Tải bản đầy đủ (.docx) (75 trang)

Nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty TNHH iMarket Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.7 MB, 75 trang )

1

1

TÓM LƯỢC
Những năm gần đây kinh tế Việt Nam phát triển rất nhanh chóng, trong đó công
nghiệp là khu vực kinh tế có vai trò đóng góp ngày càng lớn vào GDP cả nước. Với xu
thế hội nhập toàn cầu, khi các quan hệ hợp tác được thiết lập thì sản phẩm công nghiệp
phụ trợ đã trở thành một bộ phận hiện hữu, không tách rời, cấu thành trong các sản
phẩm của các tập đoàn công nghiệp đa quốc gia hàng đầu thế giới và là động lực trực
tiếp tạo ra giá trị gia tăng cho ngành công nghiệp, giúp tăng sức cạnh tranh của sản
phẩm công nghiệp chính và đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá. Đứng trước xu thế
đó, Công ty TNHH iMarket Việt Nam đã tận dụng được cơ hội, lợi thế của mình trong
lĩnh vực cung cấp nguyên vật liệu và thiết bị phụ trợ để có thể đứng vững trên thị
trường, tuy nhiên công ty cũng gặp phải không ít nhữngkhó khăn khi mà sự cạnh tranh
diễn ra ngày càng gay gắt hơn.
Nhận thức được tầm quan trọng và ảnh hưởng của năng lực cạnh tranh đối với các
doanh nghiệp nói chung, đồng thời sau quá trình thực tập tìm hiểu thực tế tại Công Ty
TNHH iMarket Việt Nam cùng những kiến thức đã học được ở trường em đã lựa chọn đề
tài: “Nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty TNHH iMarket Việt Nam”. Với mong
muốn đóng góp một phần nhỏ trong việc đưa ra các giải pháp giúp công ty có thể đạt
được những thành tựu, cũng như khẳng định vị thế trong môi trường kinh doanh đầy
biến động như hiện nay.
Trong bài khóa luận, qua việc xem xét tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
cũng như hệ thống lại các kiến thức có liên quan, em đã tiến hành phân tích thực trạng
tại công ty thông qua các phương pháp nghiên cứu. Trên cơ sở đã phân tích,em nhận
thấy công ty có lợi thế cạnh tranh về chất lượng sản phẩm đó là một nền tảng rất tốt để
công ty có thể xây dựng được chữ “tín” trên thị trường.Ngoài ra, công ty còn sở hữu
nguồn nhân lực chất lượng cao, đủ kiến thức và kĩ năng để có thể hoàn thành tốt nhiệm
vụ được giao. Tuy nhiên, công ty vẫn chưa mở rộng tập khách hàng do tiềm lực tài
chính và lực lượng bán hàng của công ty còn hạn chế và ở các địa bàn xa trung tâm thì


chưa có cơ sở, đại diện bán hàng của công ty nên người dân khó tiếp cận. Từ đó em đã
đưa ra một số quan điểm hoàn thiện cũng như một số kiến nghị với các chủ thể có liên
quan để giúp nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty so với các đối thủ cạnh tranh
trong ngành.


2

2

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành bài khóa luận tốt nghiệp này, ngoài sự cố gắng của bản thân, em
đã nhận được sự hướng dẫn, giúp đỡ tận tình của các Thầy cô và Ban lãnh đạo cùng
toàn thể các cán bộ công nhân viên trong công ty nơi em thực tập.
Em xin chân thành cảm ơn các Thầy cô trong khoa Quản Trị Kinh Doanh. Đặc
biệt là ThS. Hoàng Cao Cường, Thầy đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo và giúp đỡ em
trong quá trình thực tập để em có thể hoàn thành bài khóa luận tốt nghiệp này.
Em xin gửi lời cảm ơn tới Ban lãnh đạo cùng toàn thể cán bộ nhân viên Công Ty
TNHH iMarket Việt Nam, cán bộ nhân viên phòng hành chính tổ chức, phòng thu
mua,…đã giúp đỡ em trong quá trình thực tập tại công ty và thực hiện đề tài nghiên
cứu này.
Do đề tài còn khá mới mẻ, có nhiều ý kiến và những cách tiếp cận khác nhau,
thời gian thực tập, kinh nghiệm và kiến thức thực tế còn nhiều hạn chế nên trong khóa
luận không thể tránh khỏi những thiết sót. Vì vậy, em rất mong nhận được sự giúp đỡ
và ý kiến đóng góp của các Thầy cô giáo và ban lãnh đạo Công Ty TNHH iMarket
Việt Nam, để em hoàn thành đề tài nghiên cứu của mình một cách xuất sắc. Một lần
nữa, em chân thành cảm ơn ThS. Hoàng Cao Cường và Ban lãnh đạo cũng như tập thể
cán bộ nhân viên Công Ty TNHH iMarket Việt Nam hướng dẫn và chỉ bảo tận tình
giúp đỡ em hoàn thành luận văn này.
Em xin chân thành cảm ơn!

Sinh viên thực hiện

Vũ Duy Khánh


3

3

MỤC LỤC


4

4

DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU


5
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua cùng với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân, ngành
công nghiệp phụ trợ cũng đã đạt được những thành tựu bước đầu quan trọng, đặc biệt
trong lĩnh vực cung cấp nguyên vật liệu và thiết bị công nghiệp. Để đáp ứng yêu cầu
phát triển kinh tế và hội nhập, ngoài yếu tố nguồn hàng chất lượng thì năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp thương mại có ý nghĩa rất quan trọng. Là yếu tố quyết định sự
tồn tại và phát triển của doanh nghiệp trong thị trường nội địa và quốc tế. Thời gian
qua các doanh nghiệp phân phối thiết bị và nguyên vật liệu đã chú ý bước đầu đến
nâng cao năng lực cạnh tranh của mình. Tuy nhiên, so với các doanh nghiệp thương

mại thế giới thì doanh nghiệp tại Việt Nam vẫn còn non yếu cả về năng lực và kinh
nghiệm cạnh tranh. Việc nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến doanh nghiệp để đề ra
các biện pháp nhằm nâng cao vị thế của doanh nghiệp trên thương trường là đòi hỏi có
tính cấp thiết hiện nay.
Trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập thì cạnh tranh sẽ ngày càng quyết
liệt, không chỉ có sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong nước mà còn có sự cạnh
tranh giữa các doanh nghiệp nước ngoài ngay tại thị trường trong nước, đặc biệt là đối
với ngành cung cấp và phân phối nguyên vật liệu và thiết bị phụ trợ công nghiệp, một
ngành mà hiện nay được xem như chưa có được năng lực cạnh tranh cao với các doanh
nghiệp nước ngoài trong lĩnh vực phân phối thiết bị nội địa. Điều này đòi hỏi các
doanh nghiệp phải không ngừng đổi mới, nâng cao năng lực cạnh tranh của mình để
đáp ứng yếu cầu của thị trường.
Công Ty TNHH iMarket Việt Nam là doanh nghiệp thương mại hoạt động trong
nhiều lĩnh vực, trong đó cung ứng và phân phối nguyên vật liệu, thiết bị phụ trợ công
nghiệp là ngành chủ lực. Trong những năm qua công ty đã có những đóng góp to lớn
phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, trước xu thế
cạnh tranh ngày càng quyết liệt trong thị trường cung ứng và phân phối nguyên nhiên
vật liệu và thiết bị phụ trợ, Công ty TNHH iMarket Việt Nam vẫn còn gặp phải một số
bất cập mà nếu không nhanh chóng khắc phục thì thị trường có thể bị thu hẹp khi Việt
Nam mở cửa trong lĩnh vực này. Từ thực trạng hoạt động kinh doanh cùng với phương
hướng hoạt động của công ty và tầm quan trọng của hoạt động quản trị, tôi chọn đề tài


