Tải bản đầy đủ (.doc) (178 trang)

Chuyên đề: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NGHỊ ĐỊNH QUY ĐỊNH XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG HOẠT ĐỘNG BÁO CHÍ, XUẤT BẢN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (619.88 KB, 178 trang )

Tài liệu tập huấn thanh tra chuyên ngành TT&TT năm 2011

Chuyên đề:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NGHỊ ĐỊNH QUY ĐỊNH XỬ PHẠT VI
PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG HOẠT ĐỘNG BÁO CHÍ, XUẤT BẢN
Biên soạn:
Ngô Huy Toàn – Trưởng phòng Thanh tra Báo chí, Xuất bản

I. BỐI CẢNH
Nằm trong xu thế chung của thế giới, bộ máy Chính phủ từng bước
được hoàn thiện theo hướng tinh gọn, giảm đầu mối, tránh tình trạng chồng
chéo, tăng tính trách nhiệm và hiệu quả quản lý, nhằm xây dựng một Chính
phủ mạnh đáp ứng yêu cầu thời đại. Theo đó, việc sát nhập, thành lập các Bộ
vẫn đang trong quá trình vận động, phát triển để tiến tới một mô hình tối ưu
nhất và quan điểm Bộ thực hiện quản lý đa ngành, đa lĩnh vực đã được khẳng
định. Việc thành lập Bộ Thông tin và Truyền thông không chỉ đáp ứng yêu
cầu nêu trên mà còn bảo đảm sự phù hợp với sự phát triển nhanh và xu hướng
hội tụ giữa công nghiệp nội và cơ sở hạ tầng truyền thông.
Chúng ta đang sống trong kỷ nguyên của sự bùng nổ thông tin, hội
nhập và toàn cầu hóa. Sự phát triển nhanh của công nghệ thông tin đã tác
động mạnh mẽ đến hoạt động báo chí, xuất bản, làm phát sinh những quan hệ
xã hội mới trong lĩnh vực này cần cập nhật, bổ sung, thể hiện rõ nhất là sự
tham gia của thành phần xã hội khác, xu hướng hội tụ diễn ra mạnh mẽ, loại
hình mới xuất hiện... Nằm trong tiến trình này, Luật Xuất bản đã được sửa
đổi, bổ sung, Luật Báo chí đang trong quá trình xem xét, sửa đổi. Những thay
đổi này dẫn đến nghị định xử phạt vi phạm hành chính cũng phải sửa đổi để
bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ.
Xã hội ngày càng phát triển, mỗi công dân ngày càng ý thức hơn về
nhu cầu thông tin và đòi hỏi đáp ứng quyền được thông tin của mình đã được
luật pháp ghi nhận. Thông tin ngày càng trở nên quan trọng đối với mọi mặt
của đời sống xã hội. Để thông tin thông suốt, kịp thời, đầy đủ, trung thực,


khách quan cần có cơ chế đồng bộ, trước hết là hệ thống văn bản quy phạm
pháp luật.
II. SỰ CẦN THIẾT
1


Tài liệu tập huấn thanh tra chuyên ngành TT&TT năm 2011

1. Đánh giá quá trình thực hiện Nghị định số 56/2006/NĐ-CP ngày
6/6/2006 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động
văn hóa – thông tin.
Ngày 06 tháng 06 năm 2006, Chính phủ ban hành Nghị định số
56/2006/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động văn hóa thông tin. Sự ra đời của Nghị định đã góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả
quản lý nhà nước về lĩnh vực văn hoá - thông tin, mở ra hành lang pháp lý
thông thoáng và cần thiết cho tổ chức, cá nhân tham gia vào hoạt động này.
Thời điểm xây dựng nghị định, trong xã hội phát sinh nhiều hoạt động thiếu
lành mạnh trong lĩnh vực văn hoá- thông tin, tình hình vi phạm bản quyền
diễn biến phức tạp… đòi hỏi phải kịp thời chấn chỉnh. Nghị định số
56/2006/NĐ-CP về xử phạt hành chính trong hoạt động văn hoá - thông tin là
cơ sở pháp lý quan trọng, góp phần lập lại trật tự, kỷ cương trong hoạt động
văn hóa – thông tin, làm lành mạnh môi trường văn hoá xã hội.
So với Nghị định số 31/2001/NĐ-CP ngày 26/6/2001 của Chính phủ về
xử phạt hành chính trong lĩnh vực văn hoá – thông tin, Nghị định số
56/2006/NĐ-CP đã bao quát hầu hết các hành vi vi phạm có thể xảy ra trong
lĩnh vực văn hóa – thông tin. Nhiều hành vi mới được bổ sung, hoàn thiện phù
hợp hơn, dễ áp dụng trong thực tiễn.
Sau gần 4 năm triển khai thực hiện, Nghị định số 56/2006/NĐ-CP tạo
thuận lợi cho hoạt động thanh tra, kiểm tra chuyên ngành. Các quy định cụ thể
của Nghị định giúp lực lượng thanh tra chuyên ngành văn hóa thông tin, nhất
là địa phương xử lý các vụ việc vi phạm chính xác hơn, chặt chẽ hơn, bảo

đảm tính nghiêm minh của pháp luật. Nghị định một mặt, góp phần nâng cao
hiệu quả quản lý nhà nước, mặt khác bảo đảm thực hiện đúng nguyên tắc của
pháp luật: “Mọi vi phạm hành chính phải được phát hiện kịp thời và phải bị
đình chỉ ngay. Việc xử lý vi phạm hành chính phải được tiến hành nhanh
chóng, công minh, triệt để; mọi hậu quả do vi phạm hành chính gây ra phải
được khắc phục theo đúng quy định của pháp luật”. Cùng với các mặt hoạt
động khác, Nghị định số 56/2006/NĐ-CP góp phần quan trọng trong việc xây
dựng và bảo vệ nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Tuy nhiên, bên cạnh đóng góp quan trọng trong công tác quản lý nhà
nước về văn hóa thông tin, Nghị định số 56/2006/NĐ-CP còn một số hạn chế,
tồn tại: Trong một số điều khoản, ngôn từ pháp lý chưa chặt chẽ; các khung
chế tài quy định chưa thống nhất, một số điều khoản kết cấu chưa hợp lý, dẫn
2


Tài liệu tập huấn thanh tra chuyên ngành TT&TT năm 2011

đến có hành vi vi phạm không xử lý được; một số điều quy định khung phạt
quá rộng, dễ gây ra sự tùy tiện trong quá trình xử lý, không bảo đảm được
tính chính xác, công bằng.
2. Sự cần thiết ban hành Nghị định quy định xử phạt vi phạm hành
chính trong hoạt động báo chí, xuất bản để thay thế Nghị định số
56/2006/NĐ-CP ngày 6/6/2006 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành
chính trong hoạt động văn hóa – thông tin.
Thực hiện Nghị quyết số 01/2007/QH12 ngày 31 tháng 7 năm 2007 của
Quốc hội về cơ cấu tổ chức của Chính phủ nhiệm kỳ khoá XII, ngày 08 tháng
8 năm 2007, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1000/QĐ-TTg về
việc chuyển chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước về báo chí, xuất bản và
chuyển tổ chức biên chế cán bộ, công chức, viên chức làm công tác báo chí,
xuất bản từ Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch sang Bộ Thông tin và Truyền

thông. Sự thay đổi chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước đối với lĩnh vực
báo chí, xuất bản đặt ra yêu cầu phải hoàn thiện hệ thống pháp luật để phù
hợp với tình hình nhiệm vụ mới của Bộ Thông tin và Truyền thông.
Nghị định số 56/2006/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong
hoạt động văn hóa – thông tin được Chính phủ ban hành ngày 6 tháng 6 năm
2006, khi chưa có sự thay đổi cơ cấu tổ chức của Chính phủ, trong đó quy
định xử phạt đối với nhiều lĩnh vực như: báo chí, xuất bản, điện ảnh, nghệ
thuật biểu diễn, hoạt động văn hóa và kinh doanh dịch vụ văn hóa công cộng,
mỹ thuật, triển lãm văn hóa, nghệ thuật, nhiếp ảnh, quyền tác giả tác phẩm
văn học nghệ thuật và quyền liên quan, quảng cáo, viết đặt biển hiệu, di sản
văn hóa, thư viện, công trình văn hóa, nghệ thuật, xuất khẩu, nhập khẩu sản
phẩm văn hóa, công bố, phổ biến tác phẩm ra nước ngoài. Cho đến nay, cả hai
bộ (Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch) vẫn
đang áp dụng Nghị định này để xử phạt. Việc Bộ Thông tin và Truyền thông
áp dụng nghị định số 56/2006/NĐ-CP, trong đó quy định thẩm quyền xử phạt
thuộc thanh tra chuyên ngành văn hóa – thông tin là chưa phù hợp với sự thay
đổi chức năng quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí, xuất bản.
Cùng với sự phát triển kinh tế xã hội nói chung, phát triển báo chí, xuất
bản nói riêng cũng như việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật mới
trong thời gian qua, đã khiến những quy định trong Nghị định số
56/2006/NĐ-CP bộc lộ một số điểm không phù hợp. Ví dụ, quy định mức
phạt tối đa đối với lĩnh vực văn hóa – thông tin, thẩm quyền xử phạt của
3


