Tải bản đầy đủ (.doc) (125 trang)

Phổ biến, giáo dục pháp luật ở cơ sở trên địa bàn thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (687.42 KB, 125 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ KIM NGÂN

PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT Ở CƠ SỞ
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử Nhà nước và Pháp luật
Mã số: 60 38 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: GS. TS Hoàng Thị Kim Quế


HÀ NỘI - 2013

2


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố
trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn
trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực.
Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các
nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc
gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!


NGƯỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Thị Kim Ngân


MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục viết tắt
MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHỔ BIẾN,
GIÁO DỤC PHÁP LUẬT Ở CƠ SỞ...................................................7
1.1.

KHÁI QUÁT CHUNG VỀ PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT Ở
CƠ SỞ.....................................................................................................7

1.1.1. Khái niệm phổ biến, giáo dục pháp luật:................................................7
1.1.2. Cơ sở pháp lý của việc phổ biến, giáo dục pháp luật ở cơ sở...................15
1. 2.

NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CỦA PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP
LUẬT Ở CƠ SỞ...................................................................................19

1.2.1. Về chủ thể, đối tượng phổ biến, giáo dục pháp luật.............................19
1.2.2. Về nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật............................................32
1.2.3. Về hình thức và phương pháp phổ biến, giáo dục pháp luật ở cơ
sở xã, phường.......................................................................................38
1.3.


MỤC ĐÍCH, Ý NGHĨA VÀ YÊU CẦU CỦA VIỆC PHỔ BIẾN,
GIÁO DỤC PHÁP LUẬT Ở CƠ SỞ...................................................45

1.3.1. Mục đích, ý nghĩa của việc phổ biến, giáo dục pháp luật ở cơ sở
xã, phường............................................................................................45
1.3.2. Yêu cầu của việc phổ biến, giáo dục pháp luật ở cơ sở........................50
1.4.

CÁC ĐIỀU KIỆN CƠ BẢN ĐẢM BẢO CHẤT LƯỢNG, HIỆU
QUẢ CỦA CÔNG TÁC PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT Ở
CƠ SỞ..................................................................................................53


1.4.1. Đảm bảo quyền được thông tin, quyền được tham gia quản lý nhà
nước của công dân................................................................................53
1.4.2. Đảm bảo tính phù hợp với đối tượng, địa bàn, tính khả thi, tính
hiệu quả của hoạt động PBGDPL.........................................................56
1.4.3. Hiệu quả của công tác phổ biến giáo dục pháp luật ở cơ sở.................57
Chương 2: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG, HIỆU QUẢ PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT Ở
CƠ SỞ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY.........59
2.1.

THỰC TRẠNG CÔNG TÁC PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
Ở CƠ SỞ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY............59

2.1.1. Một số điểm đặc thù về công tác PB, GDPL ở cơ sở trên địa bàn
thành phố Hà Nội.................................................................................59
2.1.2. Những thành tựu, kết quả đạt được trong công tác phổ biến, giáo

dục pháp luật ở cơ sở trên địa bàn thành phố Hà Nội..........................67
2.1.3. Những hạn chế, khiếm khuyết và nguyên nhân của công tác phổ
biến, giáo dục pháp luật ở cơ sở trên địa bàn thành phố Hà Nội..........82
2.2.

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG, HIỆU QUẢ
PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT Ở CỞ SỞ TRÊN ĐỊA
BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY...........................................87

2.2.1. Nâng cao nhận thức và sự quan tâm của các cấp ủy Đảng, chính
quyền các cấp, các ngành đối với công tác phổ biến, giáo dục
pháp luật ở cơ sở...................................................................................91
2.2.2. Hoàn thiện nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật và củng cố các
điều kiện đảm bảo thực hiện hiệu quả công tác phổ biến, giáo dục
pháp luật ở cơ sở...................................................................................92
2.2.3. Đổi mới hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật..................................99
2.2.4. Thực hiện tốt sự phối hợp giữa các ngành, các cấp, các cơ quan,
đoàn thể................................................................................................99


2.2.5. Tăng cường công tác kiểm tra giám sát..............................................100
2.2.6. Những đề nghị với Bộ Tư pháp, Thành ủy, HĐND, UBND thành
phố Hà Nội.........................................................................................101
KẾT LUẬN..................................................................................................102
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................104
PHỤ LỤC


DANH MỤC VIẾT TẮT
VIẾT TẮT


NỘI DUNG

PB, GDPL
Hội đồng PHCT PBGDPL

Phổ biến, giáo dục pháp luật
Hội đồng phối hợp công tác phổ biến giáo

Chỉ thị 32

dục pháp luật
Chỉ thị 32/CP-TW của Ban Bí thư về tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng trong

Chỉ thị 27

công tác PBGDPL
Chỉ thị 27-CT/TU của Thành uỷ Hà Nội

Luật PBGDPL

về trên địa bàn thành phố Hà Nội
Luật Phổ biến giáo dục pháp luật


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật có vị trí, vai trò vô cùng quan
trọng trong sự nghiệp trong sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta.

