, bất cập trong các quy định hiện hành, đồng thời đưa
ra các đề xuất để hoàn thiện các quy định của pháp luật về cạnh tranh trong
lĩnh vực bảo hiểm, đưa ra các kiến nghị có liên quan để thúc đẩy sự cạnh
tranh lành mạnh, phát triển đi lên của thị trường trong quá trình hội nhập.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Thông qua việc nghiên cứu có hệ thống các vấn đề lý luận về bảo
hiểm, các quy định của pháp luật thực định về cạnh tranh trong lĩnh vực bảo
hiểm, thực tế hoạt động cạnh tranh trên thị trường bảo hiểm Việt Nam …luận

văn nhằm mục đích làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc hoàn thiện
khung pháp luật điều chỉnh các quan hệ về cạnh tranh trong lĩnh vực bảo
hiểm, đồng thời đề xuất các giải pháp khác nhằm thúc đẩy cho sự phát triển
và cạnh tranh lành mạnh của thị trường bảo hiểm Việt Nam.
Để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn là:
Thứ nhất: Nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về cạnh tranh và ý
nghĩa của cạnh tranh và những vấn đề chung về bảo hiểm, tính đặc thù của

13


sản phẩm bảo hiểm. Đây chính là cơ sở cần thiết cho việc nhìn nhận các hành
vi cạnh tranh trong thực tế phát triển của thị trường bảo hiểm Việt Nam;
Thứ hai: Nghiên cứu, phân tích các vấn đề pháp lý hiện hành điều
chỉnh hoạt động cạnh tranh trong lĩnh vực bảo hiểm và thực tiễn cạnh tranh
trên thị trường bảo hiểm Việt Nam hiện nay;
Thứ ba: Căn cứ vào cơ sở lý luận và các các phân tích nêu trên, luận
văn sẽ đưa ra những vướng mắc, bất cập trong các quy định của pháp luật về
cạnh tranh và pháp luật về KDBH trong việc điều chỉnh hoạt động cạnh tranh
trong lĩnh vực bảo hiểm, đồng thời đề xuất các giải pháp, kiến nghị nhằm
hoàn thiện các quy định của pháp luật trong hoạt động cạnh tranh để góp phần
thúc đẩy sự phát triển của thị trường bảo hiểm Việt Nam
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ một bản luận văn thạc sĩ với một đề tài mới, với khả
năng nghiên cứu và nguồn tài liệu tham khảo còn hạn chế công trình nghiên
cứu này chưa thể bao quát hết được các vấn đề pháp lý về hoạt động cạnh
tranh trong lĩnh vực KDBH mà chỉ dừng lại ở những tiếp cận, đánh giá ban
đầu trên cơ sở thực tế các hành vi cạnh tranh phổ hiển hiện nay trên thị trường
bảo hiểm. Giới hạn trong phạm vi đề tài này, luận văn tập trung vào việc
nghiên cứu các hành vi liên quan đến thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, các hành

vi CTKLM trong hoạt động KDBH phi nhân thọ vì đây là lĩnh vực tập trung
nhiều vấn đề liên quan đến cạnh tranh nhất trong thời gian vừa qua.
Luận văn cũng đưa ra đánh đánh giá một cách tổng quát dưới góc
độ pháp lý về sự tương đồng giữa Luật Cạnh tranh và Luật KDBH trong
việc điều chỉnh các hành vi cạnh tranh trong lĩnh vực KDBH.
Trên cơ sở đó luận văn cũng đưa ra một số gợi ý và đề xuất để hoàn
thiện khung pháp luật điều chỉnh hoạt động cạnh tranh trong lĩnh vực bảo
hiểm và đảm bảo cho khung pháp luật đó được khả thi trên thực tế.

