Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Tiểu luận tình huống xử lý, kiểm tra xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giải phóng mặt bằng để cải tạo, sửa chữa trụ sở cơ quan

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (491.51 KB, 27 trang )

TRƯỜNG ĐÀO TẠO CÁN BỘ LÊ HỒNG PHONG
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Lớp Bồi dưỡng ngạch Chuyên viên K3A-2015

TIỂU LUẬN TỐT NGHIỆP
“Tình huống xử lý, kiểm tra xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực giải phóng mặt bằng để cải tạo, sửa chữa trụ sở cơ quan”

Họ tên học viên: Nguyễn Thị Minh Hưng
Chức vụ: Chuyên viên
Đơn vị công tác: Sở Văn hoá - Thể thao & Du Lịch Hà Nội
(Sở Du Lịch Hà Nội)
1


MỤC LỤC
MỤC LỤC..................................................................................................................1
PHẦN I. LỜI NÓI ĐẦU ............................................................................................4
PHẦN II. NỘI DUNG ...............................................................................................6
2.1. Mô tả tình huống. ............................................................................................6
2.1.1. Hoàn cảnh ra đời của tình huống. ............................................................6
2.1.2. Diễn biến của tình huống. ........................................................................8
2.2. Xác định mục tiêu xử lý tình huống. ............................................................11
2.2.1. Cơ sở lý luận. .........................................................................................11
a. Phương pháp thuyết phục:........................................................................12
b. Phương pháp cưỡng chế: .........................................................................13
2.2.2. Mục tiêu xử lý tình huống......................................................................14
a. Đối với cơ quan quản lý nhà nước. ..........................................................15
b. Đối với chính quyền địa phương. ............................................................15
c. Đối với hộ gia đình...................................................................................15
2.3. Phân tích nguyên nhân và hậu quả................................................................15


2.3.1. Phân tích tình huống ..............................................................................15
2.3.2. Nguyên nhân, hậu quả............................................................................18
a. Nguyên nhân ............................................................................................18
b. Hậu quả ....................................................................................................19
2.4. Xây dựng, phân tích và lựa chọn phương án giải quyết. ..............................19
2.4.1. Phương án 1: Phương án giáo dục thuyết phục. ....................................19
2.4.2. Phương án hai: Dùng biện pháp cưỡng chế để giải quyết. ....................19
2.4.3. Lựa chọn phương án ..............................................................................20
2.5. Lập kế hoạch tổ chức thực hiện phương án đã chọn ....................................20
2


PHẦN III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ. .............................................................25
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................................27
1. Tài liệu bồi dưỡng về quản lý hành chính nhà nước (chương trình chuyên
viên) của Học viện hành chính (phần I, II, III), nhà xuất bản Khoa học và kỹ
thuật 2010. ........................................................................................................27
2. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X tại Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng. .........................................................27
3. Pháp lệnh cán bộ, công chức năm 1998 (đã được sửa đổi bổ sung năm 2000
và năm 2003)....................................................................................................27
4. Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính ngày 02/7/2002. ................................27
5. Luật đất đai năm 2003..................................................................................27
6. Nghị định 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về hướng dẫn
thi hành luật Đất đai năm 2003. .......................................................................27
7. Nghị đinh số 182/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về xử phạt
vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý, sử dụng đất đai...........................27
8. Một số tài liệu khác có liên quan đến tình huống. .......................................27

3



PHẦN I. LỜI NÓI ĐẦU
Trong bất cứ quốc gia nào, nền kinh tế nào, bộ phận tài chính công vẫn luôn
luôn đóng vai trò quan trọng nhất không những đối với hệ thống tài chính mà còn
đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân và tất cả các hoạt động của nhà nước. Tài
chính công là một công cụ hữu ích và chủ yếu để nhà nước thực hiện vai trò điều
tiết vĩ mô của mình. Một trong những đặc điểm nổi bật của kiểm tra tài chính công
là gắn chặt với quyền lực công, quyền lực nhà nước, nhất là quyền lực của hệ
thống hành chính nhà nước. Do đó, nó là một loại kiểm tra đơn phương theo hệ
thống thứ bậc cơ quan quyền lực và cơ quan hành chính nhà nước các cấp. Quốc
hội thực hiện quyền kiểm tra giám sát chính phủ về thu chi công, chính phủ thực
hiện quyền kiểm tra đối với hội đồng nhân dân các cấp và hệ thống hành chính các
cấp; cơ quan hành chính nhà nước cấp trên kiểm tra thu chi công đối với cơ quan
hành chính nhà nước cấp dưới. Các cơ quan hành chính nhà nước kiểm tra các đơn
vị trực thuộc về nghĩa vụ phải thực hiện đối với tài chính công và sử dụng vốn,
kinh phí, tài sản nhà nước.
Ngày 21/9/2015, Sở Du lịch Thành phố Hà Nội chính thức đi vào hoạt động
trên cơ sở tách chức năng quản lý nhà nước về du lịch từ Sở Văn hóa, Thể thao và
Du lịch Hà Nội, để hình thành cơ quan chuyên môn thuộc UBND Thành phố thực
hiện quản lý nhà nước chuyên ngành về du lịch, nhằm nâng cao hiệu lực quản lý,
đẩy mạnh hoạt động xúc tiến du lịch đi vào chiều sâu, phát huy hơn nữa tiềm năng
và lợi thế về du lịch của Thủ đô Hà Nội, đạt được những mục tiêu để phát triển bền
vững, tiếp tục là một trong các Trung tâm du lịch hàng đầu của ngành Du lịch cả
nước, hội nhập quốc tế, cạnh tranh khu vực. Tuy là đơn vị mới thành lập, còn nhiều
khó khăn và thiếu thốn về cơ sở vật chất, phương tiện làm việc và đội ngũ cán bộ
nhưng nhận thức được tầm quan trọng của công tác quản lý tài chính trong đơn vị
4



nên Ban giám đốc Sở đã rất quan tâm và chỉ đạo sát sao, đặc biệt là công tác quản
lý tài sản công, công tác thanh quyết toán, công tác xây dựng dự toán, thủ tục bàn
giao và quản lý tài sản, thủ tục sửa chữa và cải tạo trụ sở làm việc tạm và trụ sở
chính thức.
Từ thực tế làm việc và qua thời gian học tập lớp bồi dưỡng kiến thức quản lý
nhà nước ngạch chuyên viên, giúp tôi hiểu rõ hơn nhiều vấn đề trong công tác quản
lý Nhà nước nói chung và quản lý tài chính nói riêng. Do đó tôi chọn đề tài:
“Tình huống xử lý,

kiểm tra xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực

giải

phóng mặt bằng để cải tạo, sửa chữa trụ sở cơ quan” để làm đề tài tiểu luận tốt
nghiệp của mình.
Do thời gian và trình độ có hạn, nên bài viết không tránh khỏi những thiếu sót
và hạn chế nhất định. Vì vậy, rất mong sự góp ý của các thầy cô giáo để kiến thức
quản lý Nhà nước ngày càng được nâng cao phục vụ tốt hơn trong công tác quản lý
của ngành.
Tôi xin chân thành cảm ơn các Cấp lãnh đạo, Ban Giám hiệu Trường đào tạo
cán bộ Lê Hồng Phong, các thầy cô đã hướng dẫn và giúp đỡ tôi hoàn thành tiểu
luận này. Một lần nữa tôi xin cảm ơn Thầy giáo chủ nhiệm và các anh/chị học viên
lớp chuyên viên K3A-2015 đã hỗ trợ tôi trong quá trình học tập.