Nhiều năm qua công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật đã được
các cấp uỷ Đảng, chính quyền, các ngành, đoàn thể quan tâm tổ chức thực
hiện, đem lại nhiều kết quả đáng khích lệ. Trong đời sống xã hội, công tác phổ
biến, giáo dục pháp luật có ý nghĩa, vai trò quan trọng là nhằm trang bị, nâng
cao trình độ hiểu biết pháp luật, giáo dục ý thức tôn trọng, chấp hành pháp
luật cho các tầng lớp nhân dân. Trong giai đoạn hiện nay, công tác này càng
trở nên cần thiết khi Đảng, Nhà nước ta chủ trương "Xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân", "tăng cường quản lý
xã hội bằng pháp luật". Điều 3, Luật PBGDPL quy định về chính sách của
Nhà nước về phổ biến, giáo dục pháp luật có quy định rõ: Phổ biến, giáo dục
pháp luật là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị, trong đó Nhà nước
giữ vai trò nòng cốt; Nhà nước bảo đảm nguồn lực cần thiết cho công tác phổ
biến, giáo dục pháp luật; Thực hiện xã hội hóa công tác phổ biến, giáo dục
pháp luật; khen thưởng cơ quan, tổ chức, cá nhân có đóng góp tích cực trong
công tác phổ biến, giáo dục pháp luật.
Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hôm nay, công tác phổ
biến giáo dục pháp luật càng có ý nghĩa quan trọng, cần thiết. Đặc biệt, nó
càng trở nên quan trọng, bức thiết khi hiện nay Đảng, Nhà nước ta đề ra
đường lối, chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, cải cách tư pháp, đổi mới và
nâng cao chất lượng của hệ thống chính trị ở cơ sở, thực hiện Quy chế dân
chủ, xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở...
1


Hà Nội - nơi sinh sống của hơn 7 triệu dân,”trái tim của cả nước”, là “
trung tâm chính trị - hành chính quốc gia, nơi đặt trụ sở của các cơ quan
trung ương của Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội, cơ quan
đại diện ngoại giao, tổ chức quốc tế; là trung tâm lớn về văn hóa, giáo dục,
khoa học và công nghệ, kinh tế và giao dịch quốc tế của cả nước”

Hà Nội cũng là nơi nảy sinh nhiều vấn đề xã hội bức xúc như khiếu
kiện, tụ tập đông người, cưỡng chế giải phóng mặt bằng, các xung đột pháp
lý, tội phạm... Trước những đòi hỏi, thách thức của đất nước trong điều kiện
mới thì song hành cùng việc nâng cao chất lượng làm luật, xây dựng luật, ý
thức pháp luật của người dân càng cần được nâng lên, công tác phổ biến, giáo
dục pháp luật cho người dân Thủ đô cũng cần được chú trọng hơn nữa. Nhận
thức rõ vị trí của Thủ đô Hà Nội, Đảng bộ, chính quyền thành phố một mặt
tập trung đẩy mạnh phát triển kinh tế xã hội Thủ đô, mở rộng dân chủ xã hội,
mặt khác, đặc biệt quan tâm đến giáo dục truyền thống văn hoá, ý thức công dân,
ý thức tôn trọng, chấp hành pháp luật cho các tầng lớp cán bộ, nhân dân. Để xây
dựng được môi trường xã hội Thủ đô lành mạnh, đồng thuận, dân chủ và kỷ
cương, kỷ luật, hơn bao giờ hết, lúc này công tác phổ biến, giáo dục pháp luật có
ý nghĩa, vai trò rất quan trọng, nhất là giáo dục pháp luật tại các xã, phường, thị
trấn – đơn vị hành chính cơ sở, tại địa bàn khu dân cư, tổ dân phố, thôn, xóm…
Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu đề tài “Phổ biến giáo dục pháp luật ở cơ sở
trên địa bàn thành phố Hà Nội" là rất cấp thiết.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Những năm qua đã có rất nhiều học giả, nhiều công trình khoa học đi
sâu nghiên cứu công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật nói chung
nhằm nâng cao ý thức pháp luật của nhiều bộ phận nhân dân như phổ biến,
giáo dục pháp luật cho học sinh, sinh viên, cựu chiến binh, đoàn viên thanh
niên, phụ nữ, nông dân....Có thể liệt kê một số nghiên cứu gần đây nhất như
2


cuốn “Pháp luật dành cho học sinh”, “Pháp luật dành cho phụ nữ” của Hội
đồng phối hợp công tác phổ biến giáo dục pháp luật thành phố Hà Nội (Hội
đồng PHCT PBGDPL), “Sổ tay hướng dẫn nghiệp vụ phổ biến giáo dục pháp
luật” của Bộ Tư pháp... Vấn đề nâng cao ý thức pháp luật cũng đã được nhiều
nhà khoa học nghiên cứu với nhiều công trình khoa học được công bố như:

"Nâng cao ý thức pháp luật của đội ngũ cán bộ quản lý hành chính" của TS. Lê
Đình Khiên; "Tăng cường công tác giáo dục và nâng cao ý thức pháp luật cho
cán bộ, công chức thành phố Hồ Chí Minh" của Nguyễn Thanh Bình; "Nâng
cao ý thức pháp luật của bộ đội phòng không - không quân ở nước ta trong giai
đoạn hiện nay" - Luận án thạc sỹ luật học của Lê Phương Đông; "Giáo dục ý
thức pháp luật cho nhân dân và vấn đề đấu tranh phòng, chống tội phạm ẩn"
của Đinh Văn Quế; "Ý thức pháp luật và vấn đề giáo dục pháp luật trong nhà
trường nhằm nâng cao ý thức pháp luật cho học sinh, sinh viên ở nước ta hiện
nay" - Luận văn tốt nghiệp của Nguyễn Thị Thúy; "Bàn về ý thức pháp luật" của
Hoàng Thị Kim Quế; " Nâng cao hiệu quả pháp luật Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay" - Luận án tiến sỹ luật học của Nguyễn Minh Đoan;" Nâng cao chất
lượng công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật" - Đề tài khoa học của
Sở Tư pháp Hà Nội năm 1996, "Công tác Tư pháp ở xã, phường, thị trấn” của
tác giả Trần Lý, Nhà xuất bản Pháp lý, năm 1985 và một số tài liệu lưu hành
nội bộ của Bộ Tư pháp... Trong các công trình trên các tác giả chủ yếu nói về
vấn đề nâng cao ý thức pháp luật nói chung mà chưa đi sâu nghiên cứu về vấn
đề phổ biến, giáo dục pháp luật ở cơ sở nhất là ở Thủ đô nhằm góp phần giáo
dục sự “tự giác”, giảm bớt tội phạm, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật,
giảm khiếu kiện tại một trong những trung tâm lớn nhất của Việt Nam. Do
vậy, vấn đề nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác phổ biến, giáo dục pháp
luật ở cơ sở nói chung, ở thành phố Hà Nội nói riêng trong giai đoạn hiện nay
cần được tiếp tục nghiên cứu làm rõ. Nghiên cứu thành công đề tài này sẽ góp
3


