Tải bản đầy đủ (.pdf) (115 trang)

Vấn đề quản lý và kinh doanh báo chí ở các tỉnh miền đông nam bộ (đồng nai, bình dương, bà rịa vũng tàu giai đoạn 2007 2010)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (941.43 KB, 115 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN THỊ THẢO NGUYÊN

VẤN ĐỀ QUẢN LÝ VÀ KINH DOANH BÁO CHÍ
Ở CÁC TỈNH MIỀN ĐÔNG NAM BỘ
(Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa Vũng Tàu)

LUẬN VĂN THẠC SĨ BÁO CHÍ

Hà Nội, 2011

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN THỊ THẢO NGUYÊN

VẤN ĐỀ QUẢN LÝ VÀ KINH DOANH BÁO CHÍ
Ở CÁC TỈNH MIỀN ĐÔNG NAM BỘ
(Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa Vũng Tàu giai đoạn 2007 – 2010)

Chuyên ngành Báo chí học
Mã số: 60.32.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ BÁO CHÍ

Người hướng dẫn khoa học: TS. ĐỖ THỊ QUYÊN



Hà Nội, 2011
2


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan: Luận văn “Vấn đề quản lý và kinh doanh báo chí ở các
tỉnh miền Đông Nam bộ (khảo sát Đài Phát thanh và Truyền hình Đồng Nai, Bình
Dương và Bà Rịa Vũng Tàu 2007 – 2010)” do tác giả viết dưới sự hướng dẫn của
TS. Đỗ Thị Quyên.
Bình Dương, ngày 22 tháng12 năm 2011
Tác giả

Nguyễn Thị Thảo Nguyên

3


LỜI CẢM ƠN
Luận văn Thạc sĩ này là kết quả nghiên cứu nghiêm túc của tôi trong thời
gian theo học tại khoa Báo chí – Truyền thông, Trường Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Chủ nhiệm khoa, các thầy, cô giáo và cán bộ
trong khoa đã giúp tôi có điều kiện được tiếp cận với nhiều kiến thức bổ ích và
phong phú trong quá trình học tập, nghiên cứu cũng như đã tạo mọi điều kiện thuận
lợi giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Đặc biệt, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc sự tận tâm và nhiệt tình hướng dẫn
của TS. Đỗ Thị Quyên đối với tôi trong suốt thời gian hoàn thành luận văn này.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp và rất nhiều
nhà báo đã giúp đỡ, động viên tôi trong quá trình học tập cũng như cung cấp những

tư liệu, thông tin về đề tài luận văn mà tôi thực hiện.
Cuối cùng, tôi mong tiếp tục nhận được sự góp ý, nhận xét quý báu của thầy
cô, bạn bè và những ai quan tâm tới đề tài.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

Bình Dương, ngày 22 tháng 12 năm 2011

Nguyễn Thị Thảo Nguyên

4


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
XHCN:
PTTH:
UBND:
VTV:
HTV:
BTV:
ĐNRT:
BRT:
TP HCM:
PTTTĐC:
QC:
TNDN:
DTH:
IPTV:
DIGITAL:
ANALOZ:
VCTV:

SCTV:
HTVC:
VTC:
Bộ TT&TT:
THTT:
TTĐT:
HĐQT:

Xã hội chủ nghĩa
Phát thanh Truyền hình
Uỷ ban nhân dân
Đài Truyền hình Việt Nam
Đài Truyền hình thành phố Hồ Chí Minh
Đài Phát thanh và Truyền hình Bình Dương
Đài Phát thanh và Truyền hình Đồng Nai
Đài Phát thanh và Truyền hình Bà Rịa – Vũng Tàu
Thành phố Hồ Chí Minh
Phương tiện truyền thông đại chúng
Quảng cáo
Thu nhập doanh nghiệp
Truyền hình di động
Truyền hình kỹ thuật số mặt đất
Kỹ thuật số
Kỹ thuật tương tự
Trung tâm kỹ thuật truyền hình cáp Việt Nam
Công ty Truyền hình cáp Saigon Tourist
Trung tâm Dịch vụ Truyền hình cáp HTV
Tổng công ty truyền thông đa phương tiện VTC
Bộ Thông tin và Truyền thông
Truyền hình trả tiền