5


PHẦN II. NỘI DUNG
2.1. Mô tả tình huống.
2.1.1. Hoàn cảnh ra đời của tình huống.

Ban Lãnh đạo cơ quan T nằm trên đường HH muốn cải thiện đời sống cho
cán bộ trong cơ quan nhằm tạo điều kiện giải quyết công ăn việc làm, cải thiện thu
nhập cho gia đình cán bộ khó khăn đã ký Hợp đồng Kinh tế số 05/HĐ-KT, ngày
15/10/2002 với ông Vũ Văn K (là cán bộ thuộc cơ quan T quản lý) về việc hợp
đồng cho thuê 40 m2 đất (trong đó có một phần diện tích đất lưu không) do cơ quan
T quản lý nhưng chưa sử dụng để gia đình ông K kinh doanh dịch vụ. Một trong
những nội dung của Hợp đồng đã ghi rõ: Bên B, tức là gia đình ông K, do ông Vũ
Văn K làm đại diện chỉ được xây dựng lều quán tạm phục vụ cho mục đích kinh
doanh, không được dùng để ở hoặc mua bán, chuyển nhượng dưới bất kỳ hình thức
nào. Khi bên A, tức là cơ quan T có nhu cầu sử dụng sẽ thông báo cho bên B trước
01 tháng và gia đình ông Vũ Văn K phải tự dỡ bỏ lều quán, bàn giao lại cho cơ
quan T toàn bộ mặt bằng và không được hoàn trả hay đền bù một khoản kinh phí
nào.
Để thực hiện việc kinh doanh, ông Vũ Văn K đã viết đơn đề nghị với lãnh
đạo cơ quan T và đã được các cấp có thẩm quyền đồng ý cho ông làm một gian
hàng tạm cấp 4 trên phần diện tích được thuê, sát với mặt đường HH và lát gạch
phần diện tích đất còn lại. Sau khi xây dựng xong, gia đình ông Vũ Văn K đã mở
cửa hàng kinh doanh văn phòng phẩm. Sau một thời gian mở cửa hàng, gia đình
ông K đã cải thiện được cuộc sống, tăng thu nhập.
Đến tháng 2/2005, ông Vũ Văn K đã tự xây dựng thêm một gian nhà cấp
4 nữa trên phần diện tích còn lại, ngay sát gian hàng cấp 4 cũ và mở thêm một
gian hàng nữa đồng thời thuê thêm người bán hàng.
6


Đầu năm 2006, khi thành phố HN tiến hành mở rộng đường HH từ một
làn đường thành hai làn đường tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tham gia
giao thông. Được sự hỗ trợ của UBND Thành phố HN, lãnh đạo cơ quan T đã
họp bàn và thống nhất chủ trương xây dựng Đề án nâng cấp, mở rộng và hoàn
thiện công sở của đơn vị theo hướng hiện đại, phù hợp với yêu cầu đổi mới.

Ngày 22/02/2006, lãnh đạo cơ quan T đã có công văn số 82/CV-X gửi
UBND Thành phố HN về việc xin chủ trương lập dự án mở rộng, cải tạo và nâng
cấp trụ sở cơ quan T. Đề nghị này đã được UBND Thành phố HN đồng ý và cơ
quan T đã tổ chức triển khai lập dự án, trình cấp có thẩm quyền phê duyệt. Ngày
8/03/2006, UBND Thành phố HN có Quyết định số 69/QĐ-UBND về việc phê
duyệt dự án mở rộng, cải tạo và nâng cấp trụ sở cơ quan T, thời gian khởi công
tháng 6/2006, thời hạn hoàn thành là tháng 12/2007.
Ngày 27/3/2006, lãnh đạo cơ quan T đã có công văn số 198/CV-X gửi ông
Vũ Văn K, thông báo về việc thanh lý và chấm dứt Hợp đồng số 05/HĐ-KT, đề
nghị gia đình ông K tự tháo dỡ nhà cửa, thu dọn tài sản, bàn giao lại toàn bộ mặt
bằng cho cơ quan T trước ngày 27/4/2006 để thực hiện dự án.
Chủ trương triển khai dự án mở rộng, cải tạo và nâng cấp trụ sở cơ quan
được cán bộ trong cơ quan nhiệt tình ủng hộ và đã được đưa vào Nghị quyết Đảng
uỷ, đã thông báo cho Lãnh đạo các đơn vị trực thuộc. Cơ quan T cũng đã nhiều lần
thông báo về chủ trương này qua các cuộc họp giao ban hàng tuần, trong đó ông
Vũ Văn K là một thành viên tham dự, nhưng ông K không hề có bất kỳ phản ứng
gì và tiếp tục kinh doanh bình thường như mình không biết có chủ trương này của
cơ quan. Đến thời hạn 27/4/2006, ông K không thực hiện việc thanh lý hợp đồng
cũng như không tháo dỡ, bàn giao mặt bằng cho cơ quan T để triển khai dự án.
Qua nghiên cứu, nắm bắt tình hình được biết ông K đã tự ý chuyển nhượng trái
7


phép một căn nhà cấp 4 mới xây dựng sau này trên phần diện tích mà ông đã thuê
cho ông Nguyễn Văn D, thường trú tại phường NT quận HĐ Thành phố HN.
2.1.2. Diễn biến của tình huống.
Ông Vũ Văn K, sinh năm 1954, quê quán xã VX, huyện PT, Thành phố
HN. Năm 1972 nhập ngũ, năm 1975 sau khi đất nước thống nhất, ông Vũ Văn K
được xuất ngũ và đi học đại học.
Đầu năm 1980, sau khi tốt nghiệp đại học, ông K được điều động về công