6
“Nâng cao năng lực cạnh tranh của Công Ty TNHH iMarket Việt Nam”cho khóa
luận tốt nghiệp của mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Ngày nay môi trường kinh doanh có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh
của công ty, nó luôn thay đổi, phá vỡ sự cứng nhắc của kế hoạch sản xuất của doanh
nghiệp. Đặc biệt trong xu hướng hội nhập kinh tế khu vực và thế giới thì muốn tồn tại

và phát triển, các doanh nghiệp không những đủ sức cạnh tranh trên thị trường nội địa
mà phải có khả năng vươn ra thị trường quốc tế. Vậy làm thế nào để có ưu thế cạnh
tranh hơn đối thủ cạnh tranh và cạnh tranh được với các đối thủ khi họ có cạnh tranh
dài hạn mà mình không có? Không chỉ với doanh nghiệp Việt Nam mà còn cả với các
công ty lớn trên thế giới trong suốt quá trình đặt tình huống và tìm giải pháp có một
câu hỏi luôn đặt ra là: làm sao doanh nghiệp có thể giải quyết được mâu thuẫn một bên
là khả năng có hạn của mình và đòi hỏi vô hạn của thị trường không chỉ bây giờ mà cả
cho tương lai. Giải quyết được mâu thuẫn ấy là mục tiêu của hoạch định chiến lược
kinh doanh.
Tổng hợp bài khóa luận về các giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh, tôi trình
bày tóm tắt một số nghiên cứu chính như sau:
Với đề tài: “Một số biện pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh tại Công ty
trách nhiệm hữu hạn một thành viên thương mại dịch vụ xuất nhập khẩu Hải
Phòng”, Nguyễn Thị Bích Ngọc (2017) đã phân tích một số nhân tố ảnh hưởng đến
năng lực cạnh tranh của Công ty và đưa ra các biện pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh
tranh như: Hoàn chỉnh hệ thống kênh phân phối, đẩy mạnh xúc tiến thương mại, hạ giá
thành, nâng cao chất lượng sản phẩm.
Với đề tài: “Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam thông
qua xây dựng văn hóa doanh nghiệp”, Nguyễn Thị Hồng Nhung (2016) đưa ra một
số giải pháp chung hỗ trợ từ phía nhà nước và một số giải pháp từ phía doanh nghiệp:
Xây dựng văn hóa thương hiệu, văn hóa đội ngũ nhân viên, nâng cao môi trường nội
bộ của doanh nghiệp, áp dụng tiêu chuẩn ISO-nền văn hóa chất lượng… thúc đẩy năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Đề tài: “Giải pháp Marketing-mix nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh
Marketing của Công ty Cổ Phần đầu tư và phát triển công nghệ Niềm Tin Việt”,
Đoàn Ngọc Quỳnh (2016) đưa ra các giải pháp Marketing-mix về sản phẩm, giá, kênh


7
phân phối, các hoạt động xúc tiến bán. Mục đích nâng cao năng lực cạnh tranh và thúc

đẩy hoạt động kinh doanh hiệu quả.
Với cùng một mục tiêu là nâng cao năng lực cạnh tranh, nhưng mỗi doanh
nghiệp sẽ có một chiến lược riêng của đơn vị mình. Và trong các nghiên cứu trên, vấn
đề nâng cao năng lực cạnh tranh đã được đề cập cho một số ngành nghề và quốc gia
nhưng chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu thực tiễn và đề xuất các giải pháp
nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các đơn vị cung ứng, phân phối nguyên vật
liệu và thiết bị phụ trợ công nghiệp. Em đã chú trọng kế thừa và chọn lọc những ý
tưởng liên quan đến đề tài để phân tích tình hình thực tiễn và tìm một số giải pháp
nâng cao năng lực cạnh tranh của Công Ty TNHH iMarket Việt Nam trong lĩnh vực
cung ứng thiết bị và nguyên vật liệu phụ trợ.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của đề tài :làm rõ cơ sở lý luận, phân tích thực trạng, đề xuất giải pháp
khả thi để nâng cao năng lực cạnh tranh của Công Ty TNHH iMarket Việt Nam trong
lĩnh vực cung cấp và phân phối nguyên vật liệu, thiết bị phụ trợ công nghiệp trên thị
trường trong nước.
Để thực hiện mục đích trên, khóa luận có nhiệm vụ nghiên cứu những vẫn đề sau
- Những vấn đề lý luận cơ bản về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
- Phân tích và đánh giá năng lực cạnh tranh của Công Ty TNHH iMarket Việt
Nam trong lĩnh vực cung ứng, phân phối nguyên vật liệu và thiết bị phụ trợ công
nghiệp.
- Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của Công Ty TNHH iMarket Việt Nam
trong lĩnh vực cung ứng, phân phối nguyên vật liệu và thiết bị phụ trợ công nghiệp.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Khóa luận tập trung nghiên cứu năng lực cạnh tranh của
Công Ty TNHH iMarket Việt Nam trong lĩnh vực cung ứng, phân phối nguyên vật liệu
và thiết bị phụ trợ ngành công nghiệp.
Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi về thời gian: Phân tích các số liệu nghiên cứu năng lực cạnh tranh của
Công Ty TNHH iMarket Việt Nam từ năm 2015-2017



8
Phạm vi về không gian: Khóa luận nghiên cứu năng lực cạnh tranh của Công Ty
TNHH iMarket Việt Nam tại thị trường trong nước và so sánh với các đối thủ cạnh
tranh tại Việt Nam
Phạm vi về nội dung nghiên cứu:Khóa luận tập trung nghiên cứu năng lực cạnh
tranh của Công Ty TNHH iMarket Việt Nam ở các khía cạnh sau : làm rõ nội dung lý
luận và một số khái niệm liên quan, hệ thống công cụ, chỉ tiêu đánh giá, phương pháp,
cơ sở và nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của Công Ty.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp sử dụng dữ liệu thứ cấp : bao gồm thu thập thông tin gián tiếp,
thông tin từ các giáo trình để làm cơ sở cho công tác nghiên cứu. Ngoài ra, một phần
số liệu được thu thập từ báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp sử
dụng cho phần đánh giá thực trạng hoạt động của công ty.
Phương pháp sử dụng dữ liệu sơ cấp : bao gồm như xây dựng phiếu điều tra cho
hai đối tượng chính là khách hàng và cán bộ, công nhân viên trong công ty. Phiếu điều
tra bao gồm những câu hỏi trắc nghiệm, có sẵn các câu trả lời để đối tượng dễ dàng trả
lời. Đồng thời tiến hành phỏng vấn trực tiếp trưởng phòng ban, ban quản lý của công ty.
6. Kết cấu đề tài
Ngoài phần tóm lược, lời cảm ơn, mục lục, danh mục bảng biểu, danh mục sơ đồ
hình vẽ và danh mục từ viết tắt cùng với kết luận và phần mở đầu thì bài khóa luận có
kết cấu gồm 3 chương:
Chương 1: Một số lý luận cơ bản về nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp.
Chương 2: Phân tích và đánh giá thực trạng nâng cao năng lực cạnh tranh của
Công ty TNHH iMarket Việt Nam
Chương 3 : Đề xuất và kiến nghị để giải quyết vấn đề nâng cao năng lực cạnh
tranh của Công ty TNHH iMarket Việt Nam



