Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

Vai trò của truyền thông đại chúng trong kiểm soát quyền lực nhà nước ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (784.94 KB, 104 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-------------------------------

TÔ THỊ OANH

VAI TRÒ CỦA TRUYỀN THÔNG ĐẠI CHÚNG TRONG
KIẾM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

HÀ NỘI – 2012

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-------------------------------

TÔ THỊ OANH

VAI TRÒ CỦA TRUYỀN THÔNG ĐẠI CHÚNG TRONG
KIẾM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Chuyên ngành : Chính trị học
Mã số

: 60 31 20



Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Lưu Văn An

HÀ NỘI – 2012

2


MỤC LỤC

Trang
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 5
Chương 1. VAI TRÒ CỦA TRUYỀN THÔNG ĐẠI CHÚNG
TRONG KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC - MỘT SỐ
VẤN ĐỀ LÝ LUẬN .................................................................................... 14
1.1. Một số vấn đề về truyền thông đại chúng trong chính trị ....................... 14
1.2. Một số vấn đề về kiểm soát quyền lực nhà nước.................................... 25
1.3. Vị trí, vai trò của truyền thông đại chúng trong kiểm soát quyền
lực nhà nước ................................................................................................. 33
Chương 2. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT HUY VAI
TRÒ CỦA TRUYỀN THÔNG ĐẠI CHÚNG TRONG KIỂM
SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM ................................... 41
2.1. Đặc điểm truyền thông đại chúng và các cơ quan quyền lực nhà
nước Việt Nam hiện nay ............................................................................... 41
2.2. Thực trạng vai trò của truyền thông đại chúng trong kiểm soát
quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay ..................................................... 50
2.3. Một số giải pháp phát huy vai trò của truyền thông đại chúng
trong kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam .......................................... 76
KẾT LUẬN ................................................................................................. 96
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................. 100


3


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
TTĐC

: Truyền thông đại chúng

QLNN

: Quyền lực nhà nước

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa

VH - TT

: Văn hóa - Thông tin

Nxb

: Nhà xuất bản

CTQG

: Chính trị quốc gia

4



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ xưa tới nay, quyền lực nhà nước (QLNN) và kiểm soát QLNN đã và
đang là vấn đề quan tâm hàng đầu của các nhà chính trị ở tất cả các quốc gia.
Kiểm soát QLNN là việc thiết kế, tổ chức và thực thi QLNN sao cho đạt được
mục đích chung và đạt được hiệu quả cao nhất. Để có thể kiểm soát được
QLNN cần có cơ chế xác định và các điều kiện cần thiết cho sự vận hành của
nó trên thực tế. Cơ chế đó bao gồm kiểm soát bên ngoài và kiểm soát bên
trong các cơ quan nhà nước.
Ở nước ta hiện nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng, bộ máy nhà nước ngày
càng được đổi mới, hoàn thiện theo hướng Nhà nước pháp quyền XHCN, tuy
nhiên vấn đề kiểm soát QLNN vẫn còn nhiều bất cập. Ở một số nơi đã xuất
hiện nguy cơ cán bộ, công chức nhà nước không thực hiện đúng chức trách
của mình, quan liêu, tham nhũng, hạch sách nhân dân, đánh mất bản chất cách
mạng chân chính của mình. Một số lượng lớn tài sản của quốc gia và của
nhân dân bị những người có quyền lực chiếm đoạt. Có những đơn vị nhà nước
làm thất thoát tài sản công lên đến hàng nghìn tỷ đồng. Một số quan chức nhà
nước đã và đang tiếp tục làm giàu bất chính, gây hậu quả xấu cho xã hội, làm
suy yếu mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân. Niềm tin của một bộ
phận không nhỏ quần chúng nhân dân vào Đảng, vào chế độ xã hội chủ nghĩa
(XHCN) có chiều hướng suy giảm. Đánh giá về vấn đề này, Đảng ta thẳng
thắn chỉ rõ: “Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống
trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tình trạng tham nhũng,
lãng phí, quan liêu, những tiêu cực và tệ nạn xã hội chưa được ngăn chặn, đẩy
lùi mà còn tiếp tục diễn biến phức tạp…” [16, tr.173]
Do đó, yêu cầu đặt ra cấp bách là cần có sự kiểm soát QLNN một cách
đồng bộ cả từ bên trong và từ bên ngoài để ngăn chặn những hiện tượng tiêu


5


cực của các cơ quan nhà nước và đội ngũ cán bộ công chức nhà nước. Với tư
cách là một thiết chế, đồng thời là một phương thức kiểm soát QLNN từ bên
ngoài, truyền thông đại chúng (TTĐC) có vai trò đặc biệt quan trọng. Thông
qua việc tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước vào cuộc sống, phát hiện và biểu dương những nhân tố mới,
cổ vũ những phong trào thi đua yêu nước, góp phần phát hiện và có thái độ
đấu tranh kiên quyết đối với các biểu hiện tiêu cực trong xã hội, TTĐC vừa
là chủ thể quan trọng của đời sống chính trị, vừa là phương tiện thực hiện
các mục tiêu chính trị. Có thể nói ở nước ta chưa bao giờ TTĐC lại phát
triển mạnh mẽ và có vai trò to lớn như hiện nay. Đánh giá tầm quan trọng
của TTĐC đối với sự nghiệp cách mạng, tại Đại hội IX Đảng ta nhấn mạnh:
“Báo chí, xuất bản làm tốt chức năng tuyên truyền, thực hiện đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước” [15, tr.91]. Đến Đại hội XI,
Đảng ta chỉ rõ: “Chú trọng nâng cao tính tư tưởng, phát huy mạnh mẽ chức
năng thông tin, giáo dục, tổ chức và phản biện xã hội của các phương tiện
thông tin đại chúng vì lợi ích của nhân dân và đất nước…” [16, tr.225], và
“Coi trọng và nâng cao vai trò của các cơ quan dân cử, của Mặt trận Tổ
quốc, các đoàn thể nhân dân, các phương tiện thông tin đại chúng và của
nhân dân trong việc giám sát cán bộ, công chức, phát hiện, đấu tranh chống
tham nhũng, lãng phí…”[16, tr.254]
Vì những lý do trên, tác giả chọn vấn đề “Vai trò của TTĐC trong
kiểm soát QLNN ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sỹ chuyên
ngành Chính trị học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cho đến nay đã có khá nhiều công trình khoa học đề cập đến TTĐC,
vai trò của TTĐC trong chính trị; về kiểm soát quyền lực chính trị nói chung,
kiểm soát QLNN nói riêng. Có thể chia thành các nhóm công trình như sau:


6


- Thứ nhất, nhóm công trình về TTĐC và vai trò của TTĐC trong đời
sống chính trị, tiêu biểu là:
+ Ph.Breton, S.Proulx (1996), Bùng nổ truyền thông, sự ra đời một ý
thức hệ mới, Nxb VH-TT, Hà Nội. Đây là công trình nghiên cứu sâu sắc về
lịch sử truyền thông, từ thời có chữ viết, thời kỳ cổ đại đến thời Phục hưng,
sự phát triển của các thể loại báo chí, đến sự xâm nhập của các phương tiện
truyền thông và các kỹ thuật truyền thông mới: radio, máy điện toán, truyền
hình, điện thoại, sự phát triển của điều khiển học, các lĩnh vực mới của
truyền thông; quảng cáo, tiêu thụ và vô tuyến truyền hình, các phương tiện
thông tin đại chúng, xã hội học chính trị của truyền thông; đồng thời các tác
giả đã dành thời lượng khá lớn phân tích các thách thức của truyền thông:
tranh luận chính trị và thủ pháp truyền thông, các tranh chấp kinh tế của các
kỹ thuật truyền thông…
+ Dương Xuân Sơn (1996), Báo chí nước ngoài, Nxb Văn hóa Thông
tin, Hà Nội. Cuốn sách giới thiệu khái quát về nền báo chí- lịch sử hình thành
và phát triển, tình hình kinh tế- xã hội, các phương tiện thông tin đại chúng;
cơ cấu và các điều kiện phát triển báo chí các nước: Anh, Đức, Pháp, Tây Ban
Nha, Mỹ, Hà Lan, Thụy Điển…
+ Tạ Ngọc Tấn (2001), Truyền thông đại chúng, Nxb CTQG, Hà Nội.
Công trình này trình bày khá toàn diện về các mặt, các lĩnh vực, các vấn đề
của truyền thông đại chúng, như: truyền thông và truyền thông đại chúng;
sách và xuất bản sách; báo in; phát thanh, truyền hình, quảng cáo; các loại
hình truyền thông đại chúng khác (điện ảnh, hãng tin tức và internet); những
vấn đề truyền thông đại chúng trong thế giới hiện đại; lãnh đạo quản lý và
giao tiếp với các phương tiện truyền thông đại chúng.
+ Mikhailốp X.A (2004), Báo chí hiện đại nước ngoài: những quy tắc

và nghịch lý, Nxb Thông tấn, Hà Nội. Cuốn sách dịch từ tiếng Nga là một

7


trong số sách nghiệp vụ báo chí được xuất bản nhằm đào tạo, bồi dưỡng
những kiến thức cơ bản về báo chí. Nội dung công trình này đề cập đến các
vấn đề: báo chí và xã hội, những xu hướng phát triển của báo chí trên thế giới,
luật pháp và sự tự điều chỉnh của báo chí, những đặc điểm dân tộc trong sự
phát triển của báo chí.
+ Lê Thanh Bình (2008), Truyền thông đại chúng và phát triển xã hội,
Nxb CTQG, Hà Nội. Cuốn sách tập trung làm rõ các vấn đề: Truyền thông đại
chúng tham gia quản lý xã hội: các vấn đề chung và những lĩnh vực đặc thù
trong thời đại khoa học- công nghệ phát triển, hội nhập quốc tế; vai trò ngành
quan hệ công chúng; từ quan điểm truyền thông đại chúng phân tích các nhân
vật, tác phẩm, sự kiện điển hình. Đồng thời cuốn sách cũng phân tích vai trò
của truyền thông đại chúng trong chống tham nhũng trên thế giới…
+ Nguyễn Văn Dững (2011), Báo chí và dư luận xã hội, Nxb Lao động,
Hà Nội. Công trình nghiên cứu khá sâu về mối quan hệ giữa báo chí và dư
luận xã hội, phân tích bản chất dư luận xã hội, bản chất hoạt động báo chí, đặc
điểm báo chí hiện đại; mối quan hệ tác động của báo chí và dư luận xã hội; cơ
chế tác động của báo chí vào dư luận xã hội; vai trò của nhà báo trong quan
hệ với dư luận xã hội.
- Vũ Đình Hòe (chủ biên) (2000), Truyền thông đại chúng trong công
tác lãnh đạo, quản lý, Nxb CTQG, Hà Nội. Cuốn sách giới thiệu những vấn
đề lý luận cơ bản về truyền thông và truyền thông đại chúng, các phương
tiện truyền thông đại chúng, những vấn đề về truyền thông đại chúng hiện
đại. Điểm đáng lưu ý nhất là các tác giả đã phân tích vấn đề lãnh đạo, quản
lý và ứng xử với các phương tiện truyền thông đại chúng: mục đích và
nguyên tắc, mối quan hệ giữa sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà

nước đối với các phương tiện truyền thông đại chúng, luật pháp với các
phương tiện truyền thông đại chúng, hoạch định chính sách và chiến lược

8


phát triển truyền thông đại chúng; giao tiếp ứng xử và thông tin từ các
phương tiện truyền thông đại chúng.
- Lưu Văn An (2008), Truyền thông đại chúng trong hệ thống tổ chức
quyền lực chính trị ở các nước tư bản phát triển, Nxb LLCT, Hà Nội. Công
trình phân tích các vấn đề: lý luận về truyền thông đại chúng trong chính trị,
khái quát các khái niệm cơ bản của truyền thông, tình hình phát triển truyền
thông đại chúng ở các nước phương Tây; vai trò của truyền thông đại chúng
trong hoạt động của hệ thống tổ chức quyền lực chính trị các nước tư bản phát
triển: đảng, nhà nước, các tổ chức chính trị xã hội. Đồng thời tác giả đã đánh
giá những giá trị, hạn chế của truyền thông đại chúng trong hệ thống tổ chức
quyền lực chính trị ở các nước tư bản phát triển và ý nghĩa đối với phát triển
truyền thông đại chúng Việt Nam.
Ngoài ra, đề cập đến chủ đề này còn có nhiều công trình, tài liệu khác
như: Tạ Ngọc Tấn (1999), Từ lý luận đến thực tiễn báo chí, Nxb Văn hóaThông tin, Hà Nội; Nguyễn Đức Bình (2001), Một số vấn đề về công tác lý
luận, tư tưởng và văn hóa, Nxb CTQG, Hà Nội; Schudson M. (2003), Sức
mạnh của tin tức truyền thông, Nxb CTQG, Hà Nội; Luật Báo chí và các văn
bản hướng dẫn thi hành (2004), Nxb CTQG, Hà Nội; E.P.Prokhorop (2004),
Cơ sở lý luận của báo chí, Nxb Thông tấn, T.1, Hà Nội; Vũ Quang Hào
(2004), Báo chí và đào tạo báo chí ở Thụy Điển, Bộ Văn hóa Thông tin, Hà
Nội; Lê Thanh Bình (2005), Báo chí truyền thông và kinh tế, văn hóa- xã hội,
Nxb VH-TT, Hà Nội; Minh Đức (chủ biên) (2007), Báo chí những vấn đề lý
luận và thực tiễn, Nxb ĐHQG Hà Nội; Đinh Thị Thúy Hằng (2008), Báo chí
thế giới xu hướng phát triển, Nxb Thông tấn...
- Thứ hai, nhóm công trình về kiểm soát QLNN, tiêu biểu là:

+ Trịnh Thị Xuyến (2008), Kiểm soát QLNN ở Việt Nam hiện nay - Một
số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb CTQG, Hà Nội. Công trình tập trung vào

9


làm rõ các vấn đề: cơ sở lý luận về kiểm soát QLNN; thực tiễn kiểm soát
QLNN ở một số quốc gia tiêu biểu; thực tiễn kiểm soát QLNN ở Việt Nam,
những mâu thuẫn, bất cập trong kiểm soát QLNN mà Việt Nam đang và sẽ
phải giải quyết trong tiến trình phát triển; Phương hướng và những giải pháp
chủ yếu cho kiểm soát QLNN ở Việt Nam.
+ Lưu Văn An (2010), Quyền lực chính trị và hệ thống tổ chức quyền
lực chính trị - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn (Báo cáo tổng hợp kết quả
nghiên cứu đề tài cấp cơ sở, Học viện CT-HC QG Hồ Chí Minh). Đây là
những công trình làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về quyền lực, quyền lực
chính trị, kiểm soát quyền lực chính trị; phân tích vị trí, vai trò và mối quan
hệ của Đảng, nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống tổ
chức quyền lực chính trị nói chung, của Việt Nam nói riêng.
+ Đào Trí Úc (chủ biên) (2003), Giám sát và cơ chế giám sát việc thực
hiện QLNN ở nước ta hiện nay, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, Cơ chế giám
sát của nhân dân đối với hoạt động của bộ máy Đảng và Nhà nước - Một số
vấn đề lý luận và thực tiễn (2010), Nxb CTQG, Hà Nội; Nguyễn Văn Thanh
(2003), Thực hiện chức năng giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đối với
hoạt động của các cơ quan nhà nước ở nước ta hiện nay (Luận văn thạc sỹ)...
Phạm Ngọc Kỳ (2001), Về quyền giám sát tối cao của Quốc hội, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội,… là những công trình chú trọng nghiên cứu cơ chế và
các hình thức kiểm tra, giám sát xã hội, kinh nghiệm phối hợp các cơ chế và
hình thức này với các cơ chế và hình thức kiểm tra, giám sát của Nhà nước
trong quá trình tổ chức thực hiện quyền lực chính trị, QLNN; nghiên cứu vấn
đề kiểm tra, giám sát của của các cơ quan Nhà nước (như Quốc hội, Chính

phủ, Viện Kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân) và các tổ chức ngoài Nhà
nước như Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.
- Thứ ba, nhóm công trình về vai trò của TTĐC trong kiểm soát QLNN,
tiêu biểu là:

10


+ Trần Quang Nhiếp (chủ biên) (năm 2005), Nâng cao hiệu quả của
báo chí trong cuộc đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng ở nước ta hiện
nay, Nxb CTQG, Hà Nội. Công trình đã cung cấp cho chúng ta những nghiên
cứu về báo chí với chống quan liêu, tham nhũng; thực trạng của việc nâng cao
hiệu quả của báo chí trong đấu tranh cống quan liêu, tham nhũng ở nước ta
hiện nay và những biện pháp chính nhằm nâng cao hiệu quả của báo chí trong
cuộc đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng ở nước ta hiện nay.
+ Trần Danh Lân (năm 2007), Báo chí trong công cuộc đấu tranh
chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay (Luận văn thạc sỹ). Công trình nghiên
cứu về lý luận và thực tiễn bảo chất, chức năng, vai trò và nhiệm vụ của báo
chí Việt Nam hiện đại trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng; những thành
tựu và hạn chế của báo chí và đội ngũ các nhà báo nước ta trong cuộc đấu
tranh chống tham nhũng qua hơn 20 năm Đổi mới, nhất là trong những năm
gần đây; phân tích những nguyên nhân khách quan và chủ quan cùng những
bài học kinh nghiệm đã tạo nên những thành tựu của báo chí và các nhà báo
nước ta trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng; đưa ra các giải pháp nhằm
tiếp tục nâng cao và phát huy tác dụng, hiệu quả của báo chí nước ta trong
cuộc đấu tranh chống tham nhũng.
Như vậy, có thể khẳng định rằng, cho đến nay vẫn chưa có công trình
chuyên sâu nào nghiên cứu về TTĐC trong kiểm soát QLNN ở Việt Nam một
cách có hệ thống. Đây chính là “mảnh đất trống” để tác giả có thể tiếp tục
nghiên cứu và bước đầu đưa ra những nhận định của cá nhân mình về vai trò

của TTĐC trong kiểm soát QLNN ở Việt Nam hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài
3.1. Mục đích
Trên cơ sở làm rõ một số vấn đề lý luận và khảo sát thực trạng vai trò
của TTĐC trong kiểm soát QLNN ở Việt Nam hiện nay, tác giả luận văn đề

11


xuất một số giải pháp nhằm phát huy vai trò của TTĐC trong kiểm soát
QLNN ở nước ta trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện mục đích trên, tác giả tập trung giải quyết các nhiệm vụ
cơ bản sau đây:
- Hệ thống hóa và làm rõ một số vấn đề lý luận về TTĐC, kiểm soát
QLNN, vai trò của TTĐC trong kiểm soát QLNN.
- Khảo sát thực trạng TTĐC tham gia kiểm soát QLNN ở Việt Nam
thời gian qua.
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò của TTĐC
trong kiểm soát QLNN ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, tác giả xác định đối tượng nghiên cứu là vai trò
của TTĐC trong kiểm soát QLNN với tư cách là một cơ chế kiểm soát quyền
lực từ bên ngoài nhà nước.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Đề tài tập trung nghiên cứu vai trò của TTĐC trong kiểm soát QLNN
ở Việt Nam từ năm 2000 đến nay, thông qua khảo sát ấn phẩm của một số cơ
quan TTĐC: các đài: Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Phát thanh - Truyền
hình Hà Nội; các báo: Nhân dân, Lao động, Thanh niên, Tiền phong, Công an

