Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

Bảo đảm quyền con người trong cơ sở cai nghiện bắt buộc – qua thực tiễn TP hải phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (762.46 KB, 104 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN QUỐC HIỆU

B¶O §¶M QUYÒN CON NG¦êI
TRONG C¥ Së CAI NGHIÖN B¾T BUéC
- QUA THùC TIÔN TP H¶I PHßNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2016


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN QUỐC HIỆU

B¶O §¶M QUYÒN CON NG¦êI
TRONG C¥ Së CAI NGHIÖN B¾T BUéC
- QUA THùC TIÔN TP H¶I PHßNG
Chuyên ngành: Luật Hành chính - Hiến pháp
Mã số: 60 38 01 02

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS VŨ CÔNG GIAO

HÀ NỘI - 2016



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

Nguyễn Quốc Hiệu


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN, PHÁP LÝ CỦA VIỆC BẢO ĐẢM
QUYỀN CON NGƯỜI TRONG CÁC CƠ SỞ CAI NGHIỆN
BẮT BUỘC ......................................................................................... 7
1.1.
Khái quát về quyền con người và việc bảo đảm quyền con người ..... 7
1.1.1. Khái quát về quyền con người ............................................................. 7
1.1.2. Nhận thức về bảo đảm quyền con người .............................................. 9

1.2.
1.2.1.
1.2.2.
1.2.3.
1.2.4.

Cơ sở pháp lý, công cụ, đặc điểm, ý nghĩa của việc bảo đảm
quyền con người trong các cơ sở cai nghiện bắt buộc .................. 12
Cơ sở pháp lý của việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai
nghiện bắt buộc .................................................................................. 12
Công cụ bảo đảm quyền con người trong các cơ sở cai nghiện bắt buộc ... 15
Đặc điểm của việc bảo đảm quyền con người trong các cơ sở cai
nghiện bắt buộc .................................................................................. 17
Ý nghĩa của việc bảo đảm quyền con người trong các cơ sở cai
nghiện bắt buộc .................................................................................. 19

Quan điểm của các tổ chức quốc tế liên quan đến vấn đề tập
trung cai nghiện bắt buộc và bảo vệ quyền con người trong
các trại cai nghiện ma tuý ................................................................ 20
1.3.1. Quan điểm của các tổ chức quốc tế về vấn đề tập trung cai nghiện
bắt buộc .............................................................................................. 20
1.3.2. Quan điểm của Liên hợp quốc liên quan đến bảo vệ quyền con
người trong các trại cai nghiện ma tuý ............................................... 24
1.3.


Khung pháp luật Việt Nam về bảo đảm quyền con người
trong các cơ sở cai nghiện bắt buộc ................................................ 39
1.4.1. Quy định về việc đưa người vào các cơ sở cai nghiện bắt buộc ........ 39
1.4.2. Quy định về việc bảo vệ quyền của học viên trong các cơ sở cai

nghiện bắt buộc .................................................................................. 48
1.4.3. Quy định về việc quyền được hỗ trợ để tái hoà nhập cộng đồng
của học viên trong các cơ sở cai nghiện............................................. 53
1.4.

Chương 2: THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI
TRONG CÁC CƠ SỞ CAI NGHIỆN BẮT BUỘC Ở THÀNH
PHỐ HẢI PHÒNG ........................................................................... 55
2.1.
Khái quát tình hình đưa người nghiện ma tuý vào các cơ sở
cai nghiện bắt buộc ở thành phố Hải Phòng .................................. 55
2.2.
Thực trạng đảm bảo quyền con người trong các cơ sở cai
nghiện bắt buộc tại thành phố Hải Phòng ....................................... 61
2.3.
Những tồn tại, hạn chế trong việc bảo đảm quyền con người
tại các cơ sở cai nghiện bắt buộc ở Hải phòng và nguyên nhân .. 70
2.3.1. Những tồn tại, hạn chế ....................................................................... 70
2.3.2. Một số nguyên nhân ........................................................................... 72
Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ BẢO
ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI TRONG CÁC CƠ SỞ CAI NGHIỆN
BẮT BUỘC TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG ............... 78
3.1.
Các quan điểm về nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền con
người trong các cơ sở cai nghiện bắt buộc ..................................... 78
3.2.
Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền
con người tại các cơ sở cai nghiện bắt buộc ................................... 81
3.2.1. Các giải pháp trực tiếp ....................................................................... 81
3.2.2. Các giải pháp về hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về

công tác cai nghiện ............................................................................. 83
3.2.3. Các giải pháp về tổ chức, thực hiện công tác cai nghiện ................... 89
KẾT LUẬN .................................................................................................... 91
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 93


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BPXLHC

: Biện pháp xử lý hành chính

TAND

: Tòa án nhân dân

UNODC

: Tổ chức phòng chống ma túy và tội phạm của Liên Hợp
quốc (United Nations Organization Drug and Crime)

WHO

: Tổ chức y tế thế giới (World Heath Oganization)

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa

XLVPHC


: Xử lý vi phạm hành chính


DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu bảng

Tên bảng

Trang

Bảng 2.1. Kết quả công tác cai nghiện tại Trung tâm giáo dục,
lao động, xã hội Hải Phòng giai đoạn 2011 – 2015

58

Bảng 2.2. Kết quả công tác cai nghiện tại Trung tâm giáo dục,
lao động, xã hội số 2 thành phố Hải Phòng giai đoạn
2011 – 2015

60

Bảng 2.3. Kết quả cai nghiện tại các trung tâm giáo dục, lao
động xã hội Hải Phòng giai đoạn 2011 – 2015

