Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Tiểu luận cao cấp Tăng cường công tác giáo dục pháp luật cho nhân dân ở Tỉnh Kiên Giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (184.52 KB, 31 trang )

Tiểu luận tốt nghiệp

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Trong công cuộc đổi mới hiện nay của đất nước bên cạnh những thành tựu đạt
được, chúng ta cũng mắc phải không ít, khuyết điểm; Nhiều nhu cầu chính đáng, tối
thiểu của nhân dân về đời sống vật chất và tinh thần chưa được đảm bảo; hiện tượng
tiêu cực trong xã hội phát triển; công bằng xã hội bị vi phạm; pháp luật kỷ cương chưa
nghiêm, hiện tượng lộng quyền, tham nhũng của một số cán bộ, công chức nhà nước,
nhiều hoạt động phi pháp, vi phạm pháp luật chưa bị trừng trị nghiêm khắc và kịp thời;
lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và sự điều hành quản lý của nhà nước
bị giảm sút.
Hơn nữa, đất nước ta vốn là một nước nông nghiệp lạc hậu, người dân gắn bó
với một nền sản xuất nhỏ, manh mún phân tán, kinh tế hàng hoá chưa phát triển, ý
thức pháp luật của nhân dân thấp, một số bộ phận đáng kể nhân dân ta chưa có thói
quen sống và làm việc theo pháp luật, thậm chí có trường hợp còn coi pháp luật là một
sự trói buộc, gò bó dẫn đến tâm lý trốn tránh, bất tuân theo pháp luật.
Vì vậy, công tác bồi dưỡng và giáo dục để nâng cao ý thức pháp luật trong điều
kiện hiện nay càng phải được chú trọng nhiều hơn. Đảng và Nhà nước ta những năm
qua đã quan tâm đáng kể tới công tác bồi dưỡng giáo dục pháp luật nâng cao ý thức
pháp luật của nhân dân. Đại hội Đảng toàn quốc lần VI nhấn mạnh phải: “Coi trọng
công tác giáo dục tuyên truyền, giải thích pháp luật” và “Cần sử dụng nhiều hình
thức và biện pháp để giáo dục nâng cao ý thức pháp luật cho nhân dân”.
Để xây dựng và phát triển xã hội có trật tự, kỷ cương theo hướng công bằng và
văn minh, đáp ứng đòi hỏi của sự nghiệp cách mạng và yêu cầu công cuộc đổi mới đặt
ra phải xây dựng Việt Nam trong sạch vững mạnh, có hiệu lực và hiệu quả, bài trừ các
tệ nạn quan liêu, tham nhũng, luôn luôn giữ vững và phát huy bản chất của một nhà
nước của dân, do dân, vì dân “Một nhà nước mà toàn bộ tổ chức hoạt động của nó
dựa trên cơ sở pháp luật, tuân thủ pháp luật, đồng thời thực hiện chức năng quản lý
xã hội bằng pháp luật”.
Thực tế cho thấy, ở nơi nào thực hiện tốt công tác giáo dục pháp luật thì ở đó ít


xảy ra tình trạng vi phạm pháp luật.
Theo đánh giá của các cơ quan chức năng ở Kiên Giang, nguyên nhân dẫn đến
hành vi phạm tội hoặc vi phạm pháp luật là do không hiểu biết pháp luật hoặc hiểu
không đến nơi đến chốn, là nguyên nhân lớn nhất và thường xuyên nhất. Có không ít
bị cáo khi đứng trước vành móng ngựa mới hiểu ra rằng hành vi của mình đã vi phạm

Trang 1


Tiểu luận tốt nghiệp

nghiêm trọng những quy định của pháp luật, cụ thể như : Sống chung như vợ chồng
khi người nữ chưa được 16 tuổi, phạm vào tội giao cấu với người dưới 16 tuổi ( được
quy định tại điều 111 Bộ luật hình sự), hoặc mua dâm với người dưới 16 tuổi cũng
phạm vào điều này. Ngoài ra, có không ít người dân do không hiểu pháp luật nên vì
muốn bảo vệ tài sản của mình mà gây ra thiệt hại đến sức khoẻ, tính mạng của người
khác như : gài điện xung quanh ao cá, vườn cây để bắt kẻ trộm.
Vì vậy, công tác giáo dục pháp luật tại Kiên Giang hiện nay là mối quan tâm
của các cơ quan chức năng, của tất cả các ngành, các cấp, các tổ chức đoàn thể và của
mọi công dân.
Xuất phát từ sự thiết thực của công tác giáo dục pháp luật ở Kiên Giang tác giả
chọn đề tài “Tăng cường công tác giáo dục pháp luật cho nhân dân ở Tỉnh Kiên
Giang” làm đề tài tiểu luận tốt nghiệp.
2. Mục đích và nhiệm vụ của tiểu luận:
Từ lý luận và thực tiễn của công tác giáo dục pháp luật, tiểu luận tìm hiểu
những nét đặc thù của công tác giáo dục pháp luật trong thời gian qua. Trên cơ sở đó
đề ra phương hướng giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả công tác giáo dục
pháp luật cho nhân dân trên địa bàn Tỉnh Kiên Giang.
3. Phương pháp nghiên cứu:
Tiểu luận được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lê Nin, tư

tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước về xây
dựng nhà nước và pháp luật xã hội chủ nghĩa nói chung và giáo dục pháp luật xã hội
chủ nghĩa nói riêng.
Tiểu luận sử dụng các phương pháp nghiên cứu lịch sử cụ thể, phân tích tổng
hợp, khảo sát thực tiễn đánh giá thực trạng và đề xuất các giải pháp trong thời gian tới.
4. Cơ cấu tiểu luận :
Cơ cấu tiểu luận gồm phần mở đầu, hai chương và kết luận
Chương I: Cở sở lý luận và pháp lý về công tác giáo dục pháp luật.
Chương II: Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác giáo dục
pháp luật ở Kiên Giang.

Trang 2


Tiểu luận tốt nghiệp

Chương I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ CÔNG TÁC GIÁO
DỤC PHÁP LUẬT
1.1. Một số vấn đề lý luận về giáo dục pháp luật:
1.1.1. Khái niệm giáo dục pháp luật:
Để con người trong xã hội biết làm gì và xử sự như thế nào cho phù hợp với
những quy định của pháp luật, trước hết con người cần phải hiểu biết pháp luật. Mà sự
hiểu biết đó không phải tự nhiên mà có, nó phải được hình thành qua quá trình tác
động của nhiều yếu tố, trong đó chủ yếu thông qua hoạt động giáo dục pháp luật và
khả năng tiếp nhận của con người.
Khái niệm giáo dục pháp luật thường xuất phát từ khái niệm giáo dục khoa học
sư phạm, với hai nghĩa rộng và hẹp.
Theo nghĩa rộng, giáo dục đó là quá trình ảnh hưởng của những điều kiện
khách quan (Như chế độ xã hội, trình độ phát triển kinh tế môi trường sống …) và

những nhân tố chủ quan (tác động tự giác, có chủ đích và định hướng của nhân tố con
người) lên việc hình thành những phẩm chất kỹ năng nhất định của đối tượng giáo
dục.
Theo nghĩa hẹp, giáo dục là hoạt động nhằm tác động một cách có hệ thống
đến sự phát triển tinh thần, thể chất của một đối tượng nào đó, làm cho đối tượng ấy
dần dần có được những phẩm chất và năng lực như yêu cầu đề ra.
Theo lý luận chung, khái niệm giáo dục pháp luật thường được xây dựng theo
nghĩa hẹp bởi:
Thứ nhất, theo quan điểm của các nhà kinh điển của Chủ nghĩa Mác-Lênin thì
sự hình thành ý thức của con người là quá trình chịu ảnh hưởng tác động của các điều
kiện khách quan lẫn nhân tố chủ quan. Mác viết: “Con người vốn là sản phẩm của
những hoàn thành khác và của nền giáo dục đã thay đổi”. Các nhà lý luận khi nghiên
cứu sự tác động, ảnh hưởng lên ý thức con người cũng phân biệt điều kiện khách quan
và chủ quan, trong đó điều kiện khách quan là nhân tố ảnh hưởng, còn những nhân tố
chủ quan là nhân tố tác động, mà nhân tố tác động bao giờ cũng là nhân tố tự giác, có
ý thức, có chỉ định theo một hướng nhất định, còn nhân tố ảnh hưởng thì có thể tự phát

Trang 3


Tiểu luận tốt nghiệp

theo chiều này hoặc chiều khác. Từ đó vận dụng từ nghĩa hẹp giáo dục thì quan niệm
giáo dục pháp luật là sự tác động nhằm hình thành tri thức, tình cảm và thói quen xử
sự phù hợp với quy định của pháp luật, làm cho công dân tự giác tuân thủ pháp luật.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết
cần phải có con người xã hội chủ nghĩa”.
Thứ hai là, xuất phát từ nghĩa hẹp của khái niệm giáo dục trong khoa sư phạm
để hình thành khái niệm giáo dục pháp luật, cho phép chỉ ra mối quan hệ giữa “cái
chung” và “cái riêng”. Cái đặc thù trong mối quan hệ với giáo dục nói chung là “cái