phần làm phong phú, sinh động vấn đề lý luận và thực tiễn về chất lượng, hiệu
quả hoạt động hành chính cấp cơ sở, góp phần cải cách hành chính, thực hiện
mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung đi sâu nghiên cứu lý luận về phổ biến, giáo dục

pháp luật ở cơ sở, các khái niệm có liên quan; vấn đề tổ chức và hoạt động
phổ biến, giáo dục pháp luật ở cơ sở; các giải pháp nâng cao chất lượng,
hiệu quả công tác phổ biến, giáo dục pháp luật ở cơ sở.
Luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề phổ biến, giáo dục pháp luật ở cơ
sở trên địa bàn thành phố Hà Nội. Cụ thể là ở các phường, xã, thị trấn của Hà
Nội và các cơ quan doanh nghiệp, trường học, tổ chức kinh tế - xã hội ở địa phương.
Về mặt thời gian, luận văn tập trung nghiên cứu công tác PB,GDPL
trên địa bàn thành phố Hà Nội từ năm 2008 đến 2012. Đây là thời điểm sau
khi thực hiện Nghị quyết 15/NQ của Bộ Chính trị về hợp nhất địa giới hành
chính của Hà Nội.
4. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Luận văn nghiên cứu công tác PB,GDPL ở cấp cơ sở nói chung; Đánh giá
thực trạng về công tác phổ biến, giáo dục pháp luật ở cơ sở trên địa bàn thành
phố Hà Nội; Đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công
tác này. Để phù hợp với mục đích này, luận văn giải quyết nhiệm vụ sau: Một là,
phân tích cơ sở lý luận về công tác phổ biến, giáo dục pháp luật ở cơ sở; hai là,
phân tích yêu cầu khách quan nâng cao chất lượng công tác phổ biến, giáo dục
pháp luật ở cơ sở; ba là, phân tích thực trạng công tác phổ biến, giáo dục pháp
luật ở cơ sở trên địa bàn Hà Nội những năm gần đây. Tìm hiểu những nguyên
nhân, hạn chế và bài học kinh nghiệm trong công tác phổ biến giáo dục pháp luật
ở cơ sở; bốn là, đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hiệu quả công
tác phổ biến, giáo dục pháp luật ở cơ sở trên địa bàn Thủ đô Hà Nội.
4


5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng
Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật; quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam về đổi mới Nhà nước và pháp luật, xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa, xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm

đà bản sắc dân tộc, về nâng cao chất lượng hiệu quả công tác phổ biến, giáo
dục pháp luật ở cơ sở.
Luận văn sử dụng các phương pháp của triết học duy vật biện chứng
mácxit, trực tiếp là các phương pháp kết hợp lý luận với thực tiễn, phương
pháp phân tích và tổng hợp, lịch sử cụ thể. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các
phương pháp luật học so sánh, điều tra xã hội học, phỏng vấn trực tiếp.
6. Những đóng góp mới của luận văn
Luận văn là công trình khoa học đầu tiên, nghiên cứu tương đối có hệ
thống về công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật ở cơ sở trên địa
bàn thành phố Hà Nội. Ngoài ra, luận văn góp phần phát triển những vấn đề lý
luận mà các công trình, bài viết, đề tài nghiên cứu khoa học có liên quan đến
lĩnh vực phổ biến, giáo dục pháp luật ở cơ sở đã được đề cập ít nhiều trước đây.
Đặc biệt, luận văn còn góp phần làm sáng tỏ mối quan hệ giữa vấn đề
phổ biến, giáo dục pháp luật với vấn đề phát triển kinh tế xã hội, xây dựng
nếp sống văn hoá, lối sống theo pháp luật trong dân cư thành phố Hà Nội, giữ
gìn bản sắc văn hoá truyền thống, thực hiện Qui chế dân chủ ở cơ sở.
Kết quả nghiên cứu của luận văn còn có ý nghĩa thực tiễn to lớn, giúp
cho công tác lãnh đạo, những người trực tiếp tham gia phổ biến, giáo dục
pháp luật nâng cao hiểu biết, trình độ lý luận, pháp lý, nâng cao chất lượng,
hiệu quả tuyên truyền đồng thời củng cố niềm tin, nhiệt tình, trách nhiệm của
họ đối với công tác phổ biến, giáo dục pháp luật ở cơ sở, tại các khu dân cư.
Luận văn không chỉ góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả chỉ đạo, tổ
5


chức thực hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp luật ở cơ sở, mà còn góp
phần đánh giá đúng thực trạng công tác trên, đề xuất những biện pháp, giải
pháp có căn cứ khoa học để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động phổ
biến, giáo dục pháp luật ở cơ sở trên địa bàn thành phố Hà Nội nói riêng, trên
cả nước nói chung.

7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được trình bày thành 2 chương với 5 mục.

