Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Lãnh đạo của đảng bộ hà tây về xây dựng và phát triển văn hóa trong giai đoạn 1991 2006

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (888.35 KB, 99 trang )

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Những năm gần đây, với việc thực hiện đường lối đổi mới của Đảng
Cộng sản Việt Nam, đời sống kinh tế, chính trị và văn hóa của Việt Nam đã
có những bước chuyển biến lớn. Nền kinh tế thị trường đã tạo nên động lực
thúc đẩy kinh tế văn hóa phát triển. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân được nâng lên một bước. Việt Nam có nhiều cơ hội tiếp cận với những
thành tựu khoa học kỹ thuật công nghệ tiên tiến trên thế giới. Sự giao lưu văn
hóa diễn ra mạnh mẽ là điều kiện để chúng ta tiếp xúc với những thành tựu
của nền văn hóa - văn minh nhân loại.
Bên cạnh những mặt tích cực nói trên, sự hội nhập và kinh tế thị trường
cũng chứa đựng trong đó không ít những yếu tố tiêu cực, ảnh hưởng sâu sắc
đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Đáng lo ngại là trước những biến động phức tạp trên thế giới, một số
người dao động, hoài nghi về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, phủ nhận vai
trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Không ít người còn mơ hồ, mất
cảnh giác trước những luận điệu thù địch, xuyên tạc, bôi nhọ chế độ. Sự suy
thoái về tư tưởng đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng
viên, bệnh sùng ngoại, coi thường giá trị dân tộc, chạy theo lối sống thực
dụng, coi trọng lợi ích cá nhân, coi nhẹ lợi ích cộng đồng, các tệ nạn xã hội
như mại dâm ma túy… đang là những vấn đề nổi cộm trong lĩnh vực văn hóa.
Với quan điểm văn hóa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã
hội, cùng với việc lãnh đạo đổi mới về kinh tế và chính trị, Đảng đặc biệt
quan tâm xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam đậm đà bản sắc dân
tộc. Tiếp tục tinh thần “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội” và Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII của Đảng, tháng 7
năm 1998 - Hội nghị Trung ương lần thứ 5 (khóa VIII) Đảng Cộng sản Việt

1



Nam đã ra nghị quyết về “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiến
tiến đậm đà bản sắc dân tộc”.
Hà Tây, trước khi hợp nhất với Hà Nội vào năm 2008, là một tỉnh thuộc
đồng bằng sông Hồng, cửa ngõ phía Tây của Thủ đô Hà Nội. Cùng với Thăng
Long, xứ Đông, xứ Đoài đã có một lịch sử văn hóa lâu đời. Hà Tây được coi là
“Đất tụ khí anh hoa”, “là cái bình phong che chắn trung đô”, là vùng đất “Bốn
bề như gấm như hoa, nhìn vào quê lụa, nhìn ra kinh kỳ”, là quê hương của
những người thợ khéo, là đất trăm nghề, có nền văn hóa lâu đời. Do đặc điểm
của vùng đất ven đô, ngay từ xa xưa, người dân Hà Tây, ngoài giỏi giang việc
đồng áng, cấy cày, thạo nghề thủ công, mỹ nghệ, còn có những ngày hội làng,
những điệu hát đặc sắc. Bằng toàn bộ những sản phẩm được tạo ra bởi bàn tay
khéo léo - người thợ thủ công Hà Tây đã cung cấp cho thủ đô nhiều mặt hàng
thiết yếu. Ngược lại thông qua hoạt động giao lưu hàng hóa giữa các vùng sản
xuất, các làng nghề với kinh thành, những giá trị văn hóa, văn minh của cuộc
sống nơi thành thị đã ảnh hưởng rất nhiều, góp phần làm thay đổi lối nghĩ, nếp
sống của một bộ phận cư dân nông nghiệp ở Hà Tây.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, kinh tế, văn hóa của tỉnh đã có những bước
phát triển đáng kể. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên
một bước. Việc gìn giữ và phát huy văn hóa, khôi phục và phát triển các làng
nghề truyền thống không chỉ tạo ra một sự chuyển biến đáng kể trong đời sống
kinh tế ở nông thôn mà còn góp phần bảo tồn những giá trị tinh thần phong phú
của người dân Hà Tây ở các làng nghề, tạo điều kiện cần thiết để thực hiện một
cách có hiệu quả cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn
hóa” nhất là phong trào “Xây dựng gia đình văn hóa, làng văn hóa”.
Tuy nhiên do ảnh hưởng bởi mặt trái của nền kinh tế thị trường, ở một
số địa phương trong tỉnh, kể cả làng nghề truyền thống, đã xuất hiện một số
hiện tượng tiêu cực làm ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của các giá trị
văn hóa truyền thống. Vấn đề này được phản ánh qua tình trạng ở một số địa


2


phương, vì mục đích làm giàu, người dân đã không quan tâm đúng mức đến
việc chăm lo xây dựng và phát triển một nền tảng văn hóa tinh thần lành
mạnh. Nhiều làng ở Hà Tây hiện nay đang tồn tại một số vấn đề đáng quan
tâm như môi trường cảnh quan bị ô nhiễm và xâm hại nghiêm trọng, các loại
tội phạm và tệ nạn xã hội gia tăng, các quy ước về việc cưới, việc tang và lễ
hội bị vi phạm, v.v...
Nghiên cứu quá trình Đảng bộ Hà Tây thực hiện đường lối chủ trương
của Đảng và Nhà nước, lãnh đạo nhân dân trên địa bàn tỉnh giữ gìn và phát
huy bản sắc văn hóa truyền thống trong thời kỳ đổi mới, từ đó rút ra một số
bài học kinh nghiệm góp phần xây dựng, phát triển văn hóa trong thời gian tới
là việc làm có ý nghĩa khoa học và thực tiễn.
Từ những lý do trên, tôi chọn đề tài: “Lãnh đạo của Đảng bộ Hà Tây
về xây dựng và phát triển văn hóa trong giai đoạn 1991 - 2006” làm luận
văn thạc sĩ lịch sử, chuyên ngành lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Từ năm 1998 - 2006, với việc triển khai nghị quyết Trung ương 5 khóa
VIII về “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiến tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc” cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”
mà trọng tâm là phong trào “Xây dựng gia đình văn hóa, làng văn hóa, khu
phố văn hóa, cơ quan đơn vị doanh nghiệp văn hóa” được triển khai đồng bộ,
rộng khắp đã và đang tạo ra một diện mạo mới trong đời sống tinh thần của
nhân dân ở các địa phương trong tỉnh đã được tạo ra. Với các cách tiếp cận
khác nhau, nhiều nhà khoa học, nhiều nhà quản lý về lĩnh vực văn hóa đã
quan tâm, nghiên cứu, đánh giá tổng kết về văn hóa làng. Nhiều công trình
nhiều tài liệu vừa mang tính lý luận, vừa mang tính thực tiễn sâu sắc như các
tác phẩm: “Sự biến đổi làng xã ngày nay ở đồng bằng sông Hồng” của giáo sư
tiến sĩ Tô Duy Hợp do nhà xuất bản Khoa học Xã hội Hà Nội ấn hành năm