66


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Việt Nam đang xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
(XHCN) của dân, do dân, vì dân - một nhà nước mà ở đó, quyền con người
được tôn trọng và bảo vệ không chỉ dừng lại ở các tuyên bố chính trị, ghi nhận
trong Hiến pháp, pháp luật mà còn được bảo vệ trong thực tế. Quyền con người
là một giá trị thiêng liêng bất khả tước đoạt một cách tuỳ tiện. Nó hiện hữu
trong tất cả các lĩnh vực của đời sống, trong đó bao gồm các cơ sở cai nghiện
ma tuý bắt buộc (sau đây viết tắt thành “cơ sở cai nghiện bắt buộc”).
Nghiện ma túy là một loại bệnh đặc biệt. Người nghiện ma tuý (người
nghiện) là những đối tượng có khả năng cao gây ra những hành vi nguy hiểm,
gây mất trật tự an toàn xã hội, vì thế cần phải quản lý bằng các quy định đặc
biệt. Đó là lý do nhà nước ta và một số nhà nước khác lập ra các trại cai
nghiện bắt buộc.
Mặc dù vậy, người nghiện ma tuý không phải là tội phạm, họ cũng có
những quyền con người như một người bình thường khác, trừ quyền được tự
do cư trú và đi lại. Tuy nhiên, thực tiễn quản lý các cơ sở cai nghiện ma tuý
của nước ta hiện nay còn nhiều bất cập, trong đó có nhiều hành vi của nhà
quản lý đã xâm hại trực tiếp hoặc gián tiếp đến quyền và lợi ích của người
nghiện. Hậu quả là trong thời gian gần đây đã xảy ra nhiều vụ học viên tại các
cơ sở cai nghiện bắt buộc ở một số địa phương tấn công cán bộ quản lý, phá
trại, trốn trại.
Thực trạng trên cho thấy giữa việc bảo đảm quyền con người của người
nghiện ma tuý và việc quản lý những đối tượng này để đảm bảo an ninh trật
tự xã hội đang có sự xung đột với nhau. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để giải
quyết hài hòa mối quan hệ đó, sao cho vừa đảm bảo quyền con người của

1


người nghiện ma tuý vừa thực hiện được mục tiêu quản lý của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền.

Ở thành phố Hải Phòng thời gian gần đây cũng xảy ra hiện tượng học
viên cai nghiện bắt buộc tại Trung tâm Giáo dục và Lao động Xã hội Gia
Minh của Tổng đội Thanh niên xung phong, trực thuộc Thành Đoàn Hải
Phòng phá trại bỏ trốn. Thực trạng này đặt ra yêu cầu tiến hành nghiên cứu
tìm ra nguyên nhân và giải pháp khắc phục. Là một cán bộ đang làm việc tại
Thành phố Hải Phòng, học viên quyết định chọn đề tài “Bảo đảm quyền con
người trong cơ sở cai nghiện bắt buộc - qua thực tiễn TP Hải Phòng” làm
đề tài luận văn thạc sĩ luật học của mình với mong muốn góp phần tìm ra giải
pháp cho vấn đề nêu trên.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề bảo vệ quyền con người nói chung, bảo vệ quyền con người
trong những hoàn cảnh đặc biệt nói riêng ở nước ta đã được nhiều tác giả
nghiên cứu. Một số công trình tiêu biểu có thể kể như sau:
- Các công trình nghiên cứu về quyền con người nói chung có: "Quyền
con người trong thế giới hiện đại"- Báo cáo tổng luận đề tài khoa học cấp nhà
nước KX 07-16, năm 1995 do Giáo sư Hoàng Văn Hảo và Giáo sư Phạm Ích
Khiêm đồng chủ nhiệm; “Giáo trình Lý luận và pháp luật về quyền con
người”, do Nguyễn Đăng Dung, Vũ Công Giao, Lã Khánh Tùng (đồng chủ
biên) NXB ĐHQG Hà Nội, 2010, tái bản năm 2011, 2015; “Giới thiệu công
ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị” do Vũ Công Giao, Tường Duy
Kiên, Lã Khánh Tùng (đồng chủ biên), “Giới thiệu công ước quốc tế về các
quyền kinh tế, xã hội và văn hóa”, do Vũ Công Giao, Nghiêm Kim Hoa (đồng
chủ biên), NXB Hồng Đức, 2012; “Luật nhân quyền quốc tế: Những vấn đề
cơ bản” Vũ Công Giao, Lã Khánh Tùng, NXB Lao động – xã hội, 2011…
- Các nghiên cứu về quyền con người của các nhóm xã hội dễ bị tổn

2


thương có: Đỗ Hồng Thơm, Vũ Công Giao (biên soạn), Luật quốc tế về quyền

của các nhóm người dễ bị tổn thương, NXB Lao động – xã hội, 2011; “Bảo
vệ quyền của các nhóm xã hội dễ bị tổn thương trong tố tụng hình sự”
Nguyễn Đăng Dung, Phạm Hồng Thái, Lê Văn Cảm, Vũ Công Giao, Lã
Khánh Tùng (đồng chủ biên), Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, 2011...
Các công trình nghiên cứu nêu trên đã cung cấp một lượng kiến thức,
thông tin lớn về bảo vệ quyền con người nói chung, bảo vệ quyền của các
nhóm xã hội dễ bị tổn thương nói riêng. Đây là những nguồn tài liệu tham
khảo hữu ích cho tác giả khi thực hiện luận văn này.
Mặc dù vậy, hiện chưa có công trình nghiên cứu nào trực tiếp đề cập
đến việc bảo đảm quyền con người trong các cơ sở cai nghiện ở Việt Nam nói
chung cũng như ở thành phố Hải Phòng nói riêng. Chính vì vậy, có thể khẳng
định luận văn này có tính cấp thiết và có ý nghĩa lý luận, thực tiễn.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là thông qua khảo sát thực trạng
hoạt động quản lý người cai nghiện tại các cơ sở cai nghiện bắt buộc tại thành
phố Hải Phòng để đề xuất những kiến nghị, giải pháp hoàn thiện pháp luật và
cơ chế bảo đảm quyền con người ở các cơ sở cai nghiện bắt buộc ở nước ta.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, luận văn phải giải quyết những
nhiệm vụ nghiên cứu sau đây:
- Xác định và phân tích những vấn đề lý luận về quyền của người bị tước
tự do nói chung, của học viên trong các trại cai nghiện ma tuý bắt buộc nói riêng.
- Phân tích các quy định của pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam
liên quan đến bảo đảm quyền con người của những người nghiện ma tuý ở
các cơ sở cai nghiện bắt buộc.