chung”, cái giáo dục pháp luật là “cái riêng”. Nghĩa là giáo dục pháp luật vừa mang
những đặc điểm chung của giáo dục, sử dụng các hình thức và phương pháp của giáo
dục nói chung, vừa thể hiện nét đặc thù của mình trong mối liên hệ chặt chẽ với các
loại hình giáo dục. Tính đặc thù của giáo dục pháp luật được thể hiện ở mục đích, nội
dung, chủ thể, hình thức và phương pháp giáo dục.
Thứ ba là, giáo dục pháp luật vận dụng từ nghĩa hẹp của giáo dục có ý nghĩa
quan trọng trong việc phân biệt phạm trù giáo dục pháp luật với phạm trù hình thái ý
thức pháp luật – hai phạm trù có mối quan hệ mật thiết vốn có của nó.
Giáo dục pháp luật có nội dung riêng. Đó là sự tác động có định hướng với nội
dung cơ bản là chuyển tải tri thức về Nhà nước là bộ phận quan trọng nhất.
Sự hình thành ý thức pháp luật là sản phẩm của cả cuộc sống các ảnh hưởng
của cả điều kiện khách quan lẫn sự tác động định hướng của nhân tố chủ quan vào ý
thức con người. Khi đó, giáo dục pháp luật chỉ là một yếu tố của quá trình hình thành ý
thức pháp luật, đây là sự tác động của nhân tố chủ quan. Nhưng lại có vai trò chỉ đạo
quá trình ấy, cho nên cần quan tâm đúng mức đến nhân tố chủ quan tác động định
hướng trong quá trình hình thành ý thức pháp luật cho công dân hiện nay.
Tóm lại, xuất phát từ nghĩa hẹp của khái niệm giáo dục thì giáo dục pháp luật là
tác động lên đối tượng giáo dục nhằm mục đích hình thành ở họ tri thức pháp luật, tình
cảm và hành vi phù hợp với các đòi hỏi về hệ thống pháp luật hiện hành.
Từ sự phân tích trên, khái niệm giáo dục pháp luật có thể hiểu như sau :
Giáo dục pháp luật là hoạt động có tính định hướng, có tổ chức, có chủ định
của chủ thể giáo dục, tác động lên đối tượng giáo dục một cách có hệ thống, thường
xuyên liên tục, nhằm mục đích hình thành ở họ tri thức ( hiểu biết) pháp lý, tình cảm
và hành vi phù hợp với đòi hỏi của hệ thống pháp luật hiện hành.
Giáo dục pháp luật là một hoạt động định hướng có những nét đặc thù, khác
một cách tương đối với các dạng giáo dục khác tại ba điểm sau đây :

Trang 4



Tiểu luận tốt nghiệp

Một là, giáo dục pháp luật có mục đích riêng của mình. Đó là hoạt động nhằm
hình thành tri thức ( hiểu biết) pháp lý, tình cảm và thói quen xử sự phù hợp, với quy
định của pháp luật.
Hai là, giáo dục pháp luật có nội dung riêng của mình. Đó là sự tác động định
hướng với nội dung cơ bản là chuyển tải tri thức của nhân loại nói chung, của một nhà
nước nói riêng về hai hiện tượng nhà nước và pháp luật, trong đó pháp luật là một bộ
phận cực kỳ quan trọng.
Ba là, xét trên các yếu tố chủ thể, khách thể, đối tượng, hình thức và phương
pháp giáo dục cũng có thể chỉ ra các đặc thù riêng của giáo dục pháp luật. Vì thế giáo
dục pháp luật trở thành sợi chỉ đỏ xuyên qua gia đình, trường học, cá thể, tập thê lao
động, các tổ chức chính trị – xã hội, nhà nước và xã hội. Nhân tố con người với hành
vi hợp pháp đóng vai trò chủ đạo trong quá trình tác động qua lại giữa người giáo dục (
chủ thể) với người bị giáo dục ( đối tượng). Người được giáo dục tức là người chịu sự
tác động có tổ chức có định hướng các thông tin pháp luật. Vì thế hiểu biết trình độ,
đặc biệt là đặc điểm nhân thân của người được giáo dục pháp luật là đòi hỏi hàng đầu
đối với người giáo dục. Đồng thời người giáo dục cần phải nắm vững tri thức pháp
luật, biết cách chuyển tải nó mà hơn thế nữa phải gương mẫu, là tấm gương, là hình
mẫu trong việc tuân thủ pháp luật. Bởi vì, trong giáo dục pháp luật thì nguyên tắc “
Anh hãy làm giống như tôi” có ảnh hưởng to lớn lên người được giáo dục.
Như vậy, giáo dục pháp luật chỉ là một yếu tố của quá trình hình thành ý thức
pháp luật ở cá nhân con người và đóng vai trò chủ đạo trong quá trình ấy. Hai khái
niệm giáo dục pháp luật và hình thành ý thức pháp luật không đồng nhất về bản chất
nhưng có quan hệ mật thiết với nhau. Việc phân biệt này đối với nước ta càng có ý
nghĩa về mặt lý luận và thực tiễn khi mà tri thức ( hiểu biết), tình cảm và thói quen xử
sự theo đúng pháp luật chưa có điều kiện về mặt khách quan đầy đủ và thuận lợi thì
vai trò của nhân tố chủ quan hết sức hết sức quan trọng không thể chờ đợi, ỷ lại vào
các điều kiện khách quan mà phải bằng những nỗ lực chủ quan, tức là bằng hoạt động
có tổ chức, có định hướng, có ý thức tự giác cao của chủ thể giáo dục nhằm hình thành

tri thức, tình cảm và thói quen pháp luật ở đối tượng giáo dục.
Với quan niệm đó, trong điều kiện hiện nay ở nước ta, việc trang bị tri thức
pháp luật, tăng cường bồi dưỡng tình cảm và thói quen pháp luật cho nhân dân lao
động, đặc biệt là nhân dân lao động vùng nông thôn, miền núi, là trách nhiệm của các
tổ chức chính trị xã hội, các cơ quan công quyền nhà nước, các tổ chức kinh tế… trong
đó trước hết thuộc về hệ thống các cơ quan có chức năng giáo dục, đào tạo con người
nói chung và các cơ quan làm chức năng giáo dục pháp luật nói riêng. Con người

Trang 5


Tiểu luận tốt nghiệp

không tổ chức định hướng giáo dục pháp luật trong hoạt động của mình là trái với bản
chất giáo dục và không thể hình thành được ý thức pháp luật ở nhân dân.
1.1.2. Mục đích của giáo dục pháp luật:
Mục đích của giáo dục luật nhằm phản ánh được mong đợi cụ thể của xã hội,
phù hợp với các điều kiện khách quan và chủ quan của xã hội để khả năng đạt được nó
là hiện thực, phản ánh được mối quan hệ trực tiếp với thực tiễn hoạt động giáo dục
pháp luật, giúp cho việc xác định và nâng cao được hiệu quả hoạt động của nó.
Mục đích của giáo dục là: trang bị, cung cấp, bồi dưỡng và nâng cao tri thức
pháp luật, từ đòi hỏi của các đối tượng giáo dục khác phù hợp với các điều kiện và
hoàn cảnh cụ thể; hình thành lòng tin vào pháp luật, xây dựng thói quen vững chắc, xử
sự theo những đòi hỏi của pháp luật.
Trong điều kiện của nước ta hiện nay, mục đích trên được xác định như sau:
- Hình thành, làm sâu sắc và từng bước mở rộng hệ thống tri thức của pháp luật
cho công dân gọi chung là mục đích nhận thức.
Trong điều kiện hiện nay, nhìn chung xã hội đang ở trong trạng thái kém hiểu
biết về pháp luật thì nhận thức giữ vị trí hàng đầu, đặc biệt đối với vùng sâu, vùng xa,
vùng dân tộc thiểu số. Bởi sự am hiểu pháp luật, tư duy pháp lý và hình thành tính tích

cực pháp luật ở con người là sự cần thiết và quyết định. Lênin cho rằng: “Sự am hiểu
trong đó sự am hiểu pháp luật là điều kiện cần thiết mà thiếu nó không nên nói về
chính trị. Người mù chữ thì đứng ngoài chính trị. Trước tiên phải hiểu sơ đẳng đó”.
Vào những ngày đầu thành lập chính quyền nhân dân, Bác Hồ đã đặt nhiệm vụ
“xoá mù pháp luật” cùng với “xoá mù chữ” trong “lời kêu gọi chống nạn thất học”
tháng 10 năm 1945: “Mỗi người dân Việt Nam phải biết quyền lợi của mình, bổn phận
của mình phải có kiến thức mới có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà”.
- Hình thành niềm tin pháp luật, hay còn gọi là mục đích cảm xúc.
Trong cơ cấu tâm lý của ý thức cá nhân có một yếu tố cực kỳ quan trọng đó là
lòng tin. Con người nếu thiếu lòng tin thì hành vi thường lệch khỏi các chuẩn mực xã
hội. Nếu một người nào đó thiếu lòng tin với pháp luật, thông thường người đó có
hành vi lệch khỏi chuẩn mực của pháp luật. Lòng tin vững chắc vào pháp luật là cơ sở
hình thành động cơ của hành vi hợp pháp. Đồng thời để có được tình cảm và lòng tin
với pháp phải giáo dục tình cảm công bằng, trách nhiệm không khoan nhượng và tình
cảm pháp chế.

Trang 6


Tiểu luận tốt nghiệp

- Hình thành động cơ, hành vi và thói quen xử sự hợp pháp, tích cực đây là mục
đích hành vi.
Hành vi xử sự theo pháp luật của con người là kết quả cuối cùng của quá trình
nhận thức pháp luật. Có nhiều yếu tố tác động để hình thành hành vi và thói quen xử
sự theo pháp luật, trong đó hoạt động giáo dục pháp luật là yếu tố cơ bản, thông qua
giáo dục pháp luật sẽ cung cấp những tri thức pháp luật, giáo dục lòng tin sâu sắc vào
sự cần thiết phải tuân theo một cách tự nguyện những quy định của pháp luật. Để làm
được điều này, quá trình giáo dục pháp luật phải sử dụng nhiều hình thức, phương
pháp và kiên trì, thường xuyên để mọi công dân hiểu sự cần thiết, tính hợp lý của pháp

luật vì lợi ích chung của xã hội.
1.1.3. Chủ thể và đối tượng giáo dục pháp luật:
* Chủ thể giáo dục pháp luật:
Căn cứ vào mức độ liên quan giữa mục tiêu giáo dục và chức năng, nhiệm vụ
của công dân, có thể chia ra làm 02 loại chủ thể giáo dục pháp luật: chủ thể chuyên
nghiệp và chủ thể không chuyên nghiệp:
- Chủ thể chuyên nghiệp là những người mà chức năng, nhiệm vụ chủ yếu trực
tiếp của họ là thực hiện mục đích, nội dung giáo dục pháp luật. Bao gồm: báo cáo
viên, tuyên truyền viên về pháp luật và các hệ thống cơ quan của Đảng, cơ quan nhà
nước, tổ chức xã hội các cấp; các phóng viên, biên tập viên của các cơ quan truyền
thông đại chúng phụ trách nội dung liên quan đến pháp luật hoặc các chuyên mục pháp
luật, giáo viên giảng dạy trong các trường, các chuyên viên làm công tác nghiên cứu
và chỉ đạo giáo dục pháp luật. Đây là nòng cốt.
- Chủ thể không chuyên nghiệp là những người tuy chức năng chính không phải
là giáo dục pháp luật nhưng trong các nhiệm vụ của họ là bằng hoặc thông qua các
hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ để thực hiện mục đích giáo dục pháp luật cụ thể gắn
liền với mục đích của hoạt động chuyên môn.