Truyền thông đại chúng
Hội đồng quản trị

5


MỤC LỤC
Mở đầu ...................................................................................................Trang 1
1. Tính cấp thiết của đề tài .................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài .................................................................................. 3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................... 4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ..................................................................... 5
5. Phương pháp luận ............................................................................................. 6
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài ............................................................. 7
7. Bố cục của luận văn .......................................................................................... 8
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ KINH DOANH
BÁO CHÍ............................................................................................................10
1.1. Quản lý kinh doanh báo chí trong nền kinh tế thị trường ............................. 10
1.2. Kinh doanh báo chí trong nền kinh tế thị trường .......................................... 22
1.3. Vai trò của quản lý kinh doanh báo chí trong nền kinh tế thị trường theo định
hướng Xã hội chủ nghĩa .........................................................................................30
Tiểu kết chương 1 ..................................................................................................32
Chƣơng II: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ KINH DOANH BÁO CHÍ Ở CÁC
ĐÀI PHÁT THANH TRUYỀN HÌNH ĐỒNG NAI, BÌNH DƢƠNG, VÀ
BÀ RỊA VŨNG TÀU (2007 – 2010) ...............................................................34
2.1. Khái quát về Đài PTTH Bình Dương, Đồng Nai và Bà Rịa Vũng Tàu .....34
2.2.Tổng quan về công chúng báo chí các tỉnh Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa
Vũng Tàu ...........................................................................................................38
2.3. Hoạt động quản lý kinh doanh báo chí ở các tỉnh miền Đông Nam bộ .......46
2.4. Nguyên nhân của những tồn tại trong hoạt động quản lý kinh doanh quảng

cáo, dịch vụ ở Đài PTTH Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa Vũng Tàu .............56
Tiểu kết chương 2 .............................................................................................58

6


Chƣơng 3: KINH NGHIỆM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG
QUẢN LÝ KINH DOANH BÁO CHÍ Ở CÁC TỈNH MIỀN ĐÔNG NAM
BỘ…………………………………………......................................................60
3.1. Kinh nghiê ̣m khai thác nguồ n thu quảng cáo của mô ̣t số đài PTTH trong
nước ..................................................................................................................60
3.2. Một số dự báo về xu hướng phát triển báo chí ở miền Đông Nam bộ
............................................................................................................................63
3.3. Một số đề xuất và kiến nghị ....................................................................... 73
3.4. Một số giải pháp nâng cao chất lượng quản lý kinh doanh báo chí ở các tỉnh
miền Đông Nam bộ ........................................................................................... 76
Tiểu kết chương 3 .............................................................................................84
Kết luận ............................................................................................................86
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

7


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau gần 30 năm đổi mới, cùng với kinh tế, nền báo chí Việt Nam đã không
ngừng phát triển và đạt được những thành tựu quan trọng. Báo chí đã bám sát đời
sống xã hội, cung cấp những thông tin đa chiều, sâu sắc; tuyên truyền chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước hiệu quả. Vai trò của báo chí ngày càng nâng cao

trong đời sống xã hội, đặc biệt là trong quá trình đấu tranh chống tham nhũng, quan
liêu, lãng phí, phát triển kinh tế - xã hội trước tiến trình đổi mới và hội nhập. Trước
tình hình đó, ngày 17-10-1997, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa
VIII đã ban hành Chỉ thị 22-CT/TW về việc tiếp tục đổi mới và tăng cường sự lãnh
đạo, quản lý công tác báo chí, xuất bản. Đây chính là động lực để kỳ họp thứ 5,
Quốc hội khóa X thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Báo chí
ngày 12-6-1999. Điều này cho thấy, Nhà nước ta đã thể hiện sự cố gắng trong quá
trình quản lý hoạt động báo chí phù hợp với điều kiện, tình hình mới.
Trong khái niệm quản lý hành chính nhà nước cũng như vị trí địa lý, Đồng
Nai, Bình Dương và Bà Rịa Vũng Tàu là 03 trong số 4 tỉnh, thành phố bên cạnh
thành phố Hồ Chí Minh có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, phát triển công nghiệp,
dịch vụ năng động của cả nước, tạo thành vùng tứ giác kinh tế trọng điểm miền
Đông Nam bộ. Tuy nhiên do thành phố Hồ Chí Minh là một thành phố lớn, là trung
tâm báo chí sôi động của cả nước nên cần phải được nghiên cứu riêng theo hướng
chuyên sâu theo hệ thống. Và trên thực tế, các mặt hoạt động của báo chí ở thành
phố này đã được nghiên cứu ở nhiều công trình khác nhau.
Với 3 tỉnh Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa Vũng Tàu, báo chí nói chung và
lĩnh vực phát thanh, truyền hình nói riêng thời gian qua đã có sự phát triển mạnh mẽ
cả về số lượng lẫn chất lượng hoạt động của các cơ quan báo chí. Bên cạnh chức