3



- Phân tích thực trạng quản lý, giáo dục người nghiện tại các cơ sở cai
nghiện bắt buộc tại thành phố Hải Phòng, chỉ ra những kết quả và tồn tại, hạn
chế cùng nguyên nhân của những kết quả, tồn tại, hạn chế trong việc bảo đảm
quyền con người tại các cơ sở đó.
- Đề xuất những quan điểm, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật để kết
hợp hài hòa giữa việc bảo đảm quyền con người với yêu cầu quản lý nhà nước
đối với người nghiện ma tuý ở các cơ sở cai nghiện bắt buộc.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các cơ chế, biện pháp bảo đảm
quyền con người của những người nghiện ma tuý ở các cơ sở cai nghiện bắt
buộc ở thành phố Hải Phòng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung, đề tài chỉ tập trung nghiên cứu các cơ chế, biện pháp bảo
đảm quyền con người của những người nghiện ma tuý ở các cơ sở cai nghiện
bắt buộc, không mở rộng đến việc bảo đảm quyền con người trong các lĩnh
vực khác và của các chủ thể khác, kể cả của những người nghiện ma tuý ở
ngoài các trại cai nghiện bắt buộc.
Về không gian, đề tài chỉ tập trung nghiên cứu thực trạng bảo đảm
quyền con người của những người nghiện ma tuý ở các cơ sở cai nghiện bắt
buộc của thành phố Hải Phòng, không mở rộng đến các địa phương khác.
Về thời gian, đề tài chỉ giới hạn phân tích thực trạng bảo đảm quyền
con người của những người nghiện ma tuý ở các cơ sở cai nghiện bắt buộc
của thành phố Hải Phòng trong khoảng 5 năm trở lại đây.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn vận dụng các phương pháp luận duy vật biện chứng, duy
vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan

4



điểm của Liên hợp quốc và của Đảng, Nhà nước Việt Nam về quyền con
người, quyền công dân.
Luận văn kết hợp sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau đây để giải
quyết các nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra:
- Các phương pháp tổng hợp, phân tích các công trình nghiên cứu hiện
có và các tài liệu khác để làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về bảo vệ quyền
con người của những người nghiện ma tuý ở các cơ sở cai nghiện bắt buộc ở
nước ta hiện nay (ở Chương 1).
- Các phương pháp tổng hợp, thống kê, phân tích, so sánh các tài liệu,
báo cáo chuyên môn của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ở địa phương
và phương pháp quan sát thực tế để đánh giá thực trạng bảo đảm quyền con
người của những người nghiện ma tuý ở các cơ sở cai nghiện bắt buộc của
thành phố Hải Phòng trong 5 năm gần đây (ở Chương 2).
- Các phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh để đề xuất các quan
điểm, giải pháp nhằm ngăn ngừa những vi phạm, nâng cao hiệu quả bảo đảm
quyền con người của những người nghiện ma tuý ở các cơ sở cai nghiện bắt
buộc của thành phố Hải Phòng nói riêng và ở nước ta nói chung trong thời
gian tới (ở Chương 3).
6. Tính mới và đóng góp của luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu đầu tiên khảo sát một cách toàn diện,
chuyên sâu về vấn đề bảo đảm quyền con người của những người nghiện ma
tuý ở các cơ sở cai nghiện bắt buộc của thành phố Hải Phòng. Luận văn cũng là
một trong số rất ít công trình nghiên cứu về vấn đề này được thực hiện ở nước
ta từ trước đến nay.
Vì vậy, luận văn cung cấp nhiều kiến thức, thông tin, luận điểm và đề
xuất mới có giá trị tham khảo với các cơ quan nhà nước ở thành phố Hải
Phòng, các cơ quan nhà nước trung ương và ở các địa phương khác trong việc

5



hoàn thiện pháp luật và cơ chế để nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền con
người của những người nghiện ma tuý ở các cơ sở cai nghiện bắt buộc trong
thời gian tới.
Bên cạnh đó, luận văn có thể được sử dụng là nguồn tài liệu tham khảo
cho việc giảng dạy, nghiên cứu các chuyên ngành luật có liên quan như luật
hiến pháp, hành chính, luật hình sự, luật nhân quyền ở Khoa Luật ĐHQG Hà
Nội và các cơ sở đào tạo khác của nước ta.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, cấu trúc
luận văn bao gồm 3 chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận, pháp lý của việc bảo đảm quyền con người
trong các cơ sở cai nghiện bắt buộc.
Chương 2: Thực trạng bảo đảm quyền con người trong các cơ sở cai
nghiện bắt buộc ở Hải Phòng.
Chương 3: Quan điểm và giải pháp tăng cường bảo đảm quyền con
người trong các cơ sở cai nghiện bắt buộc hiện nay.