6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN
VỀ PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT Ở CƠ SỞ
1.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT Ở CƠ SỞ

1.1.1. Khái niệm phổ biến, giáo dục pháp luật
Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật là khâu đầu tiên của hoạt động
thực thi pháp luật, là cầu nối để chuyển tải pháp luật vào cuộc sống. Phổ biến
giáo dục pháp luật là nhằm hình thành ý thức tôn trọng, tuân thủ pháp luật cho
mọi công dân, nhằm phát huy vai trò và hiệu lực pháp luật trong đời sống xã
hội. Do vậy công tác phổ biến giáo dục pháp luật cho người dân có vị trí, vai
trò rất quan trọng. Đặc biệt khi Nhà nước ta đang xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa.
Trong khoa học pháp lý, phổ biến, giáo dục pháp luật là những khái
niệm bao hàm nhau. Trong đó, khái niệm giáo dục pháp luật là khái niệm rộng
nhất, vì trong hoạt động giáo dục pháp luật, có cả hoạt động phổ biến pháp
luật. Phổ biến pháp luật tức là sự truyền tải thông tin pháp luật có định hướng,
có đối tượng xác định. Tiêu chuẩn để đánh giá sự xác định của các đối tượng
thể hiện ở chỗ đối tượng đó cần phải nắm vững về nội dung thông tin vì nó là
thiết thực, là đòi hỏi bức xúc, sự cần thiết trước mắt. Nếu như tuyên truyền
pháp luật là sự truyền tải thông tin về pháp luật hiện hành một cách rộng rãi
không hạn chế về phạm vi, giới hạn các chủ thể của quan hệ xã hội, tức là tới
mọi công dân. Đó là sự thông tin toàn diện, chung nhất về hệ thống pháp luật

hiện hành. Thông tin về sự công bố, ban hành các văn bản quy phạm pháp
luật, nhất là các quy định của pháp luật về dân sự, hình sự, hành chính, hôn
nhân và gia đình, bình đẳng giới, đất đai, xây dựng, bảo vệ môi trường, lao
động, giáo dục, y tế, quốc phòng, an ninh, giao thông… chính là sự tuyên

7


truyền pháp luật. Sự thông tin này không nhằm vào những đối tượng nhất
định mà là toàn xã hội. Do vậy việc phổ biến pháp luật bao giờ cũng phải
được thực hiện đối với những đối tượng nhất định, với những nội dung có chủ
định trước, nhằm đạt được những mục đích nhất định. Xét một cách bao quát
nhất, có thể thấy nội dung của phổ biến pháp luật không chỉ dừng lại ở việc
thông tin về những văn bản pháp luật, mà còn bao hàm cả việc truyền bá các
chính sách pháp luật, các chủ trương của nhà nước về một vấn đề gì đó.
Phổ biến pháp luật, ở mức độ nhất định là đồng nghĩa với tuyên truyền
pháp luật, đều là sự truyền tải thông tin pháp luật, đáp ứng nhu cầu hiểu biết
về pháp luật của các tầng lớp dân cư, của các nhóm xã hội. Tuy nhiên, giữa
chúng cũng có những sự khác biệt nhất định. Chẳng hạn, luật thuế được ban
hành thì sự truyền tải thông tin về luật thuế đó không phải đối với mọi đối
tượng đều ở mức độ như nhau. Đối với đa số nông dân có lẽ thuế môn bài
không cần phải phổ biến vì hầu như không có liên quan gì đối với họ. Những
người hoạt động kinh doanh thì ngược lại, họ cần phải được phổ biến cụ thể,
chi tiết. Cũng có những văn bản, đối với người nông dân không chỉ dừng lại ở
mức độ tuyên truyền mà cần phải được phổ biến, họ cần phải được "quán
triệt" để thực hiện.
Phổ biến pháp luật luôn nhằm những mục đích nhất định là đưa pháp
luật vào cuộc sống, xây dựng ý thức và lối sống theo pháp luật. Phổ biến pháp
luật ở cơ sở xã, phường cũng có nghĩa là việc giải thích rộng rãi các thông tin
pháp luật cho các tầng lớp dân cư trên địa bàn xã, phường để thuyết phục họ

ủng hộ và thực hiện theo pháp luật. Phổ biến pháp luật ở đây là làm cho đông
đảo quần chúng nhân dân biết các văn bản pháp luật mà Nhà nước ban hành
bằng cách truyền đạt trực tiếp (như mở lớp tập huấn pháp luật) hay thông qua
các hình thức khác (như thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, thông
qua loa truyền thanh xã, phường...).
8


Giáo dục pháp luật là quá trình hoàn thiện nhân tố xã hội- pháp lý của
con người, nâng cao khả năng sáng tạo của con người trước đời sống thực
tiễn. Đây là một quá trình không những phụ thuộc vào năng lực các loại chủ
thể, nội dung, hình thức giáo dục, mà còn chịu chi phối đa chiều của nhiều
yếu tố như: mặt bằng kinh tế, xã hội, dân trí và dân trí pháp lý, phong tục, tập
quán... Giáo dục pháp luật là quá trình tác động một cách có hệ thống, mục đích
và thường xuyên tới nhận thức của con người nhằm trang bị cho mỗi người trình
độ pháp lí nhất định để từ đó có ý thức đúng đắn về pháp luật, tôn trọng và tự
giác xử sự theo yêu cầu của pháp luật. Mục đích của giáo dục pháp luật được
xem xét trên nhiều góc độ tùy thuộc vào đối tượng giáo dục, cấp độ giáo dục
cũng như hình thức giáo dục. Nhìn chung, mục đích giáo dục có thể mang tính
lâu dài hoặc trước mắt nhưng đều hướng tới ba vấn đề cơ bản:
- Một là, giáo dục pháp luật nhằm nâng cao khả năng nhận thức pháp
lý, sự hiểu biết pháp luật, hình thành một tri thức pháp luật cần thiết cho các
chủ thể (với tính cách là đối tượng nhận thức hay là đối tượng của giáo dục).
Đây là mục đích hàng đầu của giáo dục pháp luật bởi lẽ sự hiểu biết pháp luật
có vai trò quan trọng trong việc bảo đảm sự phát triển của tư duy pháp lý,
định hướng các hành vi của chủ thể trên thực tế. Tri thức pháp luật tạo nên cơ
sở khẳng định lòng tin vào các giá trị của pháp luật, các chuẩn mực pháp lý
cần thiết giúp cho các chủ thể chủ động xác lập hành vi và chịu trách nhiệm
về hành vi. Tri thức pháp luật không thể là sự hiểu biết đơn giản, phiến diện
về một vài khía cạnh pháp luật nào đó mà nó mang tính hệ thống, logic. Do

