Tải bản đầy đủ (.docx) (48 trang)

Đề tài: VAI TRÒ CỦA THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH ĐẾN ỔN ĐỊNH KINH TẾ VĨ MÔ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.06 MB, 48 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN NGÂN HÀNG TÀI CHÍNH
Chủ đề:
VAI TRÒ CỦA THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH ĐẾN ỔN ĐỊNH
KINH TẾ VĨ MÔ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.
Nhóm thực hiện: Nhóm 5
Vũ Thị Hiền
Hà Thị Thoa
Trần Thị Thùy Hương
Tạ Thị Hải
Cao Thị Bảo Ngọc
Lý thuyết tài chính tiền tệ Page 1
Lý thuyết tài chính tiền tệ Page 2
Mục lục
A. Cơ sở lý thuyết chung về thị trường tài chính và vai trò cơ bản của thị
trường tài chính.
1. Khái niệm.
2. Cơ sở khách quan cho sự ra đời của thị trường tài chính.
3. Điều kiện cần thiết hình thành thị trường tài chính.
4. Công cụ của thị trường tài chính.
5. Cấu trúc thị trường tài chính.
6. Chức năng, vai trò của thị trường tài chính.
B. Thị trường tiền tệ.
I. Khái quát chung.
1. Khái niệm.
2. Phân loại.
3. Các chủ thể tham gia thị trường tiền tệ
4. Các nghiệp vụ trên thị trường tiền tệ.
II. Vai trò của thị trường tiền tệ với ổn định kinh vĩ mô hiện nay.
1. Thị trường liên ngân hàng.
2. Thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc.


3. Nghiệp vụ thị trường mở.
4. Thị trường hối đoái.
C. Thị trường vốn.
1. Vai trò của TTCK đối với nền kinh tế.
2. Thị trường vốn tín dụng.
D. Định hướng cho phát triển thị trường tài chính.
Lý thuyết tài chính tiền tệ Page 3
A. Cơ sở lý thuyết chung về thị trường tài chính và vai trò cơ bản của thị
trường tài chính.
1. Khái niệm.
Thị trường tài chính là nơi diễn ra các hoạt động giao dịch và mua bán
quyền sử dụng những khoản vốn thông qua phương thức giao dịch và những
công cụ tài chính nhất định.
Thị trường tài chính là nơi diễn ra các giao dịch mua, bán các loại tích sản
tài chính hay các công vốn hoặc vốn. Đây cũng là một bộ phận quan trọng bậc
nhất trong hệ thống tài chính, chi phối toàn bộ hoạt động của nền kinh tế hàng
hóa. Thị trường tài chính phát triển góp phần thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển
kinh tế xã hội của một quốc gia.
2. Cơ sở khách quan cho sự ra đời của thị trường tài chính.
Thị trường tài chính là sản phẩm tất yếu của nền kinh tế thị trường, sự xuất
hiện và tồn tại của thị trường này xuất phát từ yêu cầu khách quan của việc giải
quyết mẫu thuận giữa nhu cầu và khả năng cung ứng vốn lớn trong nền kinh tế
phát triển. Trong nền kinh tế luôn tồn tại hai trạng thái trái ngược nhau giữa một
bên là nhu cầu và một bên là khả năng về vốn. Mâu thuẫn này ban đầu được
giải quyết thông qua hoạt động của ngân hàng với vai trò trung gian trong quan
hệ vay mượn giữa người có vốn và người cần vốn. Khi kinh tế hàng hóa phát
triển cao, nhiều hình thức huy động vốn mới linh hoạt hơn nảy sinh và phát
triển, góp phần tốt hơn vào việc giải quyết cân đối giữa cung và cầu về các
nguồn lực tài chính trong xã hội, làm xuất hiện các công cụ huy động vốn như
trái phiếu, cổ phiếu của các doanh nghiệp, trái phiếu của chính phủ đó là

những loại giấy tờ có giá trị, gọi chung là các loại chứng khoán. Và từ đó xuất
hiện nhu cầu mua bán, chuyển nhượng giữa các chủ sở hữu khác nhau các loại
chứng khoán. Điều này làm xuất hiện một loại thị trường để cân đối cung cầu
về vốn trong nền kinh tế là thị trường tài chính.
Do đó, cơ sở khách quan cho sự ra đời của thị trường tài chính là sự giải
quyết mẫu thuẫn giữa cung và cầu về vốn trong nền kinh tế thông qua các công
cụ tài cuhính đặc biệt là các loại chứng khoán, làm nảy sinh nhu cầu mua bán,
chuyển nhượng chứng khoán giữa các chủ thể khác nhau trong nền kinh tế.
Chính sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa và tiền tệ mà đỉnh cao của nó là
kinh tế thị trường làm nảy sinh một loại thị trường mới là thị trường tài chính.
Thị trường tài chính hình thành và phát triển gắn liền với sự phát triển của
nền kinh tế thị trường. Sự phát triển của nền kinh tế thị trường đã làm xuất hiện
những chủ thể cần nguồn tài chính và những người có khả năng cung ứng
Lý thuyết tài chính tiền tệ Page 4
nguồn tài chính. Khi nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển thì các hoạt
động về phát hành và mua bán lại các chứng khoán cũng phát triển, hình thành
một thị trường riêng nhằm làm cho cung cầu nguồn tài chính gặp nhau dễ dàng
và thuận lợi hơn, đó là thị trường tài chính.
3. Điều kiện cần thiết hình thành thị trường tài chính.
- Nền kinh tế hàng hóa phát triển, tiền tệ ổn định, với mức độ lạm phát có thể
kiểm soát được.
- Các công cụ của thị trường tài chính phải đa dạng tạo ra các phương tiện
chuyển giao quyền sử dụng các nguồn tài chính.
- Hình thành và phát triển hệ thống các trung gian tài chính.
- Xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và tổ chức quản lý nhà nước để
giám sát sự hoạt động của thị trường tài chính.
- Phải tạo cơ sở vật chất kỹ thuật và hệ thống thông tin kinh tế phục vụ cho
hoạt động của thị trường tài chính.
- Cần có đội ngũ các nhà kinh doanh, các nhà quản lý am hiểu thị trường tài
chính và phải có đông đảo các nhà đầu tư có kiến thức, dám mạo hiểm trước