6


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN, PHÁP LÝ CỦA VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN
CON NGƯỜI TRONG CÁC CƠ SỞ CAI NGHIỆN BẮT BUỘC
1.1. Khái quát về quyền con người và việc bảo đảm quyền con người
1.1.1. Khái quát về quyền con người
Quyền con người là những giá trị cao quý, kết tinh từ nền văn hóa của
tất cả các dân tộc trên thế giới. Đây là một phạm trù đa diện, được tiếp cận,
nghiên cứu từ nhiều góc độ khác nhau.

Có nhiều quan điểm khác nhau về quyền con người, song theo Văn
phòng Cao ủy của Liên hợp quốc về quyền con người (OHCHR) thì: “Quyền
con người là những đảm bảo pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân
và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến
nhân phẩm, những sự được phép và tự do cơ bản của con người” [34, tr.23]. Ở
Việt Nam cũng đã có những định nghĩa về quyền con người do một số cơ
quan nghiên cứu và chuyên gia từng nêu ra. Những định nghĩa này không
hoàn toàn giống nhau, nhưng xét chung, quyền con người thường được hiểu
là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có của con người được ghi nhận và
bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế [34, tr.23].
Theo quan điểm của các cơ quan nhân quyền Liên hợp quốc, quyền con
người có những thuộc tính cơ bản sau đây:
- Tính phổ biến: Tính phổ biến của quyền con người thể hiện ở chỗ
quyền con người được áp dụng chung cho tất cả mọi người, không phân biệt
màu da, dân tộc, giới tính, tôn giáo, độ tuổi, thành phần xuất thân…và bất kỳ
yếu tố nào khác. Mọi cá nhân, dù ở trong những chế độ xã hội riêng biệt,
thuộc những truyền thống văn hóa khác nhau vẫn được công nhận là con
người và được hưởng những quyền và tự do cơ bản.

7


- Tính không thể bị tước bỏ: Trong quan niệm chung của cộng đồng quốc
tế, quyền con người không thể tùy tiện bị tước bỏ hay hạn chế một cách tùy tiện
bởi bất cứ chủ thể nào, kể cả các cơ quan và quan chức nhà nước. Chỉ trong một
số trường hợp nhất định, pháp luật có thể quy định những hạn chế hoặc chế tài
tước bỏ một số quyền con người để bảo vệ an ninh, trật tự xã hội và các quyền,
lợi ích chính đáng của cá nhân khác. Ví dụ, tù nhân bị giam do thực hiện hành vi
phạm tội, người phạm tội ác nghiêm trọng có thể bị kết án tử hình.
- Tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau: Tất cả các quyền con người có sự

liên hệ chặt chẽ với nhau, việc thực hiện tốt quyền này sẽ là tiền đề để thực
hiện quyền kia. Ngược lại, khi có một quyền bị xâm phạm thì sẽ ảnh hưởng
đến các quyền khác. Ví dụ, nếu một người không được làm việc, không có
một mức sống đảm bảo cho sự sống còn của cá nhân thì người đó sẽ ít chú ý
và không có điều kiện thực hiện các quyền dân chủ như quyền bầu cử hoặc
quyền tham gia quản lý nhà nước, xã hội.
Quyền con người là một phạm trù rộng lớn, bao trùm tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội. Dù vậy, hệ thống các quyền con người có thể được phân
loại theo các lĩnh vực chủ yếu sau đây:
- Nhóm các quyền dân sự, chính trị: Đây là các quyền quan trọng của
con người, có liên quan đến sự tồn tại tự nhiên, tất yếu của con người trong xã
hội và mối quan hệ giữa các công dân và nhà nước. Các quyền dân sự, chính
trị cơ bản bao gồm quyền sống, quyền tự do và an ninh cá nhân; quyền được
bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm; quyền bất khả xâm
phạm về thân thể, chỗ ở, bí mật thư tín, điện tín; quyền bầu cử, ứng cử; quyền
được tham gia quản lý nhà nước và xã hội... Theo quan điểm của các học giả
tư sản, đây được coi là nhóm quyền quan trọng nhất của con người [53, tr.55].
- Nhóm các quyền về kinh tế, xã hội và văn hóa: Đây là nhóm quyền
được các nước XHCN trước đây nhấn mạnh. Nó phản ánh không chỉ mối

8


quan hệ mà còn nghĩa vụ, trách nhiệm của các nhà nước với công dân của
mình. Các quyền kinh tế, xã hội, văn hoá cơ bản bao gồm: quyền lao động,
quyền học tập, quyền hưởng an sinh xã hội, các quyền về văn hoá, sáng tạo và
hưởng thụ các thành tựu của khoa học kỹ thuật…
Ngoài các quyền cá nhân nêu trên, theo quan điểm của cộng đồng quốc
tế, quyền con người còn bao gồm các quyền của nhóm hay quyền tập thể như
quyền của phụ nữ, quyền của trẻ em, quyền của người khuyết tật, quyền của