*. Đối tượng giáo dục pháp luật:
Đối tượng giáo dục pháp luật là những cá nhân công dân, những nhóm cộng
đồng xã hội cụ thể tiếp nhận tác động của các hoạt động giáo dục pháp luật trực tiếp,
hoặc gián tiếp do chủ thể giáo dục pháp luật tiến hành nhằm đạt được mục đích đặt ra.

Trang 7


Tiểu luận tốt nghiệp

- Cán bộ, công chức: Đây vừa là đối tượng cần được giáo dục pháp luật, vừa là
chủ thể giáo dục pháp luật trong mối quan hệ với nhân dân. Giáo dục pháp luật cho

cán bộ Nhà nước là rất cấp bách và quan trọng trong giai đoạn hiện nay.
- Học sinh, sinh viên: Đây là những công dân trẻ, lực lượng lao động tương lai.
Giáo dục pháp luật cho đối tượng này nhằm đề cao nhân tố con người – con người
phát triển toàn diện.
- Các tầng lớp nhân dân, bao gồm thanh niên, phụ nữ, nông dân, những người
lao động ở các doanh nghiệp, sống ở những địa bàn khác nhau, thuộc các dân tộc khác
nhau. Đây là lực lượng đông đảo nhất của xã hội đòi hỏi được giáo dục pháp luật để họ
thực hiện đầy đủ nghĩa vụ và quyền lợi công dân của mình.
1.1.4. Nội dung và hình thức giáo dục pháp luật:
* Nội dung giáo dục pháp luật:
Đây là yếu tố quan trọng trong quá trình giáo dục pháp luật, được xác định cụ
thể trên cơ sở mục đích và đối tượng giáo dục pháp luật.
Nội dung giáo dục pháp luật là một phạm vi rộng, bao gồm các thông tin về
pháp luật (cả kiến thức pháp luật cơ bản, các văn bản quy phạm pháp luật), các thông
tin điều tra về xã hội; các phản ánh đề xuất của các nhà nghiên cứu, của các chuyên
gia, của các tầng lớp dân cư thuộc các dân tộc, các vùng lãnh thổ khác nhau.
Nội dung giáo dục pháp luật phải phù hợp với từng đối tượng cụ thể, đặc biệt
quan tâm đến tầng lớp nghèo, dân tộc ít người, thanh thiếu niên, vùng sâu. Đây là đối
tượng chiếm tỷ lệ cao trong việc vi phạm pháp luật do ít có điều kiện tiếp xúc, tìm hiểu
và sử dụng những công cụ giáo dục để tự bảo vệ mình trước pháp luật.
* Hình thức giáo dục pháp luật:
Thông qua các kênh truyền tải thông tin, các hình thức giao tiếp, phù hợp giữa
người giáo dục và người được giáo dục, mà pháp luật được phổ biến sâu và trở thành ý
thức tự giác thực hiện của mọi người.
Với quan niệm: “Hình thức giáo dục, mà pháp luật là các dạng hoạt động cụ
thể để tổ chức quá trình giáo dục pháp luật” nên việc giáo dục pháp luật bao gồm các
hình thức sau đây:
Giáo dục pháp luật mang tính phổ biến, truyền thống được sử dụng nhiều loại
giáo dục như: dạy và học ở các trường, qua các phương tiện truyền thông đại chúng,
tác phẩm văn hoá nghệ thuật, câu lạc bộ pháp luật, thi tìm hiểu, sinh hoạt truyền thống,

phổ biến giáo dục tại cơ quan nhà nước, tổ chức quần chúng, tại địa bàn dân cư.

Trang 8


Tiểu luận tốt nghiệp

Giáo dục pháp luật mang tính đặc thù, bao gồm những hoạt động giáo dục
mang tính định hướng của các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp, các cơ quan nhà
nước thông qua hoạt động của các tổ chức xã hội, tổ chức nghề nghiệp pháp luật, trung
tâm thông tin – tư vấn pháp luật, tổ hoà giải.
1.1.5. Vai trò của giáo dục pháp luật:
* Giáo dục pháp luật góp phần nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà
nước, quản lý xã hội:
Giáo dục pháp luật là khâu đầu tiên của hoạt động thực hiện pháp luật, là cầu
nối để chuyển tải pháp luật vào cuộc sống. Quá trình đưa pháp luật vào cuộc sống
được bắt đầu bằng hoạt động giáo dục pháp luật, thi hành ( chấp hành ) pháp luật hay
áp dụng trước hết đều phải có hiểu biết về pháp luật. Nếu không nhận thức đầy đủ vai
trò quan trọng và không thực hiện tốt giáo dục pháp luật thì công tác xây dựng ( lập
pháp ) có làm tốt đến mấy cũng không đạt đựơc hiệu quả thực thi pháp luật.
Vai trò quan trọng này của giáo dục pháp luật là bắt nguồn từ vai trò và giá trị
xã hội của pháp luật – phương tiện hàng đầu để quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Giáo
dục pháp luật giúp cho mọi người có tri thức pháp lý, tình cảm pháp luật đúng đắn và
hành vi hợp pháp, là tiền đề cho việc sử dụng quyền lực nhà nước, tăng cường pháp
chế, phát huy dân chủ, mở rộng quyền tự do của mỗi người. Giáo dục pháp luật còn
tạo ra đổi mới các quan hệ xã hội, hình thành các điều kiện và nhân tố thuận lợi cho
quá trình quản lý nhà nước, quản lý xã hội, tạo ra khả năng phát hiện và kiên quyết
loại trừ những hiện tượng tiêu cực, chống đối pháp luật diễn ra trong quá trình quản lý.

* Giáo dục pháp luật góp phần nâng cao ý thức pháp luật và văn hoá pháp

lý của công dân.
Vai trò thứ hai không kém phần quan trọng này của giáo dục pháp luật là xuất
phát từ bản chất của nó. Giáo dục pháp luật là quá trình tác động nhằm hình thành tri
thức pháp lý, tình cảm và hành vi phù hợp với các đòi hỏi của hệ thống pháp luật hiện
hành. Cho nên kết quả đạt được các mục đích do sự tác động định hướng là góp phần
xây dựng ý thức pháp luật và văn hoá pháp lý của công dân.
Giáo dục pháp luật còn là một trong những mắt xích quan trọng có ý nghĩa đặc
biệt của sự tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Bởi vì, giáo dục pháp luật là nhằm
hình thành ý thức tôn trọng, tuân thủ pháp luật cho mọi công dân, là nhằm phát huy vai
trò và hiệu lực của pháp luật trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc.

Trang 9


Tiểu luận tốt nghiệp

Với vị trí và vai trò quan trọng như vậy, công tác giáo dục pháp luật phải được
xác định là một trong những công tác trọng tâm của hoạt động xây dựng pháp luật, đã
đến lúc ( nếu không muốn nói là cấp bách) phải đầu tư tương xứng cho việc tổ chức
thực hiện pháp luật mà trước hết là tăng cường giáo dục pháp luật cho mọi tổ chức
chính trị – xã hội, kinh tế và nhân dân và đó cũng là trách nhiệm của mọi cơ quan công
quyền nhà nước, mọi tổ chức chính trị – xã hội, kinh tế, mọi công dân mà trước hết là
các cơ quan hành chánh và tư pháp của bộ máy nhà nước.
Nguyên Tổng Bí Thư Đỗ Mười đã chỉ rõ : Có một hệ thống pháp luật đầy đủ,
đồng bộ là cần thiết. Song để đảm bảo xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam thật
sự của dân, do dân và vì dân, vấn đề bức thiết hiện nay là phải tạo ra những điều kiện,
xây dựng một cơ chế hữu hiệu đảm bảo mọi quy định của pháp luật đã ban hành đều
được mọi người, mọi cơ quan, tổ chức tôn trọng. Đặc biệt là phải đẩy mạnh hơn nữa
công tác giáo dục pháp luật sâu rộng đến mọi tầng lớp nhân dân, để ai nấy đều hiểu
rõ và chấp hành nghiêm chỉnh.

Hiện nay đông đảo quần chúng nhân dân đang mong mỏi những biện pháp căn
cơ, thực tế và kiên trì hơn. Phải chăng đã đến lúc phải lập lại kỷ cương trật tự xã hội
bằng việc thực thi pháp luật, bằng sự tham gia một cách ý thức chứ không phải bằng
những động tác hô hào, lập thành tích với những con số ( ảo), bằng sứ giáo dục cơ bản
bắt đầu lại từ trong nhà trường ( học ăn học nói, học gói học mở …), bằng những
chính sách lao động, tiền lương thích đáng để đừng khuyến khích kiếm tiền bằng
đường tắt ( tham ô, hối lộ, móc ngoặc, ăn cắp …) đừng cào bằng giá trị đóng góp của
mỗi người.

1.2. Cơ sở pháp lý của công tác giáo dục pháp luật:
Công tác giáo dục pháp luật ở nước ta hiện nay có một ý nghĩa hết sức thiết
thực và luôn giữ vị trí quan trọng trong đời sống xã hội. Trong công cuộc đổi mới của
đất nước ta hiện nay, công tác này càng có vai trò quan trọng về nhiều mặt, là biện
pháp chủ yếu để xây dựng ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa và tăng cường pháp chế
xã hội chủ nghĩa.
Vai trò của pháp luật bắt nguồn từ vai trò và giá trị xã hội của pháp luật. Nếu
như pháp luật là phương tiện hàng đầu để nhà nước quản lý xã hội, là phương tiện cho
mọi người bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của mình thì giáo dục pháp luật giúp
cho nhà nước (các cơ quan, nhân viên nhà nước) và công dân biết sử dụng tốt phương
tiện đó.