2000, đi sâu phân tích quá trình biến đổi mọi mặt của làng xã. Cũng trong

3


năm 2000 - Sở Văn hóa Thông tin Hà Tây xuất bản tập sách “Làng mỹ tục Hà Tây” của tác giả Nguyễn Tá Nhí. Đây là một công trình nghiên cứu khá
công phu về những làng xã tiêu biểu từng được tặng danh hiệu “Mỹ tục khả
phong” của tỉnh Hà Tây. Kết quả nghiên cứu này không chỉ góp phần khẳng
định truyền thống văn hiến tốt đẹp của quê hương, mà còn phát huy tác dụng
tích cực trong cuộc vận động xây dựng đời sống mới hiện nay ở nông thôn Hà
Tây. Tập sách “Lễ hội cổ truyền Hà Tây” do Sở Văn hóa Thông tin Hà Tây
phát hành vào năm 1994, lại phản ánh sự phong phú đặc sắc của văn hóa Hà
Tây thông qua việc sưu tầm giới thiệu những lễ hội cổ truyền độc đáo ở nhiều
vùng quê khác nhau trên địa bàn Hà Tây. Liên tục trong các năm 2001, 2002
và 2003 để cổ vũ động viên nhân dân các địa phương tích cực tham gia hưởng
ứng phong trào “Xây dựng gia đình văn hóa, làng văn hóa”, Sở Văn hóa
Thông tin Hà Tây đã xuất bản bộ sách “Làng văn hóa - Hà Tây” gồm nhiều
tập. Đây là tập hợp những bài viết của nhiều tác giả, nêu gương, giới thiệu và
trao đổi những kinh nghiệm hay của các tập thể và cá nhân điển hình trong
phong trào “Xây dựng gia đình văn hóa, làng văn hóa” ở các địa phương
trong tỉnh.
Tuy nhiên, chưa có công trình nào đề cập một cách có hệ thống và
chuyên sâu về lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Hà Tây về xây dựng và phát triển
văn hóa trong thời kỳ đổi mới.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích:
- Trình bày một cách tương đối có hệ thống quá trình Đảng bộ tỉnh Hà
Tây lãnh đạo xây dựng, phát triển văn hóa Hà Tây, qua đó tìm hiểu sự vận
dụng của Đảng bộ tỉnh Hà Tây trong việc thực hiện đường lối văn hóa của
Trung ương Đảng để xây dựng, phát triển văn hóa trong tỉnh.

- Nêu một số bài học kinh nghiệm của Đảng bộ tỉnh Hà Tây trong quá
trình lãnh đạo xây dựng và phát triển văn hóa giai đoạn 1991 - 2006.

4


* Nhiệm vụ:
Để thực hiện được mục tiêu trên, nhiệm vụ của luận văn là:
- Nêu một cách khái quát sự phát triển của văn hóa Hà Tây dưới sự lãnh
đạo của Đảng bộ Hà Tây qua các thời kỳ.
- Nghiên cứu sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ Hà Tây trong việc thực
hiện những chủ trương, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng
phát triển văn hóa giai đoạn 1991 - 2006 trên địa bàn tỉnh.
- Rút ra những bài học nhằm thực hiện tốt hơn nữa đường lối xây dựng
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hóa trên địa bàn tỉnh Hà Tây.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những chủ trương, đường lối và
sự chỉ đạo thực tiễn của Đảng bộ tỉnh Hà Tây về lĩnh vực văn hóa trong giai
đoạn 1991 -2006.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung đi sâu phân tích làm rõ
những chủ trương và chỉ đạo thực tiễn của Đảng bộ Hà Tây trong lĩnh vực
văn hóa giai đoạn 1991 - 2006 ở địa bàn tỉnh Hà Tây. Lý do tác giả chọn giai
đoạn 1991 - 2006 là kỳ họp quốc hội thứ 9 (khóa VIII) từ ngày 27/7 đến ngày
12/8/1991 đã quyết định tách tỉnh Hà Sơn Bình thành hai tỉnh: Hà Tây và Hòa
Bình. 5 huyện: Ba Vì, Phúc Thọ, Thạch Thất, Đan Phượng, Hoài Đức và thị
xã Sơn Tây được tách khỏi Thành phố Hà Nội để trở về Hà Tây. Tỉnh Hà Tây
được tái lập và chính thức làm việc từ ngày 1/10/1991.
Ngày 29/5/2008, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Việt Nam chính thức thông qua Nghị quyết về việc điều chỉnh địa giới hành

chính Thủ đô Hà Nội và một số tỉnh liên quan, theo đó toàn bộ diện tích tự
nhiên và dân số của tỉnh Hà Tây được chuyển về Hà Nội (trừ xã Tân Đức
thuộc huyện Ba Vì được chuyển về thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ theo một

5


Nghị quyết riêng của Quốc hội). Hà Tây trở thành một phần của Hà Nội
nhưng sự kiện này không ảnh hưởng đến việc nghiên cứu của đề tài.
5. Nguồn tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
* Nguồn tài liệu
Đề tài dựa trên các nguồn tài liệu sau:
- Các tác phẩm của Mác, Lênin, Hồ Chí Minh liên quan đến đề tài.
- Hệ thống các văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam từ năm 1991-2006.
- Các văn kiện của Đảng bộ tỉnh Hà Tây, báo cáo hàng năm của Ủy ban
nhân dân tỉnh, Sở Văn hóa Thông tin tỉnh Hà Tây.
- Các công trình nghiên cứu về văn hóa, các công trình lịch sử Đảng
Cộng sản Việt Nam.
* Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng kết hợp phương pháp lịch sử và phương pháp lôgich,
phương pháp so sánh, phương pháp phân tích tổng hợp.
6. Đóng góp của luận văn
Góp phần hệ thống hóa quá trình Đảng bộ tỉnh Hà Tây lãnh đạo xây
dựng, phát triển văn hóa trên địa bàn tỉnh giai đoạn 1991 - 2006.
Có thể làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu giảng dạy lịch
sử đảng bộ, địa phương - địa bàn Hà Tây thuộc Hà Nội ngày nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương, 8 tiết.
Chƣơng 1: Vài nét về văn hóa của tỉnh Hà Tây thời kỳ trước khi tái lập

tỉnh năm 1991.
Chƣơng 2: Quá trình Đảng bộ tỉnh Hà Tây lãnh đạo xây dựng phát
triển văn hóa trên địa bàn tỉnh thời kỳ 1991-2006.
Chƣơng 3: Kết quả và một số bài học kinh nghiệm lãnh đạo xây dựng
và phát triển văn hóa của Đảng bộ tỉnh Hà Tây.

6


Chƣơng 1
VÀI NÉT VỀ VĂN HÓA CỦA TỈNH HÀ TÂY THỜI KỲ
TRƢỚC KHI TÁI LẬP TỈNH NĂM 1991

1.1. Điều kiện tự nhiên và xã hội
1.1.1. Địa giới hành chính và điều kiện tự nhiên
Tỉnh Hà Tây được thành lập ngày 1/7/1965 theo Nghị quyết số
103/NQ-TVQH ngày 21/4/1965 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội trên cơ sở
hợp nhất tỉnh Hà Đông và tỉnh Sơn Tây. Đến năm 1976 sau thắng lợi của
cuộc kháng chiến chống Mỹ, tại kỳ họp thứ IV, Quốc hội khóa VI đã quyết
định sát nhập tỉnh Hà Tây với tỉnh Hoà Bình thành tỉnh Hà Sơn Bình. Năm
1979 chuyển 5 huyện: Ba Vì, Phú Thọ, Thạch Thất, Hoài Đức và Thị xã Sơn
Tây sát nhập vào Hà Nội [46, tr.8].
Ngày 12/8/1991 tại kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa VIII quyết định chia
tỉnh Hà Sơn Bình thành 2 tỉnh Hà Tây và tỉnh Hoà Bình, định lại ranh giới
của Hà Nội, chuyển trả lại cho Hà Tây các huyện Ba Vì, Phúc Thọ, Thạch
Thất, Đan Phượng, Hoài Đức và Thị xã Sơn Tây [46, tr.8].
Như vậy có thể nói rằng sau 26 năm, với 3 lần hợp nhất, chia tách và tái
hợp nhất tỉnh Hà Tây mới tạm ổn định, điều này có ảnh hưởng rất lớn đến quá
trình phát triển của tỉnh. Những vấn đề về kinh tế, xã hội và văn hóa cũng vì
thế mà có những thay đổi nhất định, trong đó đáng quan tâm là sự biến dạng

của một số giá trị văn hóa truyền thống để phù hợp với sự thay đổi của việc
sắp xếp, điều chỉnh địa giới hành chính.
Tính đến đầu năm 2005, sau một vài điều chỉnh về địa giới hành chính
trong nội bộ các địa phương trong tỉnh theo Nghị quyết Hội đồng Nhân dân
tỉnh khóa XIV (kỳ họp thứ III năm 2005), tỉnh Hà Tây có diện tích là 2.191,6
km2, dân số hơn 2,5 triệu người, mật độ dân số bình quân 1.141 người/km2
nơi cao nhất 4.148 người/km2 (Hà Đông), thấp nhất 602 người/km2 (Ba Vì).