14


5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận để nghiên cứu đề tài này là chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử kết hợp song song với các phương pháp
tổng hợp, phân tích, thống kê, so sánh, sơ đồ.
Phương pháp phân tích được dùng để làm rõ khái niệm bảo hiểm, bản
chất và những đặc thù của bảo hiểm, khái niệm về cạnh tranh, bản chất và ý
nghĩa của cạnh tranh, làm rõ thực trạng điều chỉnh của pháp luật Việt Nam về
hoạt động cạnh tranh trong lĩnh vực bảo hiểm.
Phương pháp thống kê, so sánh được sử dụng để làm rõ sự phát triển
của thị trường bảo hiểm Việt Nam, hệ thống các hành vi được xem là
CTKLM, hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực bảo hiểm. Ngoài ra, luận văn
cũng sử dụng các bảng biểu, số liệu thống kê để phân tích, chứng minh các
nội dung liên quan.
Trên cơ sở đó, phương pháp tổng hợp được sử dụng để khái quát hóa
nhằm đưa ra những đề xuất, kiến nghị của luận văn.
6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
Luận văn có những đóng góp khoa học như sau:
a) Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về cạnh tranh trong lĩnh vực bảo

hiểm, khẳng định sự cần thiết phải hoàn thiện các quy định của pháp luật về
cạnh tranh trong lĩnh vực KDBH.
b) Phân tích, đánh giá những quy định của pháp luật về cạnh tranh và
cạnh tranh trong lĩnh vực KDBH, những điểm hạn chế, bất cập trong thực tiễn
áp dụng pháp luật điều chỉnh về hành vi cạnh tranh trong lĩnh vực KDBH tại
Việt Nam,
c) Đưa ra một số ý kiến và đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện
những quy định của pháp luật về cạnh tranh trong hoạt động KDBH.

15


7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về bảo hiểm và thị trường bảo hiểm,
pháp luật về cạnh tranh trong kinh doanh bảo hiểm.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực kinh
doanh bảo hiểm và thực tiễn áp dụng tại Việt Nam.
Chương 3: Một số kiến nghị về việc xây dựng và hoàn thiện các quy
định của pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm.

16


Chương 1
KHÁI QUÁT PHÁP LUẬT
VỀ CẠNH TRANH TRONG KINH DOANH BẢO HIỂM

1.1. KHÁI NIỆM, Ý NGHĨA CỦA CẠNH TRANH


Cạnh tranh nói chung, cạnh tranh trong kinh tế nói riêng là một khái
niệm có nhiều cách hiểu khác nhau. Khái niệm cạnh tranh được sử dụng rất
rộng ở nhiều phạm vi khác nhau như trong phạm vi doanh nghiệp, phạm vi
ngành, phạm vi quốc gia hoặc phạm vi liên quốc gia…và điểm khác nhau là
mục tiêu đặt ra của việc cạnh tranh này như thế nào. Nếu như ở phạm vi quốc
gia, mục tiêu đặt ra là nâng cao mức sống và các chế độ phúc lợi cho nhân
dân thì đối với doanh nghiệp, mục tiêu cuối cùng là tồn tại và tìm kiếm lợi
nhuận và các lợi ích tối đa mang lại quá trị cho doanh nghiệp.
Theo Các Mác thì "cạnh tranh là sự ganh đua, đấu tranh gay gắt giữa
các nhà tư bản nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và
tiêu dùng hàng hóa để thu được lợi nhuận siêu ngạch" [Dẫn theo 50]. Nghiên
cứu sâu về sản xuất hàng hóa tư bản chủ nghĩa và cạnh tranh tư bản chủ nghĩa
Mac đã phát hiện ra quy luật cơ bản của cạnh tranh tư bản chủ nghĩa là quy
luật điều chỉnh tỷ suất lợi nhuận bình quân, và qua đó hình thành nên hệ thống
giá cả thị trường. Quy luật này dựa trên những chênh lệch giữa giá cả chi phí
sản xuất và khả năng có thể bán hàng hóa dưới giá trị của nó nhưng vân thu
được lợi nhuận.
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam (tập 1) thì:
Cạnh tranh (trong kinh doanh) là hoạt động tranh đua giữa
những người sản xuất hàng hóa, giữa các thương nhân, các nhà
kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, chi phối quan hệ cung
cầu, nhằm dành các điều kiện sản xuất, tiêu thụ thị trường có lợi
nhất [Dẫn theo 50].