Tài liệu tập huấn thanh tra chuyên ngành TT&TT năm 2011

chánh thanh tra chuyên ngành cấp sở, giấy phép thiết lập trang thông tin điện
tử trên Internet, thông tin về những chuyện thần bí, viện dẫn nguồn tin, xuất
bản, phát hành trên mạng Internet, chế độ báo cáo… trong đó, một số hành vi

chưa được quy định trong Nghị định số 56/2006/NĐ-CP.
Ngoài ra, các quy định pháp luật mới ban hành cho phép các thành
phần xã hội tham gia vào một số khâu nhất định trong hoạt động báo chí, xuất
bản. Vì vậy, bên cạnh quyền lợi, trách nhiệm, việc bổ sung chế tài xử phạt vi
phạm hành chính đối với các thành phần này là cần thiết, bảo đảm sự công
bằng của pháp luật và trách nhiệm xã hội của công dân.
Trong quá trình áp dụng Nghị định số 56/2006/NĐ-CP, cho thấy nhiều
trường hợp vi phạm của tổ chức cá nhân với mức độ nhẹ, chưa gây ra hậu quả
xấu, không cần thiết phải xử phạt hành chính bằng tiền mà có thể xử phạt
cảnh cáo. Tuy nhiên, trong Nghị định số 56/2006/NĐ-CP các quy định liên
quan đến báo chí, xuất bản hoàn toàn không có hình thức xử phạt cảnh cáo,
dẫn đến một số trường hợp phải xử lý cứng nhắc.
Từ những lý do nêu trên, việc ban hành Nghị định của Chính phủ quy
định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động báo chí, xuất bản tách riêng
khỏi Nghị định số 56/2006/NĐ-CP là rất cần thiết.
III. QUÁ TRÌNH SOẠN THẢO NGHỊ ĐỊNH
1. Nguyên tắc xây dựng Nghị định
a) Bảo đảm tính hợp hiến, tính thống nhất, đồng bộ trong hệ thống văn
bản quy phạm pháp luật về báo chí, xuất bản.
b) Kế thừa những quy định hiện hành còn phù hợp và đang phát huy
hiệu quả của Nghị định số 56/2006/NĐ-CP ngày 6/6/2006 của Chính phủ về
xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động văn hóa – thông tin.
c) Tạo hành lang pháp lý đầy đủ, rõ ràng, thuận lợi cho các tổ chức, cá
nhân tham gia hoạt động báo chí, xuất bản, đồng thời góp phần nâng cao hiệu
lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí, xuất bản.
2. Quá trình soạn thảo Nghị định
a) Quy trình
Cũng giống như việc xây dựng văn bản quy phạm pháp luật nói chung,
trước hết nó nằm trong chương trình xây dựng văn bản luật năm 2009 của
4



Tài liệu tập huấn thanh tra chuyên ngành TT&TT năm 2011

Chính phủ, Chính phủ giao Bộ Thông tin và Truyền thông chủ trì soạn thảo.
Quá trình soạn thảo tuân thủ đúng quy trình, thủ tục:
- Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Quyết định thành lập Ban
Soạn thảo do một đồng chí Thứ trưởng làm Trưởng ban, thành viên gồm có
đại diện các cơ quan chỉ đạo, quản lý nhà nước về báo chí, xuất bản, các cơ
quan có liên quan. Cụ thể: Đại diện Văn phòng Chính phủ, Bộ Tư pháp, Ban
Tuyên giáo Trung ương, Thanh tra Bộ, Cục Báo chí, Cục Xuất bản, Cục Quản
lý Phát thanh, Truyền hình và Thông tin điện tử, Cục Thông tin đối ngoại, Vụ
Pháp chế. Trưởng Ban soạn thảo Quyết định thành Tổ biên tập giúp việc Ban
Soạn thảo.
- Trong quá trình soạn thảo nghị định, Bộ Thông tin và Truyền thông đã
tổ chức các hội thảo theo chuyên đề với sự tham gia của cơ quan quản lý nhà
nước về báo chí, xuất bản ở Trung ương và địa phương, các cơ quan báo chí,
nhà xuất bản đại diện cho các vùng miền, các tổ chức, cá nhân có tham gia
hoạt động báo chí, xuất bản, qua các hội thảo, Ban Soạn thảo đã tiếp nhận
nhiều ý kiến đóng góp rất thiết thực, có chất lượng giúp Ban Soạn thảo điều
chỉnh, sửa đổi các quy định phù hợp thực tế hơn. Ngoài ra, Ban Soạn thảo xin
ý kiến của các hội nghề nghiệp như: Hội Nhà báo Việt Nam, Hội Xuất bản
Việt Nam, Hiệp hội quảng cáo, Hiệp hội In Việt Nam. Dự thảo đã được đưa
lên cổng thông tin điện tử của Chính phủ, cổng thông tin điện tử Bộ Thông tin
và Truyền thông ngày 19/10/2009 để xin ý kiến rộng rãi của toàn dân.
- Ngày 23 tháng 11 năm 2009, Bộ Thông tin và Truyền thông đã có văn
bản số 3769/BTTTT-TTra gửi các Bộ, ngành có liên quan để xin ý kiến. Tiếp
thu ý kiến đóng góp, Ban Soạn thảo đã chỉnh sửa và hoàn thiện Dự thảo lần
thứ 8. Ngày 18 tháng 12 năm 2009, Bộ Thông tin và Truyền thông đã có văn
bản số 4096/BTTTT-TTra xin ý kiến thẩm định của Bộ Tư pháp. Dự thảo 10,

dự thảo cuối cùng sau khi tiếp thu ý kiến thẩm định của Bộ Tư pháp đã được
trình Chính phủ vào tháng 6/2010.
b) Thuận lợi
- Kế thừa Nghị định số 56/2006/NĐ-CP ngày 6/6/2006 của Chính phủ
về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt dộng văn hóa thông tin, trong đó
đáng kể là tư duy về những vấn đề lớn, hướng kết cấu, nhiều điều khoản vẫn
còn phù hợp và đang phát huy tác dụng.
- Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về xuất bản mới được ban
hành, sửa đổi, bổ sung: Luật Xuất bản 2004, Luật sửa đổi bổ sung một số điều
5


Tài liệu tập huấn thanh tra chuyên ngành TT&TT năm 2011

của Luật Xuất bản 2008 và hàng loạt văn bản dưới luật như Nghị định số
111/2005/NĐ-CP ngày 26 tháng 8 năm 2005 của Chính phủ Quy định chi tiết
và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Xuất bản, Nghị định số
11/2009/NĐ-CP ngày 10/02/2009 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung Nghị định
số 111/2005/NĐ-CP ngày 26 tháng 8 năm 2005 quy định chi tiết và hướng
dẫn thi hành một số điều của Luật Xuất bản, Nghị định số 105/2007/NĐ-CP
ngày 21/6/2007 Về hoạt động in các sản phẩm không phải là xuất bản phẩm,
Thông tư số 30/2006/TT-BVHTT của Bộ Văn hoá-Thông tin về việc hướng
dẫn thi hành Nghị định số 111/2005/NĐ-CP ngày 26/8/2005 của Chính phủ
quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Xuất bản, Thông
tư số 04/2008/TT-BTTTT ngày 09 tháng 07 năm 2008 hướng dẫn thực hiện
một số nội dung của Nghị định số 105/2007/NĐ-CP ngày 21 tháng 6 năm
2007 của Chính phủ về hoạt động in các sản phẩm không phải là xuất bản
phẩm, Nghị định số 110/2010/NĐ-CP của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung
một số điều của Nghị định số 111/2005/NĐ-CP ngày 26/08/2005 của Chính
phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Xuất bản đã