những rủi ro có thể xảy ra.
4. Công cụ của thị trường tài chính.
Để chuyển giao quyền sử dụng các nguồn tài chính, các công cụ chủ yếu
được sử dụng trên thị trường tài chính là các loại chứng khoán. Chứng khoán là
chứng từ dưới dạng giấy tờ hoặc ghi trên hệ thống thiết bị điện tử xác nhận các
quyền hợp pháp của người sở hữu chứng từ đó đối với người phát hành; hoặc
chứng khoán là chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ, xác nhận các quyền và lợi ích
hợp pháp của người sở hữu chứng từ đó đối với người phát hành.
Chứng khoán có nhiều loại khác nhau; có thể phân loại chứng khoán dựa
theo các tiêu thức khác nhau:
- Căn cứ vào kỳ hạn huy động:
• Chứng khoán ngắn hạn, có thời hạn dưới 1 năm;
• Chứng khoán trung và dài hạn. Trung hạn từ 1 đến 5 năm, dài hạn là trên
5 năm.
- Căn cứ vào chủ thể phát hành:
• Chứng khoán chính phủ trung ương và địa phương;
• Chứng khoán của các ngân hàng và tổ chức tín dụng;
• Chứng khoán doanh nghiệp.
- Căn cứ vào lợi tức:
• Chứng khoán có lợi tức ổn định;
• Chứng khoán có lợi tức không ổn định.
Lý thuyết tài chính tiền tệ Page 5
- Căn cứ vào tiêu chuẩn pháp lý:
• Chứng khoán vô danh;
• Chứng khoán hữu danh.
- Căn cứ vào tính chất chứng khoán:
• Cổ phiếu (chứng khoán vốn);
• Trái phiếu (chứng khoán nợ);
• Chứng khoán phái sinh.
- Căn cứ vào tính chất của người phát hành:

• Chứng khoán khởi thủy;
• Chứng khoán thứ cấp.
5. Cấu trúc thị trường tài chính.
 Căn cứ vào thời gian sử dụng nguồn tài chính huy động được người ta chia
thị trường tài chính thành:
- Thị trường tiền tệ: Là một thị trường tài chính chỉ có các công cụ ngắn
hạn (kỳ hạn thanh toán dưới 1 năm);
- Thị trường vốn: Là thị trường diễn ra việc mua bán các công cụ nợ dài
hạn như cổ phiếu, trái phiếu. Thị trường vốn được phân thành ba bộ phận
là thị trường cổ phiếu, các khoản cho vay thế chấp và trái phiếu.
 Căn cứ theo phương thức huy động nguồn tài chính:
- Thị trường nợ: Phương pháp chung nhất mà các công ty sử dụng để vay
vốn trên thị trường tài chính là đưa ra một công cụ vay nợ, ví dụ như trái
khoán hay một món vay thế chấp. Công cụ vay nợ là sự thoả thuận có
tính chất hợp đồng có lãi suất cố định và hoàn trả tiền vốn vào cuối kì
hạn. Kì hạn dưới 1 năm là ngắn hạn, trên 1 năm là trung và dài hạn. Thị
trường nợ là thị trường diễn ra việc mua bán các công cụ nợ kể trên;
- Thị trường vốn cổ phần: Phương pháp thứ hai để thu hút vốn là các
công ty phát hành cổ phiếu. Người nắm giữ cổ phiếu sở hữu một phần tài
sản của công ty có quyền được chia lợi nhuận ròng từ công ty sau khi trừ
chi phí, thuế và thanh toán cho chủ nợ (những người sở hữu công cụ nợ).
 Căn cứ vào sự luân chuyển các nguồn tài chính
- Thị trường sơ cấp: Là thị trường tài chính trong đó diễn ra việc mua bán
chứng khoán đang phát hành hay chứng khoán mới. Việc mua bán chứng
khoán trên thị trường cấp một thường được tiến hành thông qua trung
gian là các ngân hàng;
- Thị trường thứ cấp: Là thị trường mua bán lại những chứng khoán đã
phát hành. Khi diễn ra hoạt động mua bán chứng khoán trên thị trường
này thì người vừa bán chứng khoán nhận được tiền bán chứng khoán còn
Lý thuyết tài chính tiền tệ Page 6

công ty phát hành không thu được tiền nữa, một công ty thu được vốn chỉ
khi chứng khoán của nó được bán lần đầu tiên trên thị trường sơ cấp.
 Căn cứ vào tính chất pháp lý:
- Thị trường tài chính chính thức: là bộ phận của thị trường tài chính, mà
tại đó mọi hoạt động huy động, cung ứng, giao dịch các nguồn tài chính
được thực hiện theo những nguyên tắc, thể chế do nhà nước quy định rõ
ràng trong các văn bản pháp luật. Các chủ thể tham gia được pháp luật
thừa nhận và bảo vệ;
- Thị trường tài chính không chính thức: là thị trường tài chính, mà ở đó
mọi hoạt động huy động, cung ứng, giao dịch các nguồn tài chính và
người cần nguồn tài chính không theo những nguyên tắc, thể chế do nhà
nước quy định.
6. Chức năng, vai trò của thị trường tài chính.
6.1, Chức năng của thị trường tài chính:
- Chức năng dẫn nguồn tài chính từ những chủ thể có khả năng cung ứng
nguồn tài chính đến những chủ thể cần nguồn tài chính: Thị trường tài chính
đóng vai trò là kênh dẫn vốn từ người tiết kiệm đến người kinh doanh. Giúp
cho việc chuyển vốn từ người không có cơ hội đầu tư sinh lợi đến những
người có cơ hội đầu tư sinh lợi.
- Thị trường tài chính thúc đẩy việc tích lũy và tập trung tiền vốn để đáp ứng
nhu cầu xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, sản xuất kinh doanh.
- Thị trường tài chính giúp cho việc sử dụng vốn có hiệu quả hơn, không chỉ
đối với người có tiền đầu tư mà còn cả với người vay tiền để đầu tư. Người
cho vay sẽ có lãi thông qua lãi suất cho vay. Người đi vay vốn phải tính toán
sử dụng vốn vay đó hiệu quả nhất do họ phải hoàn trả cả vốn và lãi cho
người cho vay đồng thời phải tạo thu nhập và tích lũy cho chính bản thân
mình.
- Thị trường tài chính tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện các chính
sách mở cửa, cải cách kinh tế của Chính phủ thông qua các hình thức như
phát hành trái phiếu ra nước ngoài, bán cổ phần, thu hút vốn đầu tư nước