Thành phố Hồ Chí Minh, Pháp luật và Đời sống; báo mạng điện tử: Đảng
Cộng sản Việt Nam, Vietnam.net, Dantri; các tạp chí: Lý luận chính trị, Nhà
nước và Pháp luật, Cộng sản, Quản lý Nhà nước.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả luận văn dựa vào chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản

12


Việt Nam về TTĐC, về nhà nước, QLNN, thực thi và kiểm soát QLNN… để
luận giải, phân tích các vấn đề lý luận và thực tiễn.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận của đề tài là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử. Trong quá trình thực hiện luận văn, tác giả sử dụng các
phương pháp: hệ thống- cấu trúc, lôgic - lịch sử, phân tích - tổng hợp, so sánh,
thống kê, nghiên cứu tài liệu…
6. Những đóng góp về khoa học của đề tài
- Đề tài hệ thống hóa những vấn đề lý luận và thực tiễn của TTĐC
trong kiểm soát QLNN và vai trò của TTĐC đối với vấn đề này ở Việt Nam
hiện nay.
- Đánh giá những mặt tích cực và hạn chế của hoạt động này, đồng thời
đưa ra một số giải pháp nhằm tăng cường vai trò của TTĐC trong kiểm soát
QLNN ở Việt Nam trong thời kỳ xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và
hội nhập quốc tế.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
7.1. Ý nghĩa lý luận
Đề tài góp phần luận giải và làm rõ những vấn đề lý luận về TTĐC,
hoạt động kiểm soát QLNN ở Việt Nam và vai trò của TTĐC đối với hoạt
động này ở Việt Nam hiện nay.

7.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các nhà lãnh
đạo, quản lý, cán bộ các cơ quan TTĐC.
Luận văn cũng có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho giảng
dạy và nghiên cứu Chính trị học, Báo chí học.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu thành 2 chương, 6 tiết.

13


Chương 1
VAI TRÒ CỦA TRUYỀN THÔNG ĐẠI CHÚNG TRONG KIỂM SOÁT
QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
1.1. Một số vấn đề về truyền thông đại chúng trong chính trị
1.1.1. Khái niệm và chức năng của truyền thông đại chúng
1.1.1.1. Khái niệm truyền thông đại chúng
Trong thời đại ngày nay, dưới tác động của toàn cầu hóa, của cuộc cách
mạng khoa học - công nghệ, TTĐC trở thành một hiện tượng đặc biệt phổ
biến, tác động từng ngày, từng giờ vào các mối quan hệ xã hội, có ảnh hưởng
tới từng địa phương, từng tổ chức, từng thành viên trong xã hội. Sự hội nhập,
tương tác, liên thông giữa các lĩnh vực, các ngành, các mặt trong đời sống
diễn ra rất đa dạng, phức tạp, nhanh chóng kéo theo nhu cầu mở rộng quy mô,
phạm vi, hình thức hoạt động của các phương tiện truyền thông. Với những
tiềm năng to lớn, các phương tiện TTĐC được sử dụng ngày càng nhiều vào
các mục đích kinh tế, chính trị, xã hội khác nhau. Có thể nói trong xã hội hiện
đại không một tổ chức, lực lượng chính trị - xã hội nào lại không sử dụng
TTĐC như một phương tiện để thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ của mình.
TTĐC là một khái niệm có nội hàm rộng, hiện nay trong giới khoa học

chưa có định nghĩa thống nhất. Từ nhiều góc độ, cách tiếp cận khác nhau (cơ
chế tác động, chức năng, mục đích sử dụng…) mà TTĐC được hiểu khác nhau.
Thông tin (danh từ) là những điều hiểu biết, tri thức thu được qua
nghiên cứu, khảo sát hoặc trao đổi giữa các đối tượng với nhau. Thông tin
(động từ) còn được hiểu là truyền tin cho nhau để biết
Báo chí theo nghĩa rộng là TTĐC, nghĩa hẹp là một loại hình của
TTĐC. Đó là cơ quan ngôn luận của các tổ chức đảng, cơ quan nhà nước, tổ
chức xã hội, là diễn đàn của nhân dân. Nó có tính định kỳ, đáp ứng nhu cầu
thông tin nhanh chóng, đa dạng, chính xác của quảng đại quần chúng.

14


Truyền thông theo tiếng Anh (communication) là sự truyền đạt, thông
tin, thông báo, giao tiếp, trao đổi, liên lạc, giao thông… Đó là quá trình trao
đổi thông điệp giữa các thành viên hay các nhóm người trong xã hội nhằm đạt
được sự hiểu biết lẫn nhau, để từ đó chia sẻ ý tưởng hay hành động vì một
mục đích nhất định. Theo nguyên nghĩa gốc Latinh, truyền thông (commune)
có nghĩa là chung hay cộng đồng. Nội hàm của nó là nội dung, cách thức, con
đường, phương tiện để đạt đến sự hiểu biết lẫn nhau, giữa cá nhân với cá
nhân, cá nhân với cộng đồng, xã hội.
Đại chúng (mass) là đông đảo quần chúng nhân dân trong phạm vi
quốc gia, quốc tế.
Các phương tiện thông tin đại chúng là các phương tiện truyền tải thông
tin đến công chúng, bao gồm: báo, tạp chí, đài truyền hình, đài phát thanh,
internet… Theo nghĩa rộng, các phương tiện thông tin đại chúng là các thiết
chế xã hội đặc thù với sự trợ giúp của các công cụ kỹ thuật đặc biệt nhằm
chuyển tải thông tin đến đông đảo công chúng. Các phương tiện thông tin đại
chúng như truyền hình, đài phát thanh, báo chí và gần đây là máy vi tính tạo ra
những mắt xích quan trọng nối người này với người khác. Những phương tiện

này có một đặc tính quan trọng là có khả năng truyền đạt nhiều thông điệp từ
một nguồn đơn lẻ đến rất nhiều người khác nhau trong cùng một lúc.
TTĐC là hoạt động chuyển giao các thông tin có tính phổ biến trong xã
hội một cách rộng rãi và công khai thông qua các phương tiện thông tin đại
chúng. Lĩnh vực hoạt động giao tiếp của TTĐC rất rộng, bao trùm các lĩnh
vực của đời sống xã hội. Bản thân thuật ngữ TTĐC gợi mở cho thấy quá trình
và hoạt động, quy mô và phạm vi truyền thông: đại chúng về nguồn phát (nhà
báo, chính khách, doanh nghiệp, chuyên gia, công chúng…); đại chúng về
phương tiện truyền tải, kênh truyền tin và công nghệ thông tin (sách, báo, tạp
chí, phát thanh, truyền hình, điện ảnh, internet, truyền thông đa phương tiện,