được sửa đổi, bổ sung bằng Nghị định số 11/2009/NĐ-CP ngày 10/02/2009
của Chính phủ, Thông tư liên tịch số 03/2006/TTLT-BTNMT-BVHTT ngày
15/3/2006 giữa Bộ Văn hóa – Thông tin và Bộ Tài nguyên và mội trường
hướng dẫn quản lý hoạt động xuất bản bản đồ, Thông tư số 61/2006/TTBVHTT ngày 15 tháng 06 năm 2006 của bộ Văn hóa – Thông hướng dẫn in
các thông tin trên lịch, Thông tư liên tịch số 01/2007/TTLT-BVHTT-BTC
ngày 22 tháng 01 năm 2007 giữa Bộ Văn hóa – Thông tin và Bộ Tài chính
hướng dẫn định mức và chế độ thù lao đọc xuất bản phẩm lưu chiểu, Thông tư
22/2010/TT-BTTTT ngày 6/10/2010 của Bộ Thông tin và Truyền thông quy
định về tổ chức và hoạt động in; sửa đổi, bổ sung một số quy định của Thông
tư số 04/2008/TT-BTTTT ngày 09/07/2008 và Thông tư số 02/2010/TTBTTTT ngày 11/01/2010 của Bộ Thông tin và Truyền thông, Thông tư
02/2010/TT-BTTTT của Bộ Thông tin và Truyền thông quy định chi tiết thi
hành một số quy định của Luật Xuất bản ngày 03 tháng 12 năm 2004, Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xuất bản ngày 03 tháng 6 năm 2008,
Nghị định số 111/2005/NĐ-CP ngày 26 tháng 8 năm 2005 và Nghị định số
11/2009/NĐ-CP ngày 10 tháng 02 năm 2009, Quyết định số 102/2006/QĐBVHTT ngày 29 tháng 12 năm 2006 của Bộ trưởng Bộ Văn hóa – Thông tin
Ban hành Quy chế Lưu chiểu xuất bản phẩm, Quyết định số 63/2006/QĐBVHTT của Bộ Văn hoá-Thông tin về việc ban hành Quy chế sử dụng ảnh
6


Tài liệu tập huấn thanh tra chuyên ngành TT&TT năm 2011

trong tranh cổ động và bìa xuất bản phẩm, Quyết định số 38/2008/QĐBTTTT của Bộ Thông tin và Truyền thông về việc ban hành Quy chế liên kết
trong hoạt động xuất bản.
- Tham gia Ban soạn thảo, Tổ biên tập có nhiều chuyên gia có chuyên
môn sâu, am hiểu tường tận lĩnh vực báo chí, xuất bản, đó là các đồng chí
đang công tác tại cơ quan chỉ đạo, cơ quan quản lý báo chí: Ban Truyên giáo
Trung ương, Cục Báo chí, Cục Quản lý phát thanh truyền hình và Thông tin
điện tử, Cục Xuất bản, Thanh tra Bộ…
- Quá trình xây dựng Nghị định nhận được nhiều ý kiến tham gia góp ý
của nhiều tổ chức, đơn vị có liên quan, chịu tác động của Nghị định. Được các

bộ, ngành đồng thuận, ủng hộ, ý kiến đóng góp tập trung, ít ý kiến khác biệt.
- Một số đồng chí trong Ban soạn thảo, Tổ biên tập đã trực tiếp, gián
tiếp tham gia xây dựng Nghị định số 56/2006/NĐ-CP, có nhiều kinh nghiệm
trong hoạt động này.
c) Khó khăn
- Luật Báo chí đang trong quá trình xây dựng, Pháp lệnh quảng cáo
đang trong quá trình sửa đổi, nâng lên thành luật, khó cập nhật những thay đổi
khi luật được ban hành.
- Những vấn đề liên quan đến TVRO vốn đã có nhiều bất cập, hướng
xử lý chưa cụ thể, phải tạm thời chấp nhận thực tế và tuân thủ các quy định
đang còn hiệu lực.
- Theo quan điểm chỉ đạo, cần đưa những quy định xử phạt về thông tin
điện tử còn thiếu trong Nghị định số 28/2009/NĐ-CP ngày 20/3/2009 của
Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong quản lý, cung cấp, sử
dụng dịch vụ Internet và thông tin điện tử trên Internet vào Nghị định này,
nhưng những quy định mới còn nằm trong dự kiến, chưa được định hình cụ
thể.
- Thời gian xây dựng theo kế hoạch không nhiều, từ khi có quyết định
thành lập Ban soạn thảo, Tổ biên tập đến thời điểm phải trình Chính phủ là 6
tháng, đây là thách thức lớn đối với lĩnh vực nhạy cảm cần thận trọng.
d) Ý kiến của các Bộ, ngành, các hội Nghề nghiệp
- Số lượng ý kiến đóng góp: 86
Trong đó: + Các Bộ, ngành: 50
7


Tài liệu tập huấn thanh tra chuyên ngành TT&TT năm 2011

+ Cơ quan quản lý: 15
+ Hội nghề nghiệp: 2

+ Đơn vị bị quản lý: 19
- Các hành vi được tham gia góp ý: 225 (trong đó có ý kiến trùng lắp),
25 hành vi được góp ý không thuộc phạm vi điều chỉnh của Nghị định.
- Tiếp thu, bổ sung, chỉnh sửa 60 hành vi
- Không tiếp thu ý kiến đóng góp đối với 101 hành vi
- Xem xét, báo cáo Ban Soạn thảo 21 ý kiến đóng góp về những vấn đề
mới phát sinh trong thực tiễn: Quy định về bản thảo gửi đến nhà in cần mở
rộng khái niệm, vì hiện nay bản thảo không hòan toàn giống như cách hiểu
truyền thống là bản giấy, mà cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ,
bản thảo có thể là file, bản can…; quy định về in vượt quá số lượng cần tính
đến bù hao trong quá trình in, vì trong định mức in cũng tính đến yếu tố này,
như vậy mới bảo đảm tính chính xác, quyền lợi của cơ sở in; vấn đề lưu bản
thảo trong tình hình mới (lưu trong máy, trong USB), về thẩm quyền, xác định
tiêu chí nội dung…
Trong số ý kiến góp ý nổi lên một số vấn đề cần quan tâm:
* Thẩm quyền xử lý vi phạm về quyền tác giả, quyền liên quan: Một số
ý kiến cho rằng, thẩm quyền này đã được quy định trong Nghị định số
47/2009/NĐ-CP của Chính phủ.
* Phân định ranh giới giữa vi phạm hành chính và vi phạm pháp luật
hình sự: có ý kiến cho rằng một số hành vi vi phạm điều 10 Luật Báo chí
không quy định xử lý hành chính, phải xử lý theo quy định pháp luật hình sự.
* Cần định lượng hành vi một cách rõ ràng: Gây ảnh hưởng xấu, gây
ảnh hưởng nghiêm trọng, hở thân, khoả thân, kích dâm, kích động bạo lực,
không phù hợp thuần phong mỹ tục Việt Nam…
* Ban hành hệ thống biểu mẫu biên bản vi phạm hành chính, Quyết
định xử phạt vi phạm hành chính phục vụ công tác xử lý.
* Thời điểm trình Chính phủ: cần xem xét lui lại thời gian trình chờ ban
hành Luật Báo chí mới, các quy định pháp luật về hoạt động báo chí liên quan
đến người nước ngoài đang được sửa đổi.
đ) Dư luận xung quanh việc xây dựng Nghị định

8


Tài liệu tập huấn thanh tra chuyên ngành TT&TT năm 2011

Dự thảo nghị định được dư luận rất quan tâm, đang có nhiều ý kiến trên
báo chí, tập trung chủ yếu về mảng báo chí.
- Nội dung được tranh luận nhiều nhất:
+ Không nên ra nghị định riêng xử phạt báo chí
+ Nghị định siết chặt báo chí hơn
+ Quy định về “viện dẫn nguồn tin” là không sát thực tế, gây khó khăn
cho báo chí, hạn chế khả năng sáng tạo của các nhà báo, không phù hợp thông
lệ quốc tế
+ Tính khách quan trong thông tin, tiêu chí đánh giá “gây ảnh hưởng
xấu”, “ảnh hưởng nghiêm trọng”.
+ Quy định ”Tiếp tục hoạt động báo chí sau khi bị thu hồi thẻ nhà báo”
là không chính xác. Quy định này đã được chỉnh sửa trong dự thảo.
- Nhiều thế lực thù địch nước ngoài lợi dụng hoạt động xây dựng văn
bản này để xuyên tạc, chống phá nhà nước ta.
IV. NỘI DUNG VÀ BỐ CỤC NGHỊ ĐỊNH
1. Kết cấu
Nghị định được kết cấu thành 4 chương 37 điều
Chương 1: Những quy định chung (3 điều)
Điều 1. Phạm vi điều chỉnh
Điều 2. Đối tượng áp dụng
Điều 3. Các hình thức xử phạt hành chính và biện pháp khắc phục hậu
quả
Chương 2: Hành vi vi phạm trong hoạt động báo chí, xuất bản hình
thức và mức phạt (4 mục, 26 điều)
Mục 1: Hành vi vi phạm trong hoạt động báo chí (13 điều)