Trang 10


Tiểu luận tốt nghiệp

Điều 04 Hiến pháp 1992 xác định: “Đảng cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh
đạo Nhà nước và xã hội, mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp
và pháp luật”, “Các cấp uỷ Đảng phải lãnh đạo chặt chẻ công tác tuyên truyền phổ
biến, giáo dục pháp luật trong Đảng và trong nhân dân về nội dung Hiến pháp, nâng

cao ý thức trách nhiệm của cán bộ và nhân dân trong việc thi hành Hiến pháp và pháp
luật”
Trong hệ thống giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, thẩm mỹ, lao động …
giáo dục pháp luật có vận động trực tiếp trong việc nâng cao hiệu lực và hiệu quả của
quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Bởi vì những tri thức pháp lý, tình cảm pháp luật
đúng đắn và hành vi hợp pháp chiếm vị trí hàng đầu trong việc sử dụng quyền lực nhà
nước, tăng cường pháp chế, phát huy dân chủ, mở rộng quyền và tự do của mỗi người.
Giáo dục pháp luật tạo ra khả năng đổi mới các quan hệ xã hội trong môi
trường quản lý nhà nước, khắc phục sự bảo thủ của tư duy, những tư tưởng ích kỷ, cục
bộ; kích thích các hành vi tự giác và xây dựng. Giáo dục pháp luật tạo ra khả năng
hình thành các điều kiện và nhân tố thuận lợi cho quá trình quản lý nhà nước, quản lý
xã hội, làm xuất hiện và củng cố những phẩm chất tích cực của ý thức và hành vi quản
lý, mặt khác tạo ra khả năng không tiếp nhận những hiện tượng tiêu cực, chống đối
pháp luật diễn ra trong quá trình quản lý. Chính vì thế, đổi mới hệ thống chính trị nói
chung, cải cách bộ máy nhà nước nói riêng đang tiến hành ở nước ta, trên thực tế
không thể tiến hành và tồn tại bên ngoài quá trình giáo dục pháp luật, không thể không
tính đến kết quả và mức độ giáo dục pháp luật.
Nghị quyết Đại hội lần VIII của Đảng đã khẳng định: “Triển khai mạnh mẽ
công tác tuyên truyền và giáo dục pháp luật; huy động lực lượng của các đoàn thể
chính trị, xã hội, nghề nghiệp, các phương tiện thông tin đại chúng tham gia các đợt
vận động thiết lập trật tự, kỷ cương và các hoạt động thường xuyên xây dựng nếp sống
và làm việc theo pháp luật trong cơ quan nhà nước và trong xã hội”
Trong những năm qua, nhiều Bộ, ngành ở Trung ương và chính quyền địa
phương các cấp đã có cố gắng trong việc tổ chức giáo dục pháp luật và đã thu được
những kết quả tốt, đáp ứng được một phần yêu cầu của việc tăng cường quản lý nhà
nước, quản lý xã hội bằng pháp luật.
Xuất phát từ nhu cầu của đời sống trong quá trình đổi mới mọi mặt kinh tế xã
hội, trong xã hội ta đã bước đầu xuất hiện nhu cầu và lợi ích chung “sống và làm việc
theo hiến pháp và pháp luật”. Nhu cầu và lợi ích ấy chẳng những bắt nguồn từ những
đòi hỏi của việc nâng cao hiệu lực và hiệu quả của quản lý nhà nước, tăng cường pháp

chế mà còn bắt nguồn từ đòi hỏi phải nâng cao trình độ văn hoá pháp lý cho mỗi người

Trang 11


Tiểu luận tốt nghiệp

công dân. Văn hoá pháp lý thể hiện trình độ, ý thức pháp luật của một xã hội, chất
lượng của hệ thống pháp luật hiện hành và đặc biệt là tính ổn định của trật tự pháp
luật.
Không thể chờ đợi, ỷ lại vào các điều kiện khách quan mà phải bằng nổ lực chủ
quan, tức là bằng hoạt động có tổ chức, có định hướng, có ý thức tự giác cao của chủ
thể giáo dục nhằm hình thành tri thức, tình cảm và thói quen pháp luật ở đối tượng
giáo dục. Với quan niệm về bản chất của giáo dục pháp luật như vậy, ở nước ta trong
điều kiện hiện nay, việc trang bị tri thức pháp luật, bồi dưỡng tình cảm và thói quen
pháp luật cho nhân dân lao động là trách nhiệm của các tổ chức Đảng, các cơ quan
trong bộ máy nhà nước, các tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế … (chủ thể của giáo dục),
trong trách nhiệm trước hết thuộc về hệ thống các cơ quan có chức năng giáo dục, đào
tạo con người.
Tuy nhiên, công tác giáo dục pháp luật chưa được đặt ngang tầm với yêu cầu
quản lý xã hội bằng pháp luật, chưa được tiến hành thường xuyên, đồng bộ, chưa có
trọng tâm, trọng điểm. Còn thiều cơ chế, kế hoạch phối hợp chặt, đồng bộ giữ các cơ
quan, tổ chức, giữa các cấp, các ngành để huy động sức mạnh của cả hệ thống chính
trị, và sự tham gia của toàn xã hội. Vì những hạn chế đó, nhu cầu thông tin về pháp
luật của nhân dân trong thời gian qua chưa được đáp ứng đầy đủ.
Xuất phát từ thực trạng chung đó, ngày 07/01/1998 Thủ tướng chính phủ đã ban
hành chỉ thị số 02/1998/CT-TTg về việc tăng cường công tác giáo dục pháp luật trong
giai đoạn hiện nay, và quyết định số 03/1998/QĐ-TTg về việc ban hành kế hoạch triển
khai công tác giáo dục pháp luật từ năm 1998 đến năm 2002 và thành lập hội đồng
phối hợp công tác giáo dục pháp luật nhằm tạo cơ sở đáp ứng yêu cầu trên của xã hội

và công dân.
Tóm lại, để cho nên dân chủ ngày một ăn sâu, bám chắc vào cơ thể xã hội trở
thành nếp sống bình thường của mỗi người, mỗi tổ chức và toàn thể xã hội, tạo ra môi
trường thuận lợi cho việc tăng cường quản lý xã hội bằng pháp luật không thể tách rời
nó với việc đẩy mạnh công tác giáo dục pháp luật cho mọi tầng lớp nhân dân, từ cán
bộ, Đảng viên, viên chức nhà nước đến người lao động bình thường. Đây cũng là một
trong những đòi hỏi cơ bản của việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
ở nước ta trong giai đoạn cách mạng hiện nay.

Chương II
Trang 12


Tiểu luận tốt nghiệp

TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
CHO NHÂN DÂN Ở TỈNH KIÊN GIANG
– THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
2.1. Đặc điểm tình hình phát triển kinh tế xã hội Tỉnh Kiên Giang
2.1.1.Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên:
Kiên Giang là Tỉnh nằm phía Tây châu thổ sông Cửu Long, giáp Campuchia và
Thái Lan, có đồng bằng biển đảo và núi rừng. Có diện tích tự nhiên 6248 Km 2 gồm đất
liền: 5629 Km2, bờ biển chạy dài 200 km 2 dọc theo vịnh Thái Lan, diện tích mặt biển:
63.290 m2. Có nguồn tài nguyên phong phú, đa dạng về nông sản hải sản; về khoáng
sản có núi đá vôi, đá xây dựng nhiều loại đá trang trí quí hiếm khác; về du lịch có Hà
Tiên, Phú Quốc nổi tiếng về danh lam thắng cảnh với những bải tắm lý tưởng, có
nhiều hang động và di tích văn hoá là tiềm năng du lịch lớn.
Dân số tỉnh là 1.490.497 người, 3 dân tộc chính là: Kinh, Khơmer, Hoa. Trong
đó dân tộc kinh chiếm 84%, Khơmer chiếm 12,3%, Hoa chiếm 2,17% còn lại là những
dân tộc khác chiếm 0,32%. Cơ cấu hành chính của tỉnh được chia thành 11 huyện, 2 thị

xã với tổng số 114 xã, phường, thị trấn. Mật độ dân số bình quân 240/km 2, phần lớn
dân cư tập trung ở các đô thị, các huyện đảo và khu công nghiệp mới phát triển.
Về thời tiết khí hậu: nhiệt độ trung bình 27 0C – 27,50C, cao nhất 370C thấp nhất
23,90C – 24,40C. Nhiệt độ chênh lệch giữa mùa mưa và mùa khô trung bình 4 0C. Nguồn
nhân lực dồi dào cùng thời tiết khí hậu thuận lợi là một lợi thế lớn cho phát triển kinh
tế của Tỉnh.
2.1.2. Tình hình kinh tế xã hội:
Cơ cấu kinh tế Kiên Giang là nông – ngư – công lâm nghiệp và dịch vụ. Trong
những năm qua, Kiên Giang biết phát huy các tiềm năng trong Tỉnh đẩy mạnh nhịp độ
phát triển sản xuất, ổn định đời sống nhân dân, kinh tế liên tục tăng trưởng khá. Tổng
sản phẩm GDP trong Tỉnh tăng bình quân hàng năm là 10,22%. Ngành kinh tế mũi
nhọn của Tình là nông nghiệp, với nông sản hàng hoá là cây lúa và cây công nghiệp,
kế đến là ngành khai thác khoáng sản làm vật liệu xây dựng. Ngành nông, lâm nghiệp,
chiếm tỷ trọng cao nhất trong cao nhất trong nên kinh tế của Tỉnh, có tỷ trọng GDP là
43,43% toàn Tỉnh tương đương 2.408,2 tỷ đồng. Ngành thuỷ sản tạo ra 503,2 tỷ đồng,
chiếm 19,88% tổng GDP toàn Tỉnh.
Các ngành kinh tế trên đã thu hút lực lượng lao động khá lớn (576 nghìn
người). Cơ cấu kinh tế có bước chuyển dịch và phát triển theo hướng tăng dần tỷ trọng