ngoài vào các ngành sản xuất kinh doanh trong nước.
- Thị trường tài chính cho phép sử dụng các chứng từ có giá, bán cổ phiếu, trái
phiếu, đổi tiền.
- Chức năng cung cấp khả năng thanh khoản cho các chứng khoán;
- Chức năng cung cấp thông tin kinh tế và đánh giá giá trị của doanh nghiệp.
6.2, Vai trò của thị trường tài chính.
Lý thuyết tài chính tiền tệ Page 7
- Thị trường tài chính thu hút, huy động các nguồn tài chính trong và ngoài
nước, khuyến khích tiết kiệm và đầu tư;
- Thị trường tài chính góp phần thúc đẩy, nâng cao hiệu quả sử dụng tài chính;
- Thị trường tài chính thực hiện chính sách tài chính, chính sách tiền tệ của
nhà nước.
Trong bài thảo luận ngày hôm nay nhóm tiếp cận thị trường tài chính căn cứ
vào thời gian sử dụng nguồn tài chính huy động được. Vì vậy thị trường tài
chính được tiếp cận bởi hai thị trường là thị trường tiền tệ và thị trường vốn.
B. Thị trường tiền tệ:
I. Khái quát chung.
1. Khái niệm.
- Thị trường tiền tệ là thị trường vốn ngắn hạn, nơi diễn ra các hoạt động của
cung và cầu về vốn ngắn hạn. Vốn ngắn hạn bao gồm cả trái phiếu ngắn hạn,
có kỳ hạn tức là mua bán những món nợ ngắn hạn rủi ro thấp, tính thanh
khoản cao. Thị trường tiền tệ diễn ra chủ yếu thông qua hoạt động của hệ
thống ngân hàng, vì các ngân hàng là chủ thể quan trọng nhất trong việc
cung cấp và sử dụng vốn ngắn hạn.
- Thị trường tiền tệ là thị trường phi tập trung tại các phòng kinh doanh của
các ngân hàng và các công cụ kinh doanh đầu tư chuyên nghiệp thông qua
mạng lưới điện thoại, internet rộng lớn. Các nghiệp vụ trên thị trường tiền tệ
là nghiệp vụ chuyển giao vốn có khả năng thanh toán cao, ít xảy ra rủi ro đối
với người đầu tư.
- Thị trường tiền tệ là nơi mua bán các loại chứng từ có giá ngắn hạn, nơi đáp

ứng nhu cầu vốn ngắn hạn của nền kinh tế.
2. Phân loại.
Thị trường tiền tệ được phân loại căn cứ vào cách thức tổ chức hay loại công
cụ.
- Phân loại theo cách thức tổ chức:
Nếu căn cứ theo cơ cấu tổ chức, thị trường tiền tệ được chia thành2 cấp: là
thị trường tiền tệ sơ cấp và thị trường tiền tệ thứ cấp.
+ Thị trường tiền tệ sơ cấp: là nơi chuyên phát hành các loại trái phiếu
mới của ngân hàng, công ty tài chính, kho bạc Thị trường tiền tệ sơ cấp
thật sự là nơi tìm vốn của người phát hành trái phiếu và cung ứng vốn của
người mua trái phiếu.
Lý thuyết tài chính tiền tệ Page 8
+ Thị trường tiền tệ thứ cấp: chuyên tổ chức mua bán các loại trái phiếu đã
phát hành ở thị trường sơ cấp, nhưng lại mang tính chất chuyển hóa hình thái
vốn. Tức là, trái phiếu có hình thái hiện vật cụ thể là máy móc, vật tư bây
giờ họ lại cần tiền, nghĩa là cần vốn dưới hình thái tiền tệ.
- Phân loại theo công cụ nợ:
Nếu căn cứ vào các loại công cụ tham gia trên thị trường thì thị trường tiền
tệ bao gồm:
+ Thị trường vay nợ ngắn hạn giữa các tổ chức tín dụng dưới sự điều hành
của ngân hàng trung ương.
+ Thị trường trái phiếu ngắn hạn và thị trường các loại chứng từ có giá khác
như: kỳ phiếu thương mại, khế ước giao hàng, tín phiếu của các công ty tài
chính, chứng chỉ tiền gửi tiết kiệm, kỳ phiếu ngân hàng
3. Các chủ thể tham gia thị trường tiền tệ.
Trong quá trình phát triển của thị trường tiền tệ, thị trường liên ngân hàng là
hình thức sơ khai của thị trường tiền tệ, hoạt đông với múc đích cân đối,điều
hoà vốn giữa các NHTM với các TCTD. Vì vậy nếu xét thei chiều ngang, thị
trường tiền tệ biểu hiện quan hệ điều tiết vốn giữa các NHTM, các TCTD.
Còn nếu xét theo chiều dọc thị trường tiền tệ biểu hiện mối quan hệ giữa

NHTW và NHTM qua con đường tái Chiết khấu, trong đó lãi suất tái chiết
khấu là một công cụ linh hoạt để NHTW điều tiết vĩ mô nền kinh tế trong
quá trình thực hiện chính sách tiền tệ.
Ngày nay quy mô hoạt động của thị trường tiền tệ được mở rộng về phạm vi
điều tiết vốn, theo đó các chủ thể tham gia trên thị trường đa dạng hơn.
Các chủ thể tham gia trên thị trường bao gồm:
- Chủ thể cung ứng nguồn vốn như: NHTW, NHTM, các TCTD…
- Chủ thể có nhu cầu về vốn như: NHTM và các chủ thể kinh tế khác.
- Chủ thể trung gian môi giới vừa đi vay, vừa cho vay như: NHTM, công
ty chuyên môi giới.
4. Các nghiệp vụ trên thị trường tiền tệ.
4.1, Nghiệp vụ vay và cho vay vốn ngắn hạn:
- Cho vay bằng tiền mặt.
- Cho vay dưới hình thức cầm cố hoặc chiết khấu các chứng từ có giá.
4.2, Nghiệp vụ mua bán giấy tờ có giá ngắn hạn:
Công cụ chủ yếu của nghiệp vụ này là các loại trái phiếu ngắn hạn được phát
hành từ thị trường tiền tệ sơ cấp và bán lại ở thị trường thứ cấp.
II. Vai trò của thị trường tiền tệ với ổn định kinh vĩ mô hiện nay.
Lý thuyết tài chính tiền tệ Page 9
Do sự bất ổn định trên thị trường tiền tệ thế giới vào cuối năm 2007 và đầu năm
2008. Mà cụ thể nhất là cuộc khủng hoảng tín dụng thứ cấp ở Mỹ do giá nhà đất
sụt giảm làm cho đồng USD. Trong thế giới ngày nay sự đan xen và phụ thuộc
lẫn nhau giữa các quốc gia là không tránh khỏi đã gây nên những xáo trộn trên
thị trường hối đoái của các nước trong đó có Việt Nam.
Biểu đồ 1: Tăng trưởng kinh tế thế giới, Mỹ, khu vực đồng Euro, Nhật
Bản, các nước châu Á đang phát triển và Việt Nam.
Lý thuyết tài chính tiền tệ Page 10
Nguồn: World Economic Outlook, IMF,
Do sự yếu kếm xuất phát từ nội tại của nền kinh tế trong điều hành chính sách
vĩ mô nền kinh tế thông qua chính sách tiền tệ mà cụ thể là việc điều hành chính