17


Cho đến thời điểm hiện nay, vẫn chưa ó một định nghĩa là về "cạnh
tranh" được thừa nhận đầy đủ nhất. Do đó, cạnh tranh được nhìn nhận ở nhiều

góc độ khác nhau tùy thuộc vào cách tiếp cận và mục đích của các nhà khoa học.
Tiếp cận dưới góc độ hàng hóa, thị trường có thể định nghĩa: Cạnh
tranh là quan hệ kinh tế mà ở đó các chủ thể kinh tế ganh đua nhau tìm mọi
biện pháp (cả nghệ thuật kinh doanh lẫn thủ đoạn) để đạt mục tiêu kinh tế
của mình, thông thường là chiếm lĩnh thị trường, giành lấy khách hàng cũng
như các điều kiện sản xuất, thị trường có lợi nhất. Mục đích cuối cùng của
các chủ thể kinh tế trong quá trình cạnh tranh là tối đa hóa lợi ích. Đối với
người sản xuất kinh doanh là lợi nhuận,đối với người tiêu dùng là lợi ích tiêu
dùng và sự tiện lợi.
Cạnh tranh vốn được xem là động lực của sự phát triển và ý nghĩa của
cạnh tranh được thể hiện rõ xét dưới các góc độ sau:
Vai trò của cạnh tranh đối với nền kinh tế quốc dân: Trên bình diện
toàn bộ nền kinh tế, cạnh tranh có vai trò là động lực quan trọng thúc đẩy phát
triển kinh tế, góp phần phân bổ nguồn lực hiệu quả thông qua việc kích thích
các doanh nghiệp sử dụng các nguồn lực tối ưu nhất cũng như hạn chế được
các méo mó của thị trường, góp phần phân phối lại thu nhập một cách hiệu
quả và nâng cao phúc lợi xã hội.
Một nền kinh tế mạnh là nền kinh tế mà các tế bào của nó là các
doanh nghiệp phát triển có khả năng cạnh tranh cao. Tuy nhiên, cạnh tranh ở
đây phải là cạnh tranh lành mạnh, các doanh nghiệp cạnh tranh nhau để cùng
phát triển, cùng đi lên thì mới có thể làm cho nền kinh tế phát triển bền vững.
CTKLM sẽ ảnh hưởng không tốt đến nền kinh tế, nó sẽ tạo ra môi trường kinh
doanh không bình đẳng dẫn đến mâu thuẫn về quyền và lợi ích kinh tế trong
xã hội, làm cho nền kinh tế có thể dẫn đến mất ổn định. Như vậy, cạnh tranh
là môi trường, là động lực thúc đẩy sự phát triển của mọi thành phần kinh tế

18


trong nền kinh tế thị trường, góp phần xóa bỏ những độc quyền, bất hợp lý,

bất bình đẳng trong kinh doanh.
Vai trò của cạnh tranh đối với người tiêu dùng: Trên thị trường, nếu
sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp diễn ra càng gay gắt thì người được
hưởng lợi ích đầu tiên chính là người tiêu dùng. Cạnh tranh tạo ra sự lựa chọn
rộng rãi hơn, bảo đảm cho cả người sản xuất lẫn người tiêu dùng không thể áp
đặt giá cả tùy tiện. Khi đó, những lợi ích mà người tiêu dùng có thể nhận
được từ sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trên thị trường như chất lượng
sản phẩm tốt hơn, giá bán thấp hơn, chất lượng phục vụ cao hơn.
Vai trò của cạnh tranh đối với các doanh nghiệp: Trong nền kinh tế thị
trường, cạnh tranh là điều tất yếu đối với các doanh nghiệp. Cạnh tranh đòi
hỏi các doanh nghiệp phải luôn tìm cách nâng cao chất lượng sản phẩm dịch
vụ, thay đổi kiểu dáng mẫu mã để đáp ứng các yêu cầu của khách hàng. Cạnh
tranh trở thành động lực khuyến khích các doanh nghiệp phải áp dụng các
công nghệ mới, hiện đại, tạo sức ép buộc các doanh nghiệp phải sử dụng có
hiệu quả các nguồn lực của mình để giảm giá thành, nâng cao chất lượng dịch
vụ, cải tiến mẫu mã để tạo ra các sản phẩm mới khác biệt có sức cạnh tranh
cao trên thị trường.
Vai trò của cạnh tranh trên bình diện quốc tế: chính cạnh tranh đã
thúc đẩy các doanh nghiệp mở rộng tìm kiếm thị trường với mục đích tiêu
thụ, đầu tư huy động nguồn vốn, lao động, công nghệ, kỹ năng lao động, quản
lý trên thị trường quốc tế. Thông qua cạnh tranh quốc tế các doanh nghiệp
thấy được lợi thế so sánh cũng như các điểm yếu kém của mình để hoàn thiện,
xây dựng các chiến lược kinh doanh, cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Như
vậy, cạnh tranh góp phần thúc đẩy doanh nghiệp mở rộng thị trường ra khu
vực và thế giới, liên doanh liên kết với các doanh nghiệp nước ngoài, qua đó
tham gia sâu vào phân công lao động và hợp tác kinh tế quốc tế, tăng cường
giao lưu vốn. lao động, khoa học công nghệ với các nước trên thế giới.