8


năng thông tin, tuyên truyền nhiệm vụ chính trị, hoạt động của các cấp ủy, chính
quyền tại địa phương, đài PTTH tại các tỉnh này đã thể hiện sức mạnh, khả năng
cạnh tranh, góp phần vào sự phát triển sôi động của thị trường báo chí cả nước.
Khu vực miền Đông Nam bộ có diện tích tự nhiên 21.600km2, chiếm gần
6,5% diện tích cả nước, dân số hơn 6,7 triệu người, chiếm 6,8% dân số cả nước. Dù
diện tích và dân số không lớn so với các vùng khác, nhưng có thể nói đây là khu
vực có nền kinh tế hàng hóa, dịch vụ sớm phát triển, cơ cấu tăng trưởng kinh tế và

chỉ số thu hút đầu tư luôn dẫn đầu các khu vực khác trong cả nước. Đây đồng thời
cũng là vùng có trình độ dân trí và mức thu nhập bình quân đầu người khá cao.
Những đặc điểm này đã tác động đáng kể đến sự phát triển của các phương tiện
thông tin đại chúng, đặc biệt là phát thanh và truyền hình. Trong đó, nổi cộm vấn đề
đặt ra hiện nay là đi đôi với sự phát triển mạnh mẽ, nhanh chóng thì vai trò của công
tác quản lý và kinh doanh báo chí tại các đài PTTH khu vực này đã có tác động như
thế nào đến hiệu quả phát triển bền vững của đơn vị cũng như góp phần vào sự phát
triển ổn định của hoạt động báo chí cả nước?
Và trong bối cảnh hội nhập và phát triển đất nước hiện nay, hàng loạt vấn đề
mang tính chất quyết định sự tồn tại của các đài PTTH địa phương cả nước nói
chung và các tỉnh miền Đông Nam bộ nói riêng. Một trong những vấn đề hàng đầu
là làm thế nào để hệ thống này vẫn tiếp tục phát huy những thế mạnh, thực sự trở
thành kênh thông tin hữu hiệu, là cầu nối quan trọng giữa Đảng, Nhà nước, các tổ
chức chính trị, xã hội với đông đảo các tầng lớp nhân dân ở địa phương, đồng thời
đạt được hiệu quả kinh doanh và có thể tự chủ về tài chính, không dựa vào ngân
sách nhà nước cấp.
Để trả lời được những vấn đề trên, luận văn trước hết phải làm sáng tỏ thực
trạng quản lý kinh doanh báo chí ở các tỉnh miền Đông Nam bộ (Đồng Nai, Bình
Dương và Bà Rịa Vũng Tàu). Hiện các đài PTTH tại các tỉnh, thành này đã và đang
quản lý việc kinh doanh ra sao, và cần đổi mới theo hướng nào để có thể vừa phát
huy vai trò là cầu nối giữa Đảng, nhà nước với nhân dân, đáp ứng nhu cầu hưởng
thụ thông tin ngày càng cao của công chúng, vừa có thể tự chủ về tài chính, cân đối

9


được nguồn thu, nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường báo chí, tạo nền tảng
vững chắc cho sự tồn tại lâu dài của đơn vị trong thời gian tới.
Nói cách khác, luận văn đề cập đến vấn đề cấp bách hiện nay đối với các cơ
quan báo chí trong việc thực hiện chức năng tư tưởng chính trị với chức năng kinh

doanh, hiệu quả kinh tế với hiệu quả truyền thông; công tác quản lý và tổ chức kinh
doanh báo chí sao cho phù hợp và đạt hiệu quả, đặc biệt ở các địa phương như ba
tỉnh miền Đông Nam bộ: Đồng Nai, Bình Dương và Bà Rịa – Vũng Tàu.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi quyết định chọn đề tài “Vấn đề quản lý và
kinh doanh báo chí ở các tỉnh miền Đông Nam Bộ (khảo sát tại Đồng Nai, Bình
Dương, Bà Rịa - Vũng Tàu)” để làm đề tài nghiên cứu cho Luận văn Thạc sĩ
chuyên ngành Báo chí của mình. Từ những kết quả nghiên cứu của đề tài này hy
vọng sẽ góp phần bổ sung lý luận về kinh doanh báo chí; công tác quản lý hoạt
động kinh doanh báo chí; hoạt động quản lý kinh doanh quảng cáo, dịch vụ tại các
đài PTTH địa phương; kinh nghiệm khai thác nguồn thu quảng cáo của các cơ quan
báo chí trong nước…
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Có thể nói mặc dù xu hướng kinh doanh báo chí đang ngày càng phát triển
với tốc độ nhanh, nhưng cho đến nay, hệ thống các tài liệu nghiên cứu về kinh
doanh báo chí, quản lý hoạt động kinh doanh báo chí vẫn còn khá hạn chế. Bên
cạnh những nguồn tài liệu tiếng nước ngoài dịch sang tiếng Việt, ở nước ta cũng có
một số công trình, tài liệu nghiên cứu về kinh doanh báo chí.
Ở cấp độ sách giáo khoa, cuốn “Quản lý nhà nước và pháp luật về báo chí”
của PGS.TS Lê Thanh Bình và TS.Phí Thị Thanh Tâm được xem là một trong
những giáo trình chuyên khảo lý luận chung về quản lý nhà nước và pháp luật về
báo chí; trình bày nội dung quản lý nhà nước trong lĩnh vực báo chí; pháp luật về
quản lý nhà nước, các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước và hoàn thiện
pháp luật trong lĩnh vực báo chí ở Việt Nam. Giáo trình đã trình bày một cách hệ
thống các vấn đề của quản lý nhà nước và pháp luật về báo chí. Đây là tài liệu bổ
ích đối với chúng tôi khi đã cung cấp một cách nhìn khái quát về mặt lý luận của

