Tải bản đầy đủ (.pdf) (129 trang)

Đánh giá thực trạng quản lý, sử dụng đất nông nghiệp huyện ba vì, thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.85 MB, 129 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
----------------------------

NGUYỄN THANH BẢN

ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG QUẢN LÝ,
SỬ DỤNG ĐẤT NÔNG NGHIỆP HUYỆN BA VÌ,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC

HÀ NỘI - 2013


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
----------------------------

NGUYỄN THANH BẢN

ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG QUẢN LÝ,
SỬ DỤNG ĐẤT NÔNG NGHIỆP HUYỆN BA VÌ,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Chuyên ngành : QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI
Mã số

: 60850103


LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC

Người hướng dẫn khoa học : PGS.TS. TRẦN VĂN TUẤN

HÀ NỘI - 2013


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng những số liệu, kết quả nghiên cứu trong luận
văn này là trung thực và chưa hề được sử dụng để bảo vệ một học vị nào.
Tôi cũng cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn
này đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn này đều đã được
chỉ rõ nguồn gốc./.
Tác giả luận văn

Nguyễn Thanh Bản

ii


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu, Phòng Sau đại học, Khoa
Địa lý Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội đã tạo
mọi điều kiện thuận lợi để tôi hoàn thành Luận văn này.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Thầy giáo - PGS.TS Trần Văn
Tuấn, trường Đại học Khoa học Tự nhiên đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ
tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và thực hiện Luận văn.
Xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của lãnh đạo, cán bộ Văn
phòng Đăng ký quyền sử dụng đất, Phòng Tài nguyên và Môi trường, Phòng
Kinh tế, Phòng Thanh tra, Phòng Thống kê, Ban Bồi thường Giải phóng mặt

bằng huyện Ba Vì; Chủ tịch UBND, cán bộ địa chính các xã, thị trấn trên địa
bàn Huyện đã tạo điều kiện cho tôi thu thập số liệu và những thông tin cần
thiết liên quan.
Cảm ơn gia đình, các anh chị đồng nghiệp, bạn bè đã động viên và giúp
đỡ tôi hoàn thành Luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn!
Tác giả luận văn

Nguyễn Thanh Bản

iii


MỤC LỤC

Lời cam đoan

i

Lời cảm ơn

iii

Mục lục

iv

Danh mục viết tắt

viii


Danh mục bảng

viii

MỞ ĐẦU
1.
Tính cấp thiết của đề tài
2.
Mục tiêu nghiên cứu
3.
Nhiệm vụ nghiên cứu
4
Phạm vi nghiên cứu
5.
Phương pháp nghiên cứu
6.
Cấu trúc luận văn
CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1.
Cơ sở lý luận về quản lý, sử dụng đất nông nghiệp
1.1.1.
Khái niệm về đất
1.1.2.
Đất nông nghiệp và các vấn đề sử dụng đất nông nghiệp
1.1.3.
Vai trò của đất nông nghiệp đối với phát triển kinh tế - xã hội
1.1.4.
Vai trò quản lý nhà nước về đất đai và đất nông nghiệp nói riêng
1.1.5.

Chương trình xây dựng nông thôn mới và vai trò của công tác,
dồn điền đổi thửa đất nông nghiệp
1.2.
Cơ sở pháp lý về quản lý, sử dụng đất nông nghiệp
1.2.1.
Những cơ sở pháp lý về quản lý sử dụng đất nông nghiệp theo
Luật Đất đai năm 1993.
1.2.2
Những cơ sở pháp lý về quản lý sử dụng đất nông nghiệp theo
Luật Đất đai năm 2003.
1.3
Tình hình quản lý, sử dụng đất nông nghiệp trên địa bàn thành
phố Hà Nội
CHƯƠNG 2 ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG QUẢN LÝ, SỬ DỤNG ĐẤT NÔNG
NGHIỆP HUYỆN BA VÌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
2.1.
Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội huyện Ba Vì
2.1.1.
Điều kiện tự nhiên
2.1.2.
Điều kiện kinh tế - xã hội

iv

1
1
2
3
3
3

3
4
4
4
4
8
12
14
15
16
17
21
28
28
28
35


2.2

Thực trạng công tác quản lý, sử dụng đất nông nghiệp trên địa
bàn huyện Ba Vì từ khi có Luật Đất đai 1993 đến nay
2.2.1.
Công tác ban hành văn bản về quản lý, sử dụng đất nông nghiệp
và tổ chức thực hiện
2.2.2.
Công tác khảo sát, đo đạc, đánh giá, phân hạng đất nông
nghiệp, lập bản đồ địa chính
2.2.3.
Quản lý công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất nông nghiệp

2.2.4.
Thực trạng giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất
2.2.5.
Tình hình đăng ký, lập hồ sơ địa chính, cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất nông nghiệp
2.2.6.
Công tác thu hồi để chuyển mục đích sử dụng, bồi thường, hỗ
trợ về đất nông nghiệp
2.2.7.
Công tác thống kê, kiểm kê đất đai
2.2.8.
Quản lý tài chính về đất đai, quản lý và phát triển thị trường bất
động sản, quản lý và giám sát thực hiện quyền và nghĩa vụ của
người sử dụng đất.
2.2.9.
Công tác thanh tra, kiểm tra việc chấp hành các quy định của pháp luật về
đất đai và xử lý vi phạm pháp luật về đất đai; Giải quyết tranh chấp, khiếu
nại, tố cáo các vi phạm trong việc quản lý và sử dụng đất nông nghiệp
2.2.10.
Thực trạng quản lý, sử dụng đất nông nghiệp của các nông - lâm
trường trên địa bàn Huyện
2.2.11.
Thực trạng công tác dồn điền, đổi thửa đất nông nghiệp
2.3.
Đánh giá hiện trạng và biến động sử dụng đất nông nghiệp huyện Ba Vì
2.3.1.
Hiện trạng sử dụng đất nông nghiệp
2.3.2.
Phân tích, đánh giá biến động các loại đất
2.3.3.

Đánh giá chung về hiện trạng và hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp
CHƯƠNG 3 CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ, SỬ DỤNG
ĐẤT NÔNG NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN BA VÌ
3.1
Cơ sở để đề xuất giải pháp
3.1.1.
Đánh giá chung về những tồn tại, hạn chế trong quản lý, sử
dụng đất nông nghiệp huyện Ba Vì
3.1.2.
Định hướng sử dụng đất nông nghiệp và những vấn đề đặt ra
trong những năm tới
3.2.
Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng đất
nông nghiệp trên địa bàn huyện Ba Vì
3.2.1.
Nhóm giải pháp chung

v

42
42
44
46
48
54
57
60
62

64


66
77
81
81
82
89
91
91
91
92
93
93


3.2.1.1.
3.2.1.2.
3.2.1.3.
3.2.2.
3.2.2.1.
3.2.2.2.
3.2.2.3.
3.2.2.4.
3.2.2.5.
3.2.2.6.
3.2.2.7
1.
2.