19



Ngày nay hầu hết các nước trên thế giới đều thừa nhận sự tồn tại tất
yếu khách quan của cạnh tranh và coi cạnh tranh là động lực của sự phát triển
kinh tế - xã hội. Cạnh tranh lành mạnh được các nước ủng hộ và khuyến khích
phát triển bằng cách pháp lý hóa chúng trong các đạo luật về chống độc quyền
và bảo vệ cạnh tranh.
1.2. KHÁI NIỆM VÀ VAI TRÒ CỦA BẢO HIỂM

1.2.1 Khái niệm bảo hiểm
Trong cuộc sống sinh hoạt cũng như hoạt động sản xuất kinh doanh
hàng ngày, dù đã luôn chú ý ngăn ngừa và đề phòng nhưng con người vẫn có
nguy cơ gặp phải những rủi ro bất ngờ xảy ra. Chính sự tồn tại của các loại rủi
ro chính là nguồn gốc phát sinh hoạt động dự trữ, bảo hiểm ngày nay. Bảo
hiểm là một hoạt động dịch vụ nhằm xây dựng Quỹ bồi thường chung từ sự
đóng góp của những người tham gia bảo hiểm có những rủi ro và nhu cầu bảo
hiểm giống nhau để được Quỹ bồi thường chi trả khi xảy ra những sự kiện, rủi
ro, thiên tai, tai nạn bất ngờ kém may mắn gây thiệt hại cho những người
tham gia bảo hiểm. Bảo hiểm chính là biện pháp chia sẻ rủi ro của một người
hay của số một ít người cho cả cộng đồng những người có khả năng gặp rủi ro
cùng loại bằng cách mỗi người trong cộng đồng góp một số tiền nhất định vào
một quỹ chung và từ quỹ chung đó bù đắp thiệt hại cho thành viên trong cộng
đồng không may bị thiệt hại do rủi ro đó gây ra. Bảo hiểm được xem như là
một cách thức chuyển giao rủi ro tiềm năng một cách công bằng từ một cá thể
sang cộng đồng thông qua phí bảo hiểm.
Bảo hiểm đã ra đời rất lâu trên thế giới và tại Việt Nam hiện nay, bảo
hiểm là một lĩnh vực đang ngày một phát triển với tốc độ tăng trưởng trung
bình hàng năm khá cao, tăng trưởng trong giai đoạn 2005-2009 là 16,99%,
giai đoạn 2010 - 2012 vào khoảng gần 12% [35]. Tuy nhiên, do tính đặc thù
của dịch vụ này, hiện nay chưa có bất cứ một định nghĩa nào được coi và
được công nhận là định nghĩa chính thức về bảo hiểm.