7


Về đơn vị hành chính, Hà Tây gồm 2 thị xã là Hà Đông, Sơn Tây; 12 huyện là
các huyện Ba Vì, Phúc Thọ, Đan Phượng, Hoài Đức, Quốc Oai, Thạch Thất,
Chương Mỹ, Thanh Oai, Thường Tín, Phú Xuyên, Ứng Hòa, Mỹ Đức; gồm
295 xã, 27 phường, thị trấn [46, tr.9].
Hà Tây nằm ở rìa Tây của đồng bằng Bắc Bộ phía đầu bên phải của
võng Sông Hồng. Địa hình tỉnh Hà Tây gồm 3 vùng chủ yếu.
Vùng núi Ba Vì có diện tích khoảng 7000 ha. Đỉnh cao nhất của núi Ba
Vì cao trên 1280m, ngọn thấp nhất trên 700m. Đây là vùng sinh thái khá hoàn
chỉnh. Tính độ cao từ 400m trở lên, khí hậu giống như vùng ôn đới, nhưng lại
có độ ẩm cao do ảnh hưởng của dòng sông Đà và không khí ấm từ biển Đông
thổi vào, vì thế cây cối quanh năm xanh tốt. Mặt khác, do kiến tạo địa chất, ở
vùng núi Ba Vì có rất nhiều khe, thác thu hút đông đảo cư dân đến sinh sống.
Độ cao từ 100 m trở xuống là địa bàn sinh sống của người Mường, người Dao
và người Kinh thuộc các xã Khánh Thượng, Ba Vì, Minh Quang, Ba Trại,
Tản Lĩnh, Sơn Đà, Vân Hòa.
Vùng núi đá vôi và đất đồi gò: Do đặc điểm về kiến tạo địa chất nên
ngay giữa vùng đồng bằng một số huyện trong tỉnh, cũng có nhiều nơi có núi
đá, núi đất đó là một phần diện tích của huyện Thạch Thất, Quốc Oai,
Chương Mỹ. Mặt khác, ở phía Tây của tỉnh, do được che chắn bởi dãy núi đá

vôi, kéo dài từ Miếu Môn đến Hương Sơn, nên các huyện Mỹ Đức, Ứng Hoà
cũng có nhiều nơi thuộc địa hình miền núi đá vôi. Do quá trình xâm thực, bào
mòn của tự nhiên nên ở những vùng này có rất nhiều hang động kỳ thú, đặc
biệt nổi tiếng là động Hương Tích thuộc xã Hương Sơn huyện Mỹ Đức. Dưới
chân núi Ba Vì, đặc biệt phần sườn Đông, sườn Tây trải rộng từ các xã Thuần
Mỹ, Thuỵ An, Cam Thượng (Ba Vì) cho đến các xã Xuân Sơn, Kim Sơn,
phường Xuân Khánh, xã Trung Sơn Trần, khu Đồng Mô - Hòa Lạc (thuộc thị
xã Sơn Tây), các xã Hòa Thạch, Thạch Hòa, một phần huyện Chương Mỹ,
Mỹ Đức là vùng đất đồi gò rộng lớn - diện tích khoảng trên 38.000 m2.

8


Vùng đồng bằng phía Đông của tỉnh rộng gần 170.000 ha (chiếm 65%
diện tích đất tự nhiên của tỉnh), có địa hình nghiêng từ Tây sang Đông và từ
Bắc xuống Nam, trải rộng trên địa bàn các huyện Đan Phượng, Hoài Đức,
một phần của huyện Ba Vì, Phúc Thọ, Quốc Oai, các huyện Thanh Oai,
Thường Tín, Phú Xuyên, Ứng Hoà và Mỹ Đức. Tính từ núi Nương Ngái
(Hương Sơn) trở ra đến giáp sông Đáy, độ cao trung bình của bề mặt đồng
bằng chỉ từ 2 - 10m (So với mực nước biển, rất thuận lợi cho việc canh tác,
đặc biệt trồng cây lương thực, thực phẩm.
Hà Tây là vùng đất cổ trải rộng từ chân núi Ba Vì đến vùng đồng bằng
rộng lớn được bồi đắp bởi phù sa của những con sông lớn: sông Đà, sông
Hồng, sông Đáy, sông Tích, sông Nhuệ. Lãnh thổ Hà Tây thuộc đồng bằng Bắc
Bộ, nhưng lại có sắc thái địa hình riêng của một tỉnh nằm ở rìa phía Tây của
đồng bằng này. Đường ranh giới hiện tại của Hà Tây được xác định như sau:
- Phía Bắc giáp sông Hồng, từ xã Tân Đức của huyện Ba Vì đến xã
Liên Hà của huyện Đan Phượng, bên kia sông là đất Vĩnh phúc, kéo dài
khoảng 52 km.
- Phía nam giáp huyện Kim Bảng tỉnh Hà Nam dài khoảng 42 km.

- Phía Tây đoạn giáp sông Thao và sông Đà, từ Trung Hà đến Tu Vũ,
bên kia sông là đất tỉnh Phú Thọ tiếp đến là vùng đồi núi Ba Vì đến dãy núi
Miếu Môn, rồi đến dãy núi đá vôi Hương Tích là dài nhất khoảng 150 km
(bên kia dãy núi là tỉnh Hoà Bình).
- Đường ranh giới phía Đông, nơi phía trên giáp hai huyện Từ Liêm và
Thanh Trì của Hà Nội, phía dưới giáp sông Hồng từ xã Ninh Sở của huyện
Thường Tín đến hết xã Quảng Năng của huyện Phú Xuyên, bên kia sông là
đất của tỉnh Hưng Yên, có chiều dài khoảng 70 km.
Hà Tây là một trong số ít các tỉnh khu vực đồng bằng Bắc Bộ có lịch sử
hình thành và phát triển tương đối phức tạp bởi sự thay đổi địa giới hành

9


chính. Điều này ảnh hưởng nhiều đến sự phát triển kinh tế xã hội và văn hóa
của tỉnh.
1.1.2. Điều kiện xã hội
Hà Tây là một trong những tỉnh có số dân đông, đứng thứ 2 (sau Thành
phố Hà Nội) so với dân số 11 tỉnh, thành phố vùng đồng bằng sông Hồng và
so với cả nước, Hà Tây có dân số đứng thứ 5 (sau Thành phố Hồ Chí Minh,
Thủ đô Hà Nội, tỉnh Thanh Hóa và tỉnh Nghệ An so với cả nước). Năm 2005
lực lượng lao động toàn tỉnh là 1.327 nghìn người [46, tr.12].
Hà Tây có 10 xã thuộc các huyện Ba Vì, Quốc Oai, Chương Mỹ, Mỹ
Đức có đồng bào dân tộc Mường, Dao sinh sống (tổng số khoảng 20.000
người).
Người Hà Tây cần cù lao động, với sản xuất nông nghiệp là chính. Thế
mạnh của Hà Tây là tỉnh có nhiều ngành, nghề truyền thống có từ lâu đời và
nổi tiếng. Toàn tỉnh có trên 1116 làng có nghề, trong đó 240 làng được công
nhận là làng nghề theo tiêu chí của tỉnh tính đến năm 2005. Các ngành nghề
của Hà Tây đã tạo việc làm cho khoảng 20 vạn lao động với mức thu nhập

cao hơn so với làm nghề nông thuần túy. Tỷ lệ lao động qua đào tạo của Hà
Tây cũng thuộc loại cao hơn một số tỉnh nông nghiệp khác. Đây chính là ưu
thế, tạo điều kiện thuận lợi cho ngành công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp
trong tỉnh nhanh chóng tiếp cận và đẩy mạnh ứng dụng những công nghệ, kỹ
thuật hiện đại vào sản xuất. Hà Tây được mệnh danh là đất trăm nghề, có
những ngành nghề truyền thống, sản xuất ra những sản phẩm nổi tiếng và
được gắn cùng tên làng, như lụa Vạn Phúc, rèn Đa Sĩ, thêu Quất Động, nón
Chuông, quạt Vác, khảm trai Chuyên Mỹ, mộc Vạn Điểm, mây tre đan Phú
Vinh, tạc tượng Sơn Đồng, giò chả Ước Lễ… và một số nghề chủ yếu khác.
Có thể nói, sự tồn tại và phát triển làng nghề đã tạo nên một nét văn hóa
truyền thống riêng của Hà Tây so với các tỉnh thuộc đồng bằng sông Hồng và
cả nước [46, tr.13].