10


công tác quản lý nhà nước về báo chí. Tuy nhiên, giáo trình chưa đi vào nghiên cứu

cụ thể công tác quản lý kinh doanh báo chí ở các tỉnh miền Đông Nam bộ mà chỉ có
sự khái quát chung quản lý nhà nước và pháp luật về báo chí.
Với tủ sách nghiệp vụ báo chí, có các cuốn “Báo chí trong kinh tế thị
trường” của A.A.Grabenhincôp do Lê Tâm Hằng, Ngữ Phan, Đới Thị Kim Thoa
dịch, Nhà Xuất bản Giáo dục phát hành năm 2003; cuốn “Báo chí, những vấn đề lý
luận và thực tiễn” của PGS.TS Lê Thanh Bình, Đỗ Anh Đức, Vũ Quang Hào do
Nhà xuất bản Đại chọ Quốc gia Hà Nội phát hành năm 2005…Đây là những tài liệu
được trình bày từ kinh nghiệm của các nhà báo và giảng viên báo chí được đúc kết
một cách khá toàn diện và hệ thống. Vì vậy trên cơ sở những tài liệu này đã cung
cấp cho chúng tôi những góc nhìn mới, sâu sắc về lý luận, thực tiễn trong hoạt động
quản lý kinh doanh báo chí.
Bên cạnh đó, nhiều sinh viên ở bậc cử nhân, cao học cũng có các nghiên cứu
về chức năng kinh tế của báo chí. Nhưng đa số các luận văn chỉ đề cập ở mức độ
khảo sát mô hình kinh doanh mà chưa đi sâu vào phân tích thực trạng, nhận xét,
đánh giá hiệu quả kinh doanh của các cơ quan báo chí.
Tuy nhiên, liên quan đến đề tài quản lý và kinh doanh báo chí, chưa có một
công trình nào nghiên cứu cụ thể về thực trạng kinh doanh và công tác quản lý hoạt
động kinh doanh của các cơ quan báo chí.
Đây là công trình mang tính chất tham khảo cho sinh viên chuyên ngành
thông tin truyền thông và cũng rất giá trị đối với những người nghiên cứu vấn đề
này dưới nhiều góc độ khác nhau. Và trên thực tế, nguồn tài liệu tham khảo, các
sách khảo cứu chuyên đề về quản lý báo chí không nhiều. Những khó khăn khách
quan trên là những trở ngại không nhỏ đối với việc nghiên cứu của tác giả. Do vậy,
tác giả ngoài việc thu thập tài liệu sẽ thực hiện một số chuyến đi thực tế đến các nơi
như: Các cơ quan quản lý về lĩnh vực báo chí các cấp, các trụ sở của các cơ quan
báo chí, điển hình để tìm hiểu hoạt động và ghi nhận những phản hồi từ các cơ quan
này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