sách tỷ giá do NHNN công bố và ngoài thị trường tự do luôn chênh lệch nhau
một lượng không nhỏ.
Thị trường tiền tệ Việt Nam đã được hình thành và từng bước hoàn thiện gắn
liền với tiến trình đổi mới phát triển kinh tế đất nước. Cho đến nay mặc dù thị
trường tiền tệ Việt Nam chưa thực sự phát triển nhưng nó đã đóng vai trò quan
trọng trong việc điều tiết cung cầu nguồn vốn ngắn hạn nhằm hỗ trợ các hoạt
động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, đời sống của các chủ thể trong nền kinh tế.
Thị trường tiền tệ đã thực hiện chức năng cân đối, điều hoà nguồn vốn giữa các
ngân hàng, góp phần hỗ trợ các ngân hàng đảm bảo khả năng thanh toán, hoạt
động an toàn và hiệu quả. Thông qua các hoạt động trên thị trường tiền tệ,
NHNN Việt Nam đã thực hiện điều tiết tiền tệ nhằm thực thi chính sách tiền tệ
quốc gia. Có thể khẳng định rằng, thị trường tiền tệ Việt Nam đã góp phần nhất
định trong quá trình phát triển kinh tế đất nước, nhất là quá trình chuyển đổi
sang kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế
quốc tế.
1.Thị trường Liên Ngân Hàng:
Thị trường liên NH (interbank market) là nơi mà các TCTD có thể cho vay lẫn
nhau để bù đắp sự thiếu hụt vốn tạm thời. Các khoản vay trên thị trường này
phần lớn là các khoản vay có kỳ hạn dưới một tuần, chủ yếu là vay qua đêm.
Cũng có các khoản vay có kỳ hạn dài hơn, nhưng chiếm tỷ lệ không lớn.
Mục đích của vay liên NH là để đáp ứng nhu cầu thanh khoản tạm thời, cân đối
vốn trong ngắn hạn hay đáp ứng tỷ lệ dự trữ bắt buộc tại thời điểm đó.
Các NH thỏa thuận cho nhau vay chủ yếu dựa trên quan hệ tín chấp và khoản
vay sẽ được hoàn trả cả gốc lẫn lãi.
1.1, Thực trạng:
Tại Việt Nam, nghiệp vụ này cũng được các NHTM sử dụng với thời hạn
vay liên NH không quá 01 năm (theo quy định mới nhất của NHNN tại Thông
tư 21/2012/TT-NHNN).
Tuy nhiên, thị trường liên NH tại Việt Nam đã mất đi ý nghĩa vốn có, các
NH cho vay theo dây chuyền, NH này vay vốn từ thị trường liên NH và cho NH

Lý thuyết tài chính tiền tệ Page 11
khác vay lại với lãi suất cao hơn, thậm chí đây còn là nguồn vốn để các NH sử
dụng vào các mục đích trung và dài hạn (cho vay, đầu tư) (SGĐT, 25-6).
Tình hình vay vốn liên NH được thể hiện thông qua khoản mục cho vay
các TCTD và nhận tiền gửi từ các TCTD khác. Thống kê trong H1-2012 của
một số NH như sau (đơn vị: tỷ đồng):
Gửi và cho vay từ các
TCTD khác
Gửi và cho vay tại các TCTD
khác
Q4.2011 H1.2012 Q4.2011 H1.2012
Vietinbank
74.408 43.844 65.452 20.950
BIDV
35.705 33.374 57.580 38.648
Vietcombank
47.962 47.361 105.005 106.138
ACB
34.714 19.921 81.274 56.002
Eximbank
71.859 67.723 64.529 61.248
Techcombank
48.133 39.998 43.191 38.513
Sacombank
12.824 8.338 9.621 13.558
MB
26.672 25.355 41.667 38.687
Nguồn: TTVN, 7-9.
Trong số này, số dư lớn nhất thuộc về Vietcombank, ACB và Eximbank.
Việc cho vay lẫn nhau không vì mục đích đáp ứng thanh khoản tạm thời và dự

trữ bắt buộc khiến lãi suất liên NH tăng cao (có lúc lên tới 30% – 35%/năm)
ảnh hưởng tới lãi suất cho vay và quan trọng hơn, là rủi ro tiềm ẩn từ việc cho
vay theo dây chuyền.
Hơn nữa, tình trạng nợ quá hạn vẫn xảy ra với thị trường liên NH khiến cho thị
trường này không khác gì thị trường cho vay thông thường. NHNN, trong thông
tư 21, đã phải quy định yêu cầu có tài sản đảm bảo và trích lập dự phòng và
trong trường hợp cần thiết NHNN sẽ quy định lãi suất vay liên NH.
Lý thuyết tài chính tiền tệ Page 12
1.2, Vai trò:
Đáp ứng nhu cầu thanh khoản tạm thời, cân đối vốn trong ngắn hạn hay đáp
ứng tỷ lệ dự trữ bắt buộc tại thời điểm đó cho các ngân hàng. Điều này tạo sự
ổn định nguồn vốn cho các ngân hàng, giảm thiểu tình trạng thiếu hụt vốn khi
khách hàng rút một lượng tiền quá lớn, ổn định tâm lý khách hàng, đảm bảo ổn
định kinh tế vĩ mô.
2. Thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc:
Tín phiếu kho bạc là loại giấy nợ do chính phủ phát hành có kỳ hạn dưới một
năm để bù đắp thiếu hụt tạm thời của Ngân sách Nhà nước và là một công cụ
trong những công cụ quan trọng để Ngân hàng Trung ương điều hành chính
sách tiền tệ. (tại Việt Nam, tín phiếu kho bạc do Bộ Tài chính phát hành). Tín
phiếu kho bạc thường có kỳ hạn 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng hay 9 tháng với một
hay nhiều mức mệnh giá. Tín phiếu kho bạc thường được coi là không có rủi ro
tín dụng (rủi ro phá sản).
Trên thị trường sơ cấp, Tín phiếu Kho bạc được phát hành bằng nhiều hình
thức: đấu thầu, phát hành trực tiếp qua hệ thống Kho bạc, phát hành qua đại lý
2.1, Thực trạng:
Thị trường đấu thầu tín phiếu Kho bạc (TPKB) qua Ngân hàng Nhà nước
(NHNN) có vai trò rất quan trọng không chỉ đối với việc phát triển kinh tế đất
nước, mà còn có vai trò quan trọng trong việc phát triển thị trường vốn và thị
trường tiền tệ. Sự hình thành và phát triển của thị trường đấu thầu TPKB qua
NHNN đã giúp công tác huy động vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế để bù đắp kịp