10


Hà Tây là đất có nhiều danh nhân lịch sử (đất hai vua: Ngô Quyền,
Phùng Hưng ở Đường Lâm, Sơn Tây), đất có truyền thống cách mạng anh
hùng (Khu Cháy - Ứng Hòa), đất của những danh thắng nổi tiếng như chùa
Tây Phương (Thạch Thất), chùa Thầy (Quốc Oai), chùa Hương tích (Nam
thiên Đệ nhất động - Hương Sơn, Mỹ Đức). Là tỉnh “giàu có” về di sản văn
hóa, với một khối lượng phong phú cả về số lượng lẫn loại hình có giá trị
nghệ thuật. Nơi đây đã tìm được rất nhiều trống đồng cổ và các khu di chỉ đồ
đồng khác. Về di tích lịch sử nghệ thuật, Hà Tây sở hữu một số lượng lớn
hiện vật nghệ thuật có giá trị. Đáng chú ý là di tích từ thời Lý, thời Trần đến
nay. Hà Tây có 3.000 di tích vật thể trong đó 1.110 di tích đã được xếp hạng,
12 di tích quan trọng quốc gia như đình Chu Quyến, đình Tây Đằng, chùa
Thầy, chùa Đậu, chùa Mía, chùa Bối Khê, đình Thụy Phiêu… hàng trăm cổ
vật, hiện vật có giá trị độc đáo, những bia ký, khám thờ, các bộ tượng phật cổ.
Nhiều đồ vật, hiện vật đã được đăng ký bảo vật quốc gia như ấm đồng đầu

voi, cốc đốt trầm, chân đèn thời Mạc… Bên cạnh đó còn có những di sản văn
hóa phi vật thể đang được Hà Tây bảo tồn và lưu giữ như: Các phong tục tập
quán cổ truyền. Nhiều loại hình nghệ thuật truyền thống như hát Trống quân,
hát Chèo tầu, hát Dô, Ca Trù, hò Cửa Đình… đã được công nhận là địa chỉ
văn hóa dân gian của cả nước [60, tr.26].
1.2. Khái niệm văn hóa
Chúng ta đều biết, có rất nhiều cách hiểu, khái niệm về văn hóa khác
nhau. Nhưng chúng ta cũng dễ dàng thấy được một nét chung là hầu hết các
nhà khoa học đều nhấn mạnh cái có một không hai của văn hóa là con người.
Theo Từ điển tiếng Việt (Viện Ngôn ngữ học, Hoàng Phê chủ biên,
Nhà xuất bản Đà Nẵng, Trung tâm Từ điển học, Hà Nội - Đà Nẵng, 2002),
“văn hóa” (danh từ) có các nghĩa: 1. Tổng thể nói chung những giá trị vật chất
và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử (kho tàng văn
hóa dân tộc, văn hóa phương Đông, nền văn hóa cổ). 2. Những hoạt động của

11


con người nhằm thỏa mãn nhu cầu đời sống tinh thần (nói tổng quát) (phát
triển văn hóa, công tác văn hóa). 3. Tri thức, kiến thức khoa học. 4. Trình độ
cao trong sinh hoạt xã hội, biểu hiện của văn minh (sống có văn hóa). 5. Nền
văn hóa của một thời kỳ cổ xưa (văn hóa Đông Sơn) [31, tr.1100].
Năm 1940 Hồ Chí Minh đã đưa ra một hướng tiếp cận về văn hóa.
Người cho rằng: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người
mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa
học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ sinh hoạt hằng ngày về ăn,
mặc, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó
tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng
với những biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng với
những nhu cầu của cuộc sống và đòi hỏi của sự sinh tồn” [28, tr.431].

Năm 1943, Đảng Cộng sản Đông Dương đưa ra Đề cương văn hóa Việt
Nam. Bản Đề cương vạch rõ, văn hóa là một trong ba mặt trận (kinh tế, chính
trị và văn hóa) của Đảng. Như vậy Đề cương xếp văn hóa bên cạnh kinh tế,
chính trị và xem nó bao gồm cả tư tưởng, học thuật, nghệ thuật.
Văn hóa bao giờ cũng là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do
con người sáng tạo ra. Nó biểu hiện trình độ phát triển của mỗi dân tộc trong
quá trình lịch sử của mình. Nguyên Tổng giám đốc UNESCO F.Mayor
(Federico Mayer Zaragoza) cho biết “Đối với một số người, văn hóa chỉ bao
gồm những kiệt tác trong các lĩnh vực tư duy và sáng tạo; đối với những
người khác, văn hóa bao gồm tất cả những gì làm cho dân tộc này khác với
dân tộc khác, từ sản phẩm tinh vi hiện đại nhất cho đến tín ngưỡng, phong
tục, tập quán, lối sống, và lao động. Cách hiểu thứ hai này đã được cộng đồng
quốc tế chấp nhận tại Hội nghị liên chính phủ về các chính sách văn hóa họp
năm 1970 tại Venise [47, tr.5].

12


1.3. Khái quát về công tác xây dựng, phát triển văn hóa tỉnh Hà
Tây từ năm 1965-1991
1.3.1. Văn hóa tỉnh Hà Tây góp phần xây dựng hậu phương miền Bắc,
chi viện cho tiền tuyến miền Nam đánh thắng giặc Mỹ giai đoạn 1965 - 1975
Ngày 10/4/1965, Bộ Chính trị Trung ương Đảng ra Nghị quyết 113
quyết định hợp nhất hai tỉnh Hà Đông - Sơn Tây thành tỉnh Hà Tây. Đảng bộ
Hà Tây hợp nhất có 27.000 đảng viên sinh hoạt ở 1.056 chi bộ đảng thuộc 16
huyện, Thị uỷ và Đảng uỷ trực thuộc tỉnh.
Đảng bộ Hà Tây ra đời giữa lúc đế quốc Mỹ đưa quân đội viễn chinh
và lính chư hầu vào miền Nam Việt Nam, đồng thời tăng cường dùng không
quân, hải quân ném bom bắn phá miền Bắc nhằm cứu vãn sự sụp đổ của chế
độ nguỵ quyền tay sai.

Từ ngày 18 đến ngày 22/5/1965, Tỉnh ủy Hà Tây họp Hội nghị lần thứ
nhất để quán triệt và thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 11
khóa III (3/1965) về chuyển hướng nền kinh tế miền Bắc trong thời chiến,
chuyển hướng công tác tư tưởng, công tác tổ chức nhằm thực hiện nhiệm vụ
“xây dựng và bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam”. Đảng bộ Hà Tây tiến
hành công tác tư tưởng trong tình hình cả nước có chiến tranh: “Miền Nam là
tiền tuyến lớn, miền Bắc là hậu phương lớn, nhưng hậu phương ấy cũng đang
có chiến tranh hạn chế và đang trực tiếp chiến đấu” [29, tr.219], chống chiến
tranh phá hoại của không quân Mỹ, chống các luận điệu chiến tranh tâm lý
của đế quốc Mỹ và bọn phản động. Công tác lãnh đạo tư tưởng của Đảng bộ
tỉnh chuyển từ thời bình sang thời chiến, từ đẩy mạnh sản xuất xây dựng nền
kinh tế xã hội theo kế hoạch 5 năm lần thứ nhất sang thực hiện nhiệm vụ: vừa
sản xuất vừa chiến đấu, chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến lớn miền
Nam. Trên địa bàn tỉnh, nhiều cơ quan, xí nghiệp, trường học, bệnh viện…
của Trung ương, của Hà Nội, của tỉnh về sơ tán. Đảng bộ tỉnh mới hợp nhất,