15


kỹ thuật truyền sóng, kỹ thuật số…); đại chúng về đối tượng tiếp nhận thông
tin (là các nhóm, cộng đồng xã hội đủ mọi giới, nam, nữ, nghề nghiệp, dân
tộc, tôn giáo…); đại chúng về hiệu quả, phạm vi ảnh hưởng (không chỉ bó hẹp
trong vùng, khuôn khổ một quốc gia dân tộc mà còn vượt ra cả khu vực, thậm
chí toàn cầu).
TTĐC gồm hai yếu tố cấu thành là chủ thể và đối tượng. Chủ thể
TTĐC lại bao gồm chủ thể quản lý và chủ thể thực hiện. Chủ thể quản lý là cơ
quan nhà nước, tổ chức đảng, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế… Các chủ thể
này thiết lập cơ quan quản lý, định hướng hoạt động, định hướng tư tưởng,
quản lý hành chính. Chủ thể trực tiếp thực hiện việc phát tin là cơ quan báo
chí, hãng thông tấn, các đài truyền hình, các đài phát thanh… với đội ngũ cán
bộ quản lý và đội ngũ nhà báo, kỹ thuật. Bên cạnh tính độc lập tương đối, các
cơ quan báo chí luôn chịu áp lực và sự chi phối của chủ thể sáng lập ra nó.
Đối tượng tác động của TTĐC là công chúng, là số đông- một bộ phận dân cư
hay cả cộng đồng xã hội, trong quốc gia và trên toàn thế giới. Đây là đối
tượng chủ yếu mà các chủ thể quyền lực luôn có tham vọng chiếm lĩnh và áp

đặt ý chí của mình. Đối tượng thứ hai chính là các cơ quan nhà nước, các
đảng phái, tổ chức chính trị - xã hội, kinh tế. Đây là tác động ngược của
TTĐC và qua đó nó khẳng định tính độc lập tương đối của mình.
TTĐC có hai loại hình chủ yếu: ấn phẩm truyền thông và truyền thông
điện tử. Ấn phẩm truyền thông bao gồm sách, báo, tạp chí, áp phích, tờ rơi;
truyền thông điện tử bao gồm truyền hình, phát thanh, phim, băng đĩa…
Tính chất của TTĐC thể hiện ở: tính khuynh hướng - phản ánh tư tưởng
giai cấp, mà giai cấp thống trị thường nắm quyền chủ đạo; tính đảng - TTĐC
là cơ quan ngôn luận của đảng chính trị, thể hiện lập trường chính trị, chiến
lược, sách lược, mục tiêu khẩu hiệu của đảng; tính nhân dân - từ đặc trưng
phổ cập, báo chí hướng đến đại chúng, đông đảo các tầng lớp nhân dân.

16


Nét đặc trưng của TTĐC là: tính thời sự - thông tin nhanh, thường
xuyên cập nhật, thu hút sự quan tâm của đông đảo công chúng; tính định kỳ ổn định cao, theo ngày, tuần, tháng…; chuyên đề, chuyên mục của phát thanh,
truyền hình cũng theo định kỳ; tính phổ cập (đại chúng) - in nhiều, phát hành
rộng rãi, càng đưa đến nhiều người càng tốt, thông tin không hạn chế, không
bị kiểm duyệt đối với người tiếp nhận; tính thống nhất - in hàng vạn bản
giống nhau.
Trong những năm gần đây, TTĐC đã thay đổi nhanh chóng với sự xuất
hiện các kỹ thuật thông tin từ vệ tinh, internet, truyền hình cáp, các hệ thống
máy móc điện tử (video, máy chiếu), thậm chí cả các dụng cụ thu - phát thông
tin của cá nhân như catset, đĩa, băng tiếng, băng hình... Khả năng và sức mạnh
của TTĐC phụ thuộc trước hết vào năng lực tiếp nhận thông tin của đối
tượng, trong đó phương tiện có tác động mạnh mẽ, rộng khắp hơn cả là các
phương tiện nghe nhìn, trước hết là truyền hình và đài phát thanh.
Ngày nay, khi đề cập đến TTĐC trước hết đề cập đến báo chí, nghĩa là
báo và tạp chí. Hiện nay có các loại báo: báo in, báo truyền hình, báo phát

thanh, báo ảnh, báo điện tử. Tạp chí cũng rất đa dạng về thể loại: tạp chí đưa
tin tức, tạp chí nghiên cứu. Vì vậy trong nhiều trường hợp nói đến báo chí tức
là nói đến TTĐC theo nghĩa hẹp. Đó là các yếu tố cơ bản nhất, tiêu biểu cho
sức mạnh, bản chất, xu hướng vận động của TTĐC.
1.1.1.2. Chức năng của TTĐC
Trong xã hội hiện đại, TTĐC có các chức năng cơ bản sau đây:
- Chức năng thông tin: Đây là chức năng đầu tiên của TTĐC. Đó là
việc thu nhận và phổ biến những tin tức, sự kiện, quá trình… của đời sống xã
hội đến các cơ quan công quyền và đông đảo người dân. TTĐC phản ánh,
cung cấp những thông tin về các lĩnh vực của đời sống xã hội trong nước và
thế giới, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước

17


tới các tầng lớp nhân dân; và ngược lại, thông tin phản hồi ý kiến, mong
muốn, nguyện vọng của nhân dân tới các cơ quan lãnh đạo, quản lý.
- Chức năng giáo dục, định hướng dư luận xã hội: Chức năng này được
thể hiện khi TTĐC tuyên truyền trong nhân dân những tri thức, giúp họ đánh
giá, hệ thống lại những thông tin mà họ đã có để lựa chọn, chắt lọc trong số
rất nhiều nguồn tin đa chiều, thậm chí mâu thuẫn nhau để có thái độ, quan
điểm đúng đắn. Quá trình truyền tải thông tin từ các phương tiện TTĐC đến
công chúng tất yếu sẽ hình thành ý thức xã hội, đặc biệt là ở một số vấn đề, sự
kiện quan trọng. Dư luận xã hội có ý nghĩa đặc biệt đối với ổn định chính trị xã hội, là điều kiện sống còn trong phát triển xã hội. Bằng khả năng thông tin
kịp thời, sinh động và phong phú các sự kiện, hiện tượng đến đông đảo công
chúng, TTĐC tác động trực tiếp đến việc hình thành và định hướng dư luận
xã hội một cách nhanh chóng, rộng rãi và hiệu quả nhất.
- Chức năng tổ chức, quản lý xã hội: Đây là chức năng quan trọng của
TTĐC, nó quyết định đến sự tiến bộ hay hạn chế của chính hệ thống truyền
thông. Chức năng tổ chức, quản lý xã hội được coi là “hai mặt của một vấn đề

cùng đảm bảo sự phát triển hợp lý và tích cực của xã hội” [36, tr.37]. Đối với
ý thức đại chúng, TTĐC trở thành “người trung gian” để tổ chức cho nhân
dân tham gia quản lý xã hội. Thông qua TTĐC người dân tham gia thảo luận
chính sách, pháp luật trước khi ban hành. Như vậy, TTĐC đã nâng cao ý thức
chính trị của nhân dân, đồng thời tăng cường tính hợp lý và hiệu quả cho mỗi
chính sách được đưa ra. Xã hội càng phát triển thì chức năng này càng được
phát huy và do đó nó trở thành cơ sở và động lực cho một chế độ chính trị dân
chủ và tiến bộ.
Đối với các thiết chế xã hội, TTĐC “tham gia hoạch định và tổ chức
thực hiện chính sách của Đảng và Nhà nước trên phạm vi xã hội hay trong
những lĩnh vực rộng lớn” [36, tr.37]. Như vậy, TTĐC trở thành một kênh

18


quan trọng tham gia trực tiếp vào quá trình chính trị. Nó mang đến cho các
nhà lãnh đạo, quản lý những thông tin thời sự, những ý kiến phản ánh của dân
chúng để từ đó đưa ra các chính sách, đồng thời TTĐC cũng là kênh thông tin
lý tưởng để tuyên truyền, hướng dẫn, giải thích và tổ chức thực hiện các chính
sách đó; vừa mang chính sách đến người dân vừa giúp họ thực hiện.
- Chức năng giám sát và phản biện xã hội: TTĐC tiến hành giám sát và
phản biện chủ yếu đối với hoạt động của các cơ quan QLNN. TTĐC tiến hành
theo dõi, phát hiện và cảnh báo đối với những quyết sách của các cơ quan công
quyền, từ đó góp phần điều chỉnh và hoàn thiện dần hoạt động của hệ thống
chính trị. Bên cạnh đó, TTĐC còn thực hiện chức năng của “tòa án công luận”
nhằm tố giác những hoạt động sai trái của các quan chức, những tác động tiêu
cực của các chính sách do các cơ quan quyền lực đưa ra, thông qua đó TTĐC
trở thành phương tiện thực hiện quyền lực của nhân dân. Cơ sở chủ yếu của
hoạt động giám sát và phản biện xã hội của TTĐC là dựa vào sức mạnh của dư
luận xã hội - tức là các chuẩn mực giá trị của toàn xã hội. Tuy nhiên, trong một

xã hội dân chủ thì hoạt động giám sát và phản biện của TTĐC còn phải dựa
vào pháp luật - cơ sở pháp lý của xã hội - chính điều này làm cho hiệu quả của
việc giám sát và phản biện xã hội ngày càng được nâng cao.
- Chức năng tổng hợp, liên kết và huy động lực lượng: TTĐC không
chỉ phê phán những nhược điểm trong chính trị - xã hội, mà thực hiện chức
năng tổng hợp các lợi ích xã hội khác nhau, tập hợp và liên kết các chủ thể
chính trị. Nó là diễn đàn để các đại diện của các nhóm lợi ích khác nhau trong
xã hội bày tỏ quan điểm, thông qua đó tìm được mối liên kết những người
cùng chính kiến, tư tưởng; từ đó hình thành và thể hiện quan điểm, lợi ích của
mình. Trong thế giới hiện đại, tiếp cận và sử dụng TTĐC là điều kiện cần
thiết để hình thành các phe đối lập có uy tín trong xã hội. Ngược lại, nếu phe
đối lập không tiếp cận TTĐC, đặc biệt là truyền hình, đài phát thanh, họ sẽ bị

19


cách ly, biệt lập và không thể nhận được sự ủng hộ rộng rãi của các tầng lớp
nhân dân. Nếu biết sử dụng TTĐC, các tổ chức chính trị sẽ tiếp nhận được
một nguồn sức mạnh sống động, phong phú. Các chức năng nêu trên đều phục
vụ cho huy động, tổng động viên lực lượng. Nó thể hiện ở chỗ thúc đẩy mọi
người đến những hành động chính trị, hoặc lôi cuốn mọi người tham gia hoạt
động chính trị. TTĐC có khả năng tác động mạnh đến lý trí và tình cảm con
người, đến chuẩn mực tư tưởng, đến khả năng, tiêu chí đánh giá và phong
cách, hành vi chính trị chung, phù hợp với mục tiêu chính trị cụ thể.
Ngoài ra, một số nhà nghiên cứu xuất phát từ nhiều cách tiếp cận, đã
phân chia ra các chức năng khác nhau của TTĐC như: chức năng ngôn luận
(cơ quan phát ngôn của đảng, cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội…; diễn đàn
công luận); chức năng đổi mới chính trị (tác động làm thay đổi chính trị thông
qua việc nêu dư luận về những vấn đề xã hội khi gây sự chú ý của chính
quyền và xã hội); chức năng xã hội hóa (định hướng những tiêu chí, giá trị,

chuẩn mực hành vi chính trị trong xã hội); chức năng nâng cao dân trí (cung
cấp thông tin về tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, đáp ứng nhu cầu của
các tầng lớp nhân dân); chức năng phát triển văn hóa, giải trí (truyền bá, phổ
biến sinh động các tác phẩm văn học nghệ thuật…).
Như vậy, các chức năng của TTĐC luôn quan hệ chặt chẽ, đan xen lẫn
nhau, bản thân các chức năng này cũng tạo điều kiện thúc đẩy lẫn nhau. Một
chức năng không thể biểu hiện ra bên ngoài chỉ bởi bản thân nó mà dưới
nhiều hình thức khác nhau và một sản phẩm truyền thông bao giờ cũng thực
hiện đồng thời nhiều chức năng. Vì thế vai trò của TTĐC chỉ được nhận thức
đầy đủ khi đặt nó trong sự thống nhất hữu cơ của các chức năng. Việc tách
riêng các chức năng cụ thể chỉ có ý nghĩa về khoa học vì nó cho phép ta hiểu
rõ hơn, sâu hơn mỗi chức năng riêng biệt, song quan điểm biện chứng đòi hỏi
chúng ta phải luôn đặt các chức năng đó trong mối quan hệ thống nhất hữu cơ
và chỉ trên cơ sở đó mới có thể thấy hết tiềm năng to lớn của TTĐC.