Điều 4. Vi phạm các quy định về giấy phép hoạt động thông tin báo chí
Điều 5. Vi phạm các quy định về sử dụng thẻ nhà báo, hoạt động nghề
nghiệp của nhà báo
Điều 6. Hành vi cản trở bất hợp pháp hoạt động báo chí
Điều 7. Vi phạm các quy định về nội dung thông tin
9


Tài liệu tập huấn thanh tra chuyên ngành TT&TT năm 2011

Điều 8. Vi phạm các quy định về cung cấp thông tin cho báo chí và sử
dụng thông tin của cơ quan báo chí
Điều 9. Vi phạm các quy định về cải chính trên báo chí
Điều 10. Vi phạm các quy định về họp báo
Điều 11. Vi phạm các quy định về trình bày sản phẩm thông tin báo chí
Điều 12. Vi phạm các quy định về phát hành sản phẩm thông tin báo
chí
Điều 13. Vi phạm các quy định về lưu chiểu sản phẩm thông tin báo chí
Điều 14. Vi phạm các quy định về xuất, nhập khẩu báo chí
Điều 15. Vi phạm các quy định về quản lý việc thu các chương trình
truyền hình nước ngoài.
Điều 16. Vi phạm các quy định về liên kết trong hoạt động sản xuất
chương trình phát thanh, truyền hình.
Mục 2: Hành vi vi phạm trong hoạt động xuất bản (9 điều)
Điều 17. Vi phạm các quy định về giấy phép hoạt động xuất bản
Điều 18. Vi phạm các quy định về nội dung xuất bản phẩm
Điều 19. Vi phạm các quy định về trình bày, minh hoạ xuất bản phẩm
Điều 20. Vi phạm các quy định về lưu chiểu xuất bản phẩm
Điều 21. Vi phạm các quy định về liên kết trong lĩnh vực xuất bản
Điều 22. Vi phạm các quy định về hoạt động in

Điều 23. Vi phạm các quy định về nhập khẩu thiết bị ngành in
Điều 24. Vi phạm các quy định về tàng trữ, phát hành xuất bản phẩm
Điều 25. Vi phạm các quy định về xuất nhập khẩu xuất bản phẩm
Mục 3: Vi vi phạm về quảng cáo trong hoạt động báo chí, xuất bản (2
điều)
Điều 26. Vi phạm các quy định về quảng cáo trong hoạt động thông
tin báo chí
Điều 27. Vi phạm các quy định về quảng cáo trên xuất bản phẩm
Mục 4: Vi phạm chế độ báo cáo, ngăn cản bất hợp pháp hoạt động
thanh tra, kiểm tra (2 điều)
10


Tài liệu tập huấn thanh tra chuyên ngành TT&TT năm 2011

Điều 28. Vi phạm các quy định về chế độ báo cáo
Điều 29. Hành vi cản trở bất hợp pháp hoạt động quản lý nhà nước,
thanh tra, kiểm tra
Chương 3: Thẩm quyền, thủ tục xử phạt vi phạm hành chính trong
hoạt động báo chí, xuất bản (6 điều)
Điều 30. Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của Thanh tra
chuyên ngành Thông tin và Truyền thông
Điều 31. Thẩm quyền xử phạt của Thanh tra chuyên ngành khác
Điều 32. Thẩm quyền xử phạt của Ủy ban nhân dân các cấp
Điều 33. Thẩm quyền xử phạt của Công an nhân dân, Bộ đội Biên
phòng, Cảnh sát biển, Hải quan, cơ quan Thuế, cơ quan Quản lý thị trường
Điều 34. Thủ tục xử phạt, xử lý tang vật, phương tiện vi phạm hành
chính và thi hành quyết định xử phạt
Điều 35. Ban hành mẫu biên bản, mẫu quyết định sử dụng trong xử
phạt vi phạm hành chính

Chương 4: Điều khoản thi hành (2 điều)
Điều 36. Hiệu lực thi hành
Điều 37. Trách nhiệm thi hành
2. Những điểm mới so với Nghị định số 56/2006/NĐ-CP
- Kết cấu khung phạt thống nhất, đồng bộ. Mức 1: Cảnh cáo hoặc phạt
tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng, mức 2: phạt tiền từ 3.000.000
đồng đến 5.000.000 đồng, mức 3: phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000
đồng, mức 4: phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng, mức 5: phạt
tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng, mức 6: phạt tiền từ 30.000.000
đồng đến 40.000.000 đồng.
- Mức phạt cao nhất nâng lên 40.000.000 đồng phù hợp với Pháp lệnh
Xử lý vi phạm hành chính sửa đổi, tăng 10.000.000 đồng so với quy định cũ.
- Sửa đổi một số hành vi không còn phù hợp
+ Thông tin về những chuyện thần bí, những vấn đề khoa học mới mà
không có chú dẫn xuất xứ tư liệu.
+ Lưu chiểu sản phẩm thông tin báo chí
11


Tài liệu tập huấn thanh tra chuyên ngành TT&TT năm 2011

+ Đăng ký kế hoạch xuất bản
+ Đăng ký thiết bị in
+ Thu chương trình nước ngoài trực tiếp từ vệ tinh
- Cụ thể hóa một số hành vi chưa rõ ràng
+ Quảng cáo trong lĩnh vực y tế, nông nghiệp
+ Liên kết trong hoạt động xuất bản
+ Liên kết sản xuất chương trình phát thanh, chương trình truyền hình
- Bỏ hành vi không còn phù hợp
+ Thiết lập trang thông tin điện tử trên Internet

+ Hành vi truy nhập quản lý và cung cấp thông tin trên mạng thông tin
máy tính
+ Đăng ký thiết bị in nói chung
- Bổ xung các hành vi:
+ Giấy phép quảng cáo
+ Truyền hình trên mạng Internet
+ Viện dẫn nguồn tin
+ Thông tin không khách quan về sự việc, sự kiện, vấn đề
+ Sử dụng bản đồ Việt Nam
+ Họat động báo chí liên quan đến người nước ngoài
+ Xuất nhập khẩu báo chí
+ In sản phẩm in không phải là xuất bản phẩm
+ Xuất khẩu xuất bản phẩm
+ Nhập khẩu tài liệu hội thảo, hội nghị quốc tế
+ Quảng cáo trong hoạt động xuất bản
+ Thực hiện chế độ báo cáo
+ Cản trở bất hợp pháp hoạt động quản lý nhà nước, thanh tra, kiểm tra
- Bổ xung hình thức xử phạt cảnh cáo

12


Tài liệu tập huấn thanh tra chuyên ngành TT&TT năm 2011

- Bổ xung các hình thức xử phạt bổ xung và biện pháp khắc phục hậu
quả
- Ban hành hệ thống biểu mẫu xử dụng trong xử lý vi phạm hành chính
trong hoạt động báo chí, xuất bản.
V. NHỮNG VƯỚNG MẮC TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG
NGHỊ ĐỊNH