13


trong cán bộ, đảng viên phần lớn có những băn khoăn, lo lắng về các mặt,
công tác và sinh hoạt xã hội.
Trong tình hình đó, Tỉnh uỷ đặt công tác tư tưởng lên hàng đầu, công
tác tuyên giáo đã bám sát vào Hội nghị Trung ương lần thứ 11, vào Nghị
quyết Hội nghị Tỉnh uỷ lần thứ nhất vào các cuộc vận động do Trung ương và
Tỉnh uỷ phát động nhằm làm cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân nhận thức rõ
âm mưu và hành động của đế quốc Mỹ, quán triệt tình hình và nhiệm vụ mới,
trên cơ sở đó, nâng cao nhiệt tình cách mạng, tinh thần trách nhiệm đối với
công cuộc xây dựng và bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, nâng cao ý
chí phấn đấu, tinh thần quyết thắng đế quốc Mỹ xâm lược, nâng cao ý thức tổ
chức kỷ luật, chấp hành một cách triệt để, chủ động, sáng tạo Nghị quyết, chỉ

thị của Trung ương, của tỉnh với quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ đạt kết quả
cao nhất [48].
Dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy, công tác tuyên truyền đã khẩn trương, sôi
nổi và rộng khắp hơn lúc nào hết. Tỉnh ủy chỉ đạo các cấp, các ngành tập trung
tuyên truyền nhiệm vụ “vừa sản xuất, vừa chiến đấu” chi viện sức người sức
của cho tiền tuyến lớn miền Nam. Đẩy mạnh tuyên truyền sâu rộng “Ba sẵn
sàng” trong lực lượng thanh niên, “Ba đảm đang” của hội phụ nữ, phong trào
“Tay cày, tay súng”, “Tay búa, tay súng”; phong trào làm thuỷ lợi cải tạo đồng
ruộng, áp dụng các biện pháp kỷ luật đẩy mạnh sản xuất; tiếp tục tuyên truyền
giáo dục về cuộc vận động “3 xây 3 chống”, về xây dựng cơ sở Đảng đạt danh
hiệu 4 tốt, về tin chiến thắng của quân và dân ta ở cả hai miền Nam - Bắc.
Công tác tuyên truyền đã động viên cao độ truyền thống đấu tranh
chống giặc ngoại xâm, truyền thống lao động sản xuất, phương châm vừa sản
xuất vừa đánh giặc của ông cha ta; đồng thời phát huy tinh thần yêu nước cao
độ, khí thế cách mạng hào hùng của tuổi trẻ, của đông đảo các bà, các chị
“Giỏi việc nước, đảm việc nhà”.

14


Thực hiện Chỉ thị 94 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về công tác tư
tưởng trong tình hình mới, các đồng chí cấp uỷ viên, cán bộ văn hóa các cấp
đã bám sát cơ sở, mở các hội nghị, mở các lớp học tập và bồi dưỡng về chủ
trương, đường lối, của Đảng về đường lối kháng chiến chống Mỹ, về phát
triển sản xuất nông nghiệp, công nghiệp địa phương và thủ công nghiệp. Theo
đúng tư tưởng chỉ đạo của Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 11, các hoạt
động sáng tác, văn thơ, ca kịch thông tin cổ động đều tập trung vào tuyên
truyền nhiệm vụ “vừa sản xuất, vừa chiến đấu” chi viện sức người sức của cho
tiền tuyến lớn miền Nam. Các hình thức tuyên truyền, học tập sâu rộng từ trong
Đảng đến các đoàn thể quần chúng, lực lượng vũ trang địa phương để cán bộ

và nhân dân thấy rõ âm mưu mở rộng chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ,
nhận rõ vai trò hậu phương lớn miền Bắc đối với tiền tuyến lớn miền Nam,
thúc đẩy mọi người phát huy truyền thống cách mạng, thực hiện cho khẩu hiệu
“Tất cả cho sản xuất, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”. Công tác tuyên
truyền giáo dục đã góp phần chuyển hướng kịp thời về tư tưởng và tổ chức, đưa
các hoạt động, sản xuất, chiến đấu của Đảng bộ thích ứng với yêu cầu, nhiệm
vụ cách mạng, nhất là phong trào tòng quân của thanh niên.
Báo Hà Tây, ngành Văn hóa Thông tin đẩy mạnh tuyên truyền cổ động
về những điển hình mới trong sản xuất như Đồng Quang (huyện Quốc Oai),
Trí Trung (huyện Phú Xuyên)… Khẩu hiệu “Tay cày, Tay súng”, “Tay búa,
Tay súng” đã đi vào cuộc sống lao động sản xuất và chiến đấu trong suốt quá
trình chống chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ. Nhiều cụm chiến đấu liên kết
giữa bộ đội phòng không với các đơn vị chiến đấu của tỉnh, huyện xã được
xây dựng, nhất là ở những nơi trọng điểm như cầu Giẽ, cầu Tế Tiêu, cầu Ba
Thá, phà Mai Lĩnh, cầu Tân Thượng, đập Suối Hai… và các trận địa trực
chiến, sẵn sàng bắn máy bay Mỹ ở các làng xã đã tạo thành một lưới lửa
phòng không nhân dân bắn máy bay giặc Mỹ. Cấp uỷ cơ sở lập “Hội mẹ chiến
sĩ” là những bà, những mẹ điển hình có chồng, con đi bộ đội có thành tích

15


trong phong trào “Ba đảm đang” để làm công tác động viên tư tưởng thanh
niên và các gia đình có con em nhập ngũ trong các đợt tuyển quân, tham gia
làm công tác hậu phương quân đội. Đảng bộ đẩy mạnh tuyên truyền về những
chiến công diệt Mỹ - ngụy của quân và dân ta ở miền Nam, tuyên truyền các
tin chiến thắng của quân dân miền Bắc bắn rơi máy bay và bắt phi công Mỹ;
tuyên truyền cổ động những điển hình về phong trào thủy lợi cải tạo đồng
ruộng. Công tác tuyên truyền giáo dục đã động viên cao độ tinh thần quyết
chiến quyết thắng giặc Mỹ xâm lược, thực hiện đúng khẩu hiệu “Giặc đến ta

đánh, giặc đi ta sản xuất”.
Cuộc chiến tranh diễn ra ở hai miền Nam - Bắc trở nên quyết liệt. 6
tháng đầu năm 1966, có 45 lần máy bay Mỹ xâm nhập bầu trời Hà Tây đánh
phá các mục tiêu ở Hà Nội, Việt Trì và địa bàn tỉnh. 9 lần chúng cho máy bay
thả truyền đơn. Bọn phản động vẫn ngấm ngầm phao tin đồn nhảm, đài gươm
thiêng ái quốc của địch cũng ra sức tuyên truyền kích động nhằm gây hoang
mang tư tưởng nhân dân.
Trước tình hình đó, Hội nghị Ban Thường vụ Tỉnh ủy ngày 31/1/1966
đã chỉ rõ nhiệm vụ của công tác văn hóa, tư tưởng của Đảng là “Cần làm cho
mọi người thấy rõ âm mưu thâm độc của kẻ địch, thấy rõ luận điệu hoà bình
thương lượng giả tạo của chúng để tăng cường cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu,
tích cực phòng chống chiến tranh tâm lý của địch, làm cho mọi người thấy rõ
nhiệm vụ của mình là phải gắn liền chiến đấu với công tác sản xuất”, kiên
quyết đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ trong bất kỳ tình
huống nào để bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, hoàn thành cách mạng
dân tộc, dân chủ trong cả nước, tiến lên thực hiện hoà bình, thống nhất nước
nhà” [49]. Theo phương hướng đó, Ban Thường vụ Tỉnh ủy chỉ đạo các
ngành, các cấp, tiến hành triển khai công tác tư tưởng, văn hóa trên ba mặt:
- Giáo dục tình hình, nhiệm vụ và đường lối, chủ trương, của Đảng
trong hoàn cảnh mới.