người thiểu số, quyền của người lao động di trú, quyền của người tị nạn…,
quyền tự quyết dân tộc, quyền phát triển, quyền sống trong hoà bình, trong
môi trường trong lành…
1.1.2. Nhận thức về bảo đảm quyền con người
Thuật ngữ “bảo đảm” theo Từ điển tiếng Việt được hiểu là: “Làm
cho chắc chắn được thực hiện, giữ gìn được, hoặc có đầy đủ những gì cần
thiết” [16, tr.231]. Theo nhận thức chung của cộng đồng quốc tế, để bảo
đảm quyền con người, nhà nước có ba nghĩa vụ cụ thể đó là:
Nghĩa vụ tôn trọng: Nghĩa vụ này đòi hỏi các nhà nước phải thừa nhận
tính chất tự nhiên, vốn có của quyền con người, từ đó không được tùy tiện
tước bỏ, hạn chế hay can thiệp, kể cả trực tiếp hay gián tiếp, vào việc thụ
hưởng các quyền con người.
Nghĩa vụ bảo vệ: Nghĩa vụ này đòi hỏi các nhà nước phải chủ động có
những biện pháp ngăn chặn và xử lý hành vi vi phạm quyền con người của bất
kỳ chủ thể nào, kể cả các cơ quan và quan chức nhà nước.
Nghĩa vụ thực hiện: Nghĩa vụ này đòi hỏi các nhà nước phải có những
biện pháp nhằm hỗ trợ những cá nhân và nhóm mà không thể tự hưởng thụ
các quyền con người của họ, ví dụ như những người khuyết tật.
Từ một góc độ khác, bảo đảm quyền con người bao gồm bao gồm các
khía cạnh sau đây:

9


Bảo đảm chính trị: Mỗi cá nhân là thành viên của một chế độ chính trị
- xã hội nhất định, không thể đứng ngoài các mối quan hệ giai cấp, cộng
đồng, dân tộc, quốc gia. Bảo đảm chính trị nghĩa là tạo ra một môi trường
chính trị, pháp lý thuận lợi để ghi nhận, bảo vệ và thực hiện các quyền con
người. Thể chế chính trị nào đề cao giá trị con người, đồng thời coi con người
là mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội thì trong thể chế đó

cá nhân được bảo đảm đầy đủ các quyền tự do của mình. Theo nghĩa đó, bảo
đảm về chính trị gắn liền với nghĩa vụ của các nhà nước trong việc tôn trọng
và bảo vệ quyền con người. Dù vậy, bảo đảm về chính trị cũng gắn với vai trò
đấu tranh của các tổ chức, cá nhân trong việc cải thiện môi trường chính trị,
pháp lý theo hướng dân chủ, tiến bộ, tôn trọng nhân quyền [14, tr.84].
Bảo đảm kinh tế: Bảo đảm kinh tế là việc tạo ra tiền đề vật chất để
hiện thực hoá các quyền con người. Các quyền con người không thể được
thực hiện đầy đủ trong một xã hội đói nghèo, lạc hậu. Đặc biệt, các quyền
kinh tế, xã hội, văn hoá sẽ trở thành hình thức nếu không có nguồn lực vật
chất để bảo đảm. Theo nghĩa đó, bảo đảm về kinh tế gắn liền với nghĩa vụ của
các nhà nước trong việc thực hiện quyền con người. Dù vậy, bảo đảm về kinh
tế cũng gắn với trách nhiệm của mọi cá nhân trong việc lao động, làm việc để
đóng góp vào sự phát triển chung của xã hội, cũng như để thoả mãn các nhu
cầu vật chất của cá nhân và gia đình mình.
Bảo đảm xã hội: Bảo đảm về xã hội là việc tạo ra môi trường văn hoá,
cộng đồng thuận lợi cho việc hiện thực hoá các quyền con người. Các điều
kiện về chính trị và kinh tế là cần nhưng chưa đủ để cho các quyền con người
được tôn trọng và thực hiện đầy đủ. Minh chứng là một số nước có điều kiện
kinh tế, chính trị tương tự song nhưng mức độ bảo đảm quyền con người có
thể khác nhau. Điều này chứng tỏ các yếu tố lịch sử, truyền thống, văn hóa có
thể có tác động tích cực hay tiêu cực đến việc hưởng thụ những quyền con

10


người nhất định. Bảo đảm về xã hội liên quan đến tất cả các nghĩa vụ của nhà
nước trong vấn đề nhân quyền, tuy nhiên gắn nhiều hơn với nghĩa vụ tôn
trọng và thực hiện. Bên cạnh đó, bảo đảm về xã hội cũng đòi hỏi các tổ chức,
cá nhân phải nỗ lực đóng góp xây dựng và cải thiện môi trường văn hoá, xã
hội mà trong đó các quyền con người được tôn trọng và đề cao, sự chuyên

chế, tàn bạo, bất bình đẳng, bất công và những hành vi bạo lực bị lên án và
loại trừ [14, tr.87].
Bảo đảm pháp lý: Sự phân định thành các hình thức bảo đảm nêu trên
chỉ mang tính chất tương đối. Tất cả các yếu tố về kinh tế, chính trị, văn hóa
có ý nghĩa quan trọng, song pháp luật có ý nghĩa trực tiếp nhất với việc bảo
đảm thực hiện các quyền con người, vì về mặt hình thức, các bảo đảm khác
đều cần được thể hiện qua pháp luật. Theo nghĩa đó, bảo đảm pháp lý được
xây dựng trên cơ sở của điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội nhất định và tác
động trở lại đến sự phát triển của các điều kiện ấy.
Bảo đảm pháp lý thể hiện ở việc pháp điển hoá các quyền con người và
quy định các cơ chế, biện pháp để tổ chức thực hiện và ngăn ngừa, xử lý
những vi phạm các quyền con người trong hệ thống pháp luật. Pháp luật càng
phát triển, quyền con người của các cá nhân trong xã hội càng được tôn trọng
và bảo đảm, vì pháp luật tạo hành lang an toàn và rõ ràng cho công dân khi
tham gia vào các quan hệ xã hội, và xác định những giới hạn cho Nhà nước
khi thực hiện quyền lực của mình. Ngoài ra, pháp luật giúp các cá nhân hiểu
biết và có vũ khí để bảo vệ các quyền của mình khi bị vi phạm.
Từ góc nhìn của luật học, các bảo đảm pháp lý có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng và mang tính quyết định, là cốt lõi, là sự thể chế hóa các bảo đảm chính
trị, kinh tế, xã hội. Các bảo đảm pháp lý tổ chức những bảo đảm khác thành
các chuẩn mực có tính bắt buộc mà nhà nước, các cơ quan nhà nước và xã hội
phải thực hiện để các quyền con người được hiện thực hoá. Các bảo đảm pháp