20


Theo Dennis Kessler thì "Bảo hiểm là sự đóng góp của số đông vào sự
bất hạnh của số ít" [10] hay theo quan điểm khác thì:
Bảo hiểm là hình thức mà người được bảo hiểm cam kết góp
một khoản tiền gọi là phí bảo hiểm để thực hiện mong muốn cho
mình hoặc một bên thứ 3 nhận được đền bù được chi trả bởi người
bảo hiểm (đơn vị đứng ra nhận trách nhiệm với toàn bộ rủi ro và
đứng ra đền bù các thiệt hại mà mình cam kết với người được bảo
hiểm) khi xảy ra các tổn thất, thiệt hại [10].
Theo định nghĩa của Tập đoàn AIG của Mỹ thì:
Bảo hiểm là một cơ chế, theo cơ chế này, một người, một
doanh nghiệp hay một tổ chức chuyển nhượng rủi ro cho công ty
bảo hiểm, công ty đó sẽ bồi thường cho người được bảo hiểm các
tổn thất thuộc phạm vi bảo hiểm và phân chia giá trị thiệt hại giữa
tất cả những người được bảo hiểm [10].
Có thể nói các định nghĩa trên hoặc quá thiên về góc độ xã hội, hoặc
thiên về góc độ kinh tế - kỹ thuật, chưa phải là một khái niệm bao quát và
hoàn chỉnh nhất về bảo hiểm. Dưới góc độ pháp lý, có thể tìm thấy định nghĩa
của Monique Gaullier như sau:
Bảo hiểm là một nghiệp vụ qua đó, một bên là người được
bảo hiểm cam đoan trả một khoản tiền gọi là phí bảo hiểm thực hiện
mong muốn để cho mình hoặc để cho người thứ ba trong trường hợp
xảy ra rủi ro sẽ nhận được một khoản đền bù các tổn thất được trả
bởi một bên khác: đó là người bảo hiểm. Người bảo hiểm nhận trách
nhiệm đối với toàn bộ rủi ro và đền bù các thiệt hại theo các phương
pháp của thống kê [39].
Theo quy định tại Điều 3 Luật KDBH năm 2000 của Việt Nam thì:

Kinh doanh bảo hiểm là hoạt động của doanh nghiệp bảo
hiểm nhằm mục đích sinh lợi, theo đó doanh nghiệp bảo hiểm chấp

21


nhận rủi ro của người được bảo hiểm, trên cơ sở bên mua bảo hiểm
đóng phí bảo hiểm để doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền bảo hiểm cho
người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy
ra sự kiện bảo hiểm [45].
Theo các nhà kinh tế bảo hiểm, một định nghĩa đầy đủ và thích hợp
nhất về bảo hiểm phải bao gồm việc hình thành một quỹ tiền tệ (quỹ bảo
hiểm), sự hoán chuyển rủi ro, và thêm nữa phải bao gồm sự kết hợp số đông
các đơn vị đối tượng riêng lẻ và độc lập chịu cùng một rủi ro như nhau thành
một nhóm tương tác.
Như vậy, để có một khái niệm chung nhất về bảo hiểm, có thể hiểu
như sau: Bảo hiểm là một sự cam kết bồi thường của người bảo hiểm cho
người được bảo hiểm hoặc người thứ ba khi xảy ra các rủi ro, mất mát đối
với đối tượng được bảo hiểm theo các điều kiện đã thỏa thuận trước trên cơ
sở người được bảo hiểm đóng phí bảo hiểm và việc bồi thường thiệt hại này
sẽ được xác định theo phương pháp của thống kê".
1.2.2. Vai trò của bảo hiểm
Ngày nay, bảo hiểm đã trở thành một ngành kinh doanh rất phát triển
và dần trở thành một khái niệm quen thuộc trong đời sống xã hội. Xem xét
mối quan hệ giữa sự phát triển của ngành bảo hiểm trong tương quan chung
với sự phát triển ổn định của xã hội và của toàn nền kinh tế ở nhiều nước,
nhiều nhà kinh tế học đã khẳng định tác dụng to lớn, cũng như vai trò không
thể thiếu của bảo hiểm đối với sự phát triển và ổn định của nền kinh tế. Vai trò
của bảo hiểm có thể được xem xét ở các khía cạnh sau:
* Thông qua việc giải quyết bồi thường, bù đắp thiệt hại và khắc

phục tổn thất, bảo hiểm có tác dụng to lớn trong việc ổn định hoạt động
sản xuất kinh doanh và ổn định xã hội
Bù đắp thiệt hại, khắc phục tổn thất chính là tác dụng chủ yếu của
bảo hiểm và cũng chính xuất phát từ mục đích này dẫn đến sự ra đời của