16


- Nâng cao trình độ hiểu biết về quản lý kinh tế, khoa học, kỹ thuật,
chiến tranh nhân dân và quốc phòng toàn dân.
- Bồi dưỡng phẩm chất đạo đức cách mạng và nêu cao chủ nghĩa anh
hùng cách mạng trong Đảng và trong nhân dân [50, tr.295].
Đồng thời, Tỉnh ủy cũng yêu cầu phải khắc phục những yếu kém, ngăn
ngừa những biểu hiện hữu khuynh, thiếu tin tưởng, thiếu quyết tâm, bảo thủ,

trì trệ thiếu tinh thần vươn lên trong học tập và thi đua, thiếu tin vào sức mình
và ỷ lại vào nhà nước và cấp trên.
Công tác tuyên truyền cổ động cũng được tăng cường với các hình
thức: phát thanh, kẻ khẩu hiệu, biểu ngữ, hưởng ứng lời kêu gọi của Bác Hồ.
Báo Hà Tây đăng trên trang nhất lời kêu gọi của Bác Hồ “Không có gì quý
hơn độc lập, tự do”, đồng thời tổ chức cuộc triển lãm “Quân dân Hà Tây
quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”.
Trong cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ,
ngành Văn hóa - Thông tin đã nêu cao khẩu hiệu “Tiếng hát át tiếng bom,
tiếng loa hòa tiếng súng”, phát huy mọi phương tiện, mọi lực lượng cổ vũ khí
thế chiến đấu và chiến thắng của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân. Nhiều tác
phẩm văn hóa nghệ thuật ra đời cùng với các hoạt động văn hóa - thông tin đã
phản ánh các trận chiến đấu ác liệt từ Cầu Giẽ đến Suối Hai, từ Đập Phùng
đến Thủy Xuân Tiên, từ Yên Bệ đến Đa Sỹ…
Mốc son ngày 30/04/1975, ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng cũng
là kết quả công tác tư tưởng, văn hóa của Đảng bộ tỉnh trong 10 năm thực
hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 11 - 12 (khóa III). Những
phong trào thi đua đó đã tạo nên một sức mạnh kỳ diệu, sức mạnh của chủ
nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam, sức mạnh của ý chí không có gì quý
hơn độc lập, tự do. Chung quy lại là sức mạnh văn hóa Việt Nam. Với sức
mạnh đó, dân tộc ta đã chiến thắng vẻ vang đế quốc Mỹ xâm lược.

17


Từ những phong trào thi đua sôi nổi trong sản xuất, chiến đấu và nêu
gương người tốt việc tốt, một nền văn hóa cách mạng tiếp tục được xây dựng.
Những nét đẹp văn hóa của giai đoạn này là tài sản quý giá để Đảng bộ và
nhân dân Hà Tây phát huy trong những giai đoạn cách mạng sau.
1.3.2. Văn hóa tỉnh Hà Tây góp phần thực hiện 2 nhiệm vụ chiến

lược giai đoạn 1975 - 1991
Sau khi thống nhất đất nước, Đảng xác định nhiệm vụ trọng tâm của
cuộc cách mạng tư tưởng - văn hóa là xây dựng nền văn hóa mới và con
người mới xã hội chủ nghĩa, đồng thời tiến hành tuyên truyền, giáo dục chủ
nghĩa Mác-Lênin và quan điểm đường lối của Đảng thông suốt trong cán bộ,
đảng viên và quần chúng nhân dân; tiến hành đấu tranh chống tư tưởng văn
hóa phản động của chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân. Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ IV, V của Đảng chỉ rõ nhiệm vụ trung tâm của cách mạng
văn hóa trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vị cả nước là xây
dựng nền văn hóa có nội dung xã hội chủ nghĩa và tính dân tộc. Nền văn hóa
đó vừa hấp thụ có tính chọn lọc những thành quả của văn minh nhân loại, vừa
kết tinh và nâng một tầm cao mới những giá trị tốt đẹp nhất trong truyền
thống văn hóa Việt Nam trong lịch sử.
Ngày 20/9/1975, Bộ Chính trị Trung ương Đảng ra Nghị quyết 245 về
việc sát nhập hai tỉnh Hà Tây và Hoà Bình thành tỉnh Hà Sơn Bình.
Đại hội Đảng bộ tỉnh Hà Sơn Bình lần thứ nhất họp vào ngày 21 30/4/1977, Đại hội đã đề ra chủ trương về xây dựng và phát triển văn hóa
trong tỉnh, trong tình hình quốc tế và trong nước có nhiều diễn biến phức tạp.
Chủ nghĩa đế quốc thực hiện bao vây cấm vận kinh tế Việt Nam. Từ năm
1976 - 1979 xảy ra chiến tranh biên giới ở phía Tây Nam và phía Bắc. Từ
năm 1977, các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa có những khó khăn đã
cắt giảm viện trợ kinh tế kỹ thuật đối với nước ta. Sản xuất nông nghiệp, công
nghiệp, thủ công nghiệp, trên địa bàn tỉnh gặp nhiều khó khăn do thiếu

18


nguyên liệu, vật tư, thiết bị, năng lượng phục vụ sản xuất, do thiên tai liên tiếp
xảy ra trong 2 năm 1977 - 1978. Đời sống nhân dân, cán bộ công nhân viên
chức giảm sút và có nhiều băn khoăn lo lắng, thiếu phấn khởi.
Trước tình hình đó, tháng 5/1977 Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã chỉ đạo

Ban Tuyên huấn, Ban Khoa giáo Tỉnh ủy hướng dẫn các ngành, các cấp đẩy
mạnh công tác tuyên truyền, động viên cán bộ đảng viên và nhân dân thực
hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh. Tỉnh ủy đánh giá tình hình văn hóa,
thông tin trong 2 năm 1976 - 1977, đề ra Nghị quyết về công tác văn hóa, văn
nghệ, thông tin cổ động những năm tới. Tỉnh ủy đã nhận thấy: “Đi đôi với đà
phát triển kinh tế, công tác văn hóa nghệ thuật - thông tin cổ động được phát
triển không những về mặt số lượng mà ngày càng nâng cao về chất lượng.
Các mặt hoạt động văn hóa, văn nghệ, xây dựng nếp sống mới đang dần dần
trở thành phong trào của quần chúng. Hệ thống truyền thanh quốc lập và dân
lập được xây dựng và ngày càng phát triển. Công tác khai thác vốn văn hóa
nghệ thuật của các dân tộc đã có những kết quả bước đầu. Nhiều điển hình
văn hóa, nghệ thuật, thông tin cổ động được xây dựng. Đội ngũ cán bộ văn
hóa thông tin cổ động ngày một đông đảo, rộng rãi. Sự kết hợp giữa lực lượng
văn hóa thông tin chuyên nghiệp và văn hóa thông tin quần chúng ngày càng
chặt chẽ hơn. Nội dung công tác văn hóa nghệ thuật và thông tin cổ động nhìn
chung lành mạnh và ngày càng bám sát cuộc sống, phục vụ tốt các nhiệm vụ
chính trị của Đảng và Nhà nước Công tác văn hóa thông tin đã góp phần tích
cực trong việc giáo dục tư tưởng, phổ biến các chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước nhất là cuộc vận động chính trị lớn của tỉnh” [51].
Tỉnh ủy cũng chỉ ra một số khuyết điểm về tuyên truyền như: “Chưa
chuyển hướng kịp thời tình hình, nhiệm vụ cách mạng, yêu cầu mới của cuộc
sống. Nội dung hoạt động chưa toàn diện, biểu hiện là phục vụ nông nghiệp
có khá nhưng phục vụ công nghiệp và thủ công nghiệp còn ít, tuyên truyền
sản xuất thì khá nhưng tuyên truyền củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất

19


còn chưa mạnh; biểu dương mặt tích cực còn tương đối khá, nhưng chưa chú
ý đúng mức đến mặt phê phán những hiện tượng tiêu cực, lệch lạc về tư

tưởng; có chú trọng phổ biến các đường lối chính sách và giáo dục chủ nghĩa
anh hùng cách mạng nhưng chưa sâu. Công tác phổ biến những kiến thức
khoa học, kỹ thuật, xây dựng nếp sống mới, đạo đức mới, con người mới chưa
mạnh, chưa đưa lên thành một phong trào rộng rãi trong quần chúng… Hoạt
động văn nghệ trong sáng tác, truyền thanh, kẻ, vẽ tương đối khá, nhưng công
tác đọc và làm theo sách báo, câu lạc bộ giáo dục truyền thống ở cơ sở còn
kém…” [51].
Căn cứ vào mục tiêu công tác văn hóa, văn nghệ của Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ IV và tình hình thực tế của địa phương, Tỉnh ủy đề ra 6 nhiệm vụ
chính về công tác tư tưởng văn hóa trong thời gian tới là:
- Mọi hoạt động văn hóa, thông tin, văn nghệ phải kịp thời làm sáng tỏ
quan điểm của Đảng và những sự kiện quan trọng trong nước và thế giới góp
phần nâng cao tinh thần yêu nước xã hội chủ nghĩa, tinh thần làm chủ tập thể,
ý thức tuân thủ và chấp thành nghiêm các chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước, nâng cao nhiệt tình cách mạng của quần chúng, hướng dẫn kịp thời
và đúng đắn dư luận xã hội.
- Đẩy mạnh sáng tác văn hóa, nghệ thuật và có chính sách khuyến
khích thích đáng… để sớm có những tác phẩm có trình độ khái quát cao về
những kỳ tích trong lao động sản xuất và chiến đấu của nhân dân trong tỉnh.
- Khẩn trương tiến hành công tác sưu tầm, nghiên cứu, đánh giá một
cách khách quan và sâu sắc toàn bộ tài sản văn hóa, văn nghệ của các dân tộc
trong tỉnh.
- Đẩy mạnh công tác giáo dục truyền thống dưới nhiều hình thức: Bảo
tàng, lưu niệm, bảo tồn di tích, viết sử, hồi kí, từng địa phương, từng đơn vị…
- Ra sức đào tạo cán bộ văn hóa - văn nghệ và thông tin cổ động một
cách có hệ thống để bổ sung cho sự phát triển toàn diện của các hoạt động văn
hóa trong tỉnh, nhất là cho cấp huyện và cấp xã.

20



- Từng bước tiêu chuẩn hoá cơ sở vật chất và hoạt động văn hóa, thông
tin trong nhân dân. Tổ chức mọi hoạt động văn hóa, thông tin, đưa nhiều sản
phẩm văn hóa có chất lượng đến khắp các vùng thích hợp với từng đối tượng
quần chúng lao động trong tỉnh để phục vụ quần chúng được nhiều hơn.
Thực hiện Nghị quyết của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về công tác văn hóa,
văn nghệ, thông tin cổ động những năm tới, các cấp các ngành trong tỉnh đã
tập trung chỉ đạo triển khai trên cơ sở 6 nhiệm vụ mà Nghị quyết đã đề ra.
Năm 1977, ngành Văn hóa Thông tin Hà Sơn Bình đã mở đợt đọc sách
“tìm hiểu về Đảng” đạt kết quả tốt, thu hút lực lượng đông đảo cán bộ và quần
chúng tham gia, với tổng số 15.400 bài dự thi; in 20 loại tài liệu phát thanh,
10 loại khẩu hiệu bướm với trên 170.000 bản để tuyên truyền phục vụ các
nhiệm vụ chính trị. Hệ thống đài truyền thanh tỉnh, huyện, thị xã có trên 1.000
km đường dây, với trên 3.000 loa đã phục vụ tốt công tác tuyên truyền thực
hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ [50, tr.358].
Trong lúc cán bộ, đảng viên và nhân dân ta đang thực hiện nhiệm vụ kế
hoạch 5 lần thứ hai (1976 - 1980) thì ngày 17/2/1979, xẩy ra cuộc chiến tranh
biên giới ở phía bắc. Tỉnh ủy tăng cường lãnh đạo công tác tư tưởng cho cán
bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân, tích cực chi viện sức người, sức của
cho nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ biên giới và thực hiện tốt nhiệm vụ sản xuất, an
ninh quân sự ở địa phương. Ban Thường vụ Tỉnh ủy liên tiếp ra các Chỉ thị,
Thông tri về công tác giáo dục lý luận chính trị; về việc cấm nghe đài địch và
các luận điệu tuyên truyền xuyên tạc của địch; về công tác phát thanh và truyền
thanh địa phương bảo đảm sẵn sàng ứng phó với chiến tranh; tích cực chuẩn bị
mọi mặt phục vụ lễ khởi công xây dựng công trình thủy điện Hòa Bình.
Thực hiện Chỉ thị của Tỉnh ủy, các ngành, các cấp ủy Đảng đã giáo dục
cho cán bộ đảng viên, quần chúng không nghe đài địch, nêu cao tinh thần
cảnh giác cách mạng nhằm đập tan mọi luận điệu tuyên truyền xuyên tạc của
địch và những phần tử xấu. Các ban huyện, thị ủy đã chỉ đạo Đài truyền thanh


21


huyện, thị xã về nội dung tuyên truyền, về kỷ luật mở đài và tiếp âm đài tỉnh,
kiểm soát chặt chẽ đài truyền thanh ở các xã, hợp tác xã và công tác văn hóa
thông tin để tuyên truyền phục vụ sản xuất, chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu.
Các ngành, các cấp tổ chức mít tinh phản đối Trung Quốc gây chiến tranh ở 6
tỉnh biên giới phía bắc, khơi dậy truyền thống đấu tranh chống ngoại xâm của
các tầng lớp nhân dân trong tỉnh, huy động sức người, sức của chi viện cho
các tỉnh biên giới phía Bắc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời động viên
nhân dân xây dựng lực lượng vũ trang địa phương vững mạnh gắn chặt với
phát triển kinh tế xã hội.
Từ ngày 8 - 12/10/1979, Đảng bộ tỉnh Hà Sơn Bình tổ chức Đại hội đại
biểu tỉnh lần thứ II. Trong dịp Đại hội, Tỉnh ủy đã phát hành cuốn: Sơ lược lịch
sử Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Hà Sơn Bình (1926 - 1976). Đây là
ấn phẩm chào mừng Đại hội, góp phần giáo dục truyền thống đấu tranh cách
mạng, lao động sản xuất của nhân dân trong tỉnh do Đảng bộ lãnh đạo.
Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Hà Sơn Bình lần thứ II đã đề ra mục tiêu
kinh tế xã hội trong 2 năm (1980 - 1981) tại phần công tác xây dựng Đảng,
Đại hội chỉ rõ: “Coi trọng, tăng cường và nâng cao tính chiến đấu trong công
tác văn hóa - tư tưởng, làm cho các quan điểm, đường lối của của Đảng mau
chóng thông suốt trong đảng viên và quần chúng. Đấu tranh và nghiêm trị
hành động truyền bá tư tưởng - văn hóa, quan điểm trái với đường lối của
Đảng…” [14].
Năm 1980, thực hiện Chỉ thị 84 của Ban Bí thư Trung ương Đảng
(khóa IV), Ban Tuyên huấn Tỉnh ủy triển khai kế hoạch hướng dẫn và chỉ đạo
các ngành Văn hóa thông tin, Báo, Đài phát thanh và các cấp ủy tổ chức
những hoạt động tuyên truyền giáo dục tư tưởng phát huy truyền thống cách
mạng, cổ vũ tinh thần lao động sản xuất, học tập, công tác của cán bộ, đảng
viên và nhân dân.