tác tại cơ quan T và liên tục công tác tại cơ quan này cho tới nay. Hiện tại, ông
Vũ Văn K là đảng viên- Phó trưởng phòng HT thuộc cơ quan T. Ông K là một
cán bộ có trách nhiệm và có năng lực trong công tác, trong diện quy hoạch trưởng
phòng HT. Gia đình ông Vũ Văn K gồm vợ và 2 người con đang sinh sống tại
quê với nghề nông.
Đầu năm 2002, để hợp lý hoá gia đình và tạo điều kiện giúp đỡ vợ, con,
ông Vũ Văn K đã chuyển vợ con về HN. Lúc đầu mới chuyển gia đình về HN,
chưa có nơi ăn chốn ở, được bạn bè đồng nghiệp và lãnh đạo cơ quan giúp đỡ, tạo
điều kiện cho gia đình ở tạm trong khu tập thể của cơ quan. Đồng thời gia đình
ông K còn được tạo điều kiện để giải quyết công ăn việc làm cho vợ con, giảm
bớt khó khăn, góp phần ổn định cuộc sống gia đình qua việc cho thuê đất để kinh
doanh (như đã trình bày ở trên).
Sau 3 năm kinh doanh, ông Vũ Văn K đã tích luỹ được ít vốn và đầu năm
2005, được TP ưu tiên cấp cho một lô đất, ông đã xây dựng được một căn nhà cấp
4 tại phường VP quận BĐ Thành phố HN và chuyển gia đình về ở tại đó. Gia
đình ông K vẫn tiếp tục kinh doanh tại cửa hàng trên mảnh đất mà Ông đã thuê
của cơ quan T. Cũng trong thời gian này, do mở rộng kinh doanh, gia đình ông K
thuê thêm người để bán hàng ban ngày và trông coi cửa hàng vào ban đêm. Đồng
8


thời ông K còn tự xây dựng thêm một căn nhà cấp 4 bên cạnh cửa hàng đang kinh
doanh của mình mà không làm đơn xin phép hay báo cáo với cơ quan T. Sau khi
xây dựng xong, khoảng giữa năm 2005, Ông đã bán căn nhà này cho ông Nguyễn
Văn D, thường trú tại phường NT quận HĐ Thành phố HN. Ngay sau khi việc
mua bán trao tay xong, ông D cũng mở cửa hàng kinh doanh tạp hoá bên cạnh
cửa hàng của ông Vũ Văn K.
Về phía cơ quan T, chủ trương cải tạo, mở rộng, nâng cấp công sở đã
được Đảng uỷ, lãnh đạo cơ quan bàn bạc, thống nhất ngay từ đầu năm 2004.
Tháng 02/2006, lãnh đạo cơ quan T đã có văn bản gửi UBND TP xin chủ trương

lập dự án mở rộng, cải tạo và nâng cấp trụ sở cơ quan T và đã được UBND TP
đồng ý. Cơ quan T đã ký hợp đồng thuê tư vấn khảo sát, thiết kế kỹ thuật, lập dự
toán và trình cấp có thẩm quyền phê duyệt. Đến tháng 3/2006, UBND TP đã phê
duyệt dựa án và cho phép khởi công xây dựng vào tháng 6/2006.
Để chuẩn bị mặt bằng cho việc khởi công và thi công dự án đúng tiến độ,
thực hiện Nghị quyết của Đảng uỷ cơ quan, ngày 27/3/2006 Lãnh đạo cơ quan T
đã gửi công văn thông báo cho ông Vũ Văn K việc thanh lý hợp đồng và yêu cầu
gia đình ông K tự tháo dỡ các căn nhà cấp 4 đang làm cửa hàng kinh doanh trên
mảnh đất được thuê của cơ quan T để bàn giao mặt bằng trước ngày 25/4/2004,
chuẩn bị cho việc khởi công dự án đúng tiến độ.
Khi nhận được thông báo nêu trên, ông K có thái độ né tránh, không đến
gặp các bộ phận chuyên môn thuộc cơ quan T để thanh lý hợp đồng cũng như
không tự ý tháo dỡ các nhà tạm mà vẫn kinh doanh bình thường như không có
chuyện gì xảy ra. Sau thời hạn phải bàn giao như đã được thông báo, ông K vẫn
không Thực hiện trách nhiệm của mình. Thủ trưởng cùng Chủ tịch Công đoàn cơ
quan T đã mời ông K lên gặp gỡ, thuyết phục nhiều lần nhưng ông K vẫn không
hợp tác, lẩn tránh trách nhiệm của mình. Ngày 15/5/2006, Thủ trưởng cơ quan T đã
9


ký Quyết định số 39/QĐ-X đơn phương chấm dứt Hợp đồng số 05/HĐ-KT đã ký
với ông K và buộc ông phải tự dỡ bỏ nhà tạm, bàn giao mặt bằng trước ngày
30/5/2006 để cơ quan thực hiện dự án. Sau khi nhận được quyết định này, ông K
và gia đình vẫn né tránh không thực hiện theo yêu cầu của cơ quan. Trong khi đó
ông Nguyễn Văn D còn tự sửa chữa, cơi nới thêm diện tích căn nhà cấp 4 của
mình.
Ngày 16/7/2006, lãnh đạo cơ quan T đã giao cho các đơn vị chức năng ra
hiện trường lập biên bản về việc cơi nới xây dựng trái phép và yêu cầu ông Vũ
Văn K phải chấp hành Nghị quyết của Đảng uỷ, quyết định của thủ trưởng đơn vị
về việc tự tháo dỡ lều quán để phục vụ cho việc giải phóng mặt bằng xây dựng

công sở. Ông K vẫn không chấp hành quyết định của cơ quan. Trong quá trình
lập biên bản, các đơn vị chức năng của cơ quan T mới phát hiện ra người chủ của
căn nhà đang xây dựng trái phép là ông Nguyễn Văn D chứ không phải ông Vũ
Văn K.
Ngày 20/7/2006, Lãnh đạo cơ quan T đã triệu tập cán bộ chủ chốt của cơ
quan, mời đại diện Đảng uỷ, Ban chấp hành công đoàn cơ quan và triệu tập ông K
trả lời rõ về việc thực hiện quyết định của cơ quan trong việc tháo dỡ bỏ nhà tạm
và bàn giao mặt bằng, thực chất việc sử dụng 1 gian nhà cấp 4 của ông Nguyễn
Văn D ra sao, quan hệ như thế nào, có việc mua bán, chuyển nhượng không...
Ông K quanh co, từ chối trách nhiệm của mình và cho rằng ông không liên quan
đến việc ông D đang sử dụng 1 căn nhà cấp 4 trên mảnh đất ông đang thuê.
Trước tình hình diễn biến hết sức phức tạp, ngày 27/7/2006, Lãnh đạo cơ
quan T đã có công văn số 532/CV-X gửi UBND và Công an phường HH Thành
phố HN đề nghị phối hợp làm rõ thêm người đang ở và kinh doanh dịch vụ trên
mảnh đất mà ông Vũ Văn K đã thuê của cơ quan T. Qua công tác kiểm tra tạm trú
tạm vắng và các giấy tờ khác có liên quan, công an phường HH đã xác định người
10