Công tác tuyên truyền

Công tác cán bộ.
Công tác quản lý, sử dụng đất nông nghiệp
Nhóm giải pháp cụ thể
Giải pháp về chính sách, pháp luật
Giải pháp về quy hoạch
Giải pháp đẩy nhanh tiến độ cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất nông nghiệp.
Giải pháp hoàn thiện hệ thống hồ sơ địa chính nói chung và đất
nông nghiệp nói riêng.
Giải pháp về tài chính, bồi thường, hỗ trợ khi thu hồi đất nông nghiệp
Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng đất trong
nông lâm trường
Giải pháp đẩy nhanh tiến độ dồn điền, đổi thửa đất nông nghiệp
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Kết luận
Kiến nghị
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

vi

93
94
94
94
94
95
96
99
101

103
105
107
107
108
109
112


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

DT

: Diện tích

FAO

: Tổ chức lương thực và nông nghiệp của Liên hiệp quốc

GCN

: Giấy chứng nhận

HĐND

: Hội đồng nhân dân

NN

: Nông nghiệp


THCS

: Trung học cơ sở

THPT

: Trung học phổ thông

TNHH

: Trách nhiện hữu hạn

UBND

: Ủy ban nhân dân

vii


DANH MỤC BẢNG

STT
2.1
2.2
2.3
2.4
2.5
2.6
2.7

2.8

Tên bảng
Tổng hợp số lượng bản đồ quản lý và lưu trữ tại huyện Ba Vì
Tình hình thực hiện các chỉ tiêu quy hoạch đất nông nghiệp đến năm 2010
Tổng hợp kết quả thực hiện giao đất nông nghiệp theo Nghị định
số 64/CP của Chính phủ.
Tổng hợp số lượng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nông
nghiệp giao ruộng theo Nghị định số 64/CP đã cấp.
Tổng hợp diện tích đất nông nghiệp qua các kỳ kiểm kê theo địa
giới hành chính
Tổng hợp diện tích đất nông nghiệp qua các thời kỳ thống kê đất đai
Thống kê diện tích đang sử dụng của các nông, lâm trường
Kết quả thực hiện dồn điền đổi thửa huyện Ba Vì đến tháng 11/2013

Trang
45
47
50
55
61
62
67
80
82

2.10

Hiện trạng sử dụng đất nông nghiệp huyện Ba Vì (Tính đến ngày
01/01/2013)

Biến động diện tích đất nông nghiệp giữa hai kỳ kiểm kê 2005 – 2010.

2.11

Biến động đất nông nghiệp từ năm 2010 đến năm 2012

88

2.9

viii

87


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá của mỗi quốc gia, là tư liệu sản
xuất đặc biệt, là nguồn lực quan trọng của các nền sản xuất. Với sản xuất của nông
nghiệp, đất đai là tư liệu sản xuất không thể thay thế được, không có đất thì không
có sản xuất nông nghiệp. Sử dụng đất có ý nghĩa quyết định tới sự thành bại về kinh
tế và ổn định chính trị, phát triển xã hội trước mắt và lâu dài. Trong điều kiện hiện
nay, do sức ép của đô thị hóa và gia tăng dân số làm ảnh hưởng rất lớn đến diện tích
và chất lượng đất sản xuất nông nghiệp. Diện tích đất nông nghiệp ngày càng bị thu
hẹp để nhường chỗ cho các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và đáp ứng nhu cầu
ngày càng tăng, cùng với nó là quá trình khai thác, sử dụng đất nông nghiệp chưa
hợp lý, chưa quan tâm đến cải tạo, bồi bổ đất dẫn đến hiện tượng thoái hóa đất, làm
giảm sức sản xuất của đất như: xói mòn, rửa trôi, sa mạc hóa, nhiễm phèn, chua
hóa... Chính vì lẽ đó, việc bảo vệ, quản lý và sử dụng đất đai nói chung và đất nông
nghiệp nói riêng cần được đặc biệt quan tâm bởi đất đai là nguồn tài nguyên có hạn

trong khi nguồn lực mà nó đem lại là vô cùng to lớn.
Huyện Ba Vì nằm phía Tây Bắc của thành phố Hà Nội có tổng diện tích đất tự
nhiên là 42.402,69 ha, quỹ đất nông nghiệp khá lớn với 29.176.56 ha. Địa hình của
Huyện chia thành ba vùng đó là: vùng núi thuộc khu vực núi Ba Vì, vùng trung du
đồi gò và vùng đồng bằng phù sa. Ba Vì đang trong quá trình đổi mới. Xuất phát từ
một huyện có tiềm năng về nông nghiệp sinh thái, du lịch, trọng tâm phát triển kinh tế
- xã hội của Huyện là chuyển dịch cơ cấu kinh tế kết hợp phát triển vùng sinh thái, du
lịch, từng bước chuyển đổi cơ cấu sử dụng đất. Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của
huyện Ba Vì có nhiều lợi thế cho phát triển nông nghiệp, tuy nhiên hiện nay chưa sử
dụng đúng tiềm năng và khai thác có hiệu quả đối với đất đai.
Trên địa bàn Huyện có nhiều nông lâm trường, trạm trại với tổng diện tích
11.877,74 ha. Hệ thống hồ sơ địa chính phục vụ cho công tác quản lý và sử dụng
đất của Huyện cũ nát, không có đủ phê duyệt của các cấp có thẩm quyền, thiếu, biến
động nhiều, giá trị pháp lý không cao. Thực trạng giao đất, cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất nông nghiệp cho các hộ gia đình trên địa bàn Huyện theo Nghị
định số 64/CP ngày 27/9/1993 của Chính phủ đến nay đã bộc lộ nhiều hạn chế, bất
cập, chưa đáp ứng được yêu cầu của tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước nói chung và nông nghiệp, nông thôn nói riêng. Các thửa đất còn quá manh
mún, nhỏ lẻ, phân tán khó thực hiện áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, khó thực

1


hiện cơ giới hóa vào sản xuất; diện tích cấp Giấy chứng nhận của các hộ gia đình
dựa trên số liệu đo đạc thủ công và giao cho các hộ dân tự kê khai diện tích để cấp
Giấy chứng nhận, do đó diện tích sử dụng thực tế của các thửa đất nông nghiệp
chưa chính xác. Những yếu kém, tồn tại trên đã làm cho hiệu quả sử dụng đất không
cao, ảnh hưởng rất lớn đến công tác quản lý, sử dụng đất đặc biệt là công tác quy
hoạch sử dụng đất, công tác thống kê - kiểm kê đất đai, công tác thu hồi đất, bồi
thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng đối với đất nông nghiệp. Đồng thời, những năm

gần đây, do đầu tư xây dựng một số hạng mục công trình trong chương trình phát
triển kinh tế - xã hội của Huyện đã làm tăng áp lực đối với đất đai, đặc biệt là đất
nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp do chuyển mục đích sử dụng sang đất phi nông
nghiệp. Vì vậy để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về đất đai và sử dụng hợp lý
nguồn tài nguyên đất thì việc nghiên cứu, đánh giá tình hình quản lý và sử dụng đất
nông nghiệp nhằm làm rõ những vấn đề còn tồn tại và đề xuất những giải pháp hữu
hiệu cho công tác này là rất cần thiết.
Xuất phát từ những vấn đề trên, dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Trần Văn
Tuấn, học viên chọn nghiên cứu đề tài "Đánh giá thực trạng quản lý, sử dụng đất
nông nghiệp huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội”.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Đánh giá thực trạng quản lý và sử dụng đất nông nghiệp huyện Ba Vì, thành
phố Hà Nội nhằm làm rõ hiệu quả đạt được và những mặt tồn tại, hạn chế. Từ đó,
đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng đất nông nghiệp trên
địa bàn nghiên cứu.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu tổng quan về cơ sở khoa học quản lý, sử dụng đất nông nghiệp từ
sau khi có Luật Đất đai năm 1993 đến nay.
- Điều tra, thu thập tài liệu, số liệu, bản đồ có liên quan đến khu vực nghiên cứu.
- Đánh giá thực trạng quản lý, sử dụng đất nông nghiệp trên địa bàn huyện Ba
Vì từ sau khi có Luật Đất đai 1993 đến nay.
- Đánh giá hiện trạng sử dụng đất nông nghiệp huyện Ba Vì, biến động sử
dụng đất nông nghiệp huyện Ba Vì giai đoạn 2005 – 2012.
- Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng đất nông nghiệp
trên địa bàn huyện Ba Vì.
4. Phạm vi nghiên cứu
a. Phạm vi không gian: toàn bộ địa bàn huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội.