22


ngành bảo hiểm. Khi nói đến bảo hiểm là nói đến khả năng bồi thường khi có
tổn thất xảy ra, và vai trò của các công ty bảo hiểm là cung cấp các loại dịch
vụ tài chính đặc biệt nhằm khôi phục khả năng vật chất, tài chính như trước
khi xảy ra rủi ro, hoặc bồi thường cho người thụ hưởng trong hợp đồng bảo
hiểm con người. Với việc mua bảo hiểm, các tổ chức, cá nhân đã chuyển rủi
ro của mình sang các Công ty Bảo hiểm. Thông qua việc nhận phí bảo hiểm,
rủi ro của các đối tượng được bảo hiểm sẽ được chuyển giao sang các Công ty
bảo hiểm hay nói các khác, hoạt động KDBH chính là kinh doanh các rủi ro
của DNBH. Do thực hiện nguyên tắc lấy số đông bù số ít nên hoạt động bảo
hiểm tập trung được một lượng tiền khá lớn dùng để bù đắp những thiệt hại,
mất mát về người và tài sản do các rủi ro, tai nạn bất ngờ xảy ra. Thông qua
việc bồi thường tổn thất của DNBH, các cá nhân khắc phục được khó khăn về
tài chính, dễ dàng ổn định cuộc sống hơn, các tổ chức kinh doanh bảo toàn
vốn, tài sản, giữ cho chu kỳ sản xuất - kinh doanh không bị gián đoạn dẫn đến
phá sản khi gặp thiệt hại quá nặng nề.
* Tạo tâm lý an toàn cho cuộc sống và cho sản xuất kinh doanh của
con người
Vai trò tạo tâm lý án toàn cho cuộc sống và cho sản xuất kinh doanh
của con người chính là xuất phát từ bản chất, tác dụng bù đắp thiệt hại, khắc
phục tổn thất của bảo hiểm như đã đề cập nêu trên. Xã hội ngày càng phát
triển thì nhu cầu được đảm bảo an toàn cho tương lai của con người ngày
càng cao. Hiện nay, xã hội nói chung và nền kinh tế nói riêng đang dần xuất

hiện những rủi ro mới mà con người không thể lường trước hết được, ngoài
những rủi ro thiên nhiên là những rủi ro liên quan đến chính trị, xã hội, kinh tế
hết sức phức tạp. Với mục đích chình là bù đắp tổn thất, bảo hiểm chính là
một giải pháp hữu hiệu tạo tâm lý an tâm cho sản xuất kinh doanh và cho
cuộc sống của con người.

23


* Góp phần kiểm soát rủi ro, tăng cường công tác đề phòng và hạn
chế tổn thất
Việc kiểm soát rủi ro, tăng cường công tác đề phòng để hạn chế tổn
thất của các DNBH được thực hiện song song với quá trình hoạt động của các
công ty bảo hiểm và được thể hiện qua một số nội dung sau:
Về phía các DNBH: Dựa trên cơ sở các rủi ro hàng năm, các tổ chức
KDBH sẽ tiến hành thống kê, nghiên cứu và đánh giá các rủi ro, từ đó xác
định nguyên nhân chủ quan và khách quan dẫn đến tổn thất. Trên cơ sở đó,
các tổ chức bảo hiểm sẽ đề xuất biện pháp phòng ngừa hữu hiệu nhất nhằm
giảm đến mức thấp nhất những tổn thất có thể xảy ra. Việc các công ty bảo
hiểm tích cực thực hiện các biện pháp phòng tránh rủi ro không chỉ để giảm
bớt chi phí bồi thường nhằm nâng cao lợi nhuận cho mình, mà quan trọng
hơn, nó góp phần giảm bớt những hậu quả đáng tiếc về vật chất cũng như tinh
thần khi xảy ra tổn thất.
Về phía người tham gia bảo hiểm: Song song với việc đánh giá rủi ro
đối với đối tượng được bảo hiểm, các công ty bảo hiểm cũng luôn đôn đốc các
cá nhân, tổ chức tham gia mua bảo hiểm tăng cường các biện pháp bảo vệ tài sản
của chính mình. Người tham gia bảo hiểm muốn được hưởng quyền lợi bồi
thường khi có tổn thất xảy ra, bên cạnh trách nhiệm đóng phí, họ còn phải thực
hiện trách nhiệm đề phòng và hạn chế tổn thất. Nếu người tham gia bảo hiểm
thực hiện không tốt công tác bảo vệ và phòng tránh tổn thất do đối tượng bảo