thời thâm hụt Ngân sách Nhà nước, đồng thời NHNN chủ động trong việc nắm
giữ thông tin về lượng giấy tờ có giá được phát hành để đưa ra các giải pháp
điều hành chính sách tiền tệ phù hợp, đồng thời đã hỗ trợ tích cực cho việc thực
hiện các nghiệp vụ thị trường tiền tệ tại NHNN qua vai trò điều tiết của mình;
Đồng thời, tạo một kênh đầu tư vốn hiệu quả với độ an toàn, tính thanh khoản
cao và chủ động trong việc đảm bảo khả năng thanh toán cho các tổ chức tín
dụng (TCTD) thông qua các nghiệp vụ với NHNN.
Trong 5 năm qua, từ 2001 đến 2005, nghiệp vụ phát hành TPKB qua Ngân
hàng Nhà nước không ngừng phát triển và đạt được kết quả rất khả quan với
Lý thuyết tài chính tiền tệ Page 13
khối lượng phát hành không ngừng tăng (năm 2002 tăng 215%; năm 2003 tăng
189% … và trong năm 2005 tăng 14% so với năm 2004). Tính từ năm 2001 đến
hết năm 2005, tổng số tiền đã huy động qua NHNN là 85.269,4 tỷ đồng và
14.500.000 USD.
Một trong những nguyên nhân khối lượng phát hành TPKB trong những
năm gần đây tăng cao là do nhu cầu chi tiêu của Ngân sách Nhà nước cao hơn
để đáp ứng nguồn vốn cho các công trình trọng điểm của Nhà nước, đồng thời
Kho bạc Nhà nước cũng phải huy động thêm để hỗ trợ nguồn cho Quỹ Hỗ trợ
phát triển. Mặt khác, việc đầu tư vào TPKB là hình thức đầu tư có lãi và an
toàn. Hơn nữa, do NHNN đã và đang thực hiện nhiều nghiệp vụ thị trường tiền
tệ có sử dụng các giấy tờ có giá như nghiệp vụ thị trường mở, Tái cấp vốn,
Chiết khấu GTCG, thấu chi và cho vay qua đêm
Lý thuyết tài chính tiền tệ Page 14
Ngân hàng và các tổ chức tín dụng là khu vực cung cấp phần lớn các nguồn
vốn cho đầu tư của nền kinh tế và cũng là nguồn cầu chủ yếu đối với trái phiếu.
Mục tiêu chủ yếu mua trái phiếu, đặc biệt với trái phiếu chính phủ, của các ngân
hàng thương mại là để đảm bảo khả năng thanh khoản và làm công cụ trong
giao dịch với Ngân hàng Nhà nước Bên cạnh đó, các công ty chứng khoán
cũng tham gia với mục đích đầu tư tài chính. Tính tới thời điểm hiện tại, đã có
24 ngân hàng thương mại và 29 công ty chứng khoán là thành viên của thị

trường trái phiếu chính phủ.
Tuy nhiên, trong 5 năm qua, thị trường đấu thầu TPKB qua NHNN vẫn còn
một số tồn tại như thành viên tham gia đấu thầu chủ yếu vẫn là các Ngân hàng
thương mại Nhà nước, số lượng các NHTMCP và chi nhánh NH nước ngoài
tham gia rất ít. Nguyên nhân chủ yếu là các NHTMCP chưa thực sự quan tâm
tới thị trường này do lãi suất TPKB chưa thực sự hấp dẫn so với các loại trái
phiếu phát hành qua Uỷ Ban chứng khoán. Mặt khác, lượng vốn khả dụng dư
thừa để đầu tư vào TPKB của các NHTMCP vẫn còn hạn chế. Việc đầu tư vào
TPKB của các thành viên chủ yếu nhằm mục đích dự phòng an toàn về khả
năng thanh toán vào giai đoạn nhạy cảm ( Tết dương lịch và tết âm lịch) do đó
việc giao dịch các loại GTCG giữa các TCTD trên thị trường liên ngân hàng với
nhau chưa linh hoạt, một phần nguyên nhân do cơ sở hạ tầng (công nghệ, pháp
lý) của thị trường thứ cấp chưa phát triển. Quy chế 935/2004/QĐ-NHNN ngày
23/7/2004 tuy đã cho phép việc tổ chức hình thức đấu thầu kết hợp cả cạnh
Lý thuyết tài chính tiền tệ Page 15
tranh và không canh tranh lãi suất trong một phiên đấu thầu nhưng đến nay vẫn
chưa áp dụng.
2.2, Vai trò:
Mặc dù vẫn còn những tồn tại trên cần sớm khắc phục trong thời gian tới,
việc phát hành TPKB qua NHNN cũng đã đạt được một số kết quả nổi bật,
đóng vai trò quan trọng trong mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô của nhà nước.
- Việc phát hành TPKB qua NHNN đã từng bước giúp cho thị trường vốn
ngắn hạn ngày một phát triển. Thông qua thị trường này Kho bạc Nhà nước
đã huy động được một khối lượng vốn lớn, tập trung, chi phí thấp để bù đắp
thiếu hụt tạm thời của Ngân sách Nhà nước, đáp ứng được nhu cầu chi tiêu
của Ngân sách Nhà nước và nhu cầu đầu tư cho các công trình trọng điểm
của đất nước.
- Phát hành TPKB đã tạo ra một lượng hàng hoá lớn phục vụ cho hoạt động
của nghiệp vụ thị trường tiền tệ, giúp cho NHNN có thể chủ động và linh
hoạt trong việc điều hành chính sách tiền tệ của mình thông qua các công cụ

gián tiếp.
- Công tác điều hành thị trường của Ban đấu thầu đã có những bước tiến quan
trọng trong việc đổi mới phương thức hoạt động đặc biệt chủ động tìm hiểu
nguyên nhân và đánh giá thực trạng của các TCTD trong việc tham gia
nghiệp vụ đấu thầu TPKB. Thông qua Hội nghị khách hàng hàng năm, ban
đấu thầu Liên Bộ đã có tổng kết đánh giá về hoạt động thị trường, tìm biện
pháp khắc phục những khó khăn, tồn tại giúp thị trường hoạt động ổn định
và hiệu quả.
- Việc hình thành và đưa vào hoạt động nghiệp vụ đấu thầu TPKB trong thời
gian qua đã giúp cho các nhà phát hành, tổ chức đấu thầu cũng như các tổ
chức bảo lãnh, đại lý phát hành có được những kinh nghiệm thiết thực trong
việc đánh giá tiềm năng về vốn, tìm hiểu những tâm lý, tập quán của nhà đầu
tư, mức độ nhậy cảm của luồng vốn đối với những thay đổi về lãi suất, cách
thức phát hành và khối lượng phát hành.
- Thị trường TPKB đã giúp các TCTD có thêm một kênh đầu tư vốn có hiệu
quả với độ an toàn, tính thanh khoản cao và chủ động trong việc quản lý vốn
khả dụng thông qua các nghiệp vụ với NHNN như TTM, chiết khấu và vay
cầm cố.
Lý thuyết tài chính tiền tệ Page 16
- Quy chế và Quy trình đấu thầu TPKB đã được cải tiến theo hướng giảm bớt
các khâu để công tác đấu thầu thực hiện nhanh gọn và hiệu quả, cải tiến
công nghệ phục vụ đấu thầu TPKB gần đây đã áp dụng công nghệ trang Web
trong các phiên đấu thầu.
KL: Việc hình thành và phát triển thị trường đấu thầu TPKB qua NHNN là
một chủ trương và hướng đi đúng đắn. Để thị trường đấu thầu TPKB qua
NHNN trong thời gian tới hoạt động tốt hơn đòi hỏi sự phối kết hợp chặt chẽ
hơn nữa giữa Bộ Tài chính, Kho bạc Nhà nước và Ngân hàng Nhà nước trong
việc xác định số lượng phát hành, kỳ hạn phát hành, lãi suất cũng như hình thức
phát hành cho mỗi phiên đấu thầu. Ngoài ra, việc nâng cấp hệ thống giao dịch
đấu thầu, việc tuyên truyền phổ biến để các tổ chức tín dụng hiểu được vai trò