9
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ LÝ THUYẾT CƠ BẢN VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH
CỦA DOANH NGHIỆP
1.1. Khái niệm về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
1.1.1. Khái niệm về cạnh tranh của doanh nghiệp
Khái niệm cạnh tranh ra đời khi nền kinh tế thị trường xuất hiện. Trong lịch sử
phát triển của nền kinh tế thế giới đã có rất nhiều quan điểm khác nhau về cạnh tranh:
Cạnh tranh theo hàm nghĩa kinh tế học là chỉ quá trình tranh đấu tiến hành không
ngừng giữa các chủ thể kinh tế trong thị trường nhằm thực hiện lợi ích kinh tế và mục
tiêu đã định của bản thân. Động lực nội tại của cạnh tranh là lợi ích kinh tế của tự thân
chủ kinh tế, biểu hiện cụ thể trong quá trình cạnh tranh là giữ hoặc mở rộng mức
chiếm hữu thị trường, gia tăng mức tiêu thụ, nâng cao lợi nhuận. Áp lực bên ngoài của
cạnh tranh là đọ sức kịch liệt giữa các đối thủ cạnh tranh, kẻ bại tất sẽ bị đào thải.
Từ điển kinh doanh của Anh (1992): Cạnh tranh được xem là sự ganh đua, sự
kình địch giữa các nhà kinh doanh trên thị trường nhằm tranh giành cùng một loại tài
nguyên sản xuất hoặc cùng một loại khách hàng về phía mình.
Theo nhà kinh tế học người Mỹ Micheal Porter (1996) thì: Cạnh tranhlà giành
lấy thị phần. Bản chất của cạnh tranh là tìm kiếm lợi nhuận, là khoản lợi nhuận cao
hơn mức lựoi nhuận trung bình mà Doanh nghiệp đang có. Kết quả của quá trình cạnh
tranh là sự bình quan hóa lợi nhuận trong ngành theo chiều hướng cải thiện sâu dẫn
đến hệ quả giá cả có thể giảm đi.
Trong Đại từ điển kinh tế thị trường(1998) cũng đưa ra định nghĩa : Cạnh tranh
hữu hiệu là một phương thức thích ứng với thị trường của doanh nghiệp mà mục đích
là giành được hiệu quả hoạt động thị trường làm cho người ta tương đối thỏa mãn
nhằm đạt được lựoi nhuận bình quân vừa đủ để có lựoi cho việc kinh doanh bình
thường và thù lao cho những rủi ro trong việc đầu tư, đồng thời hoạt động của đơn vị
sản xuất cũng đạt hiệu quả cao, khôg có hiện tượng quá dư thừa về khả năng sản xuất
trong một thời gan dài,tính chất sản phẩm đạt trình độ hợp lý.
Như vậy qua các khái niệm đã nêu ở trên ta có thể hiểu một cách đầy đủ: Cạnh
tranh là quá trình kinh tế mà trong đó các chủ thể kinh tế ganh đua nhau để chiếm lĩnh

thị trường, giành lấy khách hàng và các điều kiện thuận lợi trong các hoạt động sản


10
xuất kinh doanh của mình. Thực chất của cạnh tranh là sự tranh giành về lợi ích kinh
tế giữa các chủ thể khi tham gia thị trường.
1.1.2. Khái niệm năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Một doanh nghiệp được coi là có năng lực cạnh tranh khi doanh nghiệp đó có thể
đứng vững trên thị trường và ngày càng phát triển. Tuy nhiên có rất nhiều quan niệm
về năng lực cạnh tranh như :
Theo nhà quản trị chiến lược Micheal Poter (1996) : Năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp có thể hiểu là khả năng chiếm lĩnh thị trường tiêu thụ các sản phẩm cùng
loại (hay sản phẩm thay thế) của công ty đó. Năng lực giành giật và chiếm lĩnh thị
trường tiêu thụ cao thì doanh nghiệp đó có năng lực cạnh tranh cao. Micheal Poter
không bó hẹp quan điểm ở các đối thủ cạnh tranh trực tiếp mà ông mở rộng ra cả các
đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn và sản phẩm thay thế.
Theo tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế(OECD) thì : Năng lực cạnh tranh là
khả năng của doanh nghiệp, ngành, quốc gia, khu vực trong việc tạo ra việc làm và thu
nhập cao hơn trong điều kiện kinh tế quốc tế.
Theo tác giả Lê Đăng Doanh(2010)cho rằng : Năng lực cạnh tranh được đo bằng
khả năng duy trì và mở rộng thị phần, thu lợi nhuận cho doanh nghiệp trong môi
trường cạnh tranh trong và ngoài nước.
TheoNguyễn Bách Khoa đã định nghĩa : Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
được hiểu là tích hợp với các khả năng và các nguồn nội lực để duy trì và phát triển thị
phần, lợi nhuận và dịnh vị những ưu thế cạnh tranh của doanh nghiệp đó trong mối
quan hệ với đối thủ cạnh tranh trực tiếp và tiềm tàng trên một thị trường mục tiêu xác
định.
Những định nghĩa trên cho thấy, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trước hết
phải được tạo ra từ khả năng, thực lực của doanh nghiệp. Như vậy năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp có thể hiểu là việc khai thác, sử dụng thực lực và lợi thế bên trong,

bên ngoài nhằm tạo ra những sản phẩm, dịch vụ hấp dẫn người tiêu dùng để tồn tại và
phát triển, thu được lợi nhuận ngày càng cao và cải tiến vị trí so với các đối thủ cạnh
tranh trên thị trường
1.1.3. Khái niệm vè nguồn lực tài chính
Tài chính là quá trình phân phối các nguồn tài chính nhằm đáp ứng nhu cầu của
các chủ thể kinh tế. Hoạt động tài chính luôn gắn liền với sự vận động độc lập tương


11
đối của các luồng giá trị dưới hình thái tiền tệ thông qua việc hình thành và sử dụng
các quỹ tiền tệ trong nền kinh tế.
Các giáo trình kinh điển về tài chính tại các nước phát triển thì lại tiếp cận khái
niệm tài chính theo góc độ khác. Các giáo trình này nhấn mạnh tài chính, với tư cách
là một lĩnh vực khoa học, nghiên cứu về cách thức phân bổ các nguồn lực tài chính có
hạn qua thời gian. Mọi chủ thể kinh tế đều phải đối mặt với sự ràng buộc về nguồn tài
chính hạn chế trong khi nhu cầu sử dụng nguồn tài chính thì đa dạng và thường là vô
hạn. Chính vì vậy vấn đề đặt ra đối với các chủ thể kinh tế là làm sao để tối ưu hóa
việc phân bổ các nguồn tài chính của mình cho các nhu cầu sử dụng. Hai đặc trưng
quan trọng trong các quyết định tài chính là chi phí và lợi ích của các quyết định tài
chính 1/ diễn ra trong một khoảng thời gian và 2/ luôn không thể biết trước một cách
chắc chắn
1.1.4. Khái niệm về nguồn lực con người
“Nguồn lực con người” hay “nguồn nhân lực”, là khái niệm được hình thành
trong quá trình nghiên cứu, xem xét con người với tư cách là một nguồn lực, là động
lực của sự phát triển: Các công trình nghiên cứu trên thế giới và trong nước gần đây đề
cập đến khái niệm nguồn nhân lực với các góc độ khác nhau.
Theo định nghĩa của Liên Hợp Quốc: Nguồn nhân lực là trình độ lành nghề, là
kiến thức và năng lực của toàn bộ cuộc sống con người hiện có thực tế hoặc tiềm năng
để phát triển kinh tế – xã hội trong một cộng đồng”
Việc quản lý và sử dụng nguồn lực con người khó khăn phức tạp hơn nhiều so

với các nguồn lực khác bởi con người là một thực thể sinh vật – xã hội, rất nhạy cảm
với những tác động qua lại của mọi mối quan hệ tự nhiên, kinh tế, xã hội diễn ra trong
môi trường sống của họ.
Theo David Begg: “Nguồn nhân lực là toàn bộ quá trình chuyên môn mà con
người tích luỹ được, nó được đánh giá cao vì tiềm năng đem lại thu nhập trong tương
lai. Cũng giống như nguồn lực vật chất, nguồn nhân lực là kết quả đầu tư trong quá
khứ với mục đích đem lại thu nhập trong tương lai”
Theo GS.TS Phạm Minh Hạc: “Nguồn nhân lực là tổng thể các tiềm năng lao
động của một nước hoặc một địa phương, tức nguồn lao động được chuẩn bị (ở các
mức độ khác nhau) sẵn sàng tham gia một công việc lao động nào đó, tức là những
người lao động có kỹ năng (hay khả năng nói chung), bằng con đường đáp ứng được
yêu cầu của cơ chế chuyển đổi cơ cấu lao động, cơ cấu kinh tế theo hướng CNH,
HĐH”.