2



b. Phạm vi thời gian:
Đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng quản lý, sử dụng đất nông nghiệp huyện
Ba Vì từ khi có Luật Đất đai 1993 đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
a. Phương pháp điều tra, khảo sát, thu thập tài liệu, số liệu:
Đây là phương pháp dùng để điều tra thu thập các tài liệu, số liệu về điều kiện
tự nhiên, kinh tế xã hội, các số liệu thống kê đất nông nghiệp, tình hình giao đất,
cho thuê đất, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp…, để phục vụ
cho việc đánh giá tình hình quản lý và sử dụng đất nông nghiệp huyện Ba Vì.
b. Phương pháp thống kê, so sánh:
Thống kê, so sánh số liệu qua các năm để thấy được sự biến động, thay đổi về
cơ cấu đất nông nghiệp.
c. Phương pháp phân tích, đánh giá tổng hợp:
Từ số liệu thu thập được và hiện trạng sử dụng đất tiến hành phân tích làm rõ
những tồn tại, những điểm chưa hợp lý trong sử dụng đất nông nghiệp huyện Ba Vì.
d. Phương pháp kế thừa, chọn lọc:
Phương pháp này sử dụng và thừa hưởng những tài liệu, dữ liệu đã có về vấn
đề nghiên cứu, dựa trên những thông tin sẵn có để xây dựng và phát triển thành cơ
sở dữ liệu cần thiết của luận văn.
e. Phương pháp chuyên gia:
Tham khảo, lấy ý kiến của cơ quan chuyên môn, cán bộ địa phương về các giải
pháp nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng đất nông nghiệp huyện Ba Vì.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và kiến nghị, nội dung luận văn được cấu trúc
làm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan các vấn đề nghiên cứu
Chương 2: Đánh giá thực trạng quản lý, sử dụng đất nông nghiệp huyện Ba Vì,
thành phố Hà Nội
Chương 3: Các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng đất nông nghiệp

trên địa bàn huyện Ba Vì.

3


CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Cơ sở lý luận về quản lý, sử dụng đất nông nghiệp
1.1.1. Khái niệm về đất đai
Đất đai là tư liệu sản xuất cơ bản và phổ biến quý báu nhất của sản xuất nông
nghiệp, điều kiện không thể thiếu được của sự tồn tại và tái sinh của hàng loạt thế
hệ người kế tiếp nhau [5].
Đất đai được nhìn nhận là một nhân tố sinh thái. Với khái niệm này, đất đai
bao gồm tất cả các thuộc tính sinh học và tự nhiên của bề mặt trái đất có ảnh hưởng
nhất định đến tiềm năng và hiện trạng sử dụng đất [36].
Theo quan điểm của các nhà kinh tế và quy hoạch Việt Nam cho rằng “Đất
đai là một diện tích cụ thể của bề mặt trái đất bao gồm các cấu thành của môi
trường sinh thái ngay bên trên và dưới bề mặt đó như: khí hậu thời tiết, thổ nhưỡng,
địa hình, mặt nước (hồ, sông suối…), các dạng trầm tích sát bề mặt cùng với nước
ngầm và khoáng sản trong lòng đất, tập đoàn thực vật, trạng thái định cư của con
người, những kết quả nghiên cứu trong quá khứ và hiện tại để lại” [34].
Về mặt đời sống - xã hội, đất đai là nguồn tài nguyên quốc gia vô cùng quý
giá, là tư liệu sản xuất không gì thay thế được của ngành sản xuất nông nghiệp, lâm
nghiệp, là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân bổ
khu dân cư, xây dựng cơ sở kinh tế, văn hóa và an ninh quốc phòng. Nhưng đất đai
là tài nguyên thiên nhiên có hạn về diện tích, có vị trí cố định trong không gian [3].
1.1.2. Đất nông nghiệp và các vấn đề sử dụng đất nông nghiệp
1.1.2.1. Khái niệm đất nông nghiệp
* Theo truyền thống của người Việt Nam thì đất nông nghiệp thường được
hiểu là đất trồng lúa, trồng cây hoa màu như: ngô, khoai, sắn và những loại cây
được coi là cây lương thực. Tuy nhiên trên thực tế, việc sử dụng đất nông nghiệp

tương đối phong phú, không chỉ đơn thuần là trồng lúa, hoa màu mà còn dùng vào
mục đích chăn nuôi gia súc, nuôi trồng thủy sản, hay để trồng cây lâu năm.
Trước đây, Luật Đất đai 1993 quy định đất nông nghiệp tại Điều 42 như sau: Đất
nông nghiệp là đất được xác định chủ yếu để sử dụng vào sản xuất nông nghiệp như trồng
trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản hoặc nghiên cứu thí nghiệm về nông nghiệp [13].
Với quy định của Luật Đất đai 1993, đất đai của Việt Nam chia làm 06 loại:
+ Đất nông nghiệp;
+ Đất lâm nghiệp;
+ Đất khu dân cư nông thôn;

4


+ Đất đô thị;
+ Đất chuyên dùng;
+ Đất chưa sử dụng.
Theo sự phân chia này thì đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp được tách thành 02
loại riêng. Tuy nhiên sự phân chia này dựa theo nhiều tiêu chí, vừa căn cứ vào mục
đích sử dụng chủ yếu, vừa căn cứ vào địa bàn sử dụng đất đã dẫn đến sự đan xen,
chồng chéo giữa các loại đất, không có sự tách bạch về mặt pháp lý gây khó khăn
cho công tác quản lý đất đai.
Để khắc phục những hạn chế đó và để tạo điều kiện thuận lợi cho người sử
dụng đất thực hiện các quyền của mình trong việc sử dụng đất. Luật Đất đai năm
2003 đã chia đất đai thành 03 loại với tiêu chí phân loại duy nhất đó là căn cứ vào
mục đích sử dụng chủ yếu. Trên cơ sở đó, đất đai được chia theo ba phân nhóm:
+ Nhóm đất nông nghiệp;
+ Nhóm đất phi nông nghiệp;
+ Nhóm đất chưa sử dụng [14].
Như vậy chúng ta đã mở rộng khái niệm đất nông nghiệp với tên gọi “nhóm
đất nông nghiệp” thay thế cho “đất nông nghiệp” trước đây. Theo quy định của Luật