Trang 13


Tiểu luận tốt nghiệp

công nghiệp, xây dựng, nông lâm thuỷ sản và thương mại, dịch vụ trong GDP. Năm
2001 nông lâm thuỷ sản chiếm 52,19%, công nghiệp chiếm 23,16%.
Đặc biệt, trong những năm gần đây được sự hổ trợ vốn của TW, Tỉnh đã đầu tư
thực hiện các dự án trọng điểm như: Dự án cảng cá Nam Du, Tắc Cậu, An Thới với
tổng kinh phí được duyệt là 140 tỷ đồng dự án nhà máy đường: 1800 tấn mía/ngày;
tổng vốn đầu tư được duyệt là 149,5 tỷ đồng; dự án nhà máy bao bì 25 triệu cái/năm;

tổng nguồn vốn được duyệt là 73 tỷ đồng; dự án trung tâm thương mại Rạch Giá: tổng
nguồn vốn đầu tư 195 tỷ, dự án lấn biển mở rộng xây dựng khu đô thị được đầu tư 500
tỷ đồng; dự án đóng tàu kiểm ngư tổng vốn đầu tư là 2 tỷ đồng. Ngoài ra còn có các dự
án khác như: cảng cá Dương Đông, Xẻo Nhào với vốn đầu tư từ 5 – 5,5 tỷ đồng …
Đến nay, một số dự án đã hoàn thành và đi vào hoạt động có hiệu quả, góp phần đáng
kể vào sự phát triển KT – XH ở địa phương.
Mặt khác, Kiên Giang có vùng biển rộng, có nhiều hòn đảo lớn nhỏ với trữ
lượng hải sản phát triển khá mạnh, đã thu hút một bộ phận dân cư không chỉ trong
Tỉnh mà còn ở Tỉnh khác đến làm ăn, lập nghiệp ngày càng đông. Số dân di cư tự do,
lực lượng lao động định cư tự phát ngày càng gia tăng, nhất là các khu trung tâm công
nghiệp và các huyện đảo Rạch Giá, Hà Tiên, Phú Quốc … số người định cư này đã
góp phần làm thay đổi bộ mặt kinh tế xã hội ở một số địa bàn trong Tỉnh Kiên Giang.
Nhiều vùng đất hoang hoá được khai phá, mở rộng các ngành nghề sản xuất, kinh
doanh làm cho bộ mặt nông thôn Kiên Giang từng bước được thay đổi tích cực.
Về công tác xã hội: trước 30/4/75 Kiên Giang là khu căn cứ địa cách mạng nên
số gia đình thuộc diện chính sách rất lớn, trên Tỉnh hiện có 438 bà mẹ Việt Nam anh
hùng, hiện còn sống 174 mẹ, lao động chưa có việc làm hoặc việc làm không ổn định
còn tương đối cao. Trong năm qua Tỉnh đã thực hiện tốt chính sách đến ơn đáp nghĩa,
đã xây dựng và bàn giao 157 căn nhà tình nghĩa, tổng trị giá 2,9 tỷ đồng. Tổ chức thẩm
định 34 dự án quốc gia giải quyết việc làm với số vốn 5,3 tỷ đồng, giải quyết việc làm
cho 26.300 người.
Bên cạnh thuận lợi trên, vẫn còn những khó khăn bất cập, nảy sinh nhiều vấn
đề phức tạp. Tình trạng xâm canh, xâm cư, lấn chiếm, chuyển nhượng đất đai trái phép
trong nhân dân ngày càng gia tăng. Nhiều khu dân cư không đảm bảo vệ sinh môi
trường, tình hình an ninh, trật tự diễn ra khá phức tạp, nhất là các vấn đề tệ nạn xã hội.
Bên cạnh đó do yêu cầu các hộ dân trong diện này cũng như việc bồi thường giá trị sử
dụng đất cho nhân dân trong một số nơi thực hiện chưa tốt, chưa tương xứng với giá trị
thị trường gây tâm lý bất bình trong quần chúng nhân dân, làm cho một số bộ phận
nhân dân thiếu lòng tin với cán bộ, đảng viên ở địa phương.


Trang 14


Tiểu luận tốt nghiệp

Với những thuận lợi và khó khăn về kinh tế – xã hội đã ảnh hưởng đến hoạt
động giáo dục pháp luật và nâng cao ý thức pháp luật cho cộng đồng nhân dân trên địa
bàn tỉnh cho nên đòi hỏi các ngành, các cấp tỉnh cần phải có sự nỗ lưc hơn nữa đối với
công tác giáo dục pháp luật ở địa phương, góp phần hạn chế đến mức thấp nhất những
vi phạm pháp luật xảy ra trong cộng đồng dân cư của Tỉnh.

2.2. Thực trạng công tác giáo dục pháp luật cho nhân dân ở Tỉnh Kiên
Giang:
Trong những năm qua, công tác giáo dục pháp luật ở Kiên Giang đã được tiến
hành một cách thường xuyên liên tục, đã nâng cao được tri thức pháp luật, hình thành
được ý thức chấp hành pháp luật trong nhân dân. Tại Kiên Giang các văn bản quy
phạm pháp luật quan trọng, có tính cơ bản, thiết thực đã được phổ biến rộng rãi cho
cán bộ viên chức, học sinh, công nhân và nhân dân lao động trên địa bàn tỉnh bằng
nhiều hình thức phong phú đều được chính quyền các cấp hết sức quan tâm đến công
tác giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật trong đội ngũ cán bộ công nhân viên
và nhân dân một cách thường xuyên. Bên cạnh đó, Sở tư pháp cũng tích cực hỗ trợ về
tài liệu, lực lượng báo cáo viên đến các phường, xã, cơ quan xí nghiệp, trường học trực
tiếp làm công tác giáo dục pháp luật.
Tuy nhiên, công tác giáo dục pháp luật chưa ngang tầm với yêu cầu quản lý xã
hội bằng pháp luật, chưa có được chiều sâu, trọng tâm, trọng điểm, còn thiếu cơ chế,
kế hoạch phối hợp chặt chẽ, ỷ lại, đùn đẩy trách nhiệm, lực lượng báo cáo viên còn
mỏng, chưa được bồi dưỡng, cập nhật thông tin một cách thường xuyên nên công tác
giáo dục pháp luật còn nghèo nàn về tư liệu, khô khan trong truyền đạt. Báo cáo là
công cụ truyên truyền hiệu lực nhất, nhưng thực tế báo cáo cáo phản ánh hiện thực xã
hội còn đơn giản, mot chiều, có tính kích thích sự tò mò của người đọc hơn là trang bị

tri thức, tình cảm đúng đắn với pháp luật. Các tủ sách pháp luật ở Ủy ban nhân dân
phường xã tuy đã được trang bị nhưng số đầu tư sách vẫn còn rất ít ỏi, có ít người đến
mượn đọc …
Thực hiện chỉ thị số 02/1998/CT-TTg của thủ tướng chính phủ về việc tăng
cường cộng tác giáo dục pháp luật trong giai đoạn hiện nay và quyết định số
03/1998/QĐ-TTg về việc ban hành kế hoạch triển khai công tác giáo dục pháp luật từ
năm 1998 đến năm 2002 và thành lập hội đồng phối hợp công tác giáo dục pháp luật
với sự tham mưu đắc lực của ngành tư pháp và các cơ quan hữu quan, uỷ ban nhân dân
Tỉnh Kiên Giang đã ban hành kế hoạch số 02/1998/KH-UB tạo cơ sở pháp lý cho việc
ký kết kế hoạch liên tịch về giáo dục pháp luật giữa ngành tư pháp với các cơ sở, ban

Trang 15


Tiểu luận tốt nghiệp

ngành, đoàn thể cũng thu được nhưng kết quả nhất định cụ thể hàng năm ngành tư
pháp phối hợp với đài phát thanh truyền hình của tỉnh phát chương mục chính sách và
pháp luật với trên 120 cuộc/năm với đài truyền thanh huyện thị thời lượng 15-20 phút,
với báo Kiên Giang một trang báo/kỳ phát hành với số lượng 10.000 tờ kỳ phối hợp
với đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh giáo dục pháp luật ở các xã đoàn điểm.
Ngoài ra, để duy trì thường xuyên công tác giáo dục pháp luật, tỉnh đã xây dựng
được gần 800 báo cáo viên pháp luật cấp tỉnh và huyện, đồng thời UBND tỉnh đã ban
hành quyết định số 1941/2000/QĐ-UB ngày 27-09-2000 quy định chế độ hưởng thù
lao với báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật. Đây là đội ngũ giáo dục pháp luật
đắc lực không những ở hiện tại mà cả về lâu dài sau này. Gần đây thực hiện chủ trương
của thủ tướng chính phủ về dự án trang bị tủ sách pháp luật cho xã, phường, thị trấn
phục vụ cho việc tìm hiểu, nghiên cứu pháp luật cán bộ và nhân dân ở cơ sở. Tỉnh
Kiên Giang đã tiến hành trang bị 114/114 xã, phường thị trấn trong Tỉnh có tủ sách
pháp luật và trang bị thêm 80% số đầu sách cho các tủ sách này theo hướng dẫn của

Trung ương, bước đầu có tác dụng rất tốt được cán bộ và nhân dân rất đồng tình, ủng
hộ.
Ngoài hình thức giáo dục pháp luật như trên, Sở tư pháp Kiên Giang đã soạn
thảo, tổ chức in và phát hành 20.000 tài liệu bướm dưới dạng hỏi đáp pháp luật về tội
phạm ma túy, pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính, 50.000 tài liệu về trật tự an toàn
giao thông đường bộ, trật tư an toàn giao thông đô thị – vệ sinh môi trường và phòng
chống tệ nạn xã hội để phân phát đến tận phường, xã, khu phố, ấp. Riêng những
phường xã điểm được cấp phát đến từng hộ gia đình, đồng thời trực tiếp phối hợp với
công an cùng các ngành liên quan tổ chức tuyên truyền sâu rộng đến tận phường, xã,
khu phố, xóm ấp nhằm làm hạn chế đến mức thấp nhất các vụ vi phạm vệ trật tự an
toàn giao thông, tệ nạn xã hội … xảy ra trên địa bàn tỉnh Kiên Giang.
Để phục vụ cho công tác này, Sở tư pháp Kiên Giang đã tổ chức tập huấn cho
800 báo cáo viên ở 114 xã, phường trong tỉnh về chuyên đề an toàn giao thông đô thị,
vệ sinh môi trường và phòng chống tệ nạn xã hội để chủ động triển khai tuyên truyền
trong địa bàn phường mình.
Nhờ thực hiện tốt công tác giáo dục pháp luật nên tình hình vi phạm pháp luật
trên địa bàn tỉnh từng bước được giảm dần. Nếu như năm 1999 có số vụ phạm pháp
hình sự hơn 300 vụ/năm thì năm 2002 giảm còn gần 100 vụ/ năm.
Theo đà tăng trưởng kinh tế xã hội của tỉnh có tổng sản phẩm GDP tăng bình
quân 10,22% năm, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân nói chung được cải thiện