20


1.1.2. Chức năng của truyền thông đại chúng trong chính trị
1.1.2.1. Chức năng định hướng tư tưởng chính trị
Đây là một trong những chức năng quan trọng và đặc thù của TTĐC
trong hoạt động chính trị. Trong xã hội, bất kỳ giai cấp nào khi nắm quyền
thống trị đều cần phải tiến hành công tác tư tưởng. Đó là hoạt động tác động
vào ý thức con người nhằm hình thành và củng cố hệ tư tưởng chính trị đang
lãnh đạo xã hội. Mỗi giai cấp cầm quyền đại diện cho một hệ tư tưởng và tìm
mọi biện pháp để hệ tư tưởng đó “hướng dẫn” ý thức của toàn xã hội thông
qua nhiều kênh, nhưng quan trọng nhất là qua TTĐC. Các nhà nghiên cứu cho
rằng, “báo chí có khả năng tác động thường xuyên có hệ thống và tính đến
những thay đổi trong cuộc sống…, chính báo chí có khả năng bắt kịp được
tình hình đang thay đổi từng ngày và chính vì vậy trong trường hợp cần thiết

có khả năng thay đổi định hướng công chúng…” [30, tr.69].
Vai trò định hướng tư tưởng chính trị của TTĐC được thể hiện thành
hai hướng:
- Thứ nhất, thông qua tạo dựng dư luận xã hội. Bằng sức mạnh của
thông tin, TTĐC tác động trực tiếp vào nhận thức của người dân, từ đó tạo ra
dư luận xã hội và thông điệp được chuyển tải. Cũng thông qua các luồng
thông tin từ TTĐC, người dân không những làm quen với các sự kiện, hiện
tượng trong xã hội mà còn thu nhận định hướng của những thông tin đó.
Những định hướng mà công chúng thu nhận được là những tư tưởng chính trị
của chủ thể sở hữu, những quan điểm, đường lối của đảng cầm quyền và nhà
nước. Dư luận xã hội trở thành công cụ để giải quyết các vấn đề chính trị - xã
hội và TTĐC đã góp phần định hướng sự vận động của các tiến trình chính trị
- xã hội.
- Thứ hai, thông qua giáo dục tư tưởng chính trị và xã hội hóa chính trị.
Trong quá trình định hướng tư tưởng chính trị cho công chúng, TTĐC không

21


chỉ cung cấp thông tin định hướng tạo dựng dư luận xã hội mà còn thực hiện
vai trò giáo dục về chính trị tư tưởng cho toàn xã hội. TTĐC góp phần trang
bị những tri thức cần thiết làm cơ sở cho việc hình thành các quan điểm, lập
trường và thái độ chính trị trong nhân dân, trong đó yếu tố hạt nhân là thế giới
quan và nhân sinh quan của công chúng. Từ đây, TTĐC giúp họ đánh giá, hệ
thống hóa những thông tin đã thu nhận được để có khả năng lựa chọn, chắt
lọc trong số rất nhiều thông tin đa chiều, thậm chí mâu thuẫn nhau, từ đó xác
định thái độ và quan điểm chính trị đúng như mong muốn của những chủ thể
kiểm soát truyền thông mà cụ thể là chủ thể nắm QLNN.
Bên cạnh đó, TTĐC còn có vai trò định ra và phổ cập cho công chúng
những tiêu chí, giá trị, chuẩn mực về hành vi chính trị, thái độ chính trị đúng

đắn trong xã hội. Điều này giúp cho mỗi cá nhân có khả năng tự điều chỉnh để
thích ứng với các hoạt động chung của toàn xã hội, phù hợp với những mục
tiêu của từng chế độ chính trị khác nhau. Như vậy, TTĐC là công cụ đắc lực để
thực hiện định hướng tư tưởng chính trị cho công chúng, vì vậy tất cả các giai
cấp cầm quyền đều quan tâm và sử dụng TTĐC như một phương tiện hữu hiệu
nhằm thực hiện công tác tư tưởng, phục vụ cho chế độ chính trị của mình.
1.1.2.2. Truyền thông đại chúng cung cấp, phổ biến thông tin chính trị
Trong hoạt động chính trị, thông tin chính trị là một trong những hoạt
động phổ biến và luôn thu hút được sự quan tâm, theo dõi của công chúng.
Thông tin chính trị là những thông tin về các hoạt động chính trị, các sự kiện
chính trị, các quan hệ chính trị… Tùy thuộc vào mục đích, ý đồ của chủ thể
chính trị mà có những hình thức, thể loại, mức độ thông tin khác nhau: thông
tin khách quan, thông tin định hướng, thông tin thủ đoạn, thông tin xuyên tạc,
phản thông tin… Bởi vậy, khi thực hiện chức năng này, thông tin do TTĐC
đưa ra phải đảm bảo đáp ứng được yêu cầu cơ bản là nó vừa phù hợp với
chuẩn mực giá trị xã hội, chuẩn mực giai cấp, yêu cầu của sự phát triển xã

22


hội, đồng thời nó vừa đáp ứng tốt thị hiếu, nhu cầu của công chúng hay một
bộ phận công chúng nhất định.
Như vậy, chức năng thông tin của TTĐC trong hoạt động chính trị thực
chất là sự chuyển tải thông tin, thông báo tin tức mà nội dung lẫn hình thức
đều phụ thuộc vào ý đồ chính trị cũng như mục tiêu lợi ích của chủ thể là
nguồn phát, nhờ đó hình thành quan điểm trong công chúng về những vấn đề
mà họ không có điều kiện tiếp cận một cách trực tiếp.
1.1.2.3. Truyền thông đại chúng đóng vai trò trung gian trong giao tiếp
chính trị
Chính trị là hoạt động trong lĩnh vực quan hệ giữa các nhóm xã hội lớn