đang ở và kinh doanh trên gian nhà cấp 4 ở địa chỉ đó là ông Nguyễn Văn D, có hộ
khẩu thường trú tại phường NT quận HĐ Thành phố HN. Gian nhà cấp 4 đó đã
được chuyển nhượng, mua bán trái phép, người đứng tên chuyển nhượng là bà
Nguyễn Thị H - vợ ông Vũ Văn K.
2.2. Xác định mục tiêu xử lý tình huống.
2.2.1. Cơ sở lý luận.
Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý. Nhà nước
ta là Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật,
mọi tổ chức, cá nhân đều phải thực hiện và tuân theo pháp luật.
Các cơ quan hành chính nhà nước là những bộ phận cấu thành bộ máy hành
chính Nhà nước, được thành lập để thực hiện chức năng quản lý Nhà nước. Cơ

quan hành chính Nhà nước là chủ thể cơ bản của Luật Hành chính.
Là một bộ phận của hợp thành của bộ máy nhà nước, cơ quan hành chính
Nhà nước có những đặc điểm chung của cơ quan Nhà nước, tổ chức cơ cấu có
thẩm quyền mang tính quyền lực pháp lý có hiệu lực bắt buộc đối với xã hội.
Những quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ pháp luật hành chính bao
giờ cũng gắn với hoạt động chấp hành và điều hành của cơ quan quản lý Nhà
nước, chúng thể hiện những lợi ích khác nhau của các bên tham gia quan hệ đó,
nhưng trước hết phải thể hiện mục đích, yêu cầu của hoạt động chấp hành và điều
hành để đảm bảo lợi ích chung của Nhà nước.
Bất kỳ quan hệ hành chính nào cũng phải có một chủ thể bắt buộc, đó là
cơ quan hành chính Nhà nước hoặc một cán bộ, công chức Nhà nước được giao
quyền quản lý Nhà nước, thi hành công vụ trong những trường hợp cụ thể nhất
định. Điều đó có nghĩa là quan hệ pháp luật hành chính không thể phát sinh giữa
hai công dân với nhau, giữa tổ chức với nhau... Quan hệ hành chính có thể phát
11


sinh do sáng kiến, yêu cầu quy phạm pháp luật hành chính của bất cứ chủ thể
nào trong quan hệ pháp luật hành chính đó và quyết định của chủ thể bắt buộc là
đơn phương. Quyết định của cơ quan, người có thẩm quyền quản lý luôn luôn có
tính chất đơn phương nhưng không phải tuỳ tiện mà luôn luôn tuân thủ trình tự,
quy trình quy định và phải phù hợp với những quy định của pháp luật.
Những tranh chấp phát sinh giữa các bên của quan hệ pháp luật hành
chính được giải quyết theo trình tự, thủ tục hành chính đã được quy định theo
pháp luật, thuộc thẩm quyền của các cơ quan nhà nước. Cơ quan nào quản lý
lĩnh vực gì thì có quyền và trách nhiệm giải quyết những tranh chấp phát sinh
trong quan hệ quản lý thuộc lĩnh vực đó. Việc vi phạm các yêu cầu quy phạm
pháp luật hành chính do lỗi của một bên tham gia quan hệ pháp luật hành chính
sẽ dẫn đến việc bên đó phải chịu trách nhiệm hành chính nhà nước
Để giải quyết những tranh chấp phát sinh và những vi phạm pháp luật

hành chính, về cơ bản, chúng ta phải sử dụng các phương pháp sau:
a. Phương pháp thuyết phục:
Phương pháp thuyết phục là phương pháp quản lý nhà nước xã hội chủ
nghĩa, nó thể hiện tính dân chủ của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Phương pháp này
xuất phát từ bản chất của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam. Đó là
phương pháp mềm dẻo nhưng mang tính chất pháp lý, vì phương pháp này được
thực hiện bởi chính các cơ quan nhà nước, cán bộ nhà nước có thẩm quyền, các tổ
chức xã hội, các đoàn thể và các tổ chức quần chúng trên cơ sở những quy định
trong văn bản pháp luật.
Các biện pháp thuyết phục bao gồm: giải thích, tuyên truyền giáo dục,
khuyến khích về mặt vật chất, tinh thần, nhằm đảm bảo sự hợp tác, tuân thủ hay
phục tùng của công dân. Phương pháp thuyết phục đòi hỏi chủ thể giải quyết phải
12


có trình độ tổng hợp cao, mềm dẻo nhưng vẫn phải đạt được mục đích quản lý,
đạt được sự tôn trọng pháp luật của công dân.
b. Phương pháp cưỡng chế:
Cưỡng chế hành chính là biện pháp cưỡng chế nhà nước do các cơ quan
và người có thẩm quyền quyết định áp dụng đối với cá nhân hay tổ chức có hành
vi vi phạm hành chính hoặc đối với một số cá nhân, tổ chức nhất định với mục
đích ngăn chặn hay phòng ngừa. Phương pháp này luôn luôn là bước giải quyết
thứ hai, thường được áp dụng sau khi đã sử dụng phương pháp thuyết phục nhưng
không đạt được kết quả mong muốn hay mục tiêu đã đặt ra nhằm giải quyết hậu
quả, ngăn chặn hay phòng ngừa phát sinh hậu quả xấu thêm do các hành vi vi
phạm pháp luật, hậu quả của việc vi phạm pháp luật của công dân, tổ chức. Đây
là những biện pháp cưỡng bức, bắt buộc do nhà nước đặt ra, được thực hiện bởi
một số cơ quan nhà nước, cán bộ nhà nước có thẩm quyền nhằm áp dụng đối với
các hành vi trái pháp luật để đạt được mục đích trừng trị, xử lý, ngăn chặn, phòng
ngừa.

Các biện pháp cưỡng chế hành chính được áp dụng nhằm đạt mục đích
khác nhau, tất cả các biện pháp đó để nhằm đảm bảo pháp chế và kỷ luật trong
lĩnh vực quản lý nhà nước.
Các biện pháp cưỡng chế hành chính gồm:
Các hình thức phạt hành chính (cảnh cáo và phạt tiền) và các hình thức
phạt bổ sung (tước quyền sử dụng giấy phép và tịch thu tang vật, phương tiện đã
sử dụng để vi phạm hành chính).
Các biện pháp ngăn chặn và bảo đảm việc xử lý vi phạm hành chính: Tạm
giữ người, tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm...