22


Nhằm tiếp tục đẩy mạnh công tác văn hóa tư tưởng, trong hai ngày 29
và 30/4/1981, Ban thường vụ Tỉnh ủy đã đánh giá tình hình công tác văn hóa tư tưởng trong 5 năm 1976 - 1980, là: “Công tác văn hóa - tư tưởng đã góp
phần thắng lợi chung của phong trào cách mạng của tỉnh. Trước những khó
khăn trong sản xuất, đời sống, số đông cán bộ, đảng viên trong Đảng bộ vững
vàng, kiên định, tự hào, tin tưởng vào sự lãnh đạo Đảng và tiền đồ của Tổ
quốc…” [50, tr.367].
Trong 2 năm 1982 - 1983, Ban Thường vụ Tỉnh ủy chỉ rõ: Phải coi
cuộc vận động sinh đẻ có kế hoạch là một bộ phận của cách mạng tư tưởng
văn hóa, là một nhiệm vụ quốc kế dân sinh; do vậy phải tổ chức quán triệt thật
sâu sắc tinh thần và nội dung cuộng vận động sinh đẻ có kế hoạch của Đảng
và Nhà nước làm chuyển biến tư tưởng cán bộ, đảng viên và nhân dân, thấy rõ
ý nghĩa quan trọng của cuộc vận động nhằm tổ chức thực hiện có hiệu quả ở
địa phương, đơn vị mình. Ban thường vụ Tỉnh ủy chỉ đạo các cơ quan Thi
đua, Thống kê, Tuyên huấn, Đài báo, Văn hóa thông tin, Văn học nghệ thuật,
theo dõi động viên, cổ vũ những đơn vị, cá nhân làm tốt cuộc vận động,
thường xuyên tuyên truyền giáo dục rộng rãi trong cán bộ và nhân dân, phổ
biến kịp thời những kinh nghiệm tốt [50, tr.370].
Tuy nhiên do tình hình kinh tế xã hội của đất nước gặp nhiều khó khăn,
do thiếu vật tư hàng hóa, giá cả luôn biến động đã ảnh hưởng đến sản xuất và
đời sống nhân dân. Trên địa bàn tỉnh thiên tai liên tiếp xẩy ra, ảnh hưởng lớn
đến sản xuất nông nghiệp. Năm 1983, toàn tỉnh thiệt hại 3 vạn tấn lương thực,
năm 1985 giảm gần 5 vạn tấn nên đã tác động lớn đến quá trình lãnh đạo công
tác tư tưởng văn hóa của Đảng bộ. Cán bộ, đảng viên và nhân dân có nhiều suy
nghĩ, lo lắng về sự biến động giá cả thị trường, về đời sống khó khăn. Các tệ
nạn xấu như tự tư, tự lợi, chạy hàng ăn chênh lệch giá chưa ngăn chặn kịp thời.
Trong tình hình đó, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã lãnh đạo các ngành, các

cấp vận động cán bộ, đảng viên và nhân dân khắc phục khó khăn… Các hoạt

23


động văn hóa, thông tin, báo, đài phát thanh tăng cường tuyên truyền đường
lối chính sách của Đảng; hướng dẫn, động viên thực hiện các nhiệm vụ sản
xuất lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và xuất khẩu, cải tiến phân phối
lưu thông, củng cố trận địa xã hội chủ nghĩa. Củng cố quốc phòng an ninh,
xây dựng nếp sống văn hóa mới, con người mới xã hội chủ nghĩa. Đấu tranh
phê phán mạnh mẽ những biểu hiện tiêu cực, những quan điểm sai trái, lối
sống không lành mạnh, trốn tránh nghĩa vụ, mê tín dị đoan, cưới xin lãng phí,
kịp thời nêu gương cổ vũ những người tốt việc tốt, những điển hình mới và
nhân tố mới…
6 tháng đầu năm 1985, Tỉnh ủy ra các Nghị quyết cụ thể về từng mặt
trong công tác giáo dục tư tưởng văn hóa. Ngày 29/3/1985, Ban Thường vụ
Tỉnh ủy ra Nghị quyết số 21 về tiếp tục cuộc vận động xây dựng nếp sống
mới trong việc cưới, việc tang, đấu tranh chống mê tín dị đoan, chống văn hóa
phản động đồi trụy… kịp thời nêu gương cổ vũ những người tốt việc tốt,
những điển hình mới và nhân tố mới.
Thực hiện sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, các ngành, các cấp tiếp tục tuyên
truyền giáo dục cho cán bộ, đảng viên, và nhân dân về truyền thống cách
mạng của của đất nước, của tỉnh… Các ngành, đoàn thể đã tích cực cải tiến
công tác tuyên truyền giáo dục quần chúng sử dụng những hình thức linh hoạt
phù hợp với từng đối tượng, xây dựng mở rộng mạng lưới tuyên truyền, tổ
chức sinh hoạt câu lạc bộ, hội diễn, hội thao, hội thi tài của quần chúng.
Những năm giữa thập kỷ 80, đất nước rơi vào khủng hoảng kinh tế - xã
hội. Sản xuất tăng chậm, kinh tế mất cân đối nghiêm trọng, lưu thông phân
phối rối ren. Chủ nghĩa bình quân xác lập các chuẩn mực văn hóa. Các hiện
tượng tiêu cực trong xã hội phát triển, văn hóa đạo đức sa sút. Đổi mới trở

thành một yêu cầu bức thiết và là vấn đề có tầm quan trọng sống còn của cách
mạng nước ta. Đaị hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng họp vào tháng
12/1986 đã chủ trương đổi mới tư duy, trước hết là tư duy về kinh tế. Trên

24


lĩnh vực văn hóa, Đảng chủ trương đổi mới tư duy lý luận về văn hóa khi xác
định “Mọi hoạt động văn hóa văn nghệ đều phải tính đến hiệu quả xã hội, tác
động đến tư tưởng, tâm lý, tình cảm, nâng cao trình độ thẩm mỹ của nhân
dân” [20]. Nghị quyết Đại hội VI xác định nhiệm vụ của cách mạng văn hóa
những năm đổi mới là: xây dựng một nền văn hóa văn nghệ xã hội chủ nghĩa
đậm đà bản sắc dân tộc. Chủ trương tính đến hiệu quả xã hội trong mỗi hoạt
động văn hóa và quan điểm xây dựng nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc là
những đổi mới bước đầu trong đường lối văn hóa của Đảng.
Tuy nhiên trong chỉ đạo thực tiễn, nhiều cấp ủy Đảng còn lúng túng do
ít được bồi dưỡng kiến thức về văn hóa. Công tác lãnh đạo và quản lý văn
hóa, văn nghệ có nhiều biểu hiện giản đơn. Trước tình hình đó, Đảng đã ra
một nghị quyết riêng về văn hóa. Ngày 28/11/1987 Bộ Chính trị ra Nghị
quyết số 05/NQ-TW về đổi mới nâng cao trình độ lãnh đạo, quản lý văn học,
nghệ thuật và văn hóa phát huy khả năng sáng tạo đưa văn học, nghệ thuật và
văn hóa phát triển lên một bước mới.
Nghị quyết nhận định: “Hiện nay, văn hóa là bộ phận trọng yếu của
cách mạng tư tưởng và văn hóa là một động lực mạnh mẽ đồng thời là một
mục tiêu lớn trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội” [20, tr.479] “Việc
đầu tư cho sự nghiệp văn hóa để phục vụ con người, xây dựng con người
mới… là một sự đầu tư không chỉ nhằm giải quyết những nhu cầu cấp bách,
trước mắt, mà còn có ý nghĩa cơ bản lâu dài… và tích lũy “vốn quý nhất” cho
xã hội” [20, tr.487]. “Tự do sáng tác là điều kiện sống còn để tạo nên giá trị
đích thực trong văn hóa, văn nghệ, để phát triển tài năng”. “Tự do sáng tác đi

đôi với tự do phê bình” [20, tr.484-485]. Nghị quyết chủ trương “chú trọng
xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở”. Đặc biệt Nghị quyết cho rằng đổi mới
nâng cao trình độ lãnh đạo, quản lý văn hóa, văn nghệ là yếu tố có ý nghĩa
quyết định để khai thác mọi tiềm năng sáng tạo, phát triển sự nghiệp văn hóa,
văn nghệ [20, tr.487].

25


×