Trang 16


Tiểu luận tốt nghiệp

và nâng lên. Nếu năm 1999 có 2% hộ dân thiếu đói, 15% hộ nghèo, đến năm 2002
không còn hộ đói, tỉ lệ hộ nghèo còn 8%.
Cơ sở hạ tầng nông thôn được cải thiện : có 89/114 xã, phường, thị trấn có
đường giao thông cho xe lưu thông đến trung tâm xã; 104/114 xã, phường, thị trấn có

điện lưới quốc gia về đến trung tâm xã. ( 10 xã còn lại ở hai huyện đảo Phú Quốc,
Kiên Hải sử dụng máy phát điện tại chỗ).
Công tác giáo dục pháp luật tại Kiên Giang đã được cán bộ công chức ý thức
được tầm quan trọng của công tác, cũng như ý thức được sự hiểu biết pháp luật nhằm
nắm bắt các quy định của pháp luật một cách nhanh chóng để hoàn thành tốt nhiệm vụ
của mình. Sự phối hợp công tác giáo dục pháp luật của Ủy ban nhân dân, các ngành,
các cấp hoạt động nhịp nhàng, chặt chẽ từ trên xuống đem lại hiệu quả cao trong công
tác giáo dục pháp luật, góp phần nâng cao hiệu lực và hiệu quả của việc quản lý nhà
nuớc, quản lý xã hội, nâng cao ý thức pháp luật về văn hoá pháp lý của công dân, làm
cho đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của nhà nước đi vào cuộc
sống được mọi người tôn trọng và nghiêm chỉnh thực hiện, giải quyết tốt các vấn đề
bức xúc của tình hình kinh tế – xã hội hiện nay, đảm bảo an ninh chính trị, trật tự xã
hội trong tỉnh.
Có thể nói, việc triển khai thực hiện các chủ trương của trung ương và của tỉnh
bước đầu cho thấy hoạt động giáo dục pháp luật trên địa bàn tỉnh dần dần đi vào nề
nếp và tạo nên một nhận thức mới trong cộng đồng nhân dân về chấp hành pháp luật
nên không ít địa phương đã giảm dần các vụ việc tranh chấp phải đưa ra toà án vì phần
lớn các vụ việc tranh chấp được hoà giải thành ngay từ cơ sở.
Về phần nội dung pháp luật được phổ biến thì trong thời gian qua tỉnh rất chú
trọng phổ biến các văn bản pháp luật mới được cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban
hành; trong đó tuỳ từng đối tượng cụ thể mà xác định các nội dung pháp luật phổ biến
phù hợp như Bộ luật Dân sự, Luật Khiếu nại – Tố cáo, luật đất đai, các văn bản pháp
luật về thuế, một số điều của bộ luật hình sự liên quan tham nhũng, ma tuý và lạm
dụng tình dục người chưa thành niên …
Kết quả đạt được về giáo dục pháp luật đã trình bày trên đây là tiền đề, là động
lực thúc đẩy mạnh mẽ công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật trên địa bàn của tỉnh
trong thời gian tới.
Đạt được kết quả trên là do :

Trang 17



Tiểu luận tốt nghiệp

- Nhờ có được chủ trương đúng đắn, kịp thời của Đảng và nhà nước, đã được
các cơ quan chuyên môn từ Trung ương đến địa phương tích cực triển khai thực hiện
mạnh mẽ, rộng khắp.
- Các cấp uỷ Đảng và UBND các địa phương trong tỉnh rất quan tâm, tích cực
ủng hộ và tạo mọi điều kiện để các cơ quan chức năng thực hiện tốt công tác giáo dục
pháp luật.
- Các cơ quan chuyên môn về công tác giáo dục pháp luật từ tỉnh đến huyện và
xã đều làm tốt trách nhiệm của mình, làm tham mưu tốt cho các cấp uỷ, UBND và làm
nòng cốt trong việc phối hợp với các ngành chức năng, các đoàn thể, các tổ chức chính
trị, xã hội, các cơ quan thông tin đại chúng, tổ chức triển khai thực hiện tốt công tác
này.
- Một nguyên nhân rất quan trọng góp phần cho thành công trong công tác giáo
dục pháp luật ở địa phương không thể không kể đến, đó là sự hoạt động tích cực của
các báo cáo viên, tuyên truyền viên từ tỉnh đến tận xã và các tổ hoà giải ở xóm, ấp.
Nhìn chung, công tác giáo dục pháp luật ở Kiên Giang trong những năm gần
đây đã thu được những thành quả đáng khích lệ, đáp ứng yêu cầu quản lý xã hội bằng
pháp luật, góp phần nâng cao nhận thức của nhân dân, nâng cao dân trí, củng cố niềm
tin của nhân dân vào Đảng, vào chính quyền …
Bên cạnh những mặt tích cực, công tác giáo dục pháp luật cho nhân dân ở Kiên
Giang hiện nay vẫn chưa đáp ứng ngang tầm nhiệm vụ đặt ra trong công cuộc đổi mới,
cụ thể :
- Công tác giáo dục pháp luật tại Kiên Giang cũng còn những hạn chế nhất định
như chưa thật sự giáo dục pháp luật sâu rộng trong quần chúng nhân dân, nhất là ở
nông thôn vùng sâu vùng xa và ngay cả cán bộ công chức, cán bộ hưu trí nhận thức về
pháp luật cũng có mặt hạn chế. Đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên ở phường xã
và các cơ quan tuy có thành lập và bồi dưỡng nhưng chưa có kế hoạch sử dụng và phát

huy đầy đủ.
- Vẫn còn một bộ phận công chức và nhân dân trong tỉnh còn hạn chế về sự
hiểu biết pháp luật, nhưng thiếu tích cực học tập, nghiên cứu (đáng lưu ý là trong đội
ngũ cán bộ làm công tác pháp luật mà vẫn có tình trạng này).
- Từng lúc, từng nơi các cơ quan, ban ngành, đoàn thể chưa phối hợp thực hiện
công tác giáo dục pháp luật thường xuyên, liên tục mà đôi khi lại để gián đoạn hoặc
thực hiện chiếu lệ nên hiệu quả chưa cao.

Trang 18


Tiểu luận tốt nghiệp

- Tình trạng vi phạm pháp luật xảy ra còn nhiều, đặc biệt là trong việc giải
quyết đơn từ khiếu kiện (nhất là về đất đai, nhà đất …) chưa chặt chẽ, đúng pháp luật,
còn nhiều vụ vượt cấp, phải giải quyết nhiều lần nhưng người dân vẫn chưa đồng tình.
Công tác điều tra truy tố và xét xử còn bị kháng nghị, cải sửa nhiều. Đặc biệt là còn
một số tiêu cực xảy ra chưa khắc phục được, tình trạng hiếp dâm trẻ em, ma tuý, vi
phạm dân chủ từng nơi, từng lúc có gia tăng.
- Mặt bằng trình độ dân trí của nhân dân, cán bộ trong tỉnh còn hạn chế, điều
kiện kinh tế, cuộc sống của nhân dân gặp nhiều khó khăn (diện đói nghèo vẫn còn ở
nơi dân cư), từ đó họ ít hoặc không quan tâm đến pháp luật.
- Trong cán bộ và nhân dân, nhiều người hiểu biết pháp luật nhưng vẫn cố tình
làm sai hoặc phớt lờ pháp luật.
- Hệ thống pháp luật còn thiếu, chưa hoàn chỉnh, còn nhiều chồng chéo …,
chậm ban hành các văn bản dưới pháp luật hướng dẫn thi hành làm cho việc học tập,
áp dụng lúng túng, khó khăn.
- Các cấp, các ngành từng lúc chưa đặt công tác giáo dục pháp luật ngang tầm
với vị trí, chức năng và yêu cầu của nó, từ đó chưa quan tâm đầu tư kinh phí, phương
tiện, cơ sở vật chất đúng mức cho công việc này.


Đểkhắc phục những hạn chế trên, trong điều kiện hiện nay, cấp ủy Đảng và
chính quyền cần :
- Đẩy mạnh công tác thông tin, giáo dục pháp luật làm cho nhân dân nắm được
một cách đầy đủ và hiểu được nội dung của các văn bản pháp luật được ban hành trong
từng giai đoạn. Cải tiến các hình thức thông tin và phương pháp thông tin để phù hợp
với từng đối tượng cụ thể. Trong công tác này cần có sự phối hợp giữa các cơ quan
Nhà nước, các tổ chức xã hội và đoàn thể quần chúng để tìm ra những hình thức và
phương pháp tuyên truyền, giải thích pháp luật một cách thích hợp, mở rộng tính dân
chủ công khai bảo đảm quyền được thông tin của quần chúng.
- Làm cho mọi cán bộ, đảng viên có ý thức, gương mẫu, xung phong đi đầu
trong việc học, nghiên cứu pháp luật, coi đó là trách nhiệm của mình đối với tổ chức,
cơ quan.
- Cùng với việc tập trung đẩy mạnh việc thực hiện chương trình, mục tiêu giáo
dục pháp luật trong các tầng lớp nhân dân, chúng ta cần quan tâm giúp nhân dân nâng
cao trình độ văn hoá, đời sống vật chất tinh thần cho họ, tạo cơ sở cho họ có đủ điều