11


lý rất đa dạng, phong phú, trước hết là sự ghi nhận các quyền con người, đến
việc tạo các điều kiện pháp lý, các điều kiện tổ chức, việc thiết lập cơ chế, bộ
máy chuyên trách bảo đảm các quyền con người.
Ở Việt Nam, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên

chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) của Đảng Cộng sản Việt
Nam đã khẳng định: “Nhà nước tôn trọng và bảo đảm các quyền con người,
quyền công dân, chăm lo hạnh phúc, sự phát triển tự do của mỗi người” [10].
Hiến pháp năm 2013 cũng khẳng định các nghĩa vụ tôn trọng, bảo vệ, bảo
đảm quyền con người trong các Điều 3 và 14. Như vậy, Nhà nước Việt Nam
đã nhận về mình đầy đủ các trách nhiệm, nghĩa vụ bảo đảm quyền con người
theo nhận thức chung của cộng đồng quốc tế.
Tóm lại, từ những phân tích trên, có thể rút ra một nhận định đó là: Bảo
đảm quyền con người là việc thông qua các biện pháp về chính trị, kinh tế, xã
hội, văn hoá và pháp lý, trong đó biện pháp pháp lý có ý nghĩa trực tiếp và
quan trọng, để hiện thực hoá các quyền con người. Chủ thể có nghĩa vụ chính
trong việc bảo đảm các quyền con người là nhà nước, song các tổ chức, cá
nhân cũng có trách nhiệm trong vấn đề này. Kết quả của việc bảo đảm quyền
con người là tất cả các quyền của mọi cá nhân và nhóm được tôn trọng, bảo
vệ và hỗ trợ thực hiện đầy đủ trong thực tế.
1.2. Cơ sở pháp lý, công cụ, đặc điểm, ý nghĩa của việc bảo đảm
quyền con người trong các cơ sở cai nghiện bắt buộc
1.2.1. Cơ sở pháp lý của việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai
nghiện bắt buộc
Ở Việt Nam, việc đưa người nghiện ma tuý vào các cơ sở cai nghiện bắt
buộc trước đây được thực hiện theo thủ tục hành chính, được coi là một
BPXLHC (BPXLHC). Theo quy định của khoản 2 Điều 3 Luật XLVPHC năm
2012 (XLVPHC), BPXLHC là biện pháp được áp dụng đối với cá nhân vi phạm

12


pháp luật về an ninh trật tự, an toàn xã hội mà không phải là tội phạm [24]. Cũng
theo quy định của Luật này, ở nước ta hiện nay có 4 BPXLHC, bao gồm:
- Biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn: Đây là BPXLHC được áp

dụng đối với một số đối tượng do pháp luật quy định tại Điều 90 Luật
XLVPHC năm 2012 để giáo dục, quản lý họ tại nơi cư trú trong trường hợp
nhận thấy không cần thiết phải cách ly họ khỏi cộng đồng [24].
- Biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng: Được quy định tại Điều 92
Luật XLVPHC năm 2012, áp dụng đối với người chưa thành niên có hành vi
vi phạm pháp luật nhưng chưa đến mức phải truy tố hình sự, nhằm mục đích
giúp họ học văn hóa, học nghề, lao động, sinh hoạt dưới sự quản lý giáo dục
của nhà trường.
- Biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc: Được quy định tại Điều
94 Luật XLVPHC năm 2012, áp dụng đối với người có hành vi vi phạm pháp
luật nhưng chưa đến mức phải truy tố hình sự, để giúp họ lao động, học văn
hóa, học nghề, sinh hoạt dưới sự quản lý của cơ sở giáo dục bắt buộc.
- Biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc: Được quy định tại Điều
96 Luật XLVPHC năm 2012, áp dụng đối với người nghiện ma tuý để giúp họ
chữa bệnh, lao động, học văn hóa, học nghề dưới sự quản lý của cơ sở cai
nghiện bắt buộc [24].
Cả bốn biện pháp trên tuy được áp dụng cho những đối tượng khác
nhau nhưng có điểm chung là đều mang tính cưỡng chế, do các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền thực hiện. Những biện pháp này đều tác động và ảnh
hưởng tới quyền con người với mức độ khác nhau.
Nghiện ma túy là bệnh mãn tính do rối loạn của não bộ. Điều trị nghiện
ma túy (gọi tắt là điều trị nghiện) là một quá trình lâu dài bao gồm tổng thể
các can thiệp hỗ trợ về y tế, tâm lý, xã hội làm thay đổi nhận thức, hành vi
nhằm giảm tác hại của nghiện ma túy và giảm tình trạng sử dụng ma túy trái