11



3.1. Mục đích nghiên cứu:
Nghiên cứu thực trạng của vấn đề quản lý kinh doanh báo chí ở các tỉnh
miền Đông Nam Bộ, từ đó nêu được các đặc trưng của quản lý kinh doanh báo chí
và đưa ra giải pháp cụ thể đối với vấn đề nghiên cứu thông qua khảo sát thực tế tại
03 tỉnh Miền Đông Nam Bộ.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Xác định những quan điểm, khái niệm cơ bản về kinh doanh báo chí, quản
lý hoạt động kinh doanh báo chí; tính đặc thù, vai trò của quản lý kinh doanh báo
chí trong sự phát triển của báo chí trong nền kinh tế thị trường theo định hướng Xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay;
- Khảo sát, điều tra, đánh giá, phân tích thực trạng và đưa ra các giải pháp
đối với công tác quản lý kinh doanh báo chí tại các tỉnh miền Đông Nam bộ. Cụ thể
là Đài PTTH Đồng Nai, Đài PTTH Bình Dương và Đài PTTH Bà Rịa Vũng Tàu;
- Từ những phân tích nêu trên tác giả rút ra kinh nghiệm trong quản lý kinh
doanh báo chí ở địa bàn khảo sát. Đồng thời đề xuất một số giải pháp đối với công
tác quản lý kinh doanh báo chí trong tình hình hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
- Tập trung nghiên cứu những vấn đề mang tính lý luận trong quản lý kinh
doanh báo chí, tính đặc thù và vai trò của quản lý kinh doanh báo chí trong nền kinh
tế thị trường theo định hướng Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, đặc biệt là ở
ba tỉnh miền Đông Nam bộ.
- Nghiên cứu cụ thể thực trang hoạt động quản lý kinh doanh báo chí của 03
cơ quan báo chí các tỉnh miền Đông Nam bộ, được xem xét qua các mặt như: cơ chế
quản lý, lãnh đạo; cơ chế tổ chức, hoạt động; hiệu quả hoạt động kinh doanh, đánh
giá chung và kinh nghiệm rút ra từ thực trạng quản lý kinh doanh báo chí cũng như
một số tồn tại, hạn chế cần khắc phục của mỗi đơn vị.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:


12


- Phạm vi nghiên cứu được giới hạn trong hoạt động của 03 cơ quan báo chí
các tỉnh miền Đông Nam bộ, gồm các Đài PTTH: Đồng Nai, Bình Dương và Bà Rịa
Vũng Tàu.
- Thời gian khảo sát, điều tra được giới hạn từ năm 2007-2010.
5. Phƣơng pháp luận:
5.1. Cơ sở lý luận
Đề tài vận dụng các quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và quan điểm duy vật biện chứng, duy vật lịch sử vừa là thế giới quan vừa là
phương pháp luận cho hoạt động nghiên cứu. Việc nghiên cứu còn phải dựa trên
quan điểm, đường lối của Đảng, chủ trương chính sách pháp luật của Nhà nước
Cộng hòa XHCN Việt Nam về quản lý kinh doanh báo chí để làm sáng tỏ những
vấn đề đã đặt ra.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu được thực hiện trong việc khảo sát các
công trình nghiên cứu, sách lý luận, các văn bản, chỉ thị, nghị quyết có liên quan
đến vấn đề quản lý kinh doanh báo chí nói chung, quản lý kinh doanh báo chí ở các
tỉnh miền Đông Nam bộ nói riêng.
- Phương pháp thống kê, so sánh hoạt động quản lý và kinh doanh giữa 03
đài Phát thanh và Truyền hình của 03 tỉnh Đồng Nai, Bình Dương và Bà Rịa Vũng
Tàu để làm rõ những mặt mạnh và hạn chế, góp phần cải thiện và nâng cao chất
lượng quản lý, hiệu quả kinh doanh báo chí của các Đài PTTH địa phương trong
khu vực.
- Phương pháp tiếp cận, khảo sát, điều tra xã hội học được thực hiện dưới
hình thức phiếu điều tra với 450 đối tượng công chúng của 03 Đài PTTH tại 03 địa
phương: Đồng Nai, Bình Dương và Bà Rịa Vũng Tàu. Cụ thể, phương pháp điều tra

bảng hỏi: phỏng vấn công chúng báo chí (mỗi tỉnh khảo sát 150 mẫu trên tổng số
450 mẫu) về việc tiếp nhận các chương trình phát thanh, truyền hình của ba Đài