12
Theo TS. Nguyễn Hữu Dũng:“Nguồn nhân lực được xem xét dưới hai góc độ
năng lực xã hội và tính năng động xã hội. Ở góc độ thứ nhất, nguồn nhân lực là nguồn
cung cấp sức lao động cho xã hội, là bộ phận quan trọng nhất của dân số, có khả năng
tạo ra giá trị vật chất và tinh thần cho xã hội. Xem xét nguồn nhân lực dưới dạng tiềm
năng giúp định hướng phát triển nguồn nhân lực để đảm bảo không ngừng nâng cao
năng lực xã hội của nguồn nhân lực thông qua giáo dục đào tạo, chăm sóc sức khoẻ.
Tuy nhiên nếu chỉ dừng lại ở dạng tiềm năng thì chưa đủ. Muốn phát huy tiềm năng đó
phải chuyển nguồn nhân lực sang trạng thái động thành vốn nhân lực, tức là nâng cao
tính năng động xã hội của con người thông qua các chính sách, thể chế và giải phóng
triệt để tiềm năng con người. Con người với tiềm năng vô tận nếu được tự do phát
triển, tự do sáng tạo và cống hiến, được trả đúng giá trị lao động thì tiềm năng vô tận
đó được khai thác phát huy trở thành nguồn vốn vô cùng to lớn“
Nguồn nhân lực là tổng thể các tiềm năng lao động của một tổ chức, một địa
phương, một quốc gia trong thể thống nhất hữu cơ năng lực xã hội (Thể lực, trí lực,

nhân cách) và tính năng động xã hội của con người thuộc các nhóm đó, nhờ tính thống
nhất mà nguồn lực con người biến thành nguồn vốn con người đáp ứng yêu cầu phát
triển.
Nguồn nhân lực, theo cách tiếp cận mới, có nội hàm rộng rãi bao gồm các yếu tố
cấu thành về số lượng, tri thức, khả năng nhận thức và tiếp thu kiến thức, tính năng
động xã hội, sức sáng tạo, truyền thống lịch sử và văn hoá.
Như vậy, các khái niệm trên cho thấy nguồn lực con ng¬ười không chỉ đơn thuần
là lực lượng lao động đã có và sẽ có, mà còn bao gồm sức mạnh của thể chất, trí tuệ,
tinh thần của các cá nhân trong một cộng đồng, một quốc gia được đem ra hoặc có khả
năng đem ra sử dụng vào quá trình phát triển xã hội.
Khái niệm “nguồn nhân lực” (Human Resoures) được hiểu như khái niệm
“nguồn lực con người”. Khi được sử dụng như một công cụ điều hành, thực thi chiến
lược phát triển kinh tế – xã hội, nguồn nhân lực bao gồm bộ phận dân số trong độ tuổi
lao động, có khả năng lao động và những người ngoài độ tuổi lao động có tham gia lao
động – hay còn được gọi là nguồn lao động. Bộ phận của nguồn lao động gồm toàn bộ
những người từ độ tuổi lao động trở lên có khả năng và nhu cầu lao động được gọi là
lực lượng lao động.


13
Như vậy, xem xét dưới các góc độ khác nhau có thể có những khái niệm khác
nhau về nguồn nhân lực nhưng những khái niệm này đều thống nhất nội dung cơ bản:
nguồn nhân lực là nguồn cung cấp sức lao động cho xã hội. Con người với tư cách là
yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất giữ vị trí hàng đầu, là nguồn lực cơ bản và nguồn
lực vô tận của sự phát triển không thể chỉ được xem xét đơn thuần ở góc độ số lượng
hay chất lượng mà là sự tổng hợp của cả số lượng và chất lượng; không chỉ là bộ phận
dân số trong độ tuổi lao động mà là các thế hệ con ng¬ười với những tiềm năng, sức
mạnh trong cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội.
Vì vậy, có thể định nghĩa: Nguồn nhân lực là tổng thể số lượng và chất lượng con
người với tổng hoà các tiêu chí về trí lực, thể lực và những phẩm chất đạo đức – tinh

thần tạo nên năng lực mà bản thân con người và xã hội đã, đang và sẽ huy động vào
quá trình lao động sáng tạo vì sự phát triển và tiến bộ xã hội.
Với tư cách là tiềm năng lao động của mỗi vùng, miền hay quốc gia thì nguồn
nhân lực là tài nguyên cơ bản nhất.
1.1.5. Khái niệm về thương hiệu
Theo định nghĩa của Hiệp hội Marketing Hoa Kì:
“Thương hiệu là một cái tên, một từ ngữ, một dấu hiệu, một biểu tượng, một hình
vẽ hay tổng thể các yếu tố kể trên nhằm xác định một sản phẩm hay một dịch vụ của
một (hay một nhóm) sản phẩm hay dịch vụ của một (một nhóm) người bán và phân
biệt các sản phẩm (dịch vụ) đó với các đối thủ cạnh tranh”.
Định nghĩa của tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới (W/PO):
“Thương hiệu là một dấu hiệu (hữu hình và vô hình) đặc biệt để nhận biết một
sản phẩm hàng hoá hay một dịch vụ nào đó được sản xuất hay được cung cấp bởi một
cá nhân hay một tổ chức. Đối với doanh nghiệp, thương hiệu là khái niệm trong người
tiêu dùng về sản phẩm, dịch vụ với dấu hiệu của doanh nghiệp gắn lên bề mặt sản
phẩm dịch vụ nhằm khẳng định chất lượng và xuất xứ. Thương hiệu là một tài sản vô
hình quan trọng và đối với các doanh nghiệp lớn, giá trị thương hiệu của doanh nghiệp
chiếm một phần đáng kể trong tổng giá trị của doanh nghiệp”
1.1.6. Khái niệm năng suất lao động
Khái niệm về năng suất
Theo quan niệm truyền thống: Khái niệm năng suất được hiểu khá đơn giản là
mối tương quan giữa đầu ra và đầu vào. Nếu đầu ra lớn hơn đạt được từ một lượng đầu


14
vào giống nhau hoặc với đầu ra giống nhau từ một đầu vào nhỏ hơn thì có thể nói rằng
năng suất cao hơn. Những năm gần đây khái niệm năng suất được hoàn thiện bổ sung
thêm những nội dung mới cho thích ứng với tình hình kinh tế xã hội và những thay đổi
của môi trường kinh doanh hiện nay.
Theo Từ điển Oxford : “ năng suất là tính hiệu quả của hoạt động sản xuất được