Đất đai 2003 có thể hiểu nhóm đất nông nghiệp là tổng thể các loại đất có đặc tính
sử dụng giống nhau, với tư cách là tư liệu sản xuất chủ yếu phục vụ cho mục đích
sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp như: trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản,
trồng rừng, khoanh nuôi tu bổ bảo vệ rừng, nghiên cứu thí nghiệm về nông nghiệp,
lâm nghiệp.
1.1.2.2. Những yếu tố ảnh hưởng đến đất nông nghiệp
a. Nhóm yếu tố về điều kiện tự nhiên
Các yếu tố tự nhiên là tiền đề cơ bản nhất, là nền móng để phát triển và phân
bố nông nghiệp. Mỗi một loại cây trồng, vật nuôi chỉ có thể sinh trưởng và phát
triển trong những điều kiện tự nhiên nhất định nào đó, ngoài những điều kiện đó cây
trồng và vật nuôi không thể tồn tại và phát triển. Các điều kiện tự nhiên quan trọng
nhất là đất, nước và khí hậu. Chúng quyết định khả năng nuôi trồng các loại cây
trồng, vật nuôi cụ thể trên từng điều kiện đất, nước và khí hậu khác nhau, cũng như
việc áp dụng các quy trình sản xuất nông nghiệp trong các điều kiện tự nhiên khác
nhau đồng thời có ảnh hưởng đến năng suất cây trồng, vật nuôi.
Một trong những yếu tố hạn chế năng suất cây trồng chính là điều kiện về độ
phì nhiêu của đất, điều kiện nước tưới, điều kiện khí hậu.

5


b. Nhóm yếu tố kỹ thuật canh tác
Biện pháp kỹ thuật canh tác là tác động của con người vào đất đai, cây trồng,
vật nuôi, nhằm tạo nên sự hài hòa giữa các yếu tố của quá trình sản xuất để hình
thành, phân bố và tích lũy năng suất kinh tế. Đây là những vấn đề thể hiện sự hiểu
biết về đối tượng sản xuất, về thời tiết, về điều kiện môi trường và thể hiện những
dự báo thông minh của người sản xuất. Lựa chọn các tác động kỹ thuật, lựa chọn
chủng loại và cách sử dụng các đầu vào phù hợp với quy luật tự nhiên của sinh vật
nhằm đạt được các mục tiêu đề ra là cơ sở để phát triển sản xuất nông nghiệp hàng
hóa. Theo Frank Ellis và Douglass C.North, ở các nước phát triển, khi tác động tích

cực của kỹ thuật, giống mới, thủy lợi, phân bón tới hiệu quả thì cũng đặt ra yêu cầu
mới đối với việc tổ chức sử dụng đất. Có nghĩa là ứng dụng công nghệ sản xuất tiến
bộ là đảm bảo vật chất cho kinh tế nông nghiệp tăng trưởng nhanh dựa trên việc
chuyển đổi sử dụng đất. Cho đến giữa thế kỷ 21, trong nông nghiệp nước ta, quy
trình kỹ thuật có thể góp phần đến 30% của năng xuất kinh tế. Như vậy, nhóm các
biện pháp kỹ thuật đặc biệt có ý nghĩa quan trọng trong quá trình khai thác đất theo
chiều sâu và nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp [6].
c. Nhóm các yếu tố kinh tế tổ chức
- Công tác quy hoạch và bố trí sản xuất
Phát triển sản xuất hàng hóa phải gắn với công tác quy hoạch và phân bố vùng
sinh thái nông nghiệp. Cơ sở để tiến hành quy hoạch dựa vào điều kiện tự nhiên,
kinh tế - xã hội đặc trưng cho từng vùng. Việc phát triển sản xuất nông nghiệp phải
đánh giá, phân tích thị trường tiêu thụ và gắn với quy hoạch công nghiệp chế biến.
Đó sẽ là cơ sở để phát triển sản xuất, khai thác các tiềm năng của đất đai, nâng cao
hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp và phát triển sản xuất hàng hóa.
- Hình thức tổ chức sản xuất
Các hình thức tổ chức sản xuất ảnh hưởng trực tiếp đến việc khai thác, nâng
cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp. Vì vậy, cần phải thực hiện đa dạng hóa các
hình thức hợp tác trong nông nghiệp, xác lập một hệ thống tổ chức sản xuất, kinh
doanh phù hợp và giải quyết tốt mối quan hệ giữa sản xuất dịch vụ và tiêu thụ nông
sản hàng hóa. Tổ chức có tác động lớn đến hàng hóa của hộ nông dân là: tổ chức
dịch vụ đầu vào và đầu ra.
- Dịch vụ kỹ thuật
Sản xuất hàng hóa của hộ nông dân không thể tách rời những tiến bộ kỹ thuật
và việc ứng dụng những tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất. Vì sản xuất nông

6


nghiệp hàng hóa phát triển đòi hỏi phải không ngừng nâng cao chất lượng nông sản

và hạ giá thành nông sản phẩm [16].
d. Nhóm các yếu tố kinh tế - xã hội
Các nhân tố kinh tế - xã hội có ảnh hưởng quan trọng tới phát triển và phân bố
nông nghiệp:
+ Thị trường tiêu thụ có tác động mạnh mẽ đến sản xuất nông nghiệp và giá cả
nông sản. Cung, cầu trên thị trường có tác dụng điều tiết đối với sự hình thành và
phát triển đối với các loại hàng hóa nông nghiệp. Theo Nguyễn Duy Tính (1995):
Ba yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp là năng suất
cây trồng, hệ số quay vòng đất và thị trường cung ứng đầu vào và tiêu thụ đầu ra
[19]. Trong cơ chế thị trường, các hộ hoàn toàn tự do lựa chọn hàng hóa, họ có khả
năng sản xuất, đồng thời họ có xu hướng hợp tác, liên doanh, liên kết để sản xuất ra
những nông sản hàng hóa mà nhu cầu thị trường cần với chất lượng cao đáp ứng
nhu cầu thị hiếu của khách hàng. Muốn mở rộng thị trường phải phát triển hệ thống
cơ sở hạ tầng, hệ thống thông tin, dự báo, mở rộng các dịch vụ tư vấn.... đồng thời,
quy hoạch các vùng trọng điểm sản xuất hàng hóa để người sản xuất hàng hóa nên
sản xuất cái gì? bán ở đâu? mua tư liệu sản xuất và áp dụng khoa học công nghệ gì?
Sản phẩm hàng hóa của nước ta đa dạng, phong phú về chủng loại, chất lượng, giá
rẻ và đang được lưu thông trên thị trường là điều kiện thuận lợi cho việc phát triển
nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa có hiệu quả [7].
+ Hệ thống chính sách, pháp luật về phát triển nông nghiệp, đất đai,... có vai
trò quan trọng trong phát triển nông nghiệp và sản xuất nông nghiệp. Hệ thống
chính sách pháp luật tác động rất lớn tới sự phát triển của nông nghiệp và cách thức
tổ chức, sắp xếp, cơ cấu sản xuất nông nghiệp. Mỗi một sự thay đổi chính sách,
pháp luật thường tạo ra sự thay đổi lớn, sự thay đổi đó có thể thúc đẩy sản xuất
nông nghiệp phát triển hoặc giới hạn, hạn chế một khuynh hướng phát triển nhằm
mục đích can thiệp và phát triển theo định hướng của nhà nước.
Phát triển nông nghiệp nước ta thực sự khởi sắc sau sự kiện đổi mới của pháp
luật và một loạt chính sách về đât đai bắt đầu là Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị vào
tháng 4 năm 1988, người dân được giao đất nông nghiệp sử dụng ổn định, lâu dài,
được thừa nhận như một đơn vị kinh tế và được tự chủ trong sản xuất nông nghiệp.