13


PTTH Đồng Nai, Bình Dương và Bà Rịa Vũng Tàu như thế nào, thích hay không
cũng như các đánh giá về chất lượng của các chương trình này trên sóng của cả ba
Đài của ba địa phương Đồng Nai, Bình Dương và Bà Rịa Vũng Tàu.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp, khái quát được sử dụng trong việc đánh
giá các cứ liệu, các kết quả điều tra và để rút ra những luận điểm khoa học cũng như
các giải pháp cần thiết, phục vụ cho nội dung của luận văn.
Đề tài luận văn kế thừa và phát huy sáng tạo thành quả nghiên cứu từ các
công trình lý luận cơ sở về báo chí như: lý luận báo chí truyền thông, lý luận về
quản lý và phát triển báo chí, xuất bản …Tất cả các phương pháp kể trên đều có tác
động tích cực vào việc tạo kết quả và nâng cao tính thực tiễn cho luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài:
6.1. Ý nghĩa lý luận
- Đóng góp về mặt lý luận:
Đây là một trong những đề tài đầu tiên khảo sát một cách khá hệ thống về
hoạt động của 03 Đài PTTH ở 03 tỉnh thuộc khu vực miền Đông Nam bộ có đặc
trưng riêng là khu vực có nền kinh tế phát triển năng động nhất cả nước hiện nay.
Cụ thể là nghiên cứu về công tác quản lý kinh doanh báo chí các Đài PTTH Đồng
Nai, Bình Dương, Bà Rịa Vũng Tàu trong việc thực hiện nhiệm vụ thông tin, tuyên
truyền tại địa phương, thực hiện các hoạt động kinh doanh quảng cáo, dịch vụ, phát
hành…được nhìn nhận trên phương diện lý luận báo chí và truyền thông.
Qua việc hệ thống hóa và có quan điểm rõ ràng về công tác quản lý kinh
doanh báo chí các Đài PTTH Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa Vũng Tàu, luận văn
sẽ rút ra những kinh nghiệm, những giải pháp thiết thực cho các cơ quản lý báo chí
và các cơ quan báo chí ở các tỉnh Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa Vũng Tàu nói

riêng và cả nước nói chung có sự tiếp cận và hiểu rõ về công tác quản lý kinh
doanh báo chí một cách hệ thống và căn bản nhất.
Những tư liệu và kết quả nghiên cứu của luận văn có thể tham khảo để tiếp
tục nghiên cứu chuyên sâu hoặc làm tài liệu nghiên cứu, giảng dạy về những vấn đề

14


có liên quan đến quản lý kinh doanh báo chí, kinh tế báo chí nói chung và kinh
doanh báo chí tại các đài PTTH địa phương nói riêng…
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Luận văn sẽ tổng kết thực tiễn, góp phần trình bày một cách đầy đủ và hệ
thống về vấn đề quản lý kinh doanh báo chí ở các tỉnh miền Đông Nam bộ giúp cho
cơ quan quản lý báo chí có được cái nhìn bao quát và sâu sắc hơn về công tác quản
lý kinh doanh và hoạt động kinh doanh báo chí ở khu vực này trong việc thực hiện
nhiệm vụ chính trị và góp phần vào nguồn thu ngân sách cho địa phương.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng và hiệu quả
của công tác quản lý kinh doanh báo chí của các đài PTTH địa phương trong khu
vực miền Đông Nam bộ nghiên cứu, áp dụng trong xu thế cạnh tranh hiện nay.
- Đây cũng là lần đầu tiên tác giả vận dụng những kiến thức lý luận báo chí
đã được trang bị để giải quyết vấn đề trong thực tiễn, qua đó giúp nâng cao sự hiểu
biết và trình độ chuyên môn của mình.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, nội dung luận văn được cấu trúc làm 03
chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về quản lý kinh doanh báo chí.
Trong chương 1 chúng tôi hệ thống hoá về lý luận quản lý kinh doanh báo
chí, đặc biệt là việc quản lý hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế thị trường theo
định hướng Xã hội Chủ nghĩa. Đồng thời khái quát tính đặc thù và vai trò của công
tác quản lý dưới sự chỉ đạo của Đảng, Nhà nước trong hoạt động kinh doanh báo chí

ở Việt Nam trên tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng chỉ
ra những phạm vi quản lý trong kinh doanh báo chí như một loại hàng hóa, dịch vụ
đặc biệt gồm: quản lý thuế, quản lý kinh doanh dịch vụ quảng cáo, phát hành, quản
lý nguồn thu và các nguồn tài trợ khác.v.v.. để từ đó có thể khái quát và đưa ra nhận
định nhất quán về quản lý kinh doanh báo chí như một ngành đặc thù so với quản lý
kinh doanh các loại hàng hóa, dịch vụ khác.