13


phép. Theo quy định tại Điều 96 Luật XLVPHC năm 2012, đối tượng áp dụng
biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là người nghiện ma túy từ đủ 18

tuổi trở lên đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn mà vẫn
còn nghiện hoặc chưa bị áp dụng biện pháp này nhưng không có nơi cư trú ổn
định. Biện pháp này không áp dụng đối với: Người không có năng lực trách
nhiệm hành chính; Người đang mang thai có chứng nhận của bệnh viện; Phụ nữ
hoặc người duy nhất đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi được Uỷ ban nhân
dân cấp xã nơi người đó cư trú xác nhận. Biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt
buộc được áp dụng trong thời gian 2 năm. Trong thời gian này, các đối tượng sẽ
bị quản lý tập trung trong các cơ sở lao động xã hội, tức là bị hạn chế một số
quyền công dân, quyền con người, cụ thể là quyền tự do đi lại, cư trú [24].
Quá trình áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc được
hiểu là các sự kiện, hoạt động diễn ra theo trình tự thủ tục nhất định kể từ khi
phát hiện, lập hồ sơ, xem xét, đề nghị Tòa án có thẩm quyền ra quyết định áp
dụng BPXLHC cho đến quá trình thực hiện các quyết định áp dụng BPXLHC
của Uỷ ban nhân dân xã phường, thị trấn và của TAND có thẩm quyền. Để
đảm bảo quyền con người trong quá trình này đòi hỏi phải quy định và áp
dụng nhiều biện pháp pháp lý khác nhau như hướng dẫn, kiểm tra, giám sát
việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; việc xác định thẩm
quyền xem xét, áp dụng và đến việc khiếu nại, tố cáo những hành vi vi phạm
pháp luật của cơ quan, cán bộ, công chức nhà nước trong quá trình áp dụng
biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
Một trong những điểm mới quan trọng của Luật XLVPHC năm 2012
đó là chuyển quy trình áp dụng các BPXLHC nói chung và biện pháp đưa vào
cơ sở cai nghiện bắt buộc nói riêng sang trình tự tư pháp, thông qua đó vai trò
của Tòa án là có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Vì Tòa án là thiết chế quan
trọng, khách quan và có hiệu quả nhất trong việc thực thi công lý và bảo vệ

14


quyền con người, nên có thể khẳng định rằng quy định mới đã nêu của Luật

XLVPHC năm 2012 có ý nghĩa rất quan trọng với việc bảo đảm quyền của
các đối tượng có liên quan [24].
1.2.2. Công cụ bảo đảm quyền con người trong các cơ sở cai nghiện
bắt buộc
Như đã đề cập ở phần trên, bảo đảm pháp lý có ý nghĩa trực tiếp, quan
trọng nhất trong việc hiện thực hoá các quyền con người, trong đó có các
quyền con người trong các cơ sở cai nghiện bắt buộc. Điều đó là bởi mọi hoạt
động của bộ máy nhà nước đều phải dựa trên pháp luật. Pháp luật, do đó đóng
vai trò là công cụ để bảo đảm các quyền con người, cụ thể như sau:
Một là, pháp luật là phương tiện cụ thể hóa một cách chính thống các
quyền, tự do cơ bản của con người trên tất cả các lĩnh vực chính trị, dân sự,
kinh tế, xã hội, văn hoá. Các quyền con người chỉ có thể đảm bảo được khi
được cụ thể hóa thành các quy phạm pháp luật, nhờ đó ràng buộc nghĩa vụ
chấp hành của các chủ thể trong xã hội. Nói cách khác, pháp luật là phương
tiện để đưa các tiêu chuẩn về quyền con người đi vào đời sống xã hội.
Hai là, pháp luật là phương tiện để giới hạn quyền lực của hệ thống
hành chính nhà nước trong mối quan hệ với cá nhân, tổ chức của công dân.
Trong bộ máy nhà nước, đội ngũ cán bộ, công chức rất đông, công việc của
họ tiềm ẩn những xung đột với các quyền con người, quyền công dân. Vì thế,
hoạt động của các cơ quan nhà nước đều phải được giới hạn bởi pháp luật để
tránh sự tùy tiện, lạm dụng, tước bỏ một cách trái phép các quyền con người
nhân danh nhà nước.
Ba là, pháp luật là phương tiện để công dân giám sát, kiểm soát hoạt
động của các cơ quan nhà nước, từ đó phát hiện ra các vi phạm nhân quyền và
yêu cầu xử lý những các nhân, tổ chức vi phạm. Giám sát, kiểm soát hoạt động
của bộ máy nhà nước cho phép phòng ngừa, ngăn chặn những hành vi vi phạm
nhân quyền của toàn bộ hệ thống cơ quan và cán bộ, công chức nhà nước.

15



Bốn là, pháp luật là phương tiện hiệu quả để xử lý các vi phạm quyền
con người khi bị xâm phạm. Trong thực tiễn hoạt động của nhà nước và xã
hội, quyền con người có thể bị xâm phạm từ nhiều chủ thể nào, mà thông
thường là từ phía cơ quan công quyền; tất cả những sự xâm phạm đó đều
được xử lý dựa trên cơ sở pháp luật. Có thể nói pháp luật là cái khiên bảo vệ
nhân quyền, không một trường hợp vi phạm quyền của con người nào mà có
thể được miễn trừ trước pháp luật [13, tr.155].
Như vậy, nghiên cứu về bảo đảm quyền con người phải được nghiên
cứu sự điều chỉnh của pháp luật và biểu hiện của việc thực hiện trên thực tế
các quy định pháp luật trực tiếp hay gián tiếp liên quan tới các quyền của cá
nhân, nhóm xã hội. Pháp luật theo nghĩa rộng bao gồm: Pháp luật vật chất
(pháp luật nội dung); pháp luật thủ tục (pháp luật hình thức, pháp luật tố
tụng), trong đó bảo đảm quyền con người thông qua vai trò pháp luật tố tụng
thường được chú trọng hơn. Bảo đảm quyền con người trong tố tụng trước hết
phải tạo được điều kiện, tiền đề để công dân, tổ chức dễ dàng tiếp cận với Tòa
án để khiếu nại, tố cáo vi phạm các quyền của mình, mặt khác phải tạo ra
được điều kiện thuận lợi để công dân tham gia tố tụng. Điều này có nghĩa là
phải tạo ra được sự bình đẳng trong quan hệ tố tụng giữa những người tham
gia tố tụng, đặc biệt là giữa công dân với cơ quan, cán bộ công chức nhà nước
bị khiếu kiện vi phạm nhân quyền trong quá trình xét xử. Phù hợp với quá
trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay,
phạm vi, đối tượng các quyết định, hành vi của cơ quan nhà nước, cán bộ,
công chức nhà nước có thể bị cá nhân, tổ chức khởi kiện tới Tòa án ngày càng
được mở rộng. Điều này cũng đồng nghĩa là công dân ngày càng có nhiều
điều kiện, cơ hội để bảo vệ các quyền của mình khi bị cơ quan nhà nước, cán
bộ, công chức nhà nước xâm phạm.