1. Về tên Nghị định
- Trong quá trình xây dựng có hai quan điểm. Quan điểm thứ nhất cho
rằng tên nghị định là Nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính trong
họat động báo chí, xuất bản, quan điểm thứ hai cho rằng tên nghị định là Nghị
định quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực báo chí, xuất bản.
- Căn cứ tình hình thực tế, thuật ngữ đã sử dụng trong Luật Xuất bản,
Ban Soạn thảo thống nhất lấy tên là Nghị định quy định xử phạt vi phạm hành
chính trong họat động báo chí, xuất bản.
2. Vấn đề thông tin không phải báo chí.
Trong nhiều năm qua, các loại hình thông tin không phải báo chí như:
xuất bản bản tin, tài liệu, tờ rơi; phát hành thông cáo báo chí, đăng phát bản
tin trên màn hình điện tử. Các hoạt động này đều phải xin phép, và cơ quan
quản lý được giao cho Cục Báo chí (trước đây). Trong nghị định về xử phạt vi
phạm hành chính trong hoạt động báo chí, xuất bản các vi phạm thuộc loại
hình này được quy định chung trong hoạt động thông tin báo chí nói chung.
Vì vậy nếu căn cứ vào tên nghị định thì nó không nằm trong phạm vi điều
chỉnh. Tuy nhiên, nếu không có chế tài thì không bảo đảm hiệu quả quản lý,
vì vậy quan điểm vẫn giữ lại các quy định trong Nghị định này.
3. Vấn đề bản quyền trong hoạt động báo chí, xuất bản.
Nghị định số 47/2009/NĐ-CP không quy định thẩm quyền của Thanh
tra Thông tin truyền thông, mặc dù hoạt động báo chí, xuất bản gắn bó chặt
chẽ với quyền tác giả, quyền liên quan, tuy nhiên nếu quy dịnh hành vi cụ thể
sẽ trùng lắp với Nghị định số 47/2009/NĐ-CP. Trong phần thẩm quyền, Nghị
định này quy định thẩm quyền xử phạt vi phạm về quyền tác giả, quyền liên
quan cho lực lượng thanh tra thông tin và truyền thông, hành vi cụ thể sẽ áp
dụng theo Nghị định số 47/2009/NĐ-CP.
4. Vấn đề TVRO.
13



Tài liệu tập huấn thanh tra chuyên ngành TT&TT năm 2011

- Có nhiều bất cập so với thực tiễn, đối tượng quá hẹp, việc sử dụng lại
quá dễ dàng, thuận tiện, dễ mua bán, lắp đặt, việc quản lý khó khăn do liên
quan đến nhiều ngành, lực lượng mỏng, nhận thức chưa thật sự thống nhất
- Hiện tại, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quy định mới, có nhiều
sửa đổi phù hợp hơn với thực tiễn, tuy nhiên đến 15/5/2011 quy định mới mới
có hiệu lực.
5. Vấn đề chồng lấn giữa Luật Xuất bản và Luật sở hữu trí tuệ.
In vượt quá số lượng ghi trong hợp đồng, in nối bản, thực chất là sao
chép bất hợp pháp, vi phạm quyền tác giả. Có nghĩa là xử phạt theo lĩnh vực
vào cũng phù hợp, điều này cũng đồng nghĩa với việc liên quan đến hai cơ
quan quản lý nhà nước khác nhau là Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Văn
hóa, Thể thao và Du lịch.
6. Vấn đề xuất khẩu ấn phẩm báo chí, xuất bản phẩm.
- Việc xuất nhập khẩu ấn phẩm báo chí, xuất bản ngòai việc tuận thủ
Luật Báo chí, Luật Xuất bản còn liên quan đến Luật Thương mại, vì vậy nó
phải tương thích và phù hợp với các Luật vừa được viện dẫn.
7. Vấn đề thông tin điện tử trên Internet.
- Được quy định trong Nghị định số 97/2008/NĐ-CP, Nghị định số
28/2009/NĐ-CP nhưng chưa bao quát đầy đủ lĩnh vực này. Ngay trong Nghị
định số 28/2009/NĐ-CP cũng viện dẫn một số hành vi được áp dụng theo quy
định về báo chí, xuất bản.
- Mặc dù Ban Soạn thảo có kế hoạch đưa các quy định này thành một
chương, nhưng không thực hiện được do các quy định đang trong quá trình
xây dựng, chưa được định hình và ban hành chính thức.
8. Vấn đề phát thanh có hình, truyền hình trên mạng viễn thông.
- Phát thanh có hình là khái niệm mới xuất hiện, còn nhiều ý kiến tranh
luận, phần lớn cho rằng phát thanh có hình chính là truyền hình.
- Truyền hình trên mạng điện thoại di động đang phát triển, nhưng chưa

có quy định cụ thể.
9. Vấn đề bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức lãnh đạo cơ quan báo
chí.

14


Tài liệu tập huấn thanh tra chuyên ngành TT&TT năm 2011

Có hai luồng ý kiến khác nhau, do quy định này được quy định trong
Luật Báo chí, nên có ý kiến cho rằng cần có chế tài xử lý, ý kiến khác cho
rằng không nên quy định chế tài vì khó xử lý, không hiệu quả, nếu vi phạm có
thể xử lý trách nhiệm theo Luật Cán bộ Công chức.
10. Vấn đề giấy phép họat động báo chí của Phóng viên nước ngoài
tại Việt Nam.
- Liên quan đến Bộ Ngoại Giao, với đối tượng này chịu sự quản lý của
hai cơ quan, Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Ngoại giao.
- Có ý kiến đề nghị đưa vào một điều riêng để dễ áp dụng, có ý kiến
cho rằng không nên quy định riêng vì dễ tạo ra tâm lý cho rằng có sự phân
biệt giữa phóng viên trong nước và phóng viên nước ngoài. Khó khăn đặt ra
đối với quy định này là Nhà nước đang xem xét để sửa đổi, do vậy rất có thể
khi ban hành nó sẽ nhanh chóng bị lạc hậu.
- Việc bổ sung chế tài đối với phóng viên nước ngòai hoạt động tại Việt
Nam thể hiện sự bình đẳng của mọi cá nhân, tổ chức kể cả người nước ngòai
trong hoạt động báo chí trên lãnh thổ Việt Nam.
11. Việc thành lập các chuyên trang của báo điện tử sử dụng tên
miền không được quy định trong giấy phép báo chí, hội chợ báo chí.
- Thông thường, trong giấy phép hoạt động báo chí điện tử quy định rõ
thông tin báo chí đăng tải tại địa chỉ tên miền cụ thể. Tuy nhiên, các chuyên
trang của báo thông thường sử dụng tên miền khác.

- Hội chợ báo chí chưa có quy định cụ thể.
VI. ÁP DỤNG NGHỊ ĐỊNH
- Ngày có hiệu lực: Nghị định có hiệu lực và được áp dụng từ ngày
25/2/2011.
- Nghị định không quy định hiệu lực trở về trước
- Đối vi phạm xảy ra trước ngày nghị định có hiệu lực nhưng nằm trong
thời hiệu xử lý, thì thực hiện theo quy định tại điều 83 Luật ban hành văn bản
quy phạm pháp luật.
VII. TỒN TẠI
- Quy định hành vi trong lĩnh vực thông tin điện tử được đặt ra nhưng
chưa thực hiện được.
15


Tài liệu tập huấn thanh tra chuyên ngành TT&TT năm 2011

- Còn thiếu quy định xử phạt về giấy phép in gia công cho nước ngoài
đối với sản phẩm không phải xuất bản phẩm.
- Thẩm quyền của Thanh tra chuyên ngành thông tin và truyền thông
đối với vi phạm trong lĩnh vực quyền tác giả, quyền liên quan trong hoạt động
báo chí, xuất bản đã được quy định. Tuy nhiên không có chế tài nào quy định
trong Nghị định này, mà phải áp dụng chế tài tại Nghị định số 47/2009/NĐCP ngày 13/5/2009 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính về
quyền tác giả, quyền liên quan. Có nghĩa là Nghị định này chỉ bổ sung thẩm
quyền của Thanh tra chuyên ngành thông tin và truyền thông đối với vi phạm
trong lĩnh vực quyền tác giả, quyền liên quan, nếu quy định hành vi cụ thể sẽ
bị trùng lắp. Thực tế các quy định trong Nghị định số 47/2009/NĐ-CP mang
tính bao quát, chung chung, hầu như không cụ thể hóa luật, nên có nhiều thuật
ngữ chuyên môn khó hiểu. Chúng ta cần tính đến việc đưa ra các quy định cụ
thể phù hợp với lĩnh vực báo chí, xuất bản để mọi cá nhân, tổ chức, cơ quan
quản lý có thể hiểu một cách rõ ràng và áp dụng chính xác./.