Sự ra đời của Luật Đất đai năm 1993, sau đó là luật sửa đổi bổ sung Luật Đất đai
năm 1998 và năm 2001, Luật Đất đai năm 2003. Nghị định số 64/CP năm 1993 về
giao đất nông nghiệp và Nghị định số 02/CP năm 1994 về giao rừng và một loạt các

7


văn bản liên quan khác đã đem lại luồng gió mới cho sản xuất nông nghiệp. Nước ta
từ chỗ phải nhập khẩu lương thực nay đã có thể tự túc lương thực và trở thành một
nước xuất khẩu gạo đứng thứ hai trên thế giới.
+ Sự ổn định chính trị - xã hội và các chính sách của Nhà nước: ổn định chính
trị là yếu tố then chốt để tạo nên sự khác biệt giữa Việt Nam và các nước khác trong
khu vực. Đầu tư vào một nước có nền chính trị ổn định tạo tâm lý yên tâm về khả
năng tìm kiếm lợi nhuận và thu hồi vốn, giúp các nhà đầu tư có thể tính toán chiến
lược đầu tư lớn và dài hạn. Vai trò của ổn định chính sách cũng tương tự như vậy,
môi trường cởi mở và rõ ràng thu hút, hấp dẫn các nhà đầu tư ngoại quốc.
1.1.3. Vai trò của đất nông nghiệp đối với phát triển kinh tế - xã hội
Đất đai đóng vai trò quyết định đến sự tồn tại và phát triển của xã hội loài
người, là cơ sở tự nhiên, là tiền đề cho mọi quá trình sản xuất. Các Mác đã nhấn
mạnh “Đất là mẹ, sức lao động là cha sản sinh ra của cải vật chất” [5].
Trong nông nghiệp, ruộng đất là tư liệu sản xuất chủ yếu và đặc biệt không thể
thay thế được. Ruộng đất vừa là đối tượng lao động vừa là tư liệu sản xuất nông
nghiệp. Đã từ hàng nghìn năm nay, nông nghiệp là ngành kinh tế chủ yếu của xã hội
phong kiến, cung cấp lương thực nuôi sống loài người và phát triển để mang lại lợi
nhuận. Nguồn gốc của năng suất và sản lượng sản xuất nông nghiệp là do lao động
tác động vào đất đai. Đất đai được con người đầu tư tốt sẽ cho sản lượng nông
nghiệp cao, con người không đầu tư cho đất đai thì khả năng sinh lợi của sản xuất
nông nghiệp sẽ bị cạn kiệt dần.
Vai trò đầu tiên và lớn nhất của đất nông nghiệp trong nền kinh tế là nguồn
cung cấp lương thực, thực phẩm. Hiện tại cũng như tương lai, nông nghiệp vẫn

đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của xã hội mà không ngành nào có thể
thay thế được. Đảm bảo an ninh lương thực là mục tiêu của mỗi quốc gia, góp phần
ổn định chính trị, phát triển kinh tế [17].
1.1.3.1.Về mặt kinh tế
* Đất nông nghiệp là tư liệu sản xuất chủ yếu để sản xuất hàng hóa.
- Khi tham gia vào quá trình sản xuất, đất nông nghiệp vừa là tư liệu sản xuất
đặc biệt vừa là đối tượng lao động. Để sản xuất nông nghiệp theo hướng hàng hóa
đối với bất kỳ nông sản nào trước hết phải có diện tích đất nông nghiệp đủ lớn, kết
hợp với các yếu tố khác như lao động, công cụ lao động, khoa học kỹ thuật, chất
lượng giống, phân công lao động theo từng chuyên khâu… thì mới có điều kiện tạo
ra khối lượng nông phẩm hàng hóa lớn đáp ứng nhu cầu thị trường. Ngoài những

8


điều kiện như đã nêu trên, sản xuất hàng hóa trong nông nghiệp còn có thể khai thác
các yếu tố lợi thế về đặc thù riêng vốn có của những vùng đất như: vải thiều có năng
suất và chất lượng tốt thuộc vùng Lục Ngạn, Bắc Giang, Thanh Hà, Hải Dương,
bưởi Năm Roi ở miền Tây Nam bộ, nhãn lồng Hưng Yên…
- Sản xuất hàng hóa trong nông nghiệp đóng góp vốn trực tiếp cho đầu tư trong
giai đoạn đầu thực hiện công nghiệp hóa [35].
Theo kinh nghiệm của nhiều nước đang phát triển trên thế giới, muốn công
nghiệp hóa nhanh và phát triển kinh tế thành công, trước hết phải có một nền nông
nghiệp mạnh mới đảm bảo được công bằng xã hội, ổn định và phát triển kinh tế
nông nghiệp, đủ điều kiện để chuẩn bị hạ tầng cho công nghiệp hóa. Chính vì lý do
này mà các nước đang phát triển đều phải thực hiện cải cách ruộng đất.
Nhật Bản sau Chiến tranh thế giới thứ II đã thực hiện cải cách ruộng đất tới hai
lần để ổn định mặt bằng kinh tế nông nghiệp, là nước đầu tiên lấy vốn từ nông
nghiệp để đầu tư phát triển kinh tế nói chung và hiện nay là đã trở thành một cường
quốc công nghiệp trên thế giới. Đài Loan là một vùng lãnh thổ tiến hành cải cách

ruộng đất khá thành công với chính sách chuyển được vốn đầu tư vào nông nghiệp
của giai cấp địa chủ sang đầu tư vào công nghiệp.
Ở Nhật Bản, trong giai đoạn 1880 - 1892 sản xuất nông nghiệp cung cấp 86%
số tiền thuế thu được trong khi kinh tế nông nghiệp chỉ chiếm hơn nửa sản phẩm
quốc gia thuần túy. Trong giai đoạn 1913 - 1917 thuế nông nghiệp chiếm 54% thu
nhận của Kho bạc nhà nước trong khi phần đóng góp của kinh tế nông nghiệp chỉ
chiếm 32% trong tổng giá trị sản phẩm quốc gia [8].
Nước ta đã đạt được những thành tích lớn về phát triển kinh tế nông nghiệp
trong thời gian qua, từ khi thực hiện khoán 10. Từ tình trạng thiếu lương thực trong
những năm 1978 – 1985, với chính sách giao đất, giao rừng ổn định lâu dài đã tạo
điều kiện thúc đẩy sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp tăng vượt bậc về năng xuất và
sản lượng. Năm 1990, năng xuất lúa đạt 31,9 tạ/ha, sản lượng đạt 21,5 triệu tấn
lương thực, nhưng đến năm 2000 năng xuất lúa đạt 42,5 tạ/ha, sản lượng đạt 35,6
triệu tấn lương thực. Giá trị sản xuất nông nghiệp đạt 17,5 triệu đồng trên 1ha, tăng
53% so với năm 1990 [4]. Với sản lượng như vậy, không những an ninh lương thực
quốc gia đảm bảo, mà còn đưa nước ta vào nhóm các nước xuất khẩu nông sản hàng
đầu thế giới.
* Trong điều kiện thị trường bất động sản được hình thành thì đất nông nghiệp
có vai trò là phương tiện góp vốn, huy động vốn, liên doanh liên kết hoặc cho thuê

9


để phát triển sản xuất.
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã nêu: “Phát triển thị trường bất
động sản, trong đó có thị trường quyền sử dụng đất, tạo điều kiện thuận lợi để
chuyển quyền sử dụng đất, mở rộng cơ hội cho các công dân và doanh nghiệp thuộc
các thành phần kinh tế được dễ dàng có đất và sử dụng đất lâu dài cho sản xuất kinh
doanh”. “Tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình tích tụ và tập trung đất canh tác
trong một số vùng có điều kiện”.