đo bằng việc so sánh giữa khối lượng sản xuất trong những thời gian hoặc nguồn lực
được sử dụng để tạo ra nó ”
Theo từ điển kinh tế học hiện đại của MIT(Mỹ) :“năng suất là đầu ra trên một
đơn vị đầu vào được sử dụng. Tăng năng suất xuất phát từ tăng tính hiệu quả của các
bộ phận vốn, lao động. Cần thiết phải đo năng suất bằng đầu ra thực tế, nhưng rất ít
khi tách riêng biệt được năng suất của nguồn vốn và lao động”
Năm 1950 Tổ chức hiệp tác kinh tế châu Âu đưa ra định nghĩa chính thức như
sau:
Năng suất là thương số thu được bằng cách chia đầu ra cho một trong những
nhân tố sản xuất . Trong trường hợp này có thể nói về năng suất của vồn, năng suất
đầu tư hoặc năng suất của nguyên vật liệu., tuỳ theo cách xem xét đầu ra trong mối
quan hệ với vốn, đầu tư hay nguyên liệu.
Như vậy, tuy có nhiều quan niệm khác nhau về năng suất nhưng tất cả các quan
niệm đó điều đó dựa trên một cách chung nhất: “Năng suất là tỷ số giữa đầu ra và
những đầu vào được sử dụng để tạo ra đầu ra đó. Về mặt toán học năng suất được phản
ánh bằng”
P = tổng đầu ra / tổng đầu vào
Theo cách tiếp cận mới năng suất : “Năng suất là một trạng thái tư duy. Nó là
một thái độ nhằm tìm kiếm để cải thiện những gì đang tồn tại.Có một sự chắc chắn
rằng ngày hôm nay con người có thể làm việc tốt hơn ngày hôm qua và ngày mai tốt
hơn ngày hôm nay. Hơn nữa nó đòi hỏi những cố gắng không ngừng để thích ững với
các hoạt động kinh tế trong những điều kiện luôn thay đổi. Đó là sự tin tưởng chắc
chắn trong quá trình tiến triển của loài người”
Năng suất trở thành một khái niệm tổng hợp nhiều yếu tố, cần phải được xem xét
trong mối quan hệ chặt chẽ với bản chất và môi trường kinh tế cụ thể mà trong đó các
doanh nghiệp tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Tính tổng hợp
còn thể hiện trong chất lượng, đặc điểm của đầu ra và hiệu quả của các yếu tố đầu vào
được xem xét ở mọi cấp độ khác nhau như quốc tế, quốc gia doanh nghiệp và từng cá
nhân.



15
Theo cách tiếp cận mới năng suất trở thành một khái niệm động, tổng hợp nhiều
yếu tố , cần phải được xem xét trong mối quan hệ chặt chẽ với bản chất
Và môi trường kinh tế xã hội mà trong đó các doanh nghiệp tiến hành các hoạt
động sản xuất kinh doanh. Tính chất tổng hợp còn thể hiện trong chất lượng, đặc điểm
của đầu ra và hiệu quả của các yếu tố đầu vào được xem xét ở mọi cấp độ khác nhau
như quốc tế, quôc gia doanh nghiệp và từng cá nhân
Khái niệm năng suất phản ánh tính lợi nhuận, tính hiệu quả, giá trị chất lượng, sự
đối mới chất lượng cuộc sống. Đó là một chỉ tiêu tổng hợp đánh giá hiệu quả kinh tế
xã hội được lượng hoá bằng mức tăng giá trị gia tăng của tất cả các nguồn lực và yếu
tố tham gia vào một qua trình hay một loạt các hoạt động kinh tế trong một thời gian
nhất định. Năng suất là một trạng thái tổng hợp cách thức hoạt động của con người và
các doanh nghiệp
Năng suất được hình thành với sự đóng góp của tất cả các hoạt động trong các
hoạt động trong các chuỗi giai đoạn có liên quan từ nghiên cứu, thiết kế, sản xuất sản
phẩm hoàn chỉnh, cung ứng cho nha tiêu dùng, bảo dưỡng. Năng suất phải tính đến tác
động tổng hợp của hàng loạt các yếu tố và tập trung vào sự thực hiên của doanh
nghiệp.
Điểm căn bản nhất của cách tiếp cận mới về năng suất là tăng số lượng đồng thời
tăng chất lượng. Điều này có nghĩa là sử dụng cùng môt khối lượng nguyên liệu, lao
động, vốn, năng lượng … để sản xuất một khối lượng lớn hơn các đầu ra có cùng chất
lượng hoặc chất lượng cao hơn. Với quan niệm như vậy, năng suất có thể hiểu là trả ít
hơn và nhận nhiều hơn mà không tổn hại đên chất lượng. Ngày nay năng suất và chất
lượng đã trở thành đồng hướng, thống nhất. Chất lượng của đội ngũ lao động, chất
lượng của sản phẩm và dịch vụ, chất lượng của môi trường kinh tế xã hội và chất
lượng của năng lực quản lý điều hành sản xuất kinh doanh.
Khái niệm về lao động
Sức lao động: “Là năng lực lao động của con người. Là toàn bộ những năng lực
thể chất và tinh thần tồn tại trong cơ thể con người. Sức lao động là yếu tố tích cực

nhất, hoạt động nhất trong qua trình lao động, nó phát ra và đưa các tư liệu lao động
vào hoạt động để tạo ra sản phẩm”
* Đặc điểm sức lao động
- Sức lao động có thể gọi dưới hai dạng


16
+ Dạng tiềm năng: tồn tại trong cơ thể con người tối đa có thể huy động được
+ Dạng Sức lao động thực tế:
- Sức lao động thường không giống nhau ở những con người khác nhau, hơn nữa
trong một con người thì thể lực và trí lực cũng khác nhau
- Trong cơ chế thị trường thị sức lao động là hàng hoá và được trao đổi trên thị
trường
Lao động là hoạt động có mục đích của con người . Thông qua hoạt động đó con
người tác động vào giới tự nhiên cải biến chúng nhầm thoả mãn nhu cầu nào đó của
cong người. Lao động là một hành động diễn ra giữa con người và giới tự nhiên
Năng suất lao động
Năng suất lao động là một chỉ tiêu đánh giá hiệu quả “Năng suất lao động là hiệu
quả của hoạt động có ích của con người trong một đơn vị thời gian, nó được biểu hiện
bằng số lượng sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian hoặc hao phí để sản
xuất ra được một sản phẩm”
Công thức : W = Q/T hoặc t = T/Q
Trong đó :
W : năng suất lao động
Q : Sản lượng sản xuất ra trong đơn vị thời gian T,có thể biểu hiện bằng số lượng
sản phẩm hoặc giá trị, doanh thu ,lợi nhuận…
T : lượng lao động hao phí để hoàn thành sản lượng Q (đơn vị : người, ngày
công, giờ công…)
t : lượng lao động hao phí để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm
Năng suất lao động là phạm trù kinh tế nói lên hiệu quả sản xuất của người lao

động trong quá trình sản xuất sản phẩm. Thực chất nó là giá trị đầu ra do một công
nhân tạo ra trong một khoảng thời gian nhất định hoặc số thời gian cần thiết để sản
xuất ra một đơn vị đầu ra.
1.1.7. Khái niệm về giá
Trong kinh tế, giá cả là giá trị dưới dạng bằng tiền của hàng hoá, dịch vụ. Theo ý
nghĩa thực tế, giá cả là số tiền trả cho một số lượng hàng hoá, dịch vụ nào đó.
Giá cả của sản phẩm, đặc biệt giá dịch vụ được gọi bằng rất nhiều cái tên khác
nhau tuỳ thuộc vào loại sản phẩm, dịch vụ. Tuy cách gọi khác nhau đối với các sản


17
phẩm dịch vụ khác nhau, nhưng bản chất của giá là thống nhất. Tùy vào đối tượng mà
giá cả có ý nghĩa khác nhau.
Đối với người mua, giá cả là khoản tiền họ phải trả để được quyền sử dụng/sở
hữu sản phẩm.
Đối với người bán, giá cả là khoản thu nhập mà họ nhận được nhờ việc đáp ứng
nhu cầu của khách hàng.
Đối với người làm Marketing, giá cả có các ý nghiã sau đây:
Thứ nhất, giá cả là biến số Marketing duy nhất mang lại doanh thu cho doanh
nghiệp. Các biến số Marketing khác khi được thực thi đều phải chịu chi phí bỏ ra.
Thứ hai, quyết định về giá cả có tác động nhanh chóng đến thị trường, tác động
đến doanh thu, chi phí, lợi nhuận, thị phần và tính cạnh tranh của sản phẩm. Do vậy,
quyết định về giá là một quyết định có tầm quan trọng nhất trong các quyết định kinh
doanh.
1.1.8. Khái niệm về sản phẩm
Sản phẩm
Sản phẩm (product) là bất cứ cái gì có thể đưa vào thị trường để tạo sự chú ý,
mua sắm, sử dụng hay tiêu dùng nhằm thỏa mãn một nhu cầu hay ước muốn. Nó có
thể là những vật thể, dịch vụ, con người, địa điểm, tổ chức và ý tưởng.
Cấu trúc của sản phẩm