cũng như lợi ích khi tham gia vào đấu thầu TPKB cũng là một trong những nội
dung cần được triển khai thường xuyên và rộng rãi.
3. Nghiệp vụ thị trường mở:
Nghiệp vụ thị trường mở là hoạt động ngân hàng trung ương mua vào hoặc
bán ra những giấy tờ có giá của chính phủ trên thị trường. Thông qua hoạt động
mua bán giấy tờ có giá, ngân hàng trung ương tác động trực tiếp đến nguồn vốn
khả dụng của các tổ chức tín dụng, từ đó điều tiết lượng cung ứng tiền tệ và tác
động gián tiếp đến lãi suất thị trường.
3.1, Thực trạng:
Thống kê từ đầu năm nay đến hết tháng 3/2011, NHNN đã bơm ra thị trường
mở 1.285.146 tỷ đồng, trong khi hút về 1.202.214,1 tỷ đồng. Như vậy, mức bơm
ròng đạt 82.931,9 tỷ đồng. Số liệu cụ thể được thể hiện tổng hợp qua bảng dưới
đây: (Xem bảng 1).
Qua bảng 1 cho thấy trong tháng 4/2011, NHNN cũng đã bơm ra thị trường mở
519.695,7 tỷ đồng và hút về 453.002,7 tỷ đồng. Mức bơm ròng là 66.693 tỷ
đồng. Trong 2 tuần đầu tháng 4/2011 (từ 4/4 đến 15/4), sau khi nâng lãi suất thị
trường mở từ 12% lên 13%, NHNN liên tục bơm tiền qua thị trường này nhưng
với khối lượng dè chừng. Nhu cầu vay trên thị trường mở vẫn lớn khi tỷ lệ đăng
kí/ chào thầu ở mức gần 230%.
Bảng 1: Tình hình hoạt động NV thị trường mở 6 tháng đầu năm 2011
Đơn vị tính: Tỷ đồng
Lý thuyết tài chính tiền tệ Page 17
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước và tổng hợp của nhóm tác giả
Qua bảng 2 cho thấy từ năm 2008, NHNN đã bơm ròng 100.685 tỷ đồng;
năm 2009, cũng bơm ròng tới 122.830 tỷ đồng; năm 2010, bơm ròng 294.304 tỷ
đồng, trong khi đó, 6 tháng đầu năm 2011, chỉ bơm ròng 13.056 tỷ đồng. Điều
này thể hiện NHNN quyết tâm thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt, nhằm mục
đích kiềm chế lạm phát.
Bảng 2: Lượng tiền cung ứng ròng qua nghiệp vụ thị trường mở
Đơn vị tính: tỷ đồng

Lý thuyết tài chính tiền tệ Page 18
Biểu đồ 2: Lượng tiền cung ứng ròng qua nghiệp vụ thị trường mở
Đơn vị: Tỷ đồng
Nhìn vào biểu đồ 2 ta có thể thấy lượng tiền NHNN bơm ra giảm dần trong
6 tháng đầu năm 2011. Lãi suất NVTTM (hay lãi suất OMO) tính đến hết tháng
6/2011, vẫn được giữ nguyên ở mức 15%/năm. Việc thắt chặt tiền tệ thông qua
hút ròng trên nghiệp vụ thị trường mở của NHNN cùng các chính sách điều tiết
vĩ mô khác đã có những kết quả bước đầu khi CPI tháng 6/2011 CPI tăng
Lý thuyết tài chính tiền tệ Page 19
1,09%, giảm so với mức tăng 2,21% của tháng 5/2011 đã mang lại tín hiệu đáng
mừng cho nền kinh tế.
Bảng 3: Doanh số giao dịch nghiệp vụ thị trường mở qua các năm
Đơn vị: tỷ đồng
Qua bảng số liệu 3 cho thấy, trong 6 tháng đầu năm 2011, NHNN đã thực
hiện 241 phiên giao dịch mua có kỳ hạn. Để đảm bảo khả năng thanh khoản cho
các TCTD nên NHNN chỉ chào các phiên giao dịch mua có kỳ hạn và chủ yếu
là kỳ hạn ngắn, chỉ có 7 ngày và tất cả các phiên đều đấu thầu khối lượng. Các
chủ thể tham gia thị trường trong 6 tháng đầu năm 2011cũng tăng mạnh, gần
như các chủ thể đăng ký tham gia thị trường, nếu có đủ điều kiện đều được giao
dịch và đáp ứng nhu cầu vốn kịp thời. Các chủ thể tham gia gồm: 05 NHTM
Nhà nước, 32 NHTMCP, 01 ngân hàng liên doanh, 07 chi nhánh ngân hàng
nước ngoài, 04 công ty tài chính. Doanh số giao dịch trên nghiệp vụ thị trường
mở liên tục tăng, năm sau cao hơn năm trước theo cả hai chiều mua và bán.
Năm 2008, tổng doanh số trúng thầu là 1.036.066 tỷ đồng, đến cuối năm 2010,
tổng doanh số trúng thầu là 2.108.715 tỷ đồng. Tuy nhiên, 6 tháng đầu năm
2011, NHNN lại “hút” là chủ yếu, (tháng 5 và 6); NHNN chỉ bơm ra khoảng
13.056 tỷ đồng. Điều này cho thấy thị trường mở là một “kênh” cung ứng hoặc
thu hút tiền về quan trọng của NHNN nhằm thực hiện mục tiêu của CSTT. Khối
lượng giao dịch trong từng phiên cũng ngày càng tăng từ bình quân 2.577 tỷ
Lý thuyết tài chính tiền tệ Page 20