Nghiên cứu Luật Đất đai năm 2003 cho thấy: Tại Điều 105 quy định: “Quyền
của người sử dụng đất được Nhà nước câp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”;
Điều 106 quy định: “Quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thuê lại, thừa kế,
tặng, cho quyền sử dụng đất, quyền thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng
đất”; Điều 113 quy định: “Thế chấp, bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất tại tổ chức tín
dụng được phép hoạt động tại Việt Nam, tại các tổ chức kinh tế hoặc cá nhân để vay
vốn sản xuất kinh doanh” [14].
Đối với Luật Đầu tư năm 2005 tại Điều 3 mục 1có nêu: “Đầu tư là việc nhà đầu
tư bỏ vốn bằng các loại tài sản hữu hình hoặc vô hình để hình thành tài sản, tiến hành
các hoạt động đầu tư theo quy định luật này và các quy định khác của pháp luật có liên
quan” và mục 7 có nêu: “Vốn đầu tư là tiền và các tài sản hợp pháp khác để thực hiện
các hoạt động đầu tư theo hình thức đầu tư trực tiếp hoặc gián tiếp [15].
Như vậy có thể nói đất nông nghiệp có đầy đủ các yếu tố thuận lợi để tham gia
vào thị trường bất động sản, thị trường vốn trong quá trình đầu tư sản xuất kinh doanh.
Trên thực tế đã có rất nhiều mô hình hoạt động sản xuất kinh doanh trong nông
nghiệp đa dạng và phong phú như:
+ Người nông dân góp cổ phần trong doanh nghiệp nhà nước bằng quỹ đất và
tham gia lao động ngay tại doanh nghiệp nhà nước đó.
+ Cá nhân hoặc tổ chức có đất nông nghiêp do thiếu vốn sản xuất có thể thế
chấp quyền sử dụng đất tại các ngân hàng thương mại, quỹ tín dụng nhân dân để
vay vốn sản xuất.
+ Hộ nông dân có đất sản xuất nông nghiệp nhưng thiếu kinh nghiệm, thiếu lao
động thì dùng quỹ đất liên doanh, liên kết với các thành phần kinh tế khác không có
đất hoặc thiếu đất để sản xuất.
Như vậy, trong điều kiện nền kinh tế thị trường phát triển và hội nhập ngày
càng sâu rộng như hiện nay thì vai trò của đất nông nghiệp là phương tiện góp vốn,
thế chấp, huy động vốn, liên doanh, liên kết trong sản xuất kinh doanh được Nhà

10



nước khuyến khích và có đẩy đủ cơ sở pháp lý thuận lợi giúp các hộ nông dân khai
thác và sử dụng quỹ đất sản xuất một cách linh hoạt nhằm mang lại hiệu quả kinh tế
cho nông dân.
1.1.3.2. Về mặt xã hội
* Đất nông nghiệp là tư liệu sản xuất đặc biệt duy nhất, là nơi sản xuất ra
lương thực thực thực phẩm nuôi sống con người và xã hội.
Từ xa xưa, ông, cha ta có câu “phi nông bất ổn”, còn ở Trung Quốc dưới thời
Xuân Thu - Chiến Quốc, Khổng tử đã nói rằng “Dân dĩ thực vi thiên” (Dân lấy ăn
làm trời). Con người chúng ta muốn tồn tại phải có cái ăn, muốn có cái ăn không
thể chỉ dựa vào những sản vật sẵn có trong tự nhiên do thiên nhiên ban tặng, mà
phải lao động sản xuất ra của cải vật chất là lương thực, thực phẩm để nuôi sống
con người đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng cao của xã hội và thứ duy nhất để sản
xuất ra của cải vật chất chính là đất nông nghiệp.
Lịch sử phát triển nền sản xuất xã hội đến nay đã trải qua các thời kỳ khác
nhau từ kinh tế tự nhiên, tự túc tự cấp, chuyển sang kinh tế hàng hóa, từ sản xuất
hàng hóa nhỏ lên sản xuất hàng hóa có quy mô lớn và hiện đại, tất thảy trong sản
xuất nông nghiệp thì bao giờ đất đai cũng đóng vai trò cực kỳ quan trọng. Xã hội
càng phát triển thì vai trò của đất nông nghiệp càng lớn.
Đảm bảo an ninh lương thực, đây là một vấn đề bức xúc đặt ra trong quá trình
phát triển bền vững của đất nước: Việc nâng cao chất lượng đất nông nghiệp, nâng
cao trình độ sản xuất nông nghiệp là nhu cầu đương nhiên cần đặt ra để đảm bảo
nhu cầu lương thực cho từng quốc gia. Thiếu lương thực sẽ dẫn đến việc bị phụ
thuộc vào nguồn nhập khẩu, nhiều trường hợp đã dẫn tới thiếu chủ động, gây mất an
ninh xã hội và từ đó tạo nguy cơ mất an ninh chính trị quốc gia.
Việt Nam là một nước nông nghiệp đang tiến hành quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nhưng sản xuất nông nghiệp bình quân trên đầu người còn thấp. Vấn đề
an ninh lương thực luôn được Nhà nước đặt ra mặt dù nước ta vẫn đang là nước
trong tốp dẫn đầu thế giới về xuất khẩu gạo [35].
* Đất nông nghiệp là môi trường sống, môi trường không gian để sản xuất

nông nghiệp: Sản xuất nông nghiệp có đặc thù là sản xuất ở ngoài trời, phải tiếp xúc
với tự nhiên, cây trồng sống trên đất, quang hợp nhờ ánh sáng mặt trời, hút nước từ
trong đất, cá phải sống dưới nước sông, hồ, biển, gia xúc, gia cầm phải có chuồng
trại, có bãi chăn thả; con vật nuôi phải có thức ăn mà thức ăn lại chính là các động
thực vật được sản xuất từ trong nông nghiệp. Tất cả những yếu tố đó chính là môi

11


trường sống, là không gian để sản xuất. Muốn sản xuất phát triển thì chung ta phải
biết giữ gìn, bảo vệ môi trường, không vi phạm các quy luật tự nhiên, không chỉ
biết khai thác đất đai mà còn phải biết bồi bổ đất đai, tạo lập môi trường sống tốt
nhất cho cây trồng vật nuôi.