Trang 19


Tiểu luận tốt nghiệp

kiện tiếp cận và nâng cao sự hiểu biết pháp luật (đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa, vùng
đồng bào dân tộc sinh sống).
- Đẩy mạnh việc thanh tra, kiểm tra, giám sát đối với hoạt động của các cơ quan
Nhà nước đi đôi với việc phát hiện xử lý nghiêm các việc tiêu cực, vi phạm pháp luật,
xử lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, lành mạnh hoá quan hệ xã hội và giải
quyết công bằng xã hội, tiến tới hạn chế dần các vi phạm pháp luật.
- Cũng cố đội ngũ cán bộ chuyên trách công tác giáo dục pháp luật ở các cơ
quan tư pháp, xây dựng quy chế báo cáo viên, tuyên truyền viên chặt chẽ, gắn bó với

việc xây dựng, phát triển tủ sách pháp luật ở cơ sở, tạo điều kiện đảm bảo cho cán bộ
và nhân dân có đủ sách pháp luật để nghiên cứu và khai thác có hiệu quả.
- Tiếp tục xây dựng và kiện toàn về tổ chức và hoạt động của Hội đồng phối
hợp công tác giáo dục giáo dục pháp luật từ Trung ương đến cơ sở. Củng cố mạng lưới
báo cáo viên, có chế độ thù lao thoả đáng, thường xuyên bồi dưỡng, cung cấp, cập nhật
thông tin và có chế độ tổng kết, đánh giá, khen thưởng kịp thời.
- Đẩy mạnh công tác đấu tranh chống vi phạm pháp luật, tổ chức cho mọi tầng
lớp nhân dân tham gia mạnh mẽ vào công tác đấu tranh chống những hành vi vi phạm
pháp luật, bảo đảm công bằng xã hội, ý thức pháp luật của nhân dân sẽ được củng cố
và nâng cao.
- Thực hiện việc kết hợp giáo dục pháp luật với giáo dục đạo đức văn hóa, nâng
cao trình độ chung của nhân dân. Đạo đức và văn hóa là những yếu tố quan trọng để
tạo ra ý thức pháp luật đúng đắn, đồng thời giữa đạo đức, văn hóa và pháp luật xã hội
chủ nghĩa có mối quan hệ mật thiết với nhau. Vì vậy, để giáo dục pháp luật đạt kết quả
cần kết hợp với giáo dục đạo đức và giáo dục nâng cao trình độ văn hóa của nhân dân.
- Song song với việc chi ngân sách cho công tác xây dựng pháp luật nhà nước,
nên cấp hẳn một khoản chi cho việc thực hiện công tác giáo dục pháp luật, đặc biệt
quan tâm đến các đơn vị cơ sở để tạo điều kiện kinh phí, vật chất cần thiết phục vụ
công tác này ở địa phương.
Tóm lại, từ thực trạng nêu trên càng làm tăng thêm tính bức bách, tầm quan
trọng của qúa trình giáo dục pháp luật. Ở đây đã khẳng định vai trò của chính quyền
địa phương. Vì vậy, công tác giáo dục pháp luật sẽ đạt hiệu quả cao nếu mỗi đơn vị,
mỗi ngành, mỗi cấp đều có sự quan tâm thường xuyên, chỉ đạo sát sao đối với công tác
này, đồng thời có sự phối hợp, triển khai chặt chẽ, đồng bộ với các đơn vị, các ngành,
các cấp khác.

Trang 20


Tiểu luận tốt nghiệp


2..3. Phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác giáo dục pháp
luật cho nhân dân ở Tỉnh Kiên Giang.
2..3.1. Phương hướng nâng cao hiệu quả công tác giáo dục pháp luật cho
nhân ở Kiên Giang :
* Tăng cường giáo dục pháp luật đối với cán bộ quản lý Nhà nước
Trước hết cần phải đổi mới phương pháp, hình thức giáo dục pháp luật trong hệ
thống hành chính nhà nước.
Để cán bộ hiểu và thực hiện tốt pháp luật thì trước tiên phải tiến hành việc giáo
dục pháp luật đối với họ. Đây là biện pháp nhằm tác động vào trạng thái nhận thức ban
đầu của cán bộ quản lý hành chính, tạo điều kiện cho cán bộ hiểu sâu sắc pháp luật và
tôn trọng pháp luật. Hiện nay, ngoài những hình thức giáo dục pháp luật chung (qua
các phương tiện thông tin đại chúng) thì trong Nhà nươc và hệ thống hành chính chưa
có loại hình riêng nào đáng kể. Hình thức tương đối phổ biến và rất hiệu quả là công
báo, phụ lục công báo của nhà nước. Tuy nhiên ngay cả công báo, phụ lục công báo
cũng không được cấp phát đến mọi cơ quan hành chính, hơn nữa nội dung của công
báo, thực tế cho thấy không chứa đựng hết các loại văn bản cần thiết cho hoạt động
quản lý của nhiều bộ phận cán bộ quản lý hành chính. Để đáp ứng yêu cầu quản lý
mới, cần phát huy hơn nữa tác dụng hình thức công báo, về mặt số lượng cần tăng
thêm để phổ cập rộng rãi hơn, tốt nhất là phát hành đến tất cả các cơ quan hành chính.
Ngoài công báo, cần có thêm các hình thức văn bản phổ biến pháp luật riêng của hệ
thống hành chính được phát hành tới các cơ quan, các bộ lãnh đạo trong hệ thống (ít
nhất là các văn bản của chính phủ, Thủ tướng, các Bộ). Cần đặc biệt quan tâm đến
công tác hệ thống hoá văn bản pháp luật, giúp cho cán bộ có văn bản pháp luật đầy đủ
kịp thời làm cơ sở cho hoạt động quản lý. Đây là nhiệm vụ quan trong cần được tiến
hành theo trình tự chặt chẽ trong toàn bộ hệ thống hành chính theo ba dạng chủ yếu
như:
Hệ thống giới hạn theo thời gian (từng năm, từng quý)
Hệ thống hoá theo ngành quản lý hay lĩnh vực kinh tế – xã hội.
Hệ thống hoá theo thẩm quyền ban hành hoặc hiệu lực pháp lý của văn bản. Để

công tác này có hiệu quả thực tế trong hệ thống hành chính cần có sự phân công bộ
phận theo dõi, quản lý toàn bộ công tác này đi vào nề nếp và phát huy tác dụng tốt.
Đối với các hình thức, các kênh truyền tải thông tin như các phương tiện thông
tin đại chúng, nhất là đối với các báo, tạp chí có số lượng phát hành lớn, phạm vi rộng,
cán bộ thường quan tâm như Báo nhân dân, thông tin lý luận, tạp chí cộng sản, sách,

Trang 21


Tiểu luận tốt nghiệp

báo pháp luật, vô tuyến truyền hình … cần dành thời gian sắp xếp chương trình, tin,
bài có những chuyên mục riêng truyền tải tri thức pháp luật liên quan đến kết quả hành
chính; ngoài việc phổ biến các văn bản pháp luật mới, cần thông báo kịp thời tình hình
chấp hành pháp luật tốt, không tốt ở cơ quan, địa phương; phổ biến kinh nghiệm quản
lý các loại công việc, trao đổi về các khía cạnh pháp lý của các vấn đề nổi cộm trong
từng giai đoạn. Điều này cần thiết đối với việc nâng cao kiến thức pháp lý, kiến thức
pháp luật cho cán bộ, nhất là giúp cho những người chưa có điều kiện được học tập
qua đào tạo chính quy theo trường, lớp có thể tự rèn luyện, học tập nâng cao trình độ
hoặc điều chinh các hành vi quản lý của mình.
Xây dựng chế độ trách nhiệm thông tin pháp luật trong hệ thống hành chính.
Đây là biện pháp rất có hiệu quả nhất là đối với đối việc nâng cao ý thức pháp luật của
cán bộ quản lý hành chính vì hệ thống hành chính được tổ chức chặt chẽ, tính tập trung
cao, đủ khả năng và điều kiện thực hiện tốt công tác này. Trước hết càn xác định rõ
trách nhiệm, quyền lợi của mỗi cấp, mỗi cơ quan và mỗi loại cán bộ trong việc cung
cấp và tiếp nhận thông tin pháp luật. Đặc điểm cán bộ của ta thường biến động, thay
đổi nhiều, cho nên giữa cán bộ cũ, cán bộ mới, cán bộ về hưu và đương chức cần xác
định rõ ràng, nghiêm túc trách nhiệm bàn giao tình hình, bàn giao tài liệu liên quan
đến công tác giáo dục pháp luật, hệ thống hoá văn bản pháp luật trong nội bộ mỗi cơ
quan hành chính. Trong hệ thống hành chính cần khắc phục tình trạng cấp có thẩm

quyền hành chính cao hơn, vì lý do nào đó không thể cung cấp hoặc cung cấp thông tin
không đầy đủ, chính xác cho cá nhân tập thể cấp dưới có quyền tiếp nhận. Ngược lại,
cấp có thẩm quyền hành chính thấp hơn báo cáo cung cấp không đầy đủ, kịp thời về
thông tin, tư liệu về các vụ việc, nhất là các vụ việc vi phạm pháp luật xảy ra ở đơn vị,
địa phương mình với cấp có thẩm quyền cao hơn làm cho cấp trên không nắm được
đầy đủ, chính xác tình hình thực tế, dẫn tới việc thực hiện kế hoạch, ra những quyết
định quản lý không có tính khả thi, gây thiệt hại cho xã hội.
Bồi dưỡng, giáo dục kiến thức pháp luật cho cán bộ quản lý nhà nước không
thể dừng lại ở mức độ thông qua các hình thức, phương pháp phổ cập thông thường
mà đòi hỏi phải có hình thức, phương pháp riêng có lớp, có trường, đội ngũ giảng viên
và giáo trình riêng và nhất thiết là phải trang bị kiến thức ở trình độ lý luận. Đây là vấn
đề cơ bản, cần thiết để họ hoàn thành nhiệm vụ quản lý theo yêu cầu hiện đại hoá.
Các cơ quan hành chính ở địa phương nên thường xuyên mở các lớp bồi dưỡng,
tập huấn ngắn ngày ở địa phương, các khu vực kể cả đào tạo mới và đào tạo lại cho
các đối tượng là cán bộ quản lý hành chính về các chuyên đề pháp luật, chú ý đề ra
những tình huống cụ thể trao đổi và hướng dẫn giải quyết. Hình thức này phù hợp với
đặc điểm và tính chất của tổ chức, hoạt động trong hệ thống hành chính, vừa phù hợp

Trang 22


Tiểu luận tốt nghiệp

với điều kiện công tác, sinh hoạt, khả năng tiếp nhận kiến thức và tâm lý cán bộ, nhất
là cán bộ địa phương cơ sở hiện nay. Để thực hiện biện pháp này, cần tận dụng lực
lượng giảng viên, hướng dẫn viên có kiến thức pháp luật ở địa phương; tranh thủ sự
quan tâm của các cấp uỷ Đảng và lãnh đạo chính quyền địa phương trong việc cấp
kinh phí, tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình tiến hành. Việc xác định, lựa chọn đối
tượng đi học phải đảm bảo yêu cầu vừa duy trì được các hoạt động thực hiện nhiệm vụ
quản lý thường xuyên, thường nhật, vừa điều động được số cán bộ đủ so với yêu cầu.