16



1.2.3. Đặc điểm của việc bảo đảm quyền con người trong các cơ sở
cai nghiện bắt buộc
Song song với hình thức cai nghiện bắt buộc là hình thức cai nghiện tự
nguyện. Tuy nhiên người cai nghiện tự nguyện có một số đặc điểm khác so
với cai nghiện bắt buộc. Họ hoàn toàn chủ động trong việc lựa chọn hình
thức, phương pháp, cơ sở cai nghiện và thời gian cai nghiện. Người cai
nghiện tự nguyện không bị bắt quả tang về hành vi sử dụng trái phép chất ma
túy mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự, vì thế không có quyết
định của TAND về việc đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo quy định của
Luật XLVPHC năm 2012. Việc cai nghiện là hoàn toàn tự nguyện. Họ có
quyền từ chối cai nghiện bất cứ lúc nào. Tuy nhiên, trong thời gian cai nghiện
tại các cơ sở cai nghiện họ phải tuân thủ các quy định của cơ sở cai nghiện,
đóng kinh phí để cai nghiện. Quan trọng hơn, pháp luật phải bảo đảm các
quyền con người của họ trong quá trình cai nghiện tự nguyện.
Đối với học viên trong các cơ sở cai nghiện bắt buộc, họ là những
người có quyết định của TAND về việc đưa đi cai nghiện bắt buộc. Vì vậy,
việc bảo đảm quyền con người trong các cơ sở cai nghiện bắt buộc có những
đặc điểm sau đây:
- Về chủ thể được bảo vệ: Trong bối cảnh các cơ sở cai nghiện bắt
buộc, chủ thể chính được bảo vệ quyền con người là các học viên – tức những
người nghiện ma tuý mà theo pháp luật bắt buộc phải đi cai nghiện tại các cơ
sở này. Đây là nhóm đối tượng bị quản lý bởi các cơ sở cai nghiện bắt buộc.
Họ bị hạn chế một số quyền như tự do đi lại, cư trú, tuy nhiên họ không phải
là tội phạm. Vì vậy, việc đối xử với họ, về nguyên tắc, không được khắc
nghiệt như đối xử với những người bị thi hành án phạt tù và những bị can
trong các trại tạm giam. Dù vậy, trong thực tế, nhóm này thường là nạn nhân
của những vi phạm nhân quyền từ phía cán bộ, nhân viên hoặc từ chính những
học viên khác trong trại cai nghiện.


17


Dạng đối tượng thứ hai là những cán bộ, nhân viên làm việc tại các cơ
sở cai nghiện bắt buộc. Những người này cũng có thể là nạn nhân của những
vi phạm nhân quyền từ chính những học viên (ví dụ như đánh đập, tấn công,
nhục mạ…). Tuy nhiên, so với các học viên, nhóm này không bị hạn chế bất
kỳ quyền tự do nào và có quyền lực hơn. Những rủi ro về nhân quyền với
nhóm này là thấp hơn nhiều, vì vậy, trong công trình nghiên cứu này, tác giả
luận văn chỉ tập trung vào một nhóm chủ thể đó là những học viên của các
trại cai nghiện.
- Về chủ thể có nghĩa vụ: Chủ thể chính trong hoạt động này cơ quan
nhà nước có thẩm quyền quản lý các cơ sở cai nghiện. Theo pháp luật hiện
hành, cơ quan đó là Sở Lao động-Thương binh-Xã hội các tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương. Chủ thể có nghĩa vụ trực tiếp là lãnh đạo và nhân viên
các trại cai nghiện.
Bên cạnh đó, nhiều cơ quan nhà nước khác cũng là chủ thể có nghĩa vụ
trong những bối cảnh nhất định. Ví dụ, các cơ quan tư pháp (công an, viện
kiểm sát, toà án) có nhiệm vụ điều tra, truy tố, xét xử các vi phạm nhân quyền
xảy ra tại các cơ sở cai nghiện bắt buộc. Trong phạm vi hoạt động của mình,
tất cả các cơ quan nhà nước có liên quan đều tuân thủ các quy định của pháp
luật về bảo đảm quyền con người của học viên các trại cai nghiện trong hoạt
động của mình.
- Về các hoạt động bảo đảm: Cung giống như ở các lĩnh vực và bối
cảnh khác, việc bảo đảm quyền con người trong các cơ sở cai nghiện thể hiện
qua các phương diện chính đó là: (i) Bảo đảm về khuôn khổ pháp lý; (ii) Bảo
đảm về thực thi pháp luật. Cả hai phương diện này đều quan trọng, tuy nhiên,
việc bảo đảm thực thi pháp luật về quyền con người trong các cơ sở cai
nghiện bắt buộc có nhiều khó khăn hơn trong các môi trường khác, do đây là
môi trường khép kín và người cai nghiện bị hạn chế một số tự do. Vì vậy, bảo


18


×