- giai cấp, dân tộc, quốc gia. Hoạt động chính trị là hoạt động tập thể được tổ
chức phức tạp có phương thức giao tiếp đặc thù để hiện thực hóa lợi ích và
mục tiêu giai cấp, đòi hỏi phải trao đổi thông tin giữa các thành viên của các
chủ thể chính trị: nhà nước, đảng phái, các nhóm chính trị - xã hội… việc trao
đổi thông tin hầu như không thể tiến hành một cách trực tiếp, mà cần có các
phương tiện, công nghệ truyền tin riêng biệt để đảm bảo sự thống nhất về ý
chí, về hoạt động của tổ chức. Đó cũng chính là lý do ra đời của TTĐC. Như
vậy, đóng vai trò là người cung cấp thông tin, truyền tin, TTĐC nghiễm nhiên
trở thành “nhân vật” trung gian trong hoạt động chính trị, giao tiếp chính trị:
- TTĐC là cầu nối giữa quan chức nhà nước với nhân dân: do giữ vị trí
và trách nhiệm đặc biệt trong các cơ quan nhà nước nên những quan chức này
không thể trực tiếp liên hệ với tầng lớp nhân dân mà họ phải liên hệ gián tiếp
thông qua TTĐC.
- TTĐC là cầu nối giữa các đảng với nhân dân: với tính chất là cơ quan
ngôn luận của đảng chính trị, TTĐC đưa các thông điệp của các đảng đến
công chúng. Các đảng không ngừng sử dụng TTĐC như một công cụ hữu
hiệu để giao tiếp với công chúng nhằm làm tăng ảnh hưởng và uy tín của

23


mình. TTĐC trở thành kênh giao tiếp quan trọng giữa các đảng và dân chúng,
giúp cho người dân hiểu rõ các quan điểm, đường lối của đảng cũng như giúp
các đảng hiểu ý nguyện của nhân dân.
- TTĐC kết nối người dân với nhau: Thông qua tin tức công khai trên
các phương tiện TTĐC, người dân biết được tình hình trong nước và trên thế
giới, từ đó có thể bày tỏ ý kiến với nhau về những vấn đề liên quan đến an
toàn cá nhân cũng như những vấn đề quốc gia đại sự mà không bị gián đoạn
bởi khoảng cách địa lý.
- TTĐC là cầu nối giữa các quốc gia trên thế giới: Ngày nay trong quan

hệ quốc tế, TTĐC đã góp phần quan trọng trong liên kết các quốc gia với
nhau. TTĐC là một công cụ hữu hiệu trong việc làm cầu nối thông điệp giữa
chính phủ nước này với chính phủ nước khác. Nhờ các phương tiện TTĐC
hiện đại, một vị tổng thống có thể giao tiếp với khán giả nước ngoài, nói
chuyện trực tiếp với lãnh đạo nước khác qua họp báo và các chương trình tin
tức, hội thảo với nhân viên đại sứ quán ở nhiều nước tại cùng một thời điểm.
1.1.2.4. Truyền thông đại chúng kiểm tra, giám sát các thiết chế, tiến
trình chính trị
TTĐC có vai trò quan trọng trong hoạt động của hệ thống chính trị.
Một mặt, TTĐC đưa tin về hoạt động của các thiết chế chính trị và các quá
trình chính trị, mặt khác bản thân TTĐC lại tích cực tham gia vào những quá
trình ấy. Vai trò kiểm tra, giám sát của TTĐC chủ yếu dựa trên sức mạnh của
dư luận xã hội mà chính nó đại diện. Khác với các cơ quan nhà nước dùng
biện pháp hành chính và trừng phạt kinh tế đối với các vi phạm, TTĐC thực
hiện việc kiểm tra, giám sát không kém phần hiệu quả, nó không chỉ cung cấp
cơ sở pháp lý mà còn cung cấp cả cơ sở chuẩn mực đạo đức về các sự kiện,
nhân vật. Những hoạt động điều tra nghiêm túc của TTĐC làm cho những
thông tin cần thiết, có ý nghĩa quốc gia hoặc có tầm quan trọng đặc biệt đối

24


với nhân dân bị che giấu trở nên công khai, minh bạch; đồng thời đấu tranh
chống lại những hành vi lợi dụng chức quyền, khai trừ một số quan chức tham
nhũng ra khỏi vị trí lãnh đạo, lên án hoạt động của một tổ chức chính trị cực
đoan hay chống lại tình trạng vô pháp… giúp xã hội vận động theo chiều
hướng tốt lên.
Tóm lại, TTĐC đã trở thành nhân tố thiết yếu trong “bàn cờ chính trị”
và có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng đối với cả giới cầm quyền và công
chúng. Có thể nói, “chức năng của TTĐC đối với chính trị như dòng máu

trong cơ thể con người, có tác dụng duy trì quá trình hoạch định chính sách,
bằng việc nối các phần phân tán, móc nối phần này với phần kia và nuôi
chúng bằng các chất dinh dưỡng trí tuệ và chính trị” [1, tr.133].
1.2. Một số vấn đề về kiểm soát quyền lực nhà nước
1.2.1. Khái niệm, mục đích của kiểm soát quyền lực nhà nước
1.2.1.1. Khái niệm kiểm soát quyền lực nhà nước
Trong giới khoa học, có nhiều cách tiếp cận khác nhau về QLNN:
- Thứ nhất, QLNN là quyền lực chính trị của giai cấp cầm quyền được
thực hiện bằng nhà nước. Nhà nước và giai cấp thống trị mặc dù có liên
quan mật thiết với nhau nhưng chúng là những thực thể xã hội khác nhau, có
quyền lực riêng. Quyền lực của giai cấp thống trị tồn tại trong quan hệ giữa
nó với các giai cấp, tầng lớp khác; giữa nó với các tổ chức do giai cấp đó lập
ra. Còn QLNN tồn tại trong quan hệ giữa nhà nước với các tổ chức, cá nhân
trong xã hội.
- Thứ hai, QLNN là khả năng sử dụng nhà nước để thực hiện ý chí của
giai cấp thống trị (hoặc của nhân dân) buộc xã hội phải phục tùng ý chí đó.
QLNN là khả năng của nhà nước buộc các cá nhân, tổ chức trong xã hội phải
phục tùng nhà nước.
- Thứ ba, QLNN là quyền của giai cấp thống trị được thực hiện bằng
nhiều công cụ khác nhau của một hệ thống chuyên chính do giai cấp đó lập ra.

25


×