1.1.4. Vai trò quản lý nhà nước về đất đai và đất nông nghiệp nói riêng.
Đất đai là một nguồn tài nguyên hữu hạn, nó chỉ trở nên vô hạn và quý giá tùy
thuộc hoàn toàn vào sự hiểu biết và thái độ đối xử của con người đối với đất đai, đất
đai không thể tái sinh, là tư liệu sản xuất đặc biệt không gì thay thế được trong sản
xuất nông - lâm nghiệp.
Đất đai khi tham gia thị trường thì trở thành một loại hàng hóa đặc biệt mà
không một Nhà nước nào bỏ qua việc định hướng, điều tiết và kiểm soát. Điều này
không quyết định bởi ý chí của Nhà nước mà là sự bắt buộc phải làm để toàn bộ nền
kinh tế được vận hành một cách lành mạnh và có hiệu quả. Không ai có thể phủ
nhận được vai trò to lớn của nền sản xuất nông nghiệp và thị trường bất động sản
đối với nền kinh tế nước ta hiện nay, cũng như chúng ta không thể bỏ qua vai trò
quản lý của Nhà nước đối với đất đai.
Kể từ khi được thành lập cách đây 65 năm, trải qua những chặng đường lịch
sử, ngành quản lý đất đai đã từng bước lớn mạnh và trưởng thành, khẳng định vị trí
của mình trong hệ thống quản lý Nhà nước, đã có những đóng góp to lớn vào sự
nghiệp giải phóng dân tộc cũng như xây dựng và phát triển đất nước. Trong bất cứ

giai đoạn phát triển lịch sử nào của dân tộc, của đất nước, công tác quản lý nhà
nước về đất đai luôn nỗ lực thực hiện tốt chủ trương của Đảng, Nhà nước về đất đai.
Những quyết sách đúng đắn đã trở thành cơ sở quan trọng để giải quyết các mối
quan hệ về đất đai trong xã hội, trở thành động lực quan trọng, góp phần to lớn vào
công cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, phát triển đất nước.
Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, các hoạt động
của ngành đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng góp phần đẩy mạnh sự nghiệp
phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế, từng bước “nắm chắc, quản chặt, khai thác có
hiệu quả” nguồn tài nguyên đất đai, đặc biệt là đất nông nghiệp. Cụ thể quản lý đất
đai có những vai trò cơ bản sau:
+ Việc xây dựng, ban hành theo thẩm quyền hệ thống văn bản quy phạm pháp
luật về đất đai phù hợp yêu cầu nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa,
tạo ra nguồn nội lực to lớn thúc đẩy sản xuất phát triển, thu hút nguồn vốn đầu tư
nước ngoài. Công tác quản lý nhà nước về đất đai và đất nông nghiệp nói riêng đã đi

12


vào nền nếp, góp phần giải phóng và đưa đất đai trở thành nguồn lực quan trọng trong
phát triển kinh tế, đảm bảo an ninh lương thực, góp phần xóa đói, giảm nghèo.
+ Hoạt động điều tra cơ bản như điều tra thổ nhưỡng, đánh giá đất, đo đạc bản
đồ, thống kê, kiểm kê đất đai được tăng cường để “nắm chắc” chất lượng đất, diện
tích các loại đất làm cơ sở cho việc phân vùng sản xuất, bố trí cây trồng, vật nuôi
hợp lý; phân bổ lực lượng lao động, dân cư và phát triển đô thị góp phần vào việc
hoạch định chiến lược phát triển kinh tế - xã hội.
+ Công tác đo đạc lập bản đồ địa chính, đăng ký đất đai, lập hồ sơ địa chính,
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, xây dựng hệ thống thông tin đất đai đáp
ứng yêu cầu về chất lượng phục vụ công tác quản lý đất đai theo hướng hiện đại.
Công tác lưu trữ, thông tin đất đai đáp ứng yêu cầu tra cứu, sử dụng cho các mục
tiêu khác nhau.

+ Công tác lập và quản lý quy hoạch được triển khai ở các cấp góp phần quan
trọng trong thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của cả nước và từng
địa phương trong mỗi giai đoạn: đảm bảo sử dụng đất đai một cách tiết kiệm, hợp
lý, có hiệu quả và bền vững nguồn tài nguyên đất, bảo vệ môi trường sinh thái. Đất
đai cơ bản được giao cho các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân quản lý, sử dụng một
cách hiệu quả. Diện tích đất trống đồi núi trọc dần được phủ xanh.
+ Từ những hoạt động quản lý nhà nước về đất đai đã từng bước chuyển dịch nền
sản xuất nông nghiệp sang sản xuất hàng hóa với đa dạng và cơ cấu hợp lý các loại sản
phẩm có chất lượng, có giá trị cao phù hợp kinh tế thị trường, hạn chế tình trạng sử
dụng đất manh mún bằng các chính sách dồn điền đổi thửa, bố trí đất đai để hình thành
các vùng sản xuất tập trung thuận lợi cho áp dụng tiến bộ khoa học vào sản xuất.
+ Quyền sử dụng đất được trao cho các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân qua đó đã
từng bước giải quyết tốt tình trạng khiếu nại, tranh chấp đất đai, góp phần ổn định
trật tự xã hội. Quyền sử dụng đất trở thành hàng hóa trong thị trường bất động sản,
khơi thông nguồn vốn cho đầu tư phát triển tạo nguồn thu từ đất đai cho ngân sách
Nhà nước ngày càng tăng nhanh.
+ Cũng bằng các hoạt động quản lý nhà nước về đất đai, đối với đất nông
nghiệp Nhà nước ban hành nhiều văn bản nhằm bảo vệ nghiêm ngặt đất nông
nghiệp: nội dung này được quy định tại Điều 36, Điều 37 và Điểu 125 Luật Đất đai
năm 2003, theo các quy định này thì việc giao đất nông nghiệp sử dụng vào mục
đích khác phải được phép của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Chỉ có Chính phủ,
UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, UBND cấp huyện mới được giao đất

13


nông nghiệp. Khi giao đất nông nghiệp sử dụng vào mục đích khác phải tiến hành
theo một trình tự, thủ tục rất nghiêm ngặt và người giao đất phải thực hiện nghĩa vụ
tài chính [14]. Năm 2012, Chính phủ ban hành Nghị định số 42/2012/NĐ-CP quy
định về quản lý, sử dụng đất lúa nhằm mục tiêu an ninh lương thực, đây là một

quyết sách đúng đắn của nhà nước trong quản lý nhà nước về đất nông nghiệp.
1.1.5. Chương trình xây dựng nông thôn mới và vai trò của công tác, dồn
điền đổi thửa đất nông nghiệp
Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 - 2020
của Chính phủ là việc làm hết sức cần thiết để phù hợp với tình hình mới, góp phần đẩy
nhanh tiến độ thực hiện chương trình xây dựng nông thôn trên toàn quốc và là một
bước tiến quan trọng trong công tác chỉ đạo của Trung ương.
Có thể thấy, trong Chương trình xây dựng nông thôn mới, việc chú trọng cho
xây dựng cơ sở hạ tầng, nhất là đường giao thông nông thôn và hệ thống điện,
trường học, trạm y tế… kết hợp công tác dồn điền đổi thửa đất nông nghiệp tạo nên
các vùng sản xuất tập trung, hạn chế sử dụng đất manh mún được các địa phương,
mà cụ thể là các xã được chọn làm điểm đặc biệt quan tâm. Đa số các xã đã huy
động được sức dân tham gia xây dựng hạ tầng bằng việc huy động nhân dân góp
ngày công, hoặc hiến đất, giải phóng mặt bằng để xây dựng hạ tầng, xây dựng hệ
thống giao thông, thủy lợi nội đồng thể hiện rõ ràng sự đồng thuận và quyết tâm của
nhân dân trong xây dựng nông thôn mới, đồng thời cũng khẳng định, đây là chủ thể
của Chương trình xây dựng nông thôn mới.
Sau một thời gian thực hiện Chương trình xây dựng nông thôn mới, ở một số
tỉnh, sản xuất nông nghiệp đã có bước chuyển biến tích cực với năng suất cây trồng
tăng cao, đời sống vật chất và tinh thần của người dân nông thôn từng bước được
nâng lên. Tuy vậy, tiến độ thực hiện chương trình còn chậm, nhiều địa phương lúng
túng trong hành động, phối hợp giữa các ngành, các cấp còn nhiều hạn chế, người
dân chưa thực sự xác định mình chính là chủ thể của xây dựng nông thôn mới... Đối
với Nhà nước, các văn bản về chương trình xây dựng nông thôn mới đã ban hành
đồng bộ nhưng luôn thay đổi, có những nội dung hiện nay không phù hợp song
chậm được bổ sung, thay thế dẫn đến việc các địa phương rất khó thực hiện [37].
* Vai trò của công tác, dồn điền đổi thửa
+ Dồn điền, đổi thửa đất nông nghiệp sẽ khắc phục được tình trạng ruộng đất
manh mún, tạo tiền đề để cho việc quy hoạch lại đồng ruộng, là cơ sở cho việc
hoạch định chính sách đầu tư phát triển sản xuất nông nghiệp, tạo điều kiện thuận