Cần tính đến đặc điểm sử dụng cán bộ của ta không ổn định chức vụ theo nhiệm kỳ ở
một số chức danh, vì vậy phải chú ý đến việc quy hoạch cán bộ và bố trí đào tạo, giáo
dục ở cả những cán bộ kế cận. Đối với các trường Đảng, trường hành chính ở cấp
Trung ương hoặc trường chuyên môn nghiệp vụ ở bậc đại học (Trừ đại học luật hoặc
khoa luật ở các trường đại học khác) nên sắp xếp thống nhất chương trình giáo dục
kiến thức pháp luật tương đương mức trung cấp, cao đẳng pháp lý.
Duy trì kỷ luật, xử lý nghiêm khắc những hành vi vi phạm phá luật của cán bộ
quản lý nhà nước.
Trước hết phải chấn chỉnh công tác quản lý cán bộ, thực hiện nghiêm túc việc
xây dựng quy chế hoạt động nội bộ của từng cơ quan hành chính Nhà nước, duy trì chế
độ kiểm tra, đánh giá việc thực hiện quy chế. Cần khắc phục tình trạng quản lý cán bộ
lỏng lẻo hiện nay ở một số cơ quan. Trong nội bộ mỗi cơ quan phải thường xuyên tổ
chức kiểm điểm, kiểm tra phát hiện điểm yếu, phát hiện vi phạm pháp luật, kỷ luật để
mỗi cá nhân, mỗi đơn vị trong cơ quan tự uốn nắn sửa chữa. Trong mối quan hệ công
tác giữa cấp trên đối với cơ quan, cán bộ cấp dưới cần bổ sung, hoàn thiện chế độ kiểm
điểm, đánh giá định kỳ tình hình chấp hành kỷ luật, pháp luật của cơ quan hành chính,
cán bộ quản lý.
Đối với những vụ việc vi phạm pháp luật gây ra thiệt hại nghiêm trong cho Nhà
nước và xã hội phải tiến hành xác định, quy trách nhiệm quản lý của tập thể, cá nhân
được phân công phụ trách lĩnh vực đó, không để tồn tại tình trạng vi phạm pháp luật
nghiêm trọng, kéo dài của cán bộ, nhân viên dưới quyền hoặc xảy ra ngay trong cơ
quan mà cánbộ phục trách không biết hoặc cố tình làm ngơ.
Giáo dục ý thức pháp luật gắn liền với việc cải cách nền hành chính nhà nước:
Thường xuyên chăm lo đến công tác xây dựng và hoàn chỉnh hệ thống pháp
luật, tạo “hành lang pháp lý” cho hoạt động thực hiện công vụ, tạo sự thống nhất về
nhận thức tư tưởng, tâm lý pháp luật của cán bộ quản lý hành chính. Trong xây dựng
pháp luật cần thực hiện phương châm “coi trọng tổng kết thực tiễn Việt Nam, nâng

Trang 23



Tiểu luận tốt nghiệp

cao chất lượng xây dựng pháp luật, ban hành các văn bản luật với những quy định cụ
thể, dễ hiểu, dễ thực hiện”
Hoàn thiện về tổ chức và phân công thẩm quyền trong bộ máy hành chính. Tổ
chức và phân công thẩm quyền hợp lý sẽ có tác động rất lớn đến việc nâng cao ý thức
pháp luật và hiệu quả công tác của cán bộ. Để hoàn thiện tổ chức và phân công thẩm
quyền hợp lý trong nội dung các văn bản pháp luật cần thể hiện được chủ trương:
“Chính phủ và cơ quan hành chính các cấp tập trung chủ yếu vào quản lý kinh
tế vĩ mô, chăm lo các vấn đề xã hội, bảo vệ môi trường, duy trì hiệu lực pháp luật”,
“cán bộ và các cấp chính quyền chính quyền không can thiệp vào chức năng quản trị
kinh doanh và quyền tự chủ hạch toán của doanh nghiệp”.
“Xác định rõ quyền hạn, trách nhiệm của tập thể và cá nhân”.
Về mặt tổ chức, cần khắc phục tình trạng hiện nay là bộ máy hành chính Nhà
nước chưa nhất quán về cả chiều dọc lẫn chiều ngang, một cơ quan chịu Nhà nước
chưa nhất quán về cả chiều dọc lẫn chiều ngang, một cơ quan chịu sự ràng buộc trực
tiếp quá nhiều đầu mối làm cho hệ thống trì trệ không thông suốt (cấp sở, phòng ở địa
phương).
Để có cơ sở xây dựng hoàn thiện hệ thống lý luận pháp luật và tăng cường công
tác giáo dục pháp luật, phù hợp với sự phát triển kinh tế, chính trị, xã hội đã đến lúc
cần xây dựng kế hoạch toàn diện về công tác giáo dục pháp luật, tăng cường pháp chế
dưới hình thức mọi nghị quyết của Trung ương Đảng hoặc chương trình, kế hoạch của
nhà nước, trên cơ sở tổng kết, đánh giá toàn diện, chính xác công tác giáo dục pháp
luật hiện nay. Nội dung của chủ trương, kế hoạch phát triển pháp luật cần tập hợp, khái
quát những quan điểm cơ bản về toàn bộ công tác giáo dục pháp luật như: về phạm vi,
vị trí, tính chất của nó, những mục tiêu, nhiệm vụ trước mắt, lâu dài, xu hướng phát
triển của công tác này làm cơ sở cho việc phát động phong trào giáo dục pháp luật,
nâng cao ý thức pháp luật cho mọi đối tượng trong đó có cán bộ quản lý nhà nước
trong phạm vi cả nước nói chung và ở tỉnh Kiên Giang nói riêng.

* Tăng cường giáo dục pháp luật trong các loại hình nhà trường
Giáo dục pháp luật trong nhà trường có vị trí đặc biệt quan trọng trong các hình
thức giáo dục pháp luật nói chung, có ý nghĩa chiến lược trong việc đào tạo giáo dục
để hình thành một cách vững chắc những thế hệ công dân – người lao động đáp ứng
các yêu cầu của xã hội hiện tại và tương lai. Do đó, Đảng và Chính phủ đã ra nhiều
Nghị quyết, chỉ thị khẳng định một hình thức, biện pháp cơ bản và hữu hiệu để xây
dựng và nâng cao ý thức pháp luật của nhân dân, đưa việc giáo dục pháp luật vào các

Trang 24


Tiểu luận tốt nghiệp

trường học, các cấp học, từ phổ thông đến đại học, trung học chuyên nghiệp và các
trường của các đoàn thể nhân dân.
Trong giáo dục học, khái niệm hình thức giáo dục được hiểu là các hình thức tổ
chức hoạt động phối hợp giữa người “Giáo dục và người được giáo dục, còn phương
pháp giáo dục là các con đường, cách thức, biện pháp hoạt động để chiếm lĩnh nội
dung giáo dục và đạt được mục đích giáo dục. Hình thức giáo dục pháp luật là dạng
hoạt động cụ thể để tổ chức quá trình giáo dục pháp luật. Do đó, đối với từng nội dung
giáo dục và mục đích giáo dục ở từng cấp học trong nhà trường có những hình thức và
phường giáo dục pháp luật tương ứng cụ thể như:
- Phát huy được tính tích cực, độc lập sáng tạo nói chung, tính tích cực tư duy
pháp luật gắn với nghề nghiệp nói riêng của học sinh, sinh viên dưới tác động chủ đạo
của giáo viên. Hay nói cách khác là phát huy vai trò chủ thể nhận thức của học sinh,
sinh viên, đưa họ vào hoạt động dưới sự chỉ đạo của thầy, và qua đó họ sẽ nắm được
những tri thức về pháp luật, hình thành ý thức pháp luật làm cơ sở cho hình thành thái
độ, hành vi và thói quen tích cực phù hợp với chuẩn mực pháp luật.
- Vận dung phối hợp các phương pháp dạy học với các phương pháp giáo dục;
cũng như vận dụng phối hợp các hình thức tổ chức dạy học với các hình thức tổ chức

giáo dục với nhau. Các hoạt động dạy và giáo dục phải đa dạng, hấp dẫn, gắn liền với
cuộc sống thực tiễn hằng ngày của học sinh, sinh viên, gắn liền với thực tiễn sinh động
của xã hội đang đổi mới, gắn liền với nghề nghiệp tương lai của họ.
- Đảm bảo hiệu quả dạy học – giáo dục pháp luật và hiệu quả giáo dục nghề
nghiệp, trong đó việc kiểm tra, đánh giá kết quả giáo dục pháp luật là rất cần thiết
nhằm kích thích học sinh, sinh viên học tập và rèn luyện theo các chuẩn mực pháp
luật đã quy định, tự kiềm chế những hành vi sai trái so với chuẩn mực này.
- Tạo môi trường lành mạnh, trong sạch trong nhà trường, tạo không khí đoàn
kết, kỷ luật, vui vẻ, thưởng phạt phân minh trong từng lớp học để nâng cao hiệu quả
giáo dục pháp luật.
Để nâng cao chất lượng và hiệu quả công tácgiáo dục pháp luật trong nhà
trường ở Kiên Giang hiện nay, thiết nghĩa cần phải có những biện pháp phù hợp :
- Xây dựng và thực hiện chương trình giáo dục pháp luật phù hợp và cần phải
có bộ tài liệu giáo dục thống nhất cho từng cấp học như bậc tiểu học, trung học cơ sở,
trung học phổ thông hay các trường đào tạo chuyên nghiệp.

Trang 25


×