16


Tài liệu tập huấn thanh tra chuyên ngành TT&TT năm 2011

Chuyên đề:
NỘI DUNG XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH VỀ VIỄN THÔNG
Biên soạn:
Trần Võ Hạnh – Phó trưởng phòng thanh tra Viễn thông và Công
nghệ thông tin

1. Sự cần thiết phải ban hành Nghị định.
1.1. Cơ sở thực tiễn:
a) Mặt được
Ngày 8/7/2004, Chính phủ ban hành Nghị định số 142/2004/NĐ-CP
quy định xử phạt vi phạm hành chính về bưu chính, viễn thông và tần số vô
tuyến điện. Sự ra đời của Nghị định đã góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả
quản lý nhà nước về lĩnh vực viễn thông, mở ra hành lang pháp lý cần thiết
cho tổ chức, cá nhân tham gia vào hoạt động này. Thời điểm xây dựng nghị
định, trong xã hội phát sinh nhiều hoạt động thiếu lành mạnh trong viễn thông
đòi hỏi phải kịp thời chấn chỉnh như việc trộm cắp cước viễn thông quốc tế,
kinh doanh lậu điện thoại Internet, sử dụng mạng viễn thông dùng riêng vào
mục đích kinh doanh hoặc cung cấp dịch vụ cho tổ chức, cá nhân không phải
là thành viên của mạng, cung cấp dịch vụ viễn thông không có giấy phép
v.v…. Nghị định số 142/2004/NĐ-CP là cơ sở pháp lý quan trọng, góp phần
ngăn chặn và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực viễn
thông, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ ý thức tôn trọng pháp luật của các cán bộ
công chức và các đối tượng có trách nhiệm thực hiện nhằm đảm bảo hiệu lực
thi hành của các văn bản quy phạm pháp luật, nâng cao hiệu quả quản lý nhà

nước.
Trong năm 2009, các cơ quan có thẩm quyền đã kịp thời xử lý 1.705 vụ
xâm phạm an toàn mạng lưới viễn thông, gây thiệt hại 30.000 km cáp các
loại, rút giấy phép cung cấp dịch vụ viễn thông của 1 doanh nghiệp, chỉ riêng
Thanh tra Bộ Thông tin và Truyền thông đã ban hành quyết định xử phạt vi
phạm hành chính đối với 58 lượt cơ quan, đơn vị và cá nhân, với tổng số tiền
763.500.000 đồng, số tiền này đã được nộp ngân sách nhà nước (tỷ lệ 100%).
Qua đó cho thấy nhìn chung các tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động cung

17


Tài liệu tập huấn thanh tra chuyên ngành TT&TT năm 2011

cấp và sử dụng dịch vụ viễn thông đã chấp hành nghiêm túc các quy định của
Chính phủ, của Bộ Thông tin và Truyền thông.
b) Mặt hạn chế
Bên cạnh những kết quả cơ bản đã đạt được nêu trên, trước những
chuyển đổi của tình hình phát triển kinh tế - xã hội cũng như tình hình vi
phạm pháp luật về viễn thông trong thực tiễn, hệ thống các văn bản quy phạm
pháp luật về viễn thông nói chung và Nghị định số 142/2004/NĐ-CP đã bộc
lộ nhiều bất cập đòi hỏi phải điều chỉnh cho phù hợp, cụ thể như sau:
- Trong một số điều, khoản, ngôn từ chưa chặt chẽ; các khung chế tài
quy định chưa thống nhất, một số điều khoản kết cấu chưa hợp lý, dẫn đến có
hành vi vi phạm không xử lý được; một số điều quy định khung phạt quá
rộng, dễ gây ra sự tùy tiện trong quá trình xử lý, không bảo đảm được tính
chính xác, công bằng.
- Nhiều hành vi vi phạm nhưng tại thời điểm đó chưa có quy định xử
phạt như: thực hiện các hoạt động ngoài việc khảo sát, lắp đặt, bảo dưỡng, sửa
chữa tuyến cáp viễn thông trong vùng biển Việt Nam; ngừng cung cấp dịch vụ

viễn thông nhưng không đảm bảo quyền lợi cho khách hàng sử dụng dịch vụ;
sản xuất, nhập khẩu thiết bị viễn thông phải chứng nhận hợp quy nhưng
không chứng nhận hợp quy; kinh doanh hàng hoá viễn thông chuyên dùng,
khuyến mại không đúng quy định đối với các bộ hoà mạng thuê bao trả trước
(Sim thuê bao di động trả trước); áp dụng vùng được cung cấp dịch vụ viễn
thông công ích không đúng quy định; nắm cổ phần chi phối không đúng quy
định đối với doanh nghiệp cung cấp dịch vụ có hạ tầng mạng do Nhà nước
nắm cổ phần chi phối; không chia sẻ hoặc không sử dụng chung cơ sở hạ tầng
viễn thông, doanh nghiệp viễn thông hạn chế hoặc không cung cấp các thông
tin kỹ thuật về phương tiện thiết yếu cho doanh nghiệp khác nhằm cản trở
việc cung cấp dịch vụ v.v....
Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ, tỷ lệ các đơn vị vi phạm các quy
định trong lĩnh vực viễn thông chiếm tỷ lệ trung bình từ 1,5-2% số cơ sở được
thanh tra (năm 2009 đã rút giấy phép cung cấp dịch vụ viễn thông của 1
doanh nghiệp), qua đó cho thấy bên cạnh những tổ chức, cá nhân đã chấp
hành đầy đủ và nghiêm túc các quy định trong hoạt động cung cấp và sử dụng
dịch vụ viễn thông thì vẫn còn nhiều hành vi vi phạm xảy ra trên thực tế
nhưng chưa có chế tài để xử lý.
1.2. Cơ sở pháp lý:
18


Tài liệu tập huấn thanh tra chuyên ngành TT&TT năm 2011

Nghị định số 142/2004/NĐ-CP được xây dựng dựa trên một trong
những căn cứ hết sức quan trọng là Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm
2002. Tuy nhiên, Uỷ ban thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh sửa đổi, bổ
sung một số điều của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính vào năm 2008.
Theo đó, thanh tra viên chuyên ngành đang thi hành công vụ có quyền phạt
tiền 500.000 thay vì 200.000 như trước đây.

Nghị định số 142/2004/NĐ-CP cũng được xây dựng dựa trên căn cứ
Pháp lệnh Bưu chính, Viễn thông ngày 25/5/2002. Tuy nhiên, đến thời điểm
hiện nay Pháp lệnh này đã không còn hiệu lực thi hành. Ngày 23/11/2009,
Quốc hội thông qua Luật Viễn thông số 42/2009/QH12. Luật Viễn thông có
nhiều nội dung mới mà trước đây chưa có quy định hoặc chưa được quy định
chi tiết như chuyển nhượng, đấu giá, thi tuyển quyền sử dụng kho số viễn
thông, tài nguyên Internet; Quy hoạch công trình viễn thông và sử dụng chung
cơ sở hạ tầng kỹ thuật; cạnh tranh trong kinh doanh, nghĩa vụ nộp phí quyền
hoạt động viễn thông; Sở hữu trong kinh doanh dịch vụ viễn thông v.v…
Những quy định mới này hiện chưa có chế tài xử phạt khi có vi phạm, do vậy
nếu chỉ áp dụng Nghị định số 142/2004/NĐ-CP sẽ dẫn tới bỏ lọt các hành vi
vi phạm.
Thực hiện Đề án quản lý thông tin thuê bao di động trả trước của Chính
phủ, Bộ Thông tin và Truyền thông đã ban hành các quy định về quản lý, lưu
trữ và sử dụng thông tin thuê bao. Ngày 25/5/2009, Chính phủ đã ban hành
Nghị định Bổ sung Điều 12a Nghị định số 142/2004/NĐ-CP nhằm áp dụng
cho công tác xử lý vi phạm. Điều đó cho thấy hệ thống văn bản pháp luật quy
định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực viễn thông còn chưa thống
nhất và đồng bộ.
Bộ Thông tin và Truyền thông đã ban hành các quy định về khuyến
mại đối với dịch vụ thông tin di động mặt đất và hàng hoá viễn thông chuyên
dùng, mặc dù Nghị định số 06/2008/NĐ-CP ngày 16/1/2008 quy định
XPVPHC trong hoạt động thương mại đã có một điều xử phạt về khuyến mại,
tuy nhiên điều này vẫn chưa có đủ các hành vi để áp dụng khi tổ chức, cá
nhân vi phạm các quy định về khuyến mại đối với dịch vụ thông tin di động,
do vậy cần phải bổ sung thêm các hành vi.
Nghị định số 142/2004/NĐ-CP quy định thẩm quyền của Thanh tra
viên, Chánh thanh tra Bộ, Chánh thanh tra Sở, tuy nhiên, ngày 15/11/2010
Quốc hội thông qua Luật Thanh tra số 56/2010/QH12, theo đó Luật đã bổ
19