đó, giáo dục pháp luật là hoạt động có vai trò quan trọng đối với quá trình mở
rộng khối lượng tri thức pháp lý, nâng cao khả năng hiểu biết pháp luật một
cách toàn diện, thống nhất đối với chủ thể.
- Hai là, giáo dục pháp luật nhằm khơi dậy tình cảm, lòng tin và thái
độ đúng đắn đối với pháp luật. Để hình thành một lòng tin và đem lại một thái
9


độ đúng đắn, tích cực đối với pháp luật ở mỗi người cần phải giải quyết nhiều
vấn đề có liên quan, trong đó giáo dục pháp luật là một hoạt động cơ bản.
Chúng ta biết rằng, lòng tin vào pháp luật là lòng tin vào công lý, lẽ công
bằng được tạo lập bởi chính pháp luật. Lòng tin chỉ có giá trị đích thực khi nó
đem lại một thái độ chủ động trong xử sự phù hợp với pháp luật và được hình
thành trên một tri thức pháp luật cần thiết (nếu không sẽ là niềm tin mù quáng
phản tác dụng). Giáo dục pháp luật không đơn thuần là chỉ để hiểu biết về các
qui định của pháp luật mà cao hơn nữa là để pháp luật được “sống” trong tư
duy, hành vi của mọi người, để khơi dậy một tình cảm, lòng tin và thái độ
đúng đắn ở mỗi người đối với pháp luật, giáo dục tình cảm công bằng, khoan
dung, ý thức trách nhiệm, thái độ không khoan nhượng trước các hành vi vi
phạm pháp luật và thái độ tôn trọng pháp luật, pháp chế.
- Ba là, giáo dục pháp luật nhằm hình thành thói quen xử sự theo pháp
luật với động cơ tích cực. Tri thức pháp luật không thể là những nội dung lý
luận thuần tuý mà nó phải được hiện thực hóa thông qua các hoạt động pháp lý
thực tiễn. Mục đích của giáo dục pháp luật không chỉ cung cấp những kiến thức
lý luận hoặc các qui định pháp luật cụ thể mà quan trọng hơn là tạo lập được
thói quen xử sự theo pháp luật ở mỗi loại chủ thể trong xã hội. Thói quen này
được hình thành không phải là thụ động, vô thức mà dựa trên nền tảng của
động cơ về hành vi hợp pháp, tích cực. Trên thực tế, để có thói quen xử sự hợp
pháp không những đòi hỏi con người ta thu nạp lượng kiến thức pháp lý cần
thiết mà còn trải qua quá trình chuyển hóa chủ quan về mặt tâm lý.

- Bốn lภgiáo dục pháp luật, đặc biệt là giáo dục pháp luật ở cơ sở để
thông qua đó, giáo dục đạo đức. Dưới tác động của đời sống xã hội ở mỗi
người dân cũng như cả cộng đồng luôn hình thành những quan điểm, quan
niệm về chân, thiện, mỹ, về hạnh phúc, danh dự, vinh, nhục, về trách nhiệm,
bổn phận, tính trung thực, lòng vị tha, lẽ sống…của mỗi con người và cộng
10


đồng xã hội. Trên cơ sở các quan niệm, quan điểm đó, các quy tắc ứng xử
tương ứng được tập hợp lại gọi là đạo đức. Thông qua việc phổ biến pháp luật
để giáo dục nhân cách, lối sống của mỗi người theo những chuẩn mực chung
của cộng đồng, của xã hội. Nhờ có đạo đức, các hành vi trái quy tắc sinh hoạt
chung của cộng đồng được hạn chế, trật tự xã hội được ổn định, quan hệ giữa
người với người được đảm bảo bằng tình yêu thương đồng loại, bằng sự đoàn
kết và gắn bó lẫn nhau. Đạo đức và pháp luật đều là những khuôn mẫu, chuẩn
mực cho hành vi con người, vì một xã hội trật tự, ổn định và phát triển.
- Năm là, thông qua giáo dục pháp luật là giáo dục quyền con người,
quyền được hiểu biết, tôn trọng và tự biết bảo vệ các quyền của cá nhân, của
công dân. Theo Chương II, dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 về quyền con
người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, thì các quyền này được xã hội
thừa nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật. Công dân
có các quyền sở hữu, quyền biểu quyết, quyền khiếu nại, tố cáo…và cũng có
những nghĩa vụ tương ứng như nộp thuế, chấp hành Hiến pháp và pháp luật..
Giáo dục pháp luật hướng tới mục đích cuối cùng là giáo dục quyền con
người được ghi nhận trong Hiến pháp. Tư tưởng, nhận thức đúng đắn về trách
nhiệm Hiến pháp sẽ giúp ngăn ngừa, giảm thiểu các hiện tượng sai trái pháp
luật thường xảy ra trong thực tiễn. Quyền con người, trình độ cao về sự hài
hòa giữa pháp luật và đạo đức chính là tiêu chí căn bản nhất, bản sắc nhất để
nhận diện nhà nước và xã hội pháp quyền dân chủ.
Để hoạt động giáo dục pháp luật được tiến hành thuận lợi, có hiệu quả