15


Chương 2: Thực trạng quản lý kinh doanh báo chí ở các đài PTTH Đồng Nai,
Bình Dương, Bà Rịa Vũng Tàu
Chúng tôi tiến hành phân tích thực trạng quản lý kinh doanh báo chí của ba
đài PTTH Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa Vũng Tàu, cụ thể là các hoạt động kinh
doanh dịch vụ, quảng cáo, phát hành, việc quản lý và sử dụng các nguồn thu và các
nguồn tài trợ khác. Bên cạnh đó, Bằng việc khảo sát, thống kê chúng tôi cũng đưa ra
những số liệu điều tra công chúng báo chí ở Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa Vũng
Tàu về mức độ yêu thích và thường xuyên hưởng thụ thông tin trên các kênh phát
thanh, truyền hình của ba Đài ở những địa phương này. Qua đó xác định, phân tích
được nhu cầu của công chúng cũng như chiến lược và hiệu quả trong kinh doanh mà
các Đài PTTH ở ba tỉnh thành này đạt được. Đồng thời chỉ ra một số tồn tại, hạn
chế cần khắc phục trong việc kinh doanh các hoạt động dịch vụ, quảng cáo ở ba đài
trong quá trình tiến tới tự chủ về tài chính, đạt doanh thu cho hoạt động thường
xuyên của đơn vị.
Chương 3: Kinh nghiệm và giải pháp nâng cao chất lượng quản lý kinh
doanh báo chí ở các đài PTTH Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa Vũng Tàu
Từ việc phân tích một số thực trạng và tồn tại như trên, chúng tôi chỉ ra
những thành công, hạn chế, những vấn đề cần đặt ra trong công tác quản lý kinh
doanh báo chí. Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng
quản lý kinh doanh báo chí ở các tỉnh miền Đông Nam bộ nói riêng và cả nước nói

chung
Ngoài ba chương như trên , luận văn còn có phần danh mu ̣c tài liê ̣u tham
khảo và phần phụ lục.

16


CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ KINH DOANH BÁO CHÍ
1.1. Quản lý kinh doanh báo chí trong nền kinh tế thị trường
1.1.1. Quản lý nội dung thông tin theo định hướng Xã hội chủ nghĩa
Tính định hướng của báo chí có vai trò rất to lớn, nhất là định hướng dư luận
xã hội, nhằm xây dựng một nền báo chí lành mạnh, định hướng đúng, ngăn chặn tư
duy và lối sống không lành mạnh, ảnh hưởng đến kinh tế, văn hóa xã hội và an ninh
quốc phòng toàn dân. Chính vì lý do đó, các cơ quan báo chí luôn được Đảng và
Nhà nước quan tâm, vì đây là kênh tuyên truyền hiệu quả nhất. Nhưng để thực hiện
tốt vai trò, chức năng cùa mình các cơ quan báo chí cần phải được cơ quan quản lý
nhà nước ở Trung ương và địa phương định hướng và quản lý chương trình, nội
dung một cách chặt chẽ trước khi được phát hành tới công chúng.
Đến cuối năm 2009, cả nước ta có 706 cơ quan báo chí in, 67 đài phát thanhtruyền hình, 21 báo điện tử, 160 trang tin điện tử của các cơ quan báo chí in và hàng
ngàn trang tin điện tử của các cơ quan đảng, nhà nước và các đoàn thể, hội, hiệp
hội, các doanh nghiệp. Hầu hết các cơ quan báo chí đã bám sát thực tiễn của đời
sống xã hội, thực hiện đúng sự lãnh đạo, chỉ đạo, định hướng thông tin của Đảng,
Nhà nước; thông tin kịp thời, đầy đủ và toàn diện về mọi diễn biến của đời sống
chính trị, kinh tế-xã hội ở trong nước và quốc tế, đặc biệt là các sự kiện lớn, đáp
ứng tốt quyền được thông tin của nhân dân. Đồng thời, báo chí thực hiện tốt chức
năng là diễn đàn của nhân dân, góp phần quan trọng thực hiện dân chủ hoá đời sống
xã hội, kịp thời phát hiện và biểu dương những gương người tốt, việc tốt, những
điển hình tiên tiến.
Điều đáng ghi nhận là phần lớn các cơ quan báo chí đã thực hiện tốt chức

năng, nhiệm vụ, bảo đảm tôn chỉ, mục đích, ngày càng thể hiện rõ tính chuyên
nghiệp cũng như đạo đức nghề nghiệp. Nhiều cơ quan báo chí đã năng động, tích
cực trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và các hiện tượng tiêu cực xã