13


Các biện pháp khắc phục hậu quả của vi phạm hành chính: Buộc khôi
phục lại tình trạng ban đầu đã bị thay đổi do vi phạm hành chính gây ra hoặc
buộc tháo gỡ các công trình xây dựng trái phép.
Nhìn chung, các biện pháp cưỡng chế hành chính rất đa dạng và phong
phú, được nhiều cơ quan, nhiều người có thẩm quyền thực hiện theo quy định của
pháp luật, chúng diễn ra hàng ngày, hàng giờ và trực tiếp với nhân dân. Vì vậy,
khi sử dụng biện pháp này yêu cầu phải hết sức thận trọng, tránh thô bạo, tuỳ
tiện, đồng thời phải nghiên cứu kỹ lưỡng để quyết định việc áp dụng biện pháp
giải quyết nào trong từng trường hợp cụ thể nhằm đạt được mục tiêu đề ra một
cách hiệu quả nhất, đồng thời không làm phát sinh những sự việc, vấn đề mới
phức tạp. Để thực hiện tốt biện pháp này, chủ thể thực hiện bao gồm cơ quan,
người có thẩm quyền giải quyết phải có đầy đủ kiến thức, kinh nghiệm quản lý
Nhà nước và kiến thức pháp luật, nhất là khả năng áp dụng các quy định của pháp
luật nói chung và pháp luật hành chính nói riêng của đội ngũ công chức trong bộ
máy nhà nước khi thi hành công vụ.
Hai phương pháp thuyết phục và cưỡng chế có liên hệ mật thiết với nhau,
bổ sung cho nhau. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ quản lý Nhà nước, tuỳ

điều kiện và hành vi cụ thể mà sử dụng một trong hai phương pháp. Nếu chỉ dùng
phương pháp thuyết phục thì Nhà nước sẽ suy yếu, kỷ cương phép nước không
được tôn trọng, nhưng nếu chỉ sử dụng phương pháp cưỡng chế thì Nhà nước sẽ
là Nhà nước độc tài, là Nhà nước của giai cấp bóc lột.
2.2.2. Mục tiêu xử lý tình huống.
Mục tiêu đặt ra trong việc xử lý tình huống này là giải toả được hai gian
nhà cấp 4 đã được xây dựng trên mảnh đất 40m2 do ông Vũ Văn K thuê để bàn

14


giao mặt bằng cho việc thi công dự án mở rộng, cải tạo, nâng cấp trụ sở cơ quan
T đúng tiến độ. Có thể nhìn nhận mục tiêu xử lý tình huống dưới các góc độ sau:
a. Đối với cơ quan quản lý nhà nước.
Nhằm lập lại trật tự kỷ cương trên công tác giải phóng mặt bằng. Ngoài ra để
đề ra những giải pháp vừa mang tính giáo dục, thuyết phục; vừa kiên quyết răn đe
để các công ty, doanh nghiệp, chủ hộ kinh doanh, cá nhân...nhận thức, hiểu biết
đúng và chấp hành nghiêm chỉnh quy định Pháp luật; chủ trương, đường lối, chính
sách của Đảng và Nhà Nước, tăng cường pháp chế Xã hội Chủ nghĩa.
b. Đối với chính quyền địa phương.
Tăng cường hơn nữa trách nhiệm, vai trò lãnh đạo, chỉ đạo đối với Cấp uỷ
Đảng, chính quyền trong công tác quản lý, kiểm tra trên địa bàn mình quản lý. Giải
quyết hài hòa giữa lợi ích kinh tế của cá nhân và lợi ích tập thể, lợi ích xã hội.
c. Đối với hộ gia đình
Nâng cao ý thức tự giác của công dân trong việc chấp hành các quy định Pháp
luật; chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà Nước.
2.3. Phân tích nguyên nhân và hậu quả
2.3.1. Phân tích tình huống
Việc xảy ra tình huống nêu trên và những diễn biến của nó có những yếu
tố chủ quan, khách quan gây ra từ cả phía cơ quan T, người quản lý thửa đất và cả

từ ông Vũ Văn K, người thuê đất - đã tự ý xây dựng, mua bán trái phép dẫn đến
hậu quả là không thực hiện được việc giải phóng mặt bằng để thực hiện dự án
phục vụ mục đích công cộng là mở rộng, cải tạo, nâng cấp công sở của cơ quan
T.

15


Việc ký kết hợp đồng với ông Vũ Văn K để cho ông được thuê đất mở
cửa hàng kinh doanh nhằm mục đích tạo điều kiện cho gia đình cán bộ, công
chức của cơ quan mình cải thiện điều kiện kinh tế gia đình là hợp lý, nhưng chưa
hoàn toàn hợp pháp. Lý do chưa hợp pháp vì theo quy định của Luật Đất đai cơ
quan T được giao đất với mục đích làm công sở chứ không phải làm kinh doanh,
dịch vụ. Cơ quan T không báo cáo với cơ quan quản lý cấp trên trực tiếp là Sở X
và cơ quan quản lý đất đai ở địa phương trước khi ký kết và trong quá trình thực
hiện hợp đồng cho ông Vũ Văn K thuê đất chưa sử dụng.
Việc ông Vũ Văn K tự ý xây thêm một gian nhà cấp 4 mới ngay sát liền
kề với gian nhà cũ không có đơn, không báo cáo với cơ quan T. Về phía ông K,
đây là hành vi trái pháp luật, trái với hợp đồng đã ký. Trong việc này, lẽ ra cơ
quan T phải kịp thời ngăn chặn ngay từ đầu thì chắc chắn việc xây dựng thêm nhà
của ông K sẽ không Thực hiện được, việc mua bán trái phép cũng khó diễn ra và
hậu quả của vụ việc sẽ đơn giản hơn, nhưng cơ quan T đã không có hành động gì.
Việc xây nhà của ông Vũ Văn K diễn ra ngay trước trụ sở cơ quan, lãnh đạo,
công chức làm việc hàng ngày, không thể nói là không biết. Như vậy, trong việc
xây thêm một gian nhà của ông K, cơ quan T đã thể hiện sự yếu kém trong việc
quản lý tài sản thuộc quyền quản lý của mình, yếu kém trong việc quản lý hợp
đồng hoặc buông lỏng quản lý.
Việc ông Vũ Văn K bán một gian nhà cấp 4 cho ông Nguyễn Văn D là
hành vi trái pháp luật, thể hiện sự lạm dụng quyền được thuê để kinh doanh dịch
vụ sang quyền được sử dụng đất, quyền sở hữu nhà để thực hiện hành vi mua ,

bán nhà trái pháp luật. Trong việc này, cơ quan T cũng đã thể hiện sự thiếu sâu
sát, cụ thể trong quản lý đất đai thuộc thẩm quyền quản lý của mình và quản lý
quá trình thực hiện hợp đồng của ông Vũ Văn K.