Tài liệu tập huấn thanh tra chuyên ngành TT&TT năm 2011

sung thêm thẩm quyền xử phạt của người được giao thực hiện chức năng
thanh tra chuyên ngành.
Theo Điều 38 Nghị định số 128/2008/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành
một số điều của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2002 và Pháp lệnh
sửa đổi bổ sung một số điều của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm
2008 thì các mẫu biên bản và quyết định để sử dụng trong XPVPHC phải
được ban hành kèm theo nghị định quy định về XPVPHC, tuy nhiên Nghị
định số 142/2004/NĐ-CP được xây dựng trước thời điểm Nghị định số
128/2008/NĐ-CP có hiệu lực nên không có các mẫu biểu này.
Từ cơ sở thực tiễn và pháp lý nêu trên, đòi hỏi phải xây dựng Nghị định
quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực viễn thông một cách
đồng bộ nhằm bãi bỏ Mục 2, Mục 4, Mục 5 và Mục 6 Chương II Nghị định số
142/2004/NĐ-CP, bãi bỏ Nghị định 50 để góp phần ngăn chặn và xử lý
nghiêm các vi phạm hành chính trong lĩnh vực viễn thông là hết sức cần thiết.
2. Nguyên tắc xây dựng Nghị định
Nghị định được xây dựng trên cơ sở các nguyên tắc sau:
- Đảm bảo các chế tài xử phạt phù hợp với các quy định của Luật Viễn
thông và Nghị định hướng dẫn chi tiết thi hành Luật Viễn thông; bảo đảm tính
hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất, đồng bộ trong hệ thống văn bản quy
phạm pháp luật trong lĩnh vực viễn thông.
- Kế thừa những quy định hiện hành còn phù hợp và đang phát huy hiệu
quả của Nghị định số 142/2004/NĐ-CP ngày 8/7/2004 của Chính phủ về xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông và tần số vô
tuyến điện.
- Xác định mức xử phạt vi phạm hành chính hợp lý, đúng luật, đảm bảo
tính khả thi cao, đồng thời có tác dụng răn đe, phòng ngừa hành vi vi phạm.

- Tạo hành lang pháp lý đầy đủ, rõ ràng, thuận lợi cho các tổ chức, cá
nhân tham gia cung cấp và sử dụng dịch vụ, đồng thời góp phần nâng cao
hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực viễn thông.
3. Quá trình xây dựng Nghị định
Ngày 27/4/2010, Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông đã ban hành
Quyết định số 581/QĐ-BTTTT thành lập Ban soạn thảo xây dựng Nghị định
Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực viễn thông, bao gồm
20


Tài liệu tập huấn thanh tra chuyên ngành TT&TT năm 2011

lãnh đạo các đơn vị thuộc Bộ, đại điện từ các Bộ ngành có liên quan như Bộ
Tư pháp, Bộ Công an, Văn phòng Chính phủ, các chuyên gia từ các tập đoàn
viễn thông lớn. Ban soạn thảo tiến hành các hoạt động sau:
- Tổ chức xây dựng khung Dự thảo Nghị định và xây dựng các nội
dung chi tiết của các chương, điều, khoản, điểm chi tiết của Dự thảo Nghị
định.
- Đã tổ chức nhiều cuộc họp, hội thảo để trao đổi, thống nhất các nội
dung quan trọng của dự thảo Nghị định.
- Lấy ý kiến của các Sở TTTT đánh giá những mặt hạn chế, bất cập của
Nghị định số 142/2004/NĐ-CP, đánh các kết quả đã đạt được khi áp dụng
Nghị định này trong thanh tra, kiểm tra xử lý vi phạm.
Sau một thời gian tích cực triển khai, dự thảo Nghị định đã hoàn thành
và đưa lên cổng thông tin điện tử của Chính phủ, cổng thông tin điện tử Bộ
Thông tin và Truyền thông để xin ý kiến rộng rãi.
Ngày 7/10/2010, Bộ Thông tin và Truyền thông đã có văn bản số
3353/BTTTT-TTra gửi các Bộ, ngành có liên quan để xin ý kiến. Tiếp thu ý
kiến đóng góp, Ban Soạn thảo đã chỉnh sửa và hoàn thiện Dự thảo. Ngày
20/12/2010, Bộ Thông tin và Truyền thông đã có văn bản số 4257/BTTTTTTra xin ý kiến thẩm định của Bộ Tư pháp, ngày 13/1/2011 Bộ Tư pháp đã có

Công văn số 147/BTP-PLHSHC thẩm định, đồng ý trình Dự thảo Nghị định
để Chính phủ xem xét, ban hành và đề nghị chỉnh lý một số vấn đề Bộ Tư
pháp đưa ra.
4. Bố cục Dự thảo Nghị định
Dự thảo Nghị định gồm 4 chương, 53 điều, cụ thể như sau:
Chương I. Những quy định chung, gồm 4 điều, từ điều 1 đến điều 4.
Chương này quy định phạm vi điều chỉnh, nguyên tắc xử phạt, thời hiệu xử
phạt, các hình thức xử phạt hành chính và biện pháp khắc phục hậu quả.
Chương II. Hành vi vi phạm hành chính về viễn thông, hình thức và
mức phạt. Chương này gồm có 10 mục và 40 điều, từ điều 5 đến điều 44. Việc
phân thành từng Mục và mỗi Mục đều được quy định cho một nhóm hành vi
liên quan nhằm thuận lợi tra cứu khi áp dụng văn bản sau này, cụ thể các Mục
như sau:

21


Tài liệu tập huấn thanh tra chuyên ngành TT&TT năm 2011

Mục 1. Hành vi vi phạm các quy định về kinh doanh viễn thông (từ
điều 5 đến điều 9);
Mục 2. Hành vi vi phạm các quy định về viễn thông công ích (từ điều
10 đến điều 11);
Mục 3. Hành vi vi phạm các quy định về thiết lập mạng và cung cấp
dịch vụ viễn thông (từ điều 12 đến điều 20);
Mục 4. Hành vi vi phạm các quy định về giấy phép viễn thông (từ điều
21 đến điều 25);
Mục 5. Hành vi vi phạm các quy định về kết nối và chia sẻ cơ sở hạ
tầng viễn thông (từ điều 26 đến điều 28);
Mục 6. Hành vi vi phạm các quy định về tài nguyên viễn thông (từ điều

29 đến điều 30);
Mục 7. Hành vi vi phạm các quy định về quản lý chất lượng, giá cước
và khuyến mại dịch vụ viễn thông (từ điều 31 đến điều 35);
Mục 8. Hành vi vi phạm các quy định về công trình viễn thông (từ điều
36 đến điều 38);
Mục 9. Hành vi vi phạm các quy định về đảm bảo an toàn cơ sở hạ tầng
viễn thông và an ninh thông tin (từ điều 39 đến điều 41);.
Mục 10. Vi phạm các quy định về tranh chấp khiếu nại; chế độ báo cáo,
không chấp hành sự kiểm tra, kiểm soát của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
(từ điều 42 đến điều 44).
Chương III. Thẩm quyền, thủ tục xử phạt vi phạm hành chính bao gồm
7 điều, từ điều 45 đến điều 51. Chương này quy định thẩm quyền xử phạt vi
phạm hành chính của thanh tra viên chuyên ngành về viễn thông, Chánh thanh
tra Sở TTTT, Chánh thanh tra Bộ TTTT, người được giao thực hiện chức năng
thanh tra chuyên ngành về viễn thông và thẩm quyền xử phạt của các lực
lượng khác có liên quan.
Chương IV. Điều khoản thi hành, gồm 2 điều, từ điều 52 đến điều 53.
Chương này quy định về hiệu lực thi hành và trách nhiệm thi hành Nghị định.
5. Đánh giá tác động của Nghị định
5.1. Đánh giá về các quy định xử phạt vi phạm hành chính về kinh
doanh viễn thông
22