cần xác định nội dung cơ bản, phù hợp với đối tượng giáo dục, loại hình và
cấp độ giáo dục. Theo nguyên lý chung thì nội dung và mục đích của giáo dục
có quan hệ hữu cơ với nhau, vì vậy giáo dục pháp luật phải nhằm định hướng
cả về tri thức, tình cảm và hành vi cho đối tượng giáo dục. Nhìn chung, nội
dung của giáo dục pháp luật tương đối rộng, mang tính đặc thù riêng cho từng
11


chương trình đào tạo. Chẳng hạn, kiến thức lý luận về pháp luật, các qui định
pháp luật hiện hành, các thông tin về thực hiện, bảo vệ pháp luật, các số liệu
về xã hội học pháp luật, giáo dục mô thức hành vi pháp luật... Các nội dung
cơ bản này lại được thể hiện phù hợp với kết cấu của mỗi chương trình giảng
dạy khác nhau, theo yêu cầu cụ thể khác nhau.
Hình thức giáo dục pháp luật là cách thức mà nhà nước sử dụng để thực
hiện quá trình tác động có mục đích các nội dung, yêu cầu giáo dục pháp luật
vào ý thức và tâm lý của các chủ thể nhằm định hướng cho các hoạt động
pháp lý đối với từng chủ thể và đối với cả xã hội. Do nội dung giáo dục, đối
tượng giáo dục khác nhau nên cần đa dạng hoá các hình thức giáo dục,
phương pháp giáo dục mới có hiệu quả. Chẳng hạn, giáo dục pháp luật trong
các nhà trường, thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, phổ biến pháp
luật, thông qua các hoạt động pháp lý thực tiễn... không nên coi trọng hoặc
xem nhẹ một hình thức nào đó của hoạt động giáo dục pháp luật. Việc lựa
chọn một phương pháp giáo dục pháp luật thích hợp có tầm quan trọng đặc
biệt. Rõ ràng là không thể áp dụng các phương pháp như nhau cho các loại
đối tượng giáo dục, cấp độ giáo dục hoàn toàn khác nhau được. Tuy nhiên,
cần nhận thấy là hoạt động giáo dục pháp luật có thể mang tính bắt buộc hoặc
không bắt buộc. Vì thế tính chất của các phương pháp giáo dục cũng cần phải
được nghiên cứu cho phù hợp các đối tượng mới đem lại hiệu quả.
Khi tiến hành công tác giáo dục pháp luật cần lưu ý một số vấn đề có
tính nguyên tắc cơ bản sau:

+ Giáo dục pháp luật cần được đặt trên cơ sở, nền tảng của quá trình giáo
dục toàn diện đối với con người, đặc biệt coi trọng sự kết hợp với giáo dục đạo
đức, giáo dục pháp luật quốc gia liên hệ với pháp luật nước ngoài và pháp luật
quốc tế nhằm phục vụ cho tiến trình hội nhập và phát triển của đất nước.
+ Cần xác lập một chiến lược giáo dục pháp luật quốc gia mang tính
12


tổng thể, cụ thể và khả thi. Tránh tình trạng để các hoạt động giáo dục mang
tính hình thức, phong trào không đem lại hiệu quả thực tế.
+ Giáo dục pháp luật không chỉ đơn thuần là cung cấp những kiến thức
lý luận, nội dung pháp luật cần nhận thức cho nhân dân mà về mặt thực tiễn
cần coi trọng việc mở rộng dân chủ, minh bạch hoá các hoạt động nhà nước,
đề cao trách nhiệm cá nhân trước các hoạt động pháp lý. Đồng thời, tăng
cường đấu tranh phòng chống vi phạm pháp luật, xử lý kịp thời, nghiêm minh
và công bằng đối với mọi vi phạm.
+ Phát triển hệ thống khoa học pháp lý; mở rộng, đi sâu nghiên cứu đầy
đủ hơn về khoa học giáo dục pháp luật.
Tóm lại: Giáo dục pháp luật là một hoạt động cơ bản, có tầm quan
trọng đặc biệt đối với quá trình nâng cao ý thức pháp luật. Nếu học tập, hiểu
biết pháp luật được xác định là quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của mọi công
dân thì giáo dục, tuyên truyền, giải thích pháp luật là những nhiệm vụ không
thể thiếu của mọi nhà nước. Trên thực tế, xử sự hợp pháp của mọi chủ thể, sự
hiểu biết pháp luật và ý thức sống theo pháp luật của mọi công dân chính là
thước đo chất lượng, hiệu quả của hoạt động giáo dục pháp luật.
Giáo dục pháp luật bao hàm cả phổ biến pháp luật được hiểu theo các
nội dung sau:
Thứ nhất, hoạt động giáo dục pháp luật là sự tác động của nhân tố chủ
quan mà trước hết là hoạt động giáo dục định hướng, có tổ chức, có chủ định
thành một hệ thống của nhiều chủ thể (các cơ quan Đảng, Nhà nước, các tổ

chức xã hội...)
Thứ hai, giáo dục pháp luật là hình thức giáo dục cụ thể. Giáo dục pháp
luật có những nét đặc thù khác một cách tương đối với các dạng giáo dục
khác ở các điểm sau:
+ Một là, giáo dục pháp luật có mục đích riêng của mình. Đó là hoạt
13