16


Về dự án mở rộng, cải tạo nâng cấp công sở của cơ quan T, việc thực hiện
dự án là hết sức cần thiết, đảm bảo cơ sở vật chất phục vụ cho công tác, phù hợp
với mục tiêu hiện đại hoá công sở phù hợp với chủ trương, chính sách của Đảng
và Nhà nước, được Đảng uỷ, Lãnh đạo cơ quan và các tổ chức đoàn thể, cán bộ,
công chức trong đơn vị đồng tình ủng hộ. Tuy nhiên, quá trình xây dựng dự án,
đơn vị tư vấn lập dự án, thiết kế kỹ thuật đã không điều tra khảo sát kỹ dẫn đến
không nắm được hiện trạng sử dụng đất thực tế nên không đưa được đầy đủ,
chính xác hiện trạng sử dụng 40m2 đất do ông Vũ Văn K thuê vào hồ sơ dự án,
không nắm được trên mảnh đất này, ngoài ông K còn có ông D đang sử dụng một
phần diện tích của thửa đất này. Đồng thời, hồ sơ dự án cũng không đưa ra
phương án giải toả mặt bằng cụ thể để chủ đầu tư, cơ quan phê duyệt dự án có
phương án giải phóng mặt bằng. Trong việc này, về phía cơ quan T cũng đã có
biểu hiện chủ quan, thể hiện ở chỗ:
Thứ nhất: Khi xem xét, nghiệm thu hồ sơ dự án đã không chú ý đầy đủ tới
các nội dung của dự án. Đơn vị tư vấn có thiếu sót là không đề cập đầy đủ phần
hiện trạng mặt bằng của dự án nhưng cơ quan T cũng không kiểm tra, không phát
hiện ra.
Thứ hai: Mặc dù chủ trương xây dựng dự án có từ đầu năm 2006, nhưng
cơ quan T không có văn bản thông báo chính thức cho ông K, chỉ thông báo
chung chung trong các cuộc họp giao ban nội bộ cơ quan.
Nhìn chung, qua việc phân tích một số sự kiện liên quan đến vụ việc nêu
trên cho thấy rõ ràng rằng trong tình huống này, ông Vũ Văn K đã có hành vi sử
dụng đất được thuê không tuân thủ hợp đồng đã ký và thực hiện việc mua bán đất

trái pháp luật. Về phía cơ quan T đã thể hiện sự thiếu cụ thể, sâu sát, buông lỏng
trong quản lý, sử dụng tài sản của mình với vai trò là chủ đầu tư đã chưa đảm bảo
17


tính toàn diện, đầy đủ của một dự án đầu tư. Đồng thời công tác thanh tra, kiểm
tra, phát hiện sai phạm còn bị coi nhẹ.
2.3.2. Nguyên nhân, hậu quả.
a. Nguyên nhân
Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến các sự việc nêu trên là do việc thực hiện
công tác quản lý kinh tế (thể hiện qua việc quản lý hợp đồng), quản lý cán bộ,
quản lý tài sản được nhà nước giao cho cơ quan quản lý ở cơ quan T chưa tốt,
công tác giáo dục chính trị tư tưởng, nắm bắt diễn biến tư tưởng của cán bộ, đảng
viên, quần chúng còn hạn chế để hành vi mua bán đất sai trái diễn ra trước cơ
quan mà không phát hiện được. Ngoài ra còn phải kể đến năng lực, tổ chức bộ
máy của cơ quan T còn có những hạn chế, thể hiện bệnh quan liêu, chủ quan,
thiếu quan tâm, kiểm tra, giám sát. Tổ chức Đảng và các tổ chức quần chúng
trong cơ quan T cũng không phát huy hết vai trò, không hoàn thành trách nhiệm
của mình trong vụ việc này.
Về phía ông Vũ Văn K, có nguyên nhân khách quan là do hoàn cảnh gia
đình khó khăn, bị ảnh hưởng của tư tưởng ham muốn vật chất, tác động mặt trái
của kinh tế thị trường. Về mặt chủ quan, ông K đã lợi dụng sự lơ là trong quản lý
của cơ quan T, thiếu nhận thức đúng đắn, đặc biệt là trình độ hiểu biết pháp luật, đã
thực hiện hành vi mua bán trái pháp luật, kiếm lời cho riêng mình, coi thường lợi
ích tập thể. Qua vụ việc này cũng cho thấy, ông Vũ Văn K, do thiếu tu dưỡng rèn
luyện, không chịu học tập để nâng cao kiến thức, hiểu biết pháp luật, trình độ nhận
thức kém, ý thức tổ chức kỷ luật kém. Bản thân là người chủ gia đình, hơn nữa lại
là cán bộ lãnh đạo một đơn vị, là đảng viên trong cơ quan, nhưng đã không vận
động gia đình chấp hành đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước,
quyết định của cơ quan.

18


b. Hậu quả
Diễn biến của các sự việc nêu trên đã dẫn tới việc không giải phóng được
mặt bằng để khởi công dự án đúng quy định, gây bức xúc trong dư luận, nghi ngờ
trong nội bộ cơ quan, đồng thời phải huy động tới cơ quan công quyền để dùng
biện pháp cưỡng chế, giải toả, ảnh hưởng đến uy tín của cơ quan, mất nhiều thời
gian họp bàn cách giải quyết, họp xét xử cán bộ.
2.4. Xây dựng, phân tích và lựa chọn phương án giải quyết.
2.4.1. Phương án 1: Phương án giáo dục thuyết phục.
Đây là phương án hợp lý nhất được tất cả cán bộ cơ quan T đồng tình ủng
hộ, vì nó không ảnh hưởng nhiều đến uy tín của cơ quan, không tốn kém nhiều
thời gian. Biện pháp thực hiện là huy động tổ chức, tập thể và một số cá nhân có
uy tín, kết hợp với tổ chức Đảng, công đoàn trong cơ quan, gặp gỡ, giải thích,
động viên ông K cả về tinh thần lẫn vật chất để ông nhận thức được việc làm sai
trái của mình, ảnh hưởng của nó đến lợi ích của cơ quan, thuyết phục vợ, con tự
động dỡ bỏ căn nhà cấp 4 mình đang kinh doanh. Đồng thời cơ quan T sẽ tạo điều
kiện hỗ trợ để ông K tự thương lượng với ông D cũng tháo dỡ căn nhà đã mua trái
phép. Với phương án này, bản thân ông K có thể hiện thái độ hợp tác giải quyết
nhưng vợ, con ông lại tỏ thái độ bất hợp tác. Ngoài ra, ông Nguyễn Văn D đòi hỏi
ông Vũ Văn K phải trả số tiền bằng số tiền ông đã bỏ ra mua cộng thêm với số
tiền do ông tự cơi nới, tu sửa thêm (với mức không hợp lý) nên ông K không có
khả năng thanh toán và vợ con ông cũng không hợp tác nên phương án này khó
khả thi.
2.4.2. Phương án hai: Dùng biện pháp cưỡng chế để giải quyết.
Là phương án gây phiền phức, tốn kém, phải huy động sự tham gia của
nhiều cơ quan. Nhưng do đã kiên trì thực hiện biện pháp thuyết phục, giải thích,
19