Tài liệu tập huấn thanh tra chuyên ngành TT&TT năm 2011

Quy định về mức xử phạt đối với các hành vi vi phạm hành chính trong
kinh doanh viễn thông được quy định từ Điều 5 đến Điều 9 của Dự thảo Nghị
định. Theo đó, mức xử phạt cao nhất được áp dụng là 70.000.000 đồng đối
với các hành vi đại lý viễn thông cung cấp dịch vụ viễn thông người sử dụng

vi phạm các điều cấm được quy định trong Luật Viễn thông (Điều 12); sở hữu
chéo vượt mức quy định; không thực hiện đúng cam kết đầu tư; vi phạm về
cạnh tranh.
Hiện nay, mức xử phạt vi phạm hành chính đối với các hành vi vi phạm
hành chính trong kinh doanh viễn thông, bao gồm: đại lý viễn thông, sở hữu
trong kinh doanh dịch vụ viễn thông, cam kết đầu tư, cạnh tranh trong viễn
thông chưa có quy định. Do vậy, việc Dự thảo Nghị định quy định các hành vi
vi phạm này là phù hợp với chính sách quản lý quy định tại Luật Viễn thông
và Nghị định hướng dẫn Luật Viễn thông.
Đa số ý kiến góp ý Dự thảo Nghị định đều cho rằng, mức phạt đối với
các hành vi vi phạm hành chính trong kinh doanh viễn thông là phù hợp thực
tế. Trong đó, phần lớn ý kiến đồng ý từ phía các doanh nghiệp viễn thông.
Phần lớn những chuyên gia trong lĩnh vực viễn thông khi được hỏi về mức xử
phạt áp dụng đối với các hành vi vi phạm đều thống nhất cao. Một số ý kiến
còn cho rằng, việc xử phạt đối với các hành vi vi phạm về kinh doanh viễn
thông cần đưa mức cao hơn để đảm bảo tính răn đe với đối tượng vi phạm.
Tuy nhiên, khung phạt tối đa được quy định trong Pháp lệnh Xử lý vi phạm
hành chính trong lĩnh vực viễn thông là 70 triệu đồng. Các hành vi xây đựng
cho khung này đảm bảo tính khả thi, xét cả về mức độ vi phạm, khả năng thực
thi quyết định xử phạt vi phạm hành chính của đối tượng vi phạm.
Như vậy, quy định của Dự thảo Nghị định về mức xử phạt đối với các
hành vi vi phạm hành chính trong kinh doanh viễn thông là phù hợp. Dự thảo
Nghị định được thông qua, ký ban hành sẽ hỗ trợ công tác giám sát thực thi
pháp luật đạt hiệu quả cao hơn và được sự đồng thuận của cả cơ quan quản lý
và đối tượng chịu sự điều chỉnh của Nghị định.
5.2. Đánh giá về các quy định xử phạt vi phạm hành chính về kết
nối và chia sẻ cơ sở hạ tầng viễn thông
Mức xử phạt về kết nối và chia sẻ cơ sở hạ tầng viễn thông được quy
định từ Điều 26 đến Điều 28, mức xử phạt cao nhất là 70 triệu đồng trên một
hành vi. Mức xử phạt về kết nối mạng viễn thông công cộng cao nhất là 70

23


Tài liệu tập huấn thanh tra chuyên ngành TT&TT năm 2011

triệu. Mức xử phạt vi phạm về kết nối mạng viễn thông dùng riêng là 50 triệu.
Mức xử phạt vi phạm hành chính về chia sẻ cơ sở hạ tầng là 70 triệu.
Quy định hiện hành về mức xử phạt về kết nối được quy định tại Nghị
định số 142/2004/NĐ-CP như sau: Từ 5.000.000 đến 10.000.000 đồng.
Như vậy, so với quy định tại Nghị định 142/2004/NĐ-CP, dự thảo mới
đã nâng mức phát tối thiểu là 10 triệu và tối đa là 70 triệu.
Từ các kết quả đánh giá về kết nối và chia sẻ cơ sở hạ tầng viễn thông,
phần lớn các ý kiến đều thống nhất về mức xử phạt vi phạm hành chính và
cho rằng các mức phạt là phù hợp. Trên cơ sở đánh giá tác động, thiệt hại mà
các hành vi vi phạm gây ra, việc đưa một số hành vi vi phạm vào mức phạt
lớn là nhằm răn đe đối tượng cố tình vi phạm các quy định kết nối và chia sẻ
cơ sở hạ tầng viễn thông. Điều này gây ảnh hưởng rất lớn đến mạng lưới và
hiệu quả đầu tư của các doanh nghiệp.
Trên cơ sở đó, nhằm tăng cường tính khả thi và hiệu quả trong việc
thực hiện kết nối và chia sẻ cơ sở hạ tầng viễn thông thì việc quy định chế tài
xử phạt là thiết yếu, giúp cho các doanh nghiệp chấp hành nghiêm chỉnh các
quy định về kết nối và chia sẻ cơ sở hạ tầng viễn thông.
Như vậy, so với quy định ở văn bản quy phạm pháp luật cũ, Dự thảo
Nghị định mới đã cập nhật thêm nhiều hành vi vi phạm mới. Bên cạnh đó, sự
phát triển của kinh tế, xã hội trong thời gian qua đã vượt qua những quy định
của văn bản cũ. Do đó, việc quy định mức phạt, khung phạt và các hành vi vi
phạm mới về kết nối và chia sẻ cơ sở hạ tầng viễn thông là cần thiết, tính khả
thi rất cao.
5.3. Đánh giá về các quy định xử phạt vi phạm hành chính về tài
nguyên viễn thông

Quy định xử phạt vi phạm hành chính về tài nguyên viễn thông được
quy định trong Nghị định số 142/2004/NĐ-CP, ngoài ra có thể được áp dụng
sang xử phạt ở một số văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan.
Quy định xử lý vi phạm về tài nguyên viễn thông được quy định tại
Điều 15 Nghị định số 142/2004/NĐ-CP bao gồm 06 hành vi. Mức xử phạt đối
với các hành vi này từ 1 triệu đồng đến 5 triệu đồng. Đó là các hành vi vi
phạm về kho số viễn thông.
So với quy định tại Nghị định 142, Dự thảo Nghị định đã quy định tăng
thêm 06 hành vi và phân nhỏ thành 03 khung xử phạt. Mức phạt được quy
24


Tài liệu tập huấn thanh tra chuyên ngành TT&TT năm 2011

định tại Nghị định 142 từ 1 triệu đồng đến cao nhất là 5 triệu đồng. Mức phạt
này đã được áp dụng đối với các hành vi vi phạm về kho số viễn thông trong
thời gian từ năm 2004 đến nay. Dự thảo Nghị định mới quy định chi tiết thêm
các hành vi và bổ sung thêm các hành vi vi phạm mới. Trong dự thảo mức xử
phạt được tăng lên từ 10 triệu đến 50 triệu. Đây là các hành vi đã phát sinh
trong thực tế và được các chuyên gia, các đơn vị, doanh nghiệp sử dụng nhiều
về viễn thông đồng ý đưa vào Dự thảo. Đồng thời, các ý kiến đều thống nhất
về mức xử phạt đốivới các hành vi vi phạm này.
Ngoài ra Nghị định 142/2004/NĐ-CP không quy định xử phạt đối với
vi phạm về tài nguyên Internet. Do đó trong dự thảo Nghị định lần này đã bổ
sung thêm các hành vi vi phạm về tài nguyên Internet còn thiếu trong Nghị
định 142/2004/NĐ-CP và các văn bản quy dịnh xử phạt có liên quan khác.
Các vấn đề nêu trên cho thấy việc quy định chi tiết trong dự thảo các
hành vi vi phạm về tài nguyên viễn thông mang tính khả thi cao. Mức xử phạt
áp dụng là phù hợp, rất cần thiết và tính khả thi cao, cần thiết được đưa vào
Dự thảo Nghị định trình Chính phủ.

5.4. Đánh giá về các quy định xử phạt vi phạm hành chính về công
trình viễn thông
Hiện nay, quy định xử phạt vi phạm hành chính về công trình viễn
thông được quy định tại Điều 25 Nghị định 142/2004/NĐ-CP. Tuy nhiên,
trong Nghị định 142/2004/NĐ-CP chỉ quy định về xử phạt vi phạm về quản lý
tiêu chuẩn, chất lượng công trình chuyên ngành bưu chính, viễn thông. Trong
thực tế và theo các quy định quản lý viễn thông thì vi phạm về công trình viễn
thông không chỉ gói gọn trong tiêu chuẩn, chất lượng công trình viễn thông
mà còn vi phạm về quy hoạch công trình viễn thông thụ động, vi phạm về
thiết kế, xây dựng, sử dụng công trình viễn thông, vi phạm về sử dụng chung
cơ sở hạ tầng kỹ thuật. Những hành vi này trong Nghị định 142/2004/NĐ-CP
chưa được quy định.
Chính sách về quản lý công trình viễn thông là tạo điều kiện để các
doanh nghiệp viễn thông, người sử dụng chủ động đàm phán với đối tác, tổ
chức trong việc khai thác, sử dụng công trình viễn thông. Trên cơ sở đó, cơ
quan quản lý nhà nước sẽ xem xét quy định các hình thức xử phạt vi phạm
hành chính tương ứng để nâng cao hiệu quả quản lý. Khi Nghị định này có
hiệu lực thì cơ quan có thẩm quyền có thể xử lý các vi phạm của các đối
tượng. Do đó, việc quy định xử phạt là rất cần thiết. Điều này đã được các tổ
25


×