động nhằm hình thành tri thức, tình cảm và thói quen xử sự phù hợp với quy
định của pháp luật, làm cho công dân tự giác tuân thủ pháp luật, có ý thức
pháp luật cao, góp phần tăng cường hiệu quả của pháp luật.
+ Hai là, giáo dục pháp luật có nội dung riêng là truyền tải tri thức của nhân
loại nói chung, của Nhà nước nói riêng về Nhà nước và pháp luật mà trong đó
pháp luật thực định hiện hành của Nhà nước là bộ phận cơ bản quan trọng nhất.
+ Ba là, xét trên các yếu tố đối tượng, hình thức và phương pháp của
giáo dục pháp luật cũng có nét riêng. Chẳng hạn như so với các dạng giáo dục
khác thì giáo dục pháp luật là quá trình tác động thường xuyên, liên tục, lâu
dài hơn chứ không phải là sự tác động một lần của chủ thể lên đối tượng giáo
dục. Vì thế, giáo dục pháp luật trở thành sợi chỉ đỏ xuyên qua gia đình, trường
học, các tập thể lao động, các tổ chức Đảng, Nhà nước và Đoàn thể xã hội.
Nhân tố con người với hành vi và hoạt động hợp pháp đóng vai trò chủ đạo
trong quá trình tác động qua lại giữa những người giáo dục (chủ thể) với
người được giáo dục (đối tượng). Người được giáo dục là người chịu sự tác
động có tổ chức, định hướng của các thông tin pháp luật. Vì thế, một vấn đề
đặt ra là người giáo dục phải hiểu được trình độ, đặc biệt là đặc điểm nhân
thân của người được giáo dục pháp luật. Đồng thời, người giáo dục cần phải
nắm vững tri thức pháp luật, biết cách truyền tải nó và là tấm gương, là hình
mẫu trong việc tuân theo pháp luật.
Từ những phân tích trên có thể kết luận: Phổ biến, giáo dục pháp luật
là những hoạt động định hướng có tổ chức, có chủ định của chủ thể làm công

tác phổ biến, giáo dục pháp luật tác động lên đối tượng được phổ biến, giáo
dục pháp luật một cách có hệ thống và thường xuyên nhằm mục đích hình
thành ở họ tri thức pháp lý, tình cảm và hành vi phù hợp với các đòi hỏi của
hệ thống pháp luật hiện hành.
Đối với công tác phổ biến, giáo dục pháp luật ở cơ sở có thể đưa ra
14


khái niệm: Hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật ở cơ sở nhằm phổ biến
pháp luật của nhà nước, các văn bản quy phạm pháp luật của địa phương,
chú trọng những văn bản liên quan trực tiếp đến đời sống người dân, phản
ánh thực tiễn thi hành pháp luật, giải đáp những kiến nghị của người dân địa
phương, qua đó giáo dục quyền con người, quyền được tôn trọng và bảo vệ
đến người dân ở cơ sở.
1.1.2. Cơ sở pháp lý của việc phổ biến, giáo dục pháp luật ở cơ sở
Trong những năm qua, nhiều Nghị quyết quan trọng của Ban chấp hành
Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, đặc biệt là các Nghị quyết Đại hội VI,
VII, IX, X đã xác định tầm quan trọng và trách nhiệm của các cơ quan Đảng,
Nhà nước và tổ chức xã hội trong việc tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật.
Chẳng hạn, Chỉ thị 32/ CT –TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong
công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của
cán bộ, nhân dân của Ban chấp hành Trung ương Đảng được ban hành ngày
9/12/2003 đã nêu rõ:
Trước yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân, công tác phổ biến giáo dục pháp luật cần được tăng
cường thường xuyên, liên tục và ở tầm cao hơn, nhằm làm cho các cán
bộ và nhân dân hiểu biết và chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, thông
qua đó kiểm tra, giám sát việc thi hành pháp luật. [1].
Để thực hiện được nhiệm vụ trên, khâu đầu tiên có ý nghĩa hết sức quan

trọng là phải phổ biến, giáo dục pháp luật rộng khắp, với mọi phương tiện hiện
có của Nhà nước, và phải là trách nhiệm, là nghĩa vụ của tất cả các cơ quan Nhà
nước, tổ chức xã hội và của mọi công dân; Đồng thời, công tác phổ biến, giáo
dục pháp luật phải được tiến hành thường xuyên, có nề nếp, có hiệu quả. Trên cơ
sở Hiến pháp 1992, cùng với việc Quốc hội thông qua các Luật như Luật tổ
15


chức Quốc hội, Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân và Viện
Kiểm sát nhân dân…, các Nghị định về Chức năng, nhiệm vụ, tổ chức và hoạt
động của các cơ quan thuộc Chính phủ cũng được ban hành kịp thời tạo thành cơ
sở pháp lý cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật. Có thể nói, chưa bao giờ
các vấn đề xã hội được “luật hóa” rộng rãi như hiện nay. Công tác xây dựng
pháp luật, thực hiện và bảo vệ pháp luật là nhiệm vụ theo luật định của nhiều cơ
quan Nhà nước, tổ chức xã hội. Do đó, việc nghiên cứu xác định đúng nhiệm vụ
tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật trên cơ sở phân tích cơ sở pháp lý của
hoạt động quản lý Nhà nước về tuyên truyền, PBGDPL là cần thiết và có ý nghĩa
quan trọng trong toàn bộ hoạt động giáo dục pháp luật để nâng cao dân trí pháp
luật cho cán bộ và nhân dân. Điều đó được thể hiện:
Theo Hiến pháp 1992, Quốc hội có nhiệm vụ và quyền làm Hiến pháp,
Luật, sửa đổi Hiến pháp, Luật; quyết định chương trình xây dựng Hiến pháp,
Luật; thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo pháp luật; còn Hội đồng
nhân dân có nhiệm vụ bảo đảm thi hành nghiêm chỉnh Hiến pháp và Luật ở địa
phương. Đại biểu Quốc hội và Đại biểu Hội đồng nhân dân có nhiệm vụ phổ biến
và vận động nhân dân thực hiện Hiến pháp, luật và Nghị quyết của Quốc hội
Sự lãnh đạo của các cơ quan quyền lực Nhà nước đối với công tác PB,
GDPL dựa trên các nhiệm vụ Hiến định nêu trên và đồng thời cũng chính là
cơ sở pháp lý quan trọng để xác định nội dung lãnh đạo của cơ quan quyền
lực Nhà nước ở địa phương đối với công tác phổ biến, giáo dục pháp luật.
Theo Điều 112 của Hiến pháp 1992, Chính phủ có nhiệm vụ và quyền