tuyên truyền, vận động, nhưng bản thân gia đình ông K, nhất là vợ con ông K vẫn
tỏ thái độ không hợp tác giải quyết.
2.4.3. Lựa chọn phương án
Xét thấy,trình độ hiểu biết, thái độ của bà H, vợ ông K không khả thi để áp dụng
phương án 1. Căn cứ vào việc phân tích các tình tiết sự việc, để đảm bảo thực
hiện mục tiêu đặt ra theo tôi áp dụng phương án 2: Dùng biện pháp cưỡng chế
để giải phóng mặt bằng để giải quyết là phương án tối ưu.
2.5. Lập kế hoạch tổ chức thực hiện phương án đã chọn
Thời
STT

Nội dung công việc

gian
thực
hiện

Tổ chức và
cá nhân
tham gia

Cơ quan T gửi Công
văn lên UBND quận
1

HĐ đề nghị UBND Tháng
quận giải phóng Mặt 8/2006
bằng khu đất phục vụ


Cơ quan T,
UBND quận


xây dựng trụ sở
Quyết định của UBND
2

quận thu hồi 402 đất Tháng
trong khuân viên cơ 9/2006
quan T

3

Công văn của UBND Tháng

UBND quận,
UBND
phường, Cơ
quan T, ông
K, Ông D
UBND quận,
20

Kinh
phí

Ghi chú



phường đề nghị UBND 9/2006
quận

ra quyết

định

UBND
phường

cưỡng chế giải phóng
mặt bằng
UBND quận,

UBND quận ra quyết
4

định phạt cảnh cáo đối 10/2006
với ông D và ông K

5

phóng mặt bằng, các
ngành chức năng thực
hiện cưỡng chế GPMB

phường, Ông
K, Ông D

UBND quận ra quyết

định cưỡng chế giải

UBND

UBND quận,
Tháng

UBND

11/2006

phường, Ông
K, Ông D

Bước 1. Ngày 18/8/2006, Lãnh đạo cơ quan T đã có công văn số 742/CVX, đề nghị UBND quận HĐ dùng các biện pháp hành chính để giải toả một gian
nhà cấp 4 của ông Vũ Văn K và một gian nhà cấp 4 liền kề do ông Nguyễn Văn D
mua trái phép.
Bước 2. Căn cứ Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính của Uỷ ban
Thường vụ Quốc hội; căn cứ Nghị định 04/NĐ-CP ngày 10/01/1997 của Chính
phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai; căn
cứ Nghị định 48/NĐ-CP ngày 05/5/1997 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành
chính trong quản lý xây dựng, quản lý nhà và quản lý các công trình kỹ thuật hạ
tầng đô thị; Ngày 04/9/2006, Chủ tịch UBND quận HĐ đã ra Quyết định số

21


1122/QĐ-UB về việc thu hồi diện tích đất sử dụng sai mục đích tại phường HH
và giao cho UBND phường HH quản lý.
Bước 3. Ngày 15/9/2006, Chủ tịch UBND phường HH có công văn

1182/CV-UB gửi Chủ tịch UBND quận HĐ về việc đề nghị áp dụng biện pháp tổ
chức cưỡng chế thu hồi đất sử dụng sai mục đích trên địa bàn phường HH.
Bước 4. Ngày 13/10/2006, Chủ tịch UBND quận HĐ đã ra Quyết định số
1256/QĐ-UB phạt cảnh cáo đối với ông Nguyễn Văn D, trú tại phường NT quận
HĐ Thành phố HN vì đã có hành vi xây dựng trái phép trên đất lưu không, cố
tình kéo dài thời hạn chấp hành Quyết định 1122/QĐ-UB của UBND quận HĐ và
Quyết định số 1257/QĐ-UB, phạt cảnh cáo đối với ông Vũ Văn K vì có hành vi
cố tình không chấp hành quyết định thu hồi đất của UBND quận HĐ. Đồng thời,
các quyết định trên cũng nêu rõ trong thời hạn 05 ngày, ông K và ông D phải thực
hiện tự tháo dỡ, thu dọn tài sản của mình trên mảnh đất nêu trên, sau thời hạn nêu
trên nếu không chấp hành, UBND quận HĐ sẽ thực hiện cưỡng chế theo pháp
luật. Nhưng cả ông K và ông D đều không thi hành các quyết định này.
Bước 5. Ngày 03/11/2006, Chủ tịch UBND quận HĐ đã ký Quyết định số
1280/QĐ-UB, áp dụng biện pháp cưỡng chế đối với ông Vũ Văn K và ông Nguyễn
Văn D vì đã có hành vi không Tự nguyện chấp hành quyết định xử phạt vi phạm
hành chính, không tự nguyện tháo dỡ nhà, thu dọn tài sản, bàn giao lại mặt bằng.
Ngày 04/12/2006, các cơ quan chức năng của quận HĐ đã tiến hành biện pháp
cưỡng chế theo đúng quy định của pháp luật.
Về xử lý cán bộ.
Đối với ông Vũ Văn K, xét về mặt chủ thể - là cán bộ do cơ quan T trực
tiếp quản lý, người đã đứng tên ký hợp đồng thuê đất với cơ quan T (mặc dù không
đứng tên bán), ngoài ra còn không tự nguyện dỡ bỏ tài sản do mình quản lý, không
thực hiện các quyết định của UBND quận HĐ, nên ông Vũ Văn K phải là người
22


hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật và cơ quan T. Vì vậy, trong quá trình
diễn biến của vụ việc từ sau tháng 3/2004, Lãnh đạo. BCH đảng uỷ cơ quan T đã
họp và ra Nghị quyết yêu cầu Lãnh đạo phòng HT, đơn vị đang quản lý ông K và
Chi bộ nơi ông K đang sinh hoạt, kiểm điểm về Đảng và chính quyền đối với ông