14


lợi cho việc đầu tư xây dựng các công trình công cộng hạ tầng phục vụ sản xuất
như: đường giao thông nội đồng, cứng hóa hệ thống kênh mương, quy hoạch những
vùng chuyên canh, khai thác được lợi thế của từng vùng đất khác nhau.
+ Dồn điền, đổi thửa tạo điều kiện cho việc chuyển dịch cơ cấu sản xuất trong
nội bộ ngành nông nghiệp, thúc đẩy phát triển hàng hóa, làm tiền đề để hình thành
các doanh nghiệp trong nông nghiệp và có điều kiện để hình thành trang trại, nông
trại, góp phần đưa chăn nuôi ra khỏi khu dân cư, thúc đẩy phân công lại lao động xã
hội. Bởi vì hiện nay do ruộng có ô thửa nhỏ, trên một cánh đồng các hộ canh tác
những cây trồng khác nhau có thời gian sinh trưởng khác nhau, chế độ chăm sóc thu
hoạch khác nhau. Điều đó gây ảnh hưởng và hạn chế lẫn nhau.
+ Dồn điền, đổi thửa thành công sẽ thuận lợi cho việc ứng dụng các tiến bộ khoa
học kỹ thuật vào sản xuất, tạo điều kiện sản xuất ra khối lượng sản phẩm hàng hóa đủ
lớn giúp cho công nghiệp chế biến phát triển, thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa nông sản.
1.2. Cơ sở pháp lý về quản lý, sử dụng đất nông nghiệp
Ở Việt Nam, công tác quản lý sử dụng tài nguyên đất được quan tâm rất sớm.
Những năm đầu của thập kỷ 80, Nhà nước đã xây dựng một hệ thống chính sách về
đất đai phù hợp với tình hình đất nước thể hiện ở chính sách thống nhất quản lý ruộng
đất và tăng cường công tác quản lý ruộng đất, đồng thời thực hiện công tác đo đạc
phân hạng đất và đăng ký thống kê đất đai trong cả nước. Đặc biệt ngày 18/12/1980
Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Hiến pháp sửa đổi
quy định: “Đất đai, rừng núi, sông hồ, hầm mỏ, tài nguyên thiên nhiên trong lòng đất,
ở vùng biển và thềm lục địa... đều thuộc sở hữu toàn dân và Nhà nước thống nhất
quản lý đất đai theo quy hoạch chung”. Đây là cơ sở pháp lý vô cùng quan trọng để
thực thi công tác quản lý đất đai trên phạm vi cả nước [18].
Nội dung quản lý đất nông nghiệp có những chuyển biến tích cực khi thực hiện
Chỉ thị 100-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng ngày 13/01/1981 về việc mở

rộng khoán sản phẩm đến nhóm lao động trong hợp tác xã nông nghiệp, Chỉ thị
100-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng được coi là tiền đề cho những chính
sách mang tính cải cách sâu rộng sau này.
Ngày 29/12/1987, Quốc hội khóa VIII chính thức thông qua Luật Đất đai lần
thứ nhất và nó chính thức có hiệu lực từ ngày 08/01/1988. Nghị quyết số 10/NQ-TW
ngày 05/4/1988 của Bộ Chính trị về giao đất cho hộ gia đình sử dụng ổn định lâu dài
là dấu mốc có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với sự phát triển của công tác quản lý,
sử dụng đất đai trong giai đoạn xây dựng đổi mới đất nước, góp phần xóa đói giảm

15


nghèo ở nông thôn, làm cho diện mạo của nông, lâm nghiệp, nông dân, nông thôn
nước ta có những bước phát triển đáng kể, đưa nông nghiệp nước ta từ chỗ thiếu ăn
đến chỗ đủ ăn và có lượng gạo xuất khẩu đứng hàng thứ hai trên thế giới.
Cùng với những bước phát triển của cơ chế thị trường, Nhà nước thực hiện
chính sách hội nhập với thế giới, Hiến pháp năm 1992 ra đời đánh dấu điểm khởi
đầu của công cuộc đổi mới chính trị. Tại Điều 17 quy định: “Đất đai thuộc sở hữu
toàn dân Nhà nước thống nhất quản lý toàn bộ đất đai theo quy hoạch và pháp luật”.
Đồng thời Luật Đất đai năm 1988 không còn phù hợp và bọc lộ nhiều điểm bất
cập, chính vì vậy ngày 01/7/1993 Luật Đất đai 1993 được thông qua, chính thức có
hiệu lực từ ngày 15/10/1993.
1.2.1. Những quy định pháp lý về quản lý sử dụng đất nông nghiệp theo
Luật Đất đai năm 1993.
Hệ thống pháp luật về đất đai thời kỳ này đã đánh dấu một mốc quan trọng về sự
đổi mới chính sách đất đai của Nhà nước ta đối với những thay đổi quan trọng như: Đất
đai được khẳng định là có giá trị; ruộng đất nông, lâm nghiệp được giao ổn định lâu dài
cho các hộ gia đình, cá nhân; người sử dụng đất được hưởng các quyền: chuyển đổi,
chuyển nhượng, thừa kế, tặng cho, thế chấp quyền sử dụng đất... tuy nhiên quyền
chuyển nhượng đất nông nghiệp, lâm nghiệp bị hạn chế, chỉ được thực hiện khi:

- Chuyển đi nơi khác;
- Chuyển sang làm nghề khác;
- Không còn khả năng trực tiếp lao động.
Luật Đất đai năm 1993 cũng quy định 7 nội dung quản lý Nhà nước về đất đai
tại Điều 13:
- Điều tra, khảo sát, đo đạc, đánh giá và phân hạng đất, lập bản đồ địa chính;
- Quy hoạch và kế hoạch hóa việc sử dụng đất;
- Ban hành các văn bản pháp luật về quản lý, sử dụng đất và tổ chức thực hiện
các văn bản đó;
- Giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất;
- Đăng ký đất đai, lập và quản lý hồ sơ địa chính, quản lý các hợp đồng sử
dụng đất, thống kê, kiểm kê đất đai, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất;
- Thanh tra việc chấp hành các chế độ, thể lệ về quản lý, sử dụng đất;
- Giải quyết tranh chấp về đất đai; giải quyết khiếu nại, tố cáo các vi phạm
trong việc quản lý và sử dụng đất đai [13].
Nghị định số 64/CP ngày 27/9/1993 quy định về việc giao đất nông nghiệp

16


×