hạn tổ chức và lãnh đạo công tác phổ biến, giáo dục Hiến pháp và pháp luật
trong nhân dân; UBND chịu trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, Luật, các văn
bản của cơ quan Nhà nước cấp trên mà cao nhất là Chính phủ.
Ngày 7/1/1998, Thủ tướng Chính phủ đã ra Chỉ thị số 02/CT – TTg về
việc tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong giai đoạn hiện

16


nay. Chỉ thị nêu rõ: “Uỷ ban nhân dân các cấp có trách nhiệm thường xuyên
chỉ đạo, tổ chức kiểm tra thực hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp luật
trong phạm vi địa phương mình”[19, tr.4]. Ngày 17/1/2003, Quyết định số
13/2003/QĐ - TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình phổ
biến, giáo dục pháp luật từ năm 2003 - 2007 được ban hành. Quyết định nêu
rõ mục tiêu:
Phổ biến kịp thời, đầy đủ những nội dung pháp luật liên quan đến
cuộc sống của các tầng lớp nhân dân, tạo điều kiện để công dân sử
dụng pháp luật làm phương tiện, công cụ bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình, của nhà nước và xã hội. Nâng cao ý thức tự giác, chủ
động tìm hiểu và chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân. Tạo bước
phát triển mới trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật để hỗ trợ tích
cực hơn nữa nhu cầu hiểu biết pháp luật, nâng cao dân trí pháp lý trong
cán bộ, nhân dân, góp phần thực hiện nhiệm vụ phát triển toàn diện con
người Việt Nam, nâng cao kỷ luật, kỷ cương trong bộ máy nhà nước và
trong xã hội, bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, giữ vững
định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, xây
dựng Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân và vì dân, phục
vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. [22].
Hiến pháp 1992 khẳng định tại điều 9:
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên là cơ sở

chính trị của chính quyền nhân dân. Mặt trận phát huy truyền thống
đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong
nhân dân, tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân, cùng
Nhà nước chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, động
viên nhân dân thực hiện quyền làm chủ, nghiêm chỉnh thi hành Hiến
pháp và pháp luật, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu
dân cử và cán bộ, viên chức Nhà nước. [20].
17


Đối với chính quyền địa phương, phổ biến, giáo dục pháp luật được coi là
nhiệm vụ quan trọng. Ủy ban nhân dân các cấp, đặc biệt là cấp xã (gọi chung cho
các phường, thị trấn) có trách nhiệm tổ chức việc thực hiện pháp luật trên địa bàn,
tiếp công dân trực tiếp, lắng nghe ý kiến người dân tại cơ sở. Luật Tổ chức Hội
đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003 quy định trong lĩnh vực thi hành
pháp luật, Hội đồng nhân dân cấp xã quyết định biện pháp bảo đảm thi hành Hiến
pháp, luật, các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của mình ở
địa phương. UBND cấp huyện có trách nhiệm chỉ đạo, tổ chức công tác tuyên
truyền, giáo dục pháp luật, kiểm tra việc chấp hành Hiến pháp, luật, các văn bản
quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên và Nghị quyết của Hội đồng
nhân dân cùng cấp. Trong cơ cấu của UBND cấp xã, cán bộ Tư pháp luôn giữ vai
trò chủ đạo, tham mưu giúp UBND cấp xã tổ chức, phổ biến giáo dục pháp luật.
Xã, phường là đơn vị hành chính cấp cơ sở, nơi trực tiếp truyền bá
đường lối chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước tới nhân dân và
hướng dẫn tư tưởng, nhận thức, tình cảm của đông đảo quần chúng nhằm thực
hiện thắng lợi của các chính sách, pháp luật luật đó. Trong bộ máy chính
quyền cấp xã, phường, thì Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực Nhà nước
ở xã và Uỷ ban nhân dân là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, là cơ
quan hành chính Nhà nước cấp xã. Theo Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và
UBND thì trong lĩnh vực thi hành pháp luật, Hội đồng nhân dân cấp xã có

quyền quyết định biện pháp bảo đảm thi hành Hiến pháp, Luật, các văn bản
của cơ quan Nhà nước cấp trên ở địa phương; UBND xã, phường, thị trấn có
nhiệm vụ, quyền hạn là tổ chức tuyên truyền pháp luật ở địa phương.
Cơ sở pháp lý quan trọng của công tác phổ biến giáo dục pháp luật
được ghi dấu ấn bằng Luật Phổ biến giáo dục pháp luật số 14/2012/QH13.
Tiếp theo là Nghị định số 28/2013/NĐ-CP ngày 4/4/2013 quy định chi tiết
một số điều và biện pháp thi hành Luật phổ biến, giáo dục pháp luật.
18


×