Phần lớn các sản phẩm được cấu trức ở năm mức độ: lợi ích cốt lõi, sản phẩm
chung, sản phẩm mong đợi, sản phẩm hoàn thiện và sản phẩm tiềm ẩn.
Mức cơ bản là lợi ích cốt lõi, chính là dịch vụ hay lợi ích cơ bản mà khách hàng
mua. Chẳng hạn đối với một chiếc áo đi mưa, khách hàng mua “sự khô ráo”; đối với
một lọ nước hoa, khách hàng mua “một niềm hy vọng”; đối với một chuyến du lịch
thiên nhiên, khách hàng mua “sự thư giãn và bầu không khí trong lành”. Nhà kinh
doanh phải xem mình là người cung ứng lợi ích.
1.1.9. Khái niệm kênh phần phối
Có rất nhiều khái niệm về hệ thống kênh phân phối. Tuỳ theo những góc độ
nghiên cứu khác nhau, người ta có thể đưa ra những khái niệm khác nhau về kênh
phân phối.
Xét ở tầm vĩ mô, kênh phân phối được coi là con đường vận động của hàng hoá
và dịch vụ từ nơi sản xuất đến nơi tiêu dùng. Dưới góc độ của người tiêu dùng, kênh


18
phân phối là tập hợp những trung gian nên họ phải mua sản phẩm với giá cao hơn giá
của người sản xuất. Còn đối với người sản xuất, người muốn tổ chức hệ thống kênh
phân phối là sự tổ chức các quan hệ bên ngoài (chuyển quyền sở hữu, đàm phán…),
nhằm thực hiện hoạt động phân phối sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp theo cách
thức, chính sách của doanh nghiệp đặt ra.
Xét dưới góc độ quản lý, kênh phân phối được xem như là một lĩnh vực quyết
định trong Marketing. Kênh phân phối được coi là "một sự tổ chức các tiếp xúc bên
ngoài để quản lý các hoạt động nhằm đạt được các mục tiêu phân phối của nó". Điều
này cho chúng ta thấy tầm quan trọng của "quan hệ bên ngoài", "sự tổ chức kênh",
"các hoạt động phân phối"…
1.1.10. Khái niệm về truyền thông quảng cáo
Ở Mỹ, đất nước hùng mạnh đứng đầu thế giới về kinh tế, nơi quảng cáo đã trở
thành một ngành công nghiệp, theo Hiệp hội quảng cáo Mỹ (American Advertising
Association), một hiệp hội quảng cáo lâu đời và uy tín nhất trên thế giới,“Quảng cáo là

hoạt động truyền bá thông tin, trong đó nói rõ ý đồ của chủ quảng cáo, tuyên truyền
hàng hoá, dịch vụ của chủ quảng cáo trên cơ sở có thu phí quảng cáo, không trực tiếp
nhằm công kích người khác”.
Philip Kotler, một trong những cây đại thụ trong ngành Marketing nói chung và
ngành quảng cáo nói riêng trên thế giới lại đưa ra những khái niệm khác nhau về
quảng cáo. Trong cuốn sách “Marketing căn bản” ông định nghĩa: “Quảng cáo là
những hình thức truyền thông không trực tiếp, được thực hiện thông qua những
phương tiện truyền tin phải trả tiền và xác định rõ nguồn kinh phí”
Trong giáo trình “Quản trị Marketing” (Marketing Management), của mình,
Philip Kotler lại đưa ra một khái niệm khác về quảng cáo: “Quảng cáo là một hình
thức trình bày gián tiếp và khuyếch trương ý tưởng, hàng hoá hay dịch vụ được người
bảo trợ nhất định trả tiền.”
Theo pháp lệnh về quảng cáo số 39/ 2001 PL- UBTVQH10 ban hành ngày 16
tháng 11 năm 2001, quy định: “ Hoạt động quảng cáo bao gồm việc giới thiệu và thông
báo rộng rãi về doanh nghiệp, hàng hoá, dịch vụ, nhãn hiệu hàng hoá, tên gọi, biểu
tượng theo nhu cầu hoạt động của các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ”
Quảng cáo không chỉ giới thiệu về sản phẩm mà còn đưa ra những triết lý, lập
trường của chủ doanh nghiệp để củng cố thương hiệu của doanh nghiệp.


19
Rất nhiều khái niệm về quảng cáo được đưa ra, nhưng có thể khái quát chung về
quảng cáo như sau:
– Quảng cáo là một hoạt động tốn tiền
– Quảng cáo dựa vào phương tiện trung gian (báo, đài, Poster ngoài trời…)
– Quảng cáo là để loan báo, chào mời về một sản phẩm hay dịch vụ.
– Quảng cáo do người thuê quảng cáo có danh tính rõ ràng.
Tuy nhiên, bên cạnh những khái niệm về quảng cáo gắn với hình thức kinh doanh
thì quảng cáo ngày nay còn đề cập đến những chủ đề có tính công ích, phi lợi nhuận.
Đó là những quảng cáo tuyên truyền cho một chiến dịch có ích cho cộng đồng, hướng

đến một xã hội tốt đẹp hơn như những chiến dịch: tiêm chủng vacxin phòng ngừa bệnh
cho trẻ em; Chiến dịch nước sạch, vệ sinh môi trường; Chiến dịch nói không với ma
tuý; Nói không với tiêu cực; hiến máu nhân đạo; ủng hộ người nghèo…
1.1.11. Khái niệm về chăm sóc khách hàng
Chăm sóc khách hàng (CSKH) là hoạt động mang tính chiến lược cạnh tranh của
doanh nghiệp để tiếp cận và giữ khách hàng cả bằng lý trí và tình cảm. Đầu tư cho
CSKH không phải là các khoản chi phí thông thường, mà là đầu tư có tính lâu dài,
mang tầm chiến lược. CSKH bên ngoài có liên hệ mật thiết với CSKH bên trong.
CSKH không chỉ là thái độ lịch sự và thân thiên khi tiếp xúc với khách hàng.
CSKH cũng không chỉ là việc của những nhân viên có liên hệ trực tiếp với khách
hàng, mà việc CSKH phải được thực hiện trên mọi khía cạnh của sản phẩm và dịch vụ
cung cấp cho khách hàng. Giống như Marketing, hoạt động CSKH cũng xuất phát từ
thực tiễn, thông qua quá trình tổng kết kinh nghiệp thực tiễn, khái quát thành lý luận.
CSKH là tát cả những gì mà doanh nghiệp có thể làm để thỏa mãn nhu cầu và
mong đợi của khách hàng. CSKH là phục vụ khách hàng theo cách mà họ muốn.
CSKH là khâu nằm trong quá trình cung cấp dịch vụ thứ cấp cho khách hàng, là một bộ
phận cấu thành nên sản phẩm, đồng thời cũng là vũ khí cạnh tranh của các doanh nghiệp.
1.1.12. Chỉ tiêu định lượng
Chỉ tiêu thị phần (T)


20
Thị phần của hàng hoá của doanh nghiệp là phần trăm về số lượng hoặc giá trị
của hàng hoá của doanh nghiệp đã bán ra so với tổng số lượng hoặc tổng giá trị của tất
cả các hàng hoá cùng loại đã bán trên thị trường.
Chỉ tiêu này phản ánh tình hình chiếm lĩnh và khả năng chi phối thị trường của
hàng hoá của doanh nghiệp. Tuy nhiên chỉ tiêu này khó xác định vì khó biết chính xác
được hết tình hình kinh doanh của tất cả các đối thủ.
Chỉ tiêu so thị phần với đối thủ cạnh tranh mạnh nhất ( Tct )