đồng/phiên năm 2008 lên 3.240 tỷ đồng/phiên năm 2010 và 9.544 tỷ
đồng/phiên năm 2011.
3.2, Vai trò:
 NHNN điều hành chủ động, linh hoạt, hiệu quả công cụ nghiệp vụ thị trường
mở. cùng với các công cụ chính sách tiền tệ khác, bước đầu đã kiềm chế lạm
phát và thực hiện có hiệu quả các mục tiêu khác của CSTT. Lượng tiền cung
ứng và rút về của thị trường mở có sự phối hợp chặt chẽ với các công cụ
khác của CSTT nhằm phát tín hiệu điều hành CSTT. Cùng với thị trường
mở, NHNN vẫn duy trì các công cụ khác của CSTT như chính sách tái cấp
vốn, dự trữ bắt buộc. Do vậy, trong các thời điểm cụ thể, thị trường mở được
điều hành linh hoạt, góp phần tạo sự phối hợp chặt chẽ với các công cụ
CSTT khác nhằm đạt được mục tiêu CSTT.
 Qua nghiệp vụ thị trường mở; NHNN đã điều tiết linh hoạt vốn khả dụng
cho các TCTD. Nghiệp vụ thị trường mở có vai trò quan trọng trong việc
điều tiết cung cầu về vốn ngắn hạn cho các TCTD nhằm hỗ trợ hoạt động
sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, đời sống của các chủ thể trong nền kinh tế. Có
thể nhận thấy nghiệp vụ thị trường mở Việt Nam đã góp phần nhất định
trong quá trình phát triển kinh tế đất nước, nhất là trong điều kiện hiện nay.
 Sự thay đổi lãi suất nghiệp vụ thị trường mở làm tăng khả năng điều tiết lãi
suất thị trường của NHNN Việt Nam .Hoạt động nghiệp vụ thị trường mở sẽ
tác động đến lượng tiền cung ứng, từ đó tác động đến lãi suất thị trường. Lãi
suất thị trường mở được điều hành linh hoạt trong khoảng giữa lãi suất tái
cấp vốn và lãi suất chiết khấu để định hướng lãi suất thị trường, phát tín hiệu
về quan điểm điều hành CSTT trong từng thời kỳ thể hiện rõ vai trò của lãi
suất thị trường mở trong việc hỗ trợ NHNN điều tiết lãi suất thị trường.
 công tác dự báo vốn khả dụng của NHNN đã có nhiều cải thiện, kết quả dự
báo trong kì dự báo là 1 tháng không có nhiều sai lệch về tổng thể, nhưng
trong dự báo biến động hàng ngày còn nhiều sai số. Tuy nhiên, do việc thực
hiện chào mua được thực hiện 2 phiên một ngày, nên việc chỉnh sửa sai lệch
dự báo được tiến hành nhanh chóng.

4. Thị trường hối đoái:
Lý thuyết tài chính tiền tệ Page 21
Thị trường ngoại hối hay thị trường hối đoái ngoại tệ là thị trường tiền tệ quốc
tế diễn ra các hoạt động giao dịch các ngoại tệ và các phương tiện thanh toán có
giá trị như ngoại tệ.
4.1, Thực trạng:
Năm 2009, tỉ giá USD/VND tiếp tục đà tăng trong 4 tháng đầu năm, đặc biệt
sau khi NHNN thực hiện nới rộng biên độ tỉ giá lên ±5% khiến cho tỉ giá ngoại
tệ liên NH đã có đợt tăng đột biến.
Năm 2010, giá USD đã tăng khá mạnh trong năm 2009, sang đến tháng
1/2010 lại giảm nhẹ và tiếp tục dao động quanh mức 18.479đồng/USD cho đến
giữa tháng 2/2010. Nguyên nhân là do: Nguồn cung USD có thể tăng từ nguồn
vốn đầu tư trực tiếp; từ vốn hỗ trợ phát triển chính thức; từ vốn đầu tư gián tiếp;
từ nguồn kiều hối từ Việt kiều và từ lao động làm việc ở nước ngoài gia tăng;
nguồn thu từ khách quốc tế đến Việt Nam gia tăng trở lại; kim ngạch xuất khẩu
chuyển từ tăng trưởng âm (-) sang tăng trưởng dương (+)… Bên cạnh đó, các
tập đoàn, tổng công ty lớn của Nhà nước bán ngoại tệ cho ngân hàng, sức ép
tâm lý găm giữ USD do lo sợ rủi ro tỉ giá giảm, chênh lệch giữa giá thị trường
tự do với giá niêm yết trên thị trường chính thức đã giảm đáng kể.
Đến cuối năm 2010, thị trường ngoại hối VN rơi vào tình trạng căng thẳng
khi cầu ngoại tệ quá lớn, trong khi nguồn cung lại khan hiếm. Điều này khiến
cho giá USD/VND tăng mạnh, làm ảnh hưởng đến nền kinh tế vĩ mô.
6 tháng đầu năm 2011, với chính sách thắt chặt tiền tệ của NHNN, điểm nổi
bật nhất của thị trường ngoại tệ là duy trì được sự ổn định. Tỉ giá giao dịch dần
hạ xuống. Bắt đầu từ sự “giảm nhiệt” của tỉ giá trên thị trường tự do, chênh lệch
tỉ giá giữa thị trường này so với thị trường chính thức giảm dần xuống, thậm chí
có thời điểm còn thấp hơn cả thị trường chính thức – một hiện tượng hiếm thấy
trong nhiều năm qua.
Trên thị trường chính thức, tỉ giá giao dịch của các NHTM thường ở mức
thấp hơn biên độ tối đa theo quy định (1% so với tỉ giá bình quân trên thị trường

liên ngân hàng do NHNN công bố); xen kẽ những ngày tăng, tỉ giá đã có nhiều
ngày đứng và nhiều ngày giảm, đây là điều hiếm thấy trước đây.
Lý thuyết tài chính tiền tệ Page 22
Khi thị trường tự do bị thu hẹp, chênh lệch tỉ giá giữa thị trường tự do và thị
trường chính thức giảm thiểu, tỉ giá cơ bản ổn định và có xu hướng giảm, đã tạo
thời cơ để NHNN mua vào ngoại tệ. Theo số liệu của NHNN, tính đến hết
tháng 7, NHNN đã mua được 5 tỉ USD dự trữ ngoại hối, một động thái mà từ
giữa năm 2008 đến trước tháng 5/2011 chưa thực hiện được. Các doanh nghiệp
và người dân đã bắt đầu bán ngoại tệ cho ngân hàng; bước đầu chuyển dần quan
hệ huy động và cho vay bằng ngoại tệ sang quan hệ mua – bán ngoại tệ giữa
ngân hàng với khách hàng; việc niêm yết giá thanh toán, mua – bán trực tiếp
bằng ngoại tệ đã được thu hẹp.
Năm 2011 đánh dấu khá nhiều thay đổi trên thị trường tài chính tiền tệ ở
Việt Nam. Với những ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái
toàn cầu trong hai năm 2008-2009, kinh tế Việt Nam gặp không ít khó khăn.
Lạm phát của Việt Nam cũng đã tăng cao lên mức hai con số (11,8%) vào cuối
năm 2010 và tiền đồng Việt Nam (VND) bị trượt giá. Những tháng đầu năm
2011 chỉ số giá tiêu dùng CPI của Việt Nam cũng đã tăng khá cao đe dọa mục
tiêu kiềm chế lạm phát trong năm dưới mức hai con số. Diễn biến nêu trên đã
ảnh hưởng tiêu cực tới niềm tin của người dân, thị trường và các nhà đầu tư.
Tổng kết lại, trong năm 2011, giá vàng trong nước đã tăng khoảng 25%,
mức tăng cao nhất đạt 40% khi giá vàng đạt đỉnh 49,2 triệu đồng/lượng vào
ngày 23/8/2011, lúc này giá vàng thế giới cũng chạm đỉnh 1.920 USD/oz. Tuy
nhiên càng về cuối năm, giá vàng trong nước song hành cùng giá vàng quốc tế,
giảm mạnh chỉ còn mức 42-43 triệu đồng/lượng trong khi giá vàng thế giới sụt
mạnh xuống 1.550 USD/oz. Mặc dù vậy, mức chênh lệch giữa giá vàng trong
nước và quốc tế vẫn còn khá lớn (khoảng 2 triệu đồng/lượng). Rất nhiều liều
thuốc đã được bơm vào thị trường nhằm bình ổn tâm lý người dân, đồng thời
rút ngắn khoảng cách chênh lệch của giá vàng trên thị trường quốc tế và Việt
Nam, tuy vậy hiệu quả vẫn đang chờ thời gian trả lời. Trong năm 2012, giá