Vũ Văn K. Mục đích chính là để răn đe, trên cơ sở đó ông K sẽ thoả thuận với ông
Nguyễn văn D để tự tháo dỡ, thu dọn tài sản, thuyết phục vợ con tự tháo dỡ tài sản
của mình để trả lại mặt bằng cho cơ quan T. Thực hiện Nghị quyết của Đảng uỷ cơ
quan, cấp uỷ và lãnh đạo đơn vị quản lý ông K gặp gỡ và yêu cầu ông K viết kiểm
điểm gửi Chi uỷ và lãnh đạo đơn vị, song ông K vẫn một mực từ chối và nói: “Tôi
không biết, tôi không làm, tôi không liên quan” và cho đó là việc làm của vợ ông.
Ông K nói mình không có sai phạm gì nên không viết kiểm điểm. Mặc dù đã được
cấp uỷ Chi bộ và cán bộ, quần chúng trong đơn vị gặp gỡ động viên nhiều lần
nhưng ông K vẫn không tự viết kiểm điểm.
Trước sự việc như vậy, căn cứ vào điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam và
các văn bản hướng dẫn của Ban Tổ chức Trung ương, cấp uỷ Chi bộ về việc xét
kỷ luật Đảng viên, Chi bộ đã họp căn cứ vào tài liệu có liên quan, phân tích
những sai phạm của ông Vũ Văn K, chi bộ đã kết luận và bỏ phiếu kín đề nghị
Đảng uỷ khối Dân chính Đảng xét kỷ luật ông Vũ Văn K với hình thức “cảnh
cáo”. Sau đó, Đảng uỷ khối Dân chính Đảng ký quyết định thi hành kỷ luật hình
thức “cảnh cáo”, thông báo trong toàn Đảng bộ.
Sau khi bị kỷ luật về Đảng, Chi bộ và cán bộ, quần chúng trong cơ quan
tiếp tục giáo dục, động viên, thuyết phục ông K để ông thuyết phục vợ con giải
quyết vụ việc do mình gây ra. Nhưng ông Vũ Văn K vẫn cố tình trốn tránh trách
nhiệm không Thực hiện, đồng thời có thái độ bất cần, bất chấp pháp luật. Cùng
thời gian này, UBND quận HĐ đã tổ chức cưỡng chế giải toả. Sau khi giải tỏa
ông Nguyễn Văn D đã làm đơn kiện ông Vũ Văn K.
23


Đứng trước những diễn biến ngày càng phức tạp, Lãnh đạo cơ quan T đã
họp và yêu cầu ông Vũ Văn K thoả thuận với ông D để ông D rút đơn kiện. Lúc
này, được sự động viên, giải thích, thuyết phục của lãnh đạo đơn vị kết hợp với
bạn bè, đồng nghiệp có uy tín giúp đỡ, ông K đã bình tĩnh, nhìn nhận, đánh giá lại
toàn bộ sự việc và đã cùng gia đình có thái độ thiện chí, hợp tác hơn. Được sự

giúp đỡ của bạn bè, đồng nghiệp, ông K đã đàm phán và được ông Nguyễn Văn
D đồng ý nhận số tiền do ông K hoàn trả đúng bằng số tiền mà ông K đã nhận khi
bán gian nhà cấp 4 cho ông D và ông D rút đơn kiện.
Về chính quyền, Lãnh đạo phòng HT đã tổ chức họp kiểm điểm ông K.
Trong cuộc họp này,ông K đã kiểm điểm nghiêm túc, thành khẩn. Cuộc họp đã bỏ
phiếu kín đề nghị hình thức “cách chức” và đưa ra khỏi danh sách cán bộ thuộc
diện quy hoạch cấp trưởng phòng. Xét tình tiết vi phạm và xét quá trình công tác,
ông Vũ Văn K đã có thời gian chiến đấu ở chiến trường Miền Nam, sức khoẻ bị
ảnh hưởng, hoàn cảnh gia đình - vợ không có công ăn việc làm, không có thu
nhập, Lãnh đạo cơ quan T đã xin ý kiến Đảng ủy và tiến hành họp Hội đồng kỷ
luật của cơ quan, quyết định hình thức kỷ luật - cách chức phó trưởng phòng đối
với ông Vũ Văn K. Bên cạnh đó, Lãnh đạo, Đảng uỷ cơ quan đã họp Hội nghị
liên tịch, bỏ phiếu kín và quyết định đưa ra khỏi danh sách quy hoạch cấp trưởng
phòng đối với ông Vũ Văn K.

24


PHẦN III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.
Đảng ta luôn luôn quán triệt quan điểm của Bác Hồ, coi cán bộ là “gốc”
của mọi công việc. Trong sự nghiệp đổi mới, thực hiện công nghiệp hoá - hiện
đại hoá theo định hướng XHCN, đòi hỏi đội ngũ cán bộ có phẩm chất chính trị, tư
tưởng vững vàng, đạo đức trong sáng, có trình độ lý luận, có kiến thức quản lý
nhà nước và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cao. Mỗi cán bộ, đảng viên phải
phát huy vai trò tiên phong gương mẫu, nghiêm chỉnh chấp hành cương lĩnh, điều
lệ, nghị quyết của đảng, pháp luật của Nhà nước. Nghiêm khắc thi hành kỷ luật
với bất kỳ ai vi phạm nguyên tắc, kỷ luật Đảng đồng thời cũng sẵn sàng tha thứ
cho những ai nhận ra lỗi lầm của mình và tích cực sửa chữa sai lầm.
Công Tác cán bộ đang chịu sự tác động rất lớn của các nguy cơ, trong đó
nhấn mạnh nguy cơ tham nhũng, tiêu cực, hối lộ... Đặc biệt trong lĩnh vực đầu tư

xây dựng cơ bản, quản lý đất đai... Tình trạng kiện tụng, tố cáo cán bộ về quản lý,
sử dụng đất ở nhiều địa phương trong cả nước đã xảy ra khá phức tạp. Đây là một
vấn đề nhức nhối mang tính xã hội khá sâu sắc. Chúng ta cần phải tập trung
nghiên cứu, có biện pháp giải quyết kịp thời, hướng tới ổn định lâu dài. Cần tăng
cường công Tác quản lý nhà nước về đất đai, xây dựng hệ thống pháp luật, chính
sách về đất đai phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, khắc phục
được những bất công trong quản lý, tạo hành lang pháp lý là rất cần thiết và cấp
bách. Đồng thời tăng cường công tác giáo dục cho mỗi cán bộ, đảng viên và quần
chúng nhân dân có ý thức trong việc học tập và thực hiện tốt đường lối chính sách
của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Qua phân tích những nguyên nhân và biện pháp xử lý tình huống trên, tôi
xin đề xuất một số ý kiến như sau:

25


×