Chỉ tiêu này cho thấy thực tế khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp so với đối
thủ cạnh tranh mạnh nhất trên thị trường. Đây là chỉ tiêu đơn giản, dễ tính hơn so với
chỉ tiêu trên do các đối thủ cạnh tranh mạnh thường có nhiều thông tin hơn.
Chỉ tiêu tỷ trọng thị phần tăng hàng năm ( Tthn )
Tthn = Thị phần năm sau - Thị phần năm trước
Nếu kết quả này dương tức là thị phần của doanh nghiệp tăng và khả năng cạnh
tranh của doanh nghiệp đã tăng lên. Nếu như kết quả âm, tức là thị phần giảm và sức
cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường đã bị giảm sút.
Chỉ tiêu tài chính
Tỷ suất lợi nhuận trên vốn sản xuất kinh doanh

Tỷ suất lợi nhuận trên tổng chi phí sản xuất kinh doanh đánh giá thu được bao
nhiêu lợi nhuận khi bỏ ra một đơn vị chi phí


21
Tỷ suất lợi nhuận trên tổng doanh thu đánh giá mức độ thu lợi nhuận của hoạt
động bán hàng khi bán được một đơn vị doanh thu thì được bao nhiêu lợi nhuận.

1.1.13. Chỉ tiêu định tính
Bên cạnh các chỉ tiêu định lượng, để xác định chính xác khả năng cạnh tranh của
doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường thì không thể không nhắc đến các chỉ tiêu
định tính sau:
Trình độ công nghệ
Trình độ quản lý
Hình ảnh và uy tín của doanh nghiệp.
Mức độ nổi tiếng của nhãn hiệu hàng hoá (liên quan đến đăng ký nhãn hiệu hay
thương hiệu của doanh nghiệp, hàng hoá).
Khác với các chỉ tiêu định lượng, để đo lường được chỉ tiêu này đòi hỏi người
phân tích cần phải thu thập được nhiều thông tin phản hồi từ khách hàng, xem xem sự

đánh giá của họ đối với các nhãn hiệu sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp như thế
nào. Nếu một doanh nghiệp có uy tín cao thì các sản phẩm, dịch vụ của nó cũng được
khách hàng tín nhiệm và đánh giá cao và do đó các sản phẩm, dịch vụ của doanh
nghiệp đó sẽ có khả năng cạnh tranh cao trên thị trường.
1.2. Phân định nội dung nghiên cứu năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
1.2.1. Các yếu tố cấu thành năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
1.2.1.1. Nguồn lực tài chính
Bất kỳ ở khâu hoạt động nào của doanh nghiệp dù là đầu tư, mua sắm, sản xuất
đều cần phải có vốn. Một doanh nghiệp có tiềm năng về tài chính lớn sẽ có nhiều
thuận lợi trong việc đổi mới công nghệ, đầu tư mua sắm trang thiết bị đảm bảo nâng
cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành để duy trì, nâng cao khả năng cạnh tranh và
củng cố vị trí của mình trên thị trường. Công ty có hoạt động tài chính tốt có thể làm
giảm lượng hàng tồn kho, thời gian quay vòng vốn, ưu đãi về tín dụng, thu nhiều lợi
nhuận, cải tiến được tốt hơn chi phí sản xuất. Ngược lại,nếu không có nguồn vốn dồi
dào doanh nghiệp sẽ bị kéo dài thời gian quay vòng vốn, bị hạn chế trong sử dụng


22
công nghệ hiện đại, hạn chế việc đào tạo và nâng cao trình độ cán bộ và nhân viên, hạn
chế triển khai nghiên cứu, ứng dụng. Qua đó chứng tỏ, nguồn lực tài chính ngày càng
có vị trí then chốt quan trọng trong hoạt động của doanh nghiệp. Tuy nhiên, trong thực
tế thì không phải doanh nghiệp nào cũng có thể tự có đủ nguồn vốn để sản xuất kinh
doanh của mình. Vì vậy, quan trọng nhất là doanh nghiệp có kế hoạch huy động vốn
phù hợp và phải có chiến lược đa dạng hóa nguồn cung vốn.
1.2.1.2. Nguồn lực con người
Nguồn nhân lực trong doanh nghiệp là yếu tố then chốt cấu thành nên năng lực
cạnh tranh. Một công ty mà có dây truyền máy móc kỹ thuật hiện đại đến đâu, mà
không có người sử dụng được nó thì cũng vô dụng. Để phát huy tốt sức mạnh nguồn
nhân lực thì cần phải có hoạt động quản trị nguồn nhân lực tốt. Hoạt động quản trị
nguồn nhân lực của doanh nghiệp tốt, sẽ giúp cho doanh nghiêp giảm được chi phí sản xuất,

tối đa được nguồn lực. Và đồng thời nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Hoạt động quản trị nguồn nhân lực là yếu tố ngầm, tạo năng lực cạnh tranh cho
doanh nghiệp trong dài hạn, và các đối thủ cạnh tranh rất khó bắt trước và khó học hỏi.
Năng lực cạnh tranh về đội ngũ nhân viên thể hiện các yếu tố sau:Trình độ nhân viên,
tính chuyên nghiệp trong công việc và khả năng tạo ra giá trị thặng dư.
Để có đội ngũ người lao động có tay nghề cao, doanh nghiệp phải có chiến lược
đào tạo và giữ người tài. Để nâng cao năng suất lao động và tạo điều kiện cho người
lao động sáng tạo, mỗi doanh nghiệp phải có chiến lược đào tạo nghiệp vụ chuyên sâu,
phù hợp với yêu cầu của mình.
Do đó, chương trình đào tạo, kế hoạch đào tạo hiệu quả chính là một trong những
phương thức mà doanh nghiệp sử dụng để nâng cao năng lực cạnh tranh. Đồng thời,
doanh nghiệp cần chú trọng xây dựng chính sách đãi ngộ như chính sách lương,
thưởng hợp lý để giữ ổn định lực lượng lao động của mình, nhất là những người lao
động giỏi.
1.2.1.3. Thương hiệu
Đây là chỉ tiêu có tính chất khái quát, nó bao gồm rất nhiều yếu tố như:
chất lượng sản phẩm, các hoạt động dịch vụ do doanh nghiệp cung cấp, hoạt
động marketing, quan hệ của doanh nghiệp với các tổ chức tài chính, mức độ ảnh
hưởng của doanh nghiệp đối với các đơn vị hành chính sự nghiệp. Xây dựng thương
hiệu là vấn đề đòi hỏi thời gian, khả năng tài chính và ý chí, không ngừng nâng cao