vàng trong nước sẽ vẫn bám sát diễn biến giá vàng quốc tế.
4.2, Vai trò:
- Đáp ứng nhu cầu mua bán ,trao đổi ngoại tệ nhằm phục vụ cho quá trình chu
chuyển, thanh toán trong các lĩnh vực thương mại và phi thương mại.
- Công cụ để ngân hàng trung ương có thể thực hiện chính sách tiền tệ nhằm
điều khiển nền kinh tế theo mục tiêu chính phủ.
Lý thuyết tài chính tiền tệ Page 23
- Thị trường ngoại hối có chức năng tín dụng.
- Cung cấp các công cụ cho các nhà kinh tế nghiên cứu để phòng ngừa rủi ro
hối đoái trong trao đổi ngoại tệ.Đồng thời giúp các nhà đầu cơ nghiên cứu
thu được lợi nhuận nếu họ dự đoán được tỷ giá hối đoái.
C. Thị trường vốn.
Sau hơn một thập kỷ phát triển, thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam
cùng với các thị trường có liên quan đã tạo nên một thị trường tài chính
(TTTC) Việt Nam phát triển khá đa dạng. Hiện tại,TTCK đã được coi là một
cấu phần quan trọng của TTTC Việt Nam Qua 12 năm phát triển, TTCK Việt
Nam đã từng trải qua một thời kỳ bùng nổ ấn tượng vào năm 2006 và sau đó
lại rơi vào tình trạng suy giảm từ năm 2009 đến nay: giá chứng khoán giảm
liên tục xuống mức rất thấp so với mệnh giá, nhiều công ty chứng khoán thua
lỗ
1, Vai trò của TTCK đối với nền kinh tế.
Các nhà nghiên cứu lý thuyết chia TTTC gồm thị trường tiền tệ (gồm thị
trường vốn ngắn hạn, thị trường hối đoái và thị trường giấy tờ có giá ngắn hạn)
và thị trường vốn (trong đó gồm TTCK, TT vốn tín dụng). Như vậy, TTCK là
một cấu phần quan trọng của TTTC và là phương tiện để mọi thành phần kinh
tế -xã hội có thể tham gia đầu tư một cách trực tiếp hoặc gián tiếp vào hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp; là nơi mà chính phủ có thể huy động vốn
cho nhu cầu đầu tư phát triển kinh tế -xã hội. TTCK có thể coi là kênh dẫn vốn
quan trọng chuyển vốn từ khu vực tiết kiệm đến khu vực đầu tư; tăng cường
tính minh bạch trong sản xuất kinh doanh; góp phần tăng trưởng kinh tế; nâng

cao chất lượng quản trị trong nền kinh tế vĩ mô. Rõ ràng, TTCK có vai trò
quan trọng đối với sự phát triển TTTC nói chung.
Thực tế thế giới cho thấy, quá trình hình thành và phát triển, TTCK đều có
thể có những đóng góp hay có tác động tiêu cực đến TTTC hay đến nền kinh tế
nói chung.Sự phát triển của TTCK Việt Nam chắc chắn cũng không ngoài quy
luật phát triển đó.
1.1, Đóng góp và tác động của TTCK Việt Nam đối với TTTC và nền kinh tế.
Các con số qua 11 năm phát triển của TTCK Việt Nam là căn cứ, cơ sở và
cũng là dấu hiệu để chúng ta ta đánh giá đóng góp (bao gồm cả tác động tích
Lý thuyết tài chính tiền tệ Page 24
cực) và chỉ ra những tác động tiêu cực của nó đến TTTC hay rộng hơn là đến
nền kinh tế Việt Nam.
 Đóng góp của TTCK
Về đóng góp hay tác động tích cực của TTCK Việt Nam, chúng ta có thể
chỉ ra những đóng góp đáng kể dưới đây trên cơ sở những con số và những tỷ
lệ mang tính trực quan.
• TTCK đã góp phần phát triển TTTC Việt Nam theo chiều rộng và chiều sâu
Trong 12 năm qua, chúng ta có thể nhận thấy TTCK Việt Nam đã có sự
phát triển về chiều rộng khá mạnh. Sự phát triển của TTCK đã đóng góp vào
sự phát triển theo chiều rộng chung của TTTC Việt Nam là hệ thống các loại
hình định chế như NHTM (bao gồm NHTM Nhà nước, NHTMCP, ngân hàng
liên doanh, ngân hàng nước ngoài, ngân hàng chính sáchxã hội, ngân hàng đầu
tư phát triển ), công ty tài chính, công ty đầu tư tài chính, công ty chứng
khoán, công ty quản lý quỹ Cho đến thời điểm giữa năm 2011, có thể nói,
TTTC Việt Nam đã phát triển khá sâu rộng và có sự hội nhập quốc tế. Số lượng
cácđịnh chế tài chính đã tăng lên tới con số hàng ngàn và tổng tài sản có gấp
nhiều lần GDP Việt Nam.
Về phát triển theo chiều sâu của TTTC (độ sâu tài chính): các chỉ số tài
chính cho thấy, TTTC nói chung và TTCK Việt Nam đã có phát triển rất mạnh
trong những năm gần đây. Điều này có thể thấy qua chỉ số độ sâu tài chính

(M2/GDP, tín dụng so với GDP ). (xem Biểu đồ 1).
Lý thuyết tài chính tiền tệ Page 25

×