hiểm thì khi có tổn thất xảy ra, người bảo hiểm có thể không bồi thường cho tổn
thất hoặc giảm mức bồi thường. Điều này phù hợp với nguyên tắc hoạt động của
bảo hiểm: bảo hiểm không có nghĩa là trút hết trách nhiệm cho người bảo hiểm.
* Là kênh huy động và sử dụng hiệu quả những khoản tiền nhàn
rỗi, tạo nguồn vốn lớn để đầu tư vào những ngành, những lĩnh vực khác
Như đã phân tích nêu trên, bảo hiểm chính là một hoạt động nhằm xây
dựng quỹ bồi thường chung thông qua việc thu phí bảo hiểm từ những người

24


tham gia bảo hiểm có những rủi ro và nhu cầu giống nhau để được chi trả khi
có những tổn thất, rủi ro bất ngờ xảy ra cho người tham gia bảo hiểm. Tuy
nhiên, số tiền này không phải sẽ chỉ được dùng và sử dụng cho mục đích chi
trả các rủi ro xảy ra đối với người được bảo hiểm mà sẽ được các DNBH sử
dụng để tái đầu tư trở lại nền kinh tế. Các công ty bảo hiểm chính là định chế
tài chính không thể thiếu trong nền kinh tế. Thông qua các hợp đồng bảo hiểm
và việc thu phí bảo hiểm, các Công ty bảo hiểm đã tập trung được lượng tiền
phân tán rải rác thành các quỹ tiền tệ lớn. Quỹ bảo hiểm này đã trở thành một
định chế tài chính trung gian trên thị trường vốn.
Ở Việt Nam hiện nay, pháp luật cũng đã quy định khá rõ về các lĩnh
vực các DNBH được đầu tư trở lại nền kinh tế cũng như hạn mức đầu tư.
Theo các quy định hiện hành của luật thì DNBH được sử dụng vốn nhàn rỗi
để đầu tư trong các lính vực như: kinh doanh bất động sản, đầu tư trái phiếu
Chính phủ, góp vốn vào các doanh nghiệp khác.
1.3. KHÁI QUÁT PHÁP LUẬT VỀ CẠNH TRANH TRONG LĨNH VỰC KINH
DOANH BẢO HIỂM

Để quản lý việc cạnh tranh trong nền kinh tế nói chung và trong lĩnh
vực KDBH nói riêng, nhà nước sẽ dùng nhiều cách thức, biện pháp, trong đó

pháp luật sẽ được sử dụng như một công cụ đầu tiên để tạo ra hành lang pháp
lý cho các doanh nghiệp hoạt động và cạnh tranh trên thị trường. Như vậy,
pháp luật cạnh tranh trong lĩnh vực KDBH có thể được định nghĩa là khung
pháp luật quy định và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp khi tiến hành các
hoạt động kinh doanh trên thị trường bảo hiểm được cạnh tranh một cách tự
do, công bằng bằng cách quy định và xử lý nghiêm các hành vi có tính chất
phản cạnh tranh.
Đối với các chủ thể kinh doanh trên thị trường bảo hiểm Việt Nam,
trong hoạt động có liên quan đến tính cạnh tranh của mình sẽ phải tuân thủ các
quy định của pháp luật chuyên ngành trong lĩnh vực hoạt động của mình, đồng

25


×