23
chất lượng sản phẩm và dịch vụ. Một doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh cao cũng
có nghĩa là họ đã xây dựng được thương hiệu mạnh, thương hiệu đó luôn được khách
hàng nhớ và nhận biết rõ ràng. Qua việc xây dựng thành công một thương hiệu người
ta có thể đánh giá về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp đó vì: Thương hiệu làm
cho khách hàng tin tưởng chất lượng, yên tâm và tự hào khi sử dụng thương hiệu đó.
Thương hiệu tốt giúp tạo dựng hình ảnh công ty tốt và nhanh chóng thu hút được
những khách hàng mới, vốn đầu tư, thu hút nhân tài. Thương hiệu tốt giúp phân phối

sản phẩm dễ dàng hơn, tạo thuận lợi khi tìm kiếm thị trường mới. Uy tín cao của
thương hiệu tạo lòng trung thành của khách hàng đối với sản phẩm, đem lại lợi thế
cạnh tranh cho doanh nghiệp, giúp cho việc triển khai khuếch trương sản phẩm dễ
dàng hơn, đồng thời giảm chi phí tiếp thị, giúp doanh nghiệp có điều kiện phòng thủ,
chống lại sự cạnh tranh quyết liệt về giá. Để có một thương hiệu mạnh doanh nghiệp
phải xây dựng một chiến lược về thương hiệu nằm trong chiến lược marketing tổng thể
căn cứ các kết quả về nghiên cứu thị trường, đồng thời phải đăng ký thương hiệu trong
nước và ngoài nước. Như vậy thương hiệu mới trở thành một tài sản thực sự có giá trị
đối với tất cả mọi doanh nghiệp.
1.2.1.4. Cơ sở vật chất kỹ thuật
Tình trạng máy móc thiết bị và công nghệ có ảnh hưởng một cách sâu sắc đến
khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Nó là yếu tố vật chất quan trọng bậc nhất thể
hiện năng lực sản xuất của mỗi doanh nghiệp và tác động trực tiếp đến chất lượng sản
phẩm, đến giá thành và giá bán sản phẩm. Có thể khẳng định rằng một doanh nghiệp
với một hệ thống máy móc thiết bị và công nghệ tiên tiến cộng với khả năng quản lý
tốt sẽ làm ra sản phẩm có chất lượng cao, giá thành hạ từ đó nâng cao khả năng cạnh
tranh. Ngược lại không một doanh nghiệp nào mà được coi là có khả năng cạnh tranh
cao khi trong tay họ là cả một hệ thống máy móc thiết bị cũ kỹ với công nghệ sản xuất
lạc hậu. Ngày nay việc trang bị máy móc thiết bị công nghệ có thể được thực hiện dễ
dàng, tuy nhiên doanh nghiệp cần phải biết sử dụng với quy mô hợp lý mới đem lại
hiệu quả cao.
1.2.1.5. Năng suất lao động
Năng suất lao động là chỉ tiêu tổng hợp của nhiều yếu tố như: con người, công
nghệ, tổ chức quản lý, cơ sở vật chất kỹ thuật. Do đó nó là tiêu chí rất quan trọng để
đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Năng suất lao động được đo bằng sản


24
lượng sản phẩm đảm bảo chất lượng trên một đơn vị số lượng lao động làm ra sản
phẩm đó.

Công thức tính:
Lượng sản phẩm đảm bảo chất lượng
Năng suất lao động = --------------------------------------------------------*100%
Số lượng lao động làm ra sản phẩm đó
Năng suất lao động của doanh nghiệp càng cao thì năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp càng cao so với các doanh nghiệp cùng lĩnh vực, khi so sánh hai doanh nghiệp
sản xuất cùng ngành nghề, cùng quy mô, cơ cấu và nguồn lao động, chất lượng sản
phẩm tạo ra tương đương nhau. Nhưng một doanh nghiệp có năng suất lao động cao
hơn doanh nghiệp kia, thì khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp có năng suất lao động
cao hơn sẽ tốt hơn, họ có thể đưa ra mức giá thấp hơn so với doanh nghiệp có năng
suất lao động thấp hơn từ đó năng lực cạnh tranh của họ cao hơn. Khi doanh nghiệp có
năng suất lao động cao hơn các đối thủ cạnh tranh đồng nghĩa với việc doanh nghiệp
phải bỏ một lượng chi phí ít hơn cho một sản phẩm so với đối thủ cạnh tranh từ đó nhà
quản trị đưa ra được những chiến lược cạnh tranh về giá, sản phẩm hiệu quả.
1.2.2. Các công cụ cạnh tranhcủa doanh nghiệp
1.2.2.1.Giá
Có thể nói giá cả là một những yếu tố quan trọng nhất quyết định sức mua của
người tiêu dùng. Với thị trường tiêu dùng phong phú như hiện nay, với chất lượng và
công dụng vẫn như vậy, người tiêu dùng có thể mua những sản phẩm phù hợp với túi
tiền của họ.
Việc xác định mức giá bán hợp lý là rất quan trọng đối với doanh nghiệp bởi nó
sẽ ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp đó. Do vậy doanh nghiệp cần
có chính sách giá phù hợp sao cho vừa đảm bảo lợi nhuận vừa đảm bảo tính cạnh tranh
của doanh nghiệp. Có các chính sách định giá sau:


Chính sách định giá thấp: là chính sách định giá thấp hơn giá thị trường. Chính sách
này được áp dụng khi doanh nghiệp muốn tiêu thụ một khối lượng hàng hóa lớn trong

thời gian ngắn để thu hồi vốn vay hay nhằm mục đích tăng lợi nhuận.

• Chính sách định giá cao: Là ấn định giá bán sản phẩm cao hơn giá bán sản phẩm cùng
loại ở thị trường hiện tại. Chính sách này áp dụng khi mà nhu cầu thị trường lớn hơn


25
cung hoặc khi doanh nghiệp hoạt động trong thị trường độc quyền, hoặc khi bán những
mặt hàng cao cấp quý hiếm, ít có sự nhạy cảm về giá.
• Chính sách hớt váng sữa: Đây là chính sách thường được dùng cho những sản phẩm
điện tử có chu kỳ sống ngắn. Đối với chính sách này doanh nghiệp sẽ bán sản phẩm
của mình với mức giá cao nhất cho những khách hàng sẵn sàng bỏ tiền ra để mua được
sản phẩm mới,có thể sau đó từ từ hạ giá bán để những khách hàng bên dưới có thể mua


được.
Chính sách định giá phân biệt: Công ty ấn định mức giá khác nhau cho các đối tượng
khách hàng khác nhau hay các khu vực thị trường khách nhau.
Như vậy để quyết định sử dụng chính sách giá nào cho phù hợp và thành công
khi sử dụng nó thì doanh nghiệp cần cân nhắc và xem xét kĩ lưỡng doanh nghiệp mình
đang ở tình thế nào thuận lợi hay khó khăn, nhất là nghiên cứu xu hướng tiêu dùng và
tâm lý khách hàng cũng như xem xét các chiến lược chính sách giá mà đối thủ cạnh
tranh đang sử dụng.
1.2.2.2. Sản phẩm
Các tiêu chí thuộc nhóm này bao gồm:
Chất lượng sản phẩm: sản phẩm luôn đóng một vai trò quan trọng trong canh
tranh của doanh nghiệp. Chất lượng sản phẩm tốt, có nhiều điểm khác biệt và thỏa
mãn nhu cầu của khách hàng thì đó sẽ là lợi thế rất lớn của doanh nghiệp trong cạnh
tranh.
Sự đa dạng của sản phẩm: nếu một doanh nghiệp có nhiều chủng loại hàng hóa
mà các hàng hóa đó đều được chọn lựa dựa trên cơ sở nhu cầu của các thị trường mục
tiêu thì cơ hội bán hàng của doanh nghiệp vào các thị trường đó sẽ tăng lên.

Ngoài yếu tố chất lượng, tính năng, kiểu dáng, tính độc đáo hay sự khác biệt, sự
nổi trội so với các sản phẩm khác thì yếu tố bao bì cũng là một nhân tố quan trọng tạo
sự hấp dẫn khách hàng của sản phẩm. Bao bì đôi khi còn thể hiện nét văn hóa đặc thù
của doanh nghiệp, gây ấn tượng sâu sắc với khách hàng. Để đánh giá được khả năng
thu hút của yếu tố bao bì, đôi khi phải dựa vào hội đồng xét duyệt thiết kế mẫu và điều
tra ý kiến một bộ phận khách hàng của doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, một doanh nghiệp có thể tạo ra sản phẩm với chất lượng cao và giá
cả hợp lý xong tiến độ hoàn thành lại quá chậm không đảm bảo giao hàng đúng họp
đồng thì uy tín của doanh nghiệp cũng sẽ giảm và quy mô kinh doanh cũng bị hạn chế.
Nếu rút ngắn được tiến độ thì sẽ giảm được nhiều chi phí và tăng khả năng cạnh tranh


×