17


hội khác, tích cực đấu tranh chống “diễn biến hoà bình”, phản bác các quan điểm
sai trái… Tuy nhiên, vẫn còn một số cơ quan báo chí và nhà báo có những biểu hiện
chưa nghiêm túc trong quá trình thực hiện Luật Báo chí, làm giảm hiệu quả thông
tin báo chí, ảnh hưởng không tốt đến kỷ cương xã hội; vẫn còn một số cơ quan báo
chí, nhất là báo chí điện tử thông tin không chính xác, thiếu nhạy cảm về chính trị,
khai thác nhiều tin bài chạy theo thị hiếu tầm thường để “hấp dẫn” người đọc…
Vì vậy, cần tăng cường công tác định hướng thông tin của các cơ quan lãnh
đạo, chỉ đạo về báo chí đối với nhiệm vụ tuyên truyền của các cơ quan báo chí và
đẩy mạnh việc thực hiện Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh”. Vì những tư tưởng và những chỉ dẫn của Người luôn là định hướng
soi đường cho báo chí cách mạng nước ta.
Người từng chỉ rõ “... Tất cả những người làm báo (người viết, người in,
người sửa bài, người phát hành, v.v.) phải có lập trường chính trị vững chắc. Chính
trị phải làm chủ. Đường lối chính trị đúng thì những việc khác mới đúng được. Cho
nên các báo chí của ta đều phải có đường lối chính trị đúng”.
Đây là vấn đề có ý nghĩa quan trọng hàng đầu trong công tác lãnh đạo, quản
lý hệ thống báo chí. Định hướng chính trị tư tưởng có ý nghĩa như “kim chỉ nam”
dẫn đường mọi hoạt động. Báo chí nước ta là báo chí xã hội chủ nghĩa, của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân, gắn liền với dân chủ XHCN, không phục vụ mục
đích, quyền lợi của riêng một cá nhân, lực lượng nào nên không thể tách rời yếu tố
định hướng chính trị tư tưởng.
Tại Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá X), Tổng
Bí thư Nông Đức Mạnh nhấn mạnh: "Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng về chính

trị, tư tưởng và tổ chức trong các cơ quan báo chí; khắc phục những biểu hiện lệch
lạc trong hoạt động báo chí, xuất bản, văn hóa, văn nghệ, nhất là xa rời tôn chỉ,
mục đích, chạy theo thị hiếu thấp kém, vì lợi ích vật chất cá nhân, cục bộ". [1]
Để bảo đảm định hướng chính trị tư tưởng đối với hệ thống báo chí, công tác
lãnh đạo, quản lý cần tập trung thực hiện một số vấn đề sau: Ban hành văn bản
hướng dẫn và những quy định cụ thể phù hợp thực tiễn; cung cấp thông tin định

18


hướng về hoạt động chính trị, kinh tế - xã hội lớn của đất nước để báo chí điện tử có
căn cứ thực hiện. Nâng cao phẩm chất, bản lĩnh chính trị, trình độ chuyên môn
nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ những người làm báo nói chung, nhất
là tổng biên tập, phó tổng biên tập, những người trực tiếp quyết định chất lượng
cũng như tính định hướng của báo chí. Phát huy vai trò của các cơ quan quản lý báo
chí, cơ quan chủ quản trong việc định hướng chính trị tư tưởng cho báo chí.
Định hướng chính trị tư tưởng được thể hiện bằng chất lượng thông tin của
báo chí nói chung. Điều này đặt ra vấn đề cần nâng cao chất lượng chuyên môn,
nghiệp vụ. Muốn vậy, báo chí cần có sự chuyên môn hoá cao. Tính định hướng và
quản lý nội dung trong các chương trình thể hiện nhất quán trong việc tuyên truyền
đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước, và các chương trình phản
ảnh hoạt động kinh tế xã hội của đất nước trong ngày. Bởi truyền hình ngay từ
khi ra đời và phát triển đến nay đã trực tiếp tham gia vào quá trình quản lý
và giám sát xã hội, tạo lập và định hướng dư luận, giáo dục và phổ biến kiến
thức, phát triển văn hóa quảng cáo và các dịch vụ khác.
1.1.2. Quản lý kinh doanh báo chí trong hoạt động quảng cáo, dịch vụ, phát
hành
Một đặc điểm rất quan trọng trong quản lý kinh doanh báo chí ở Việt Nam
hiện nay là sự tham gia, tác động quản lý của Nhà nước được thể hiện ngay trong
từng vấn đề có liên quan và gắn liền với báo chí đó là hoạt động quảng cáo, dịch vụ

và phát hành. Nhà nước đã ban hành những quy định rất cụ thể quản lý đối với
quảng cáo trên báo chí một hình thức của kinh doanh báo chí nước ta hiện nay,
nhằm hạn chế những tiêu cực khi sử dụng báo chí phục vụ cho nhu cầu quảng cáo
của các doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức.
Việc quản lý kinh doanh báo chí, phụ thuộc vào các quy định của pháp luật
về quảng cáo trên từng loại hình báo chí. Có thể nói hoạt động quảng cáo trên báo
chí là một trong những chương trình thu hút rất nhiều khán giả, nếu nhà nước không
có những chính sách quản lý chặt chẽ từ trung ương tới địa phương thì sẽ xảy ra
tình trạng lạm dụng thời gian, kỹ thuật, ... để tổ chức quảng cáo. Nội dung quản lý

19


nhà nước về quảng cáo bao gồm: Xây dựng, chỉ đạo thực hiện quy hoạch, kế hoạch,
chính sách phát triển quảng cáo; Ban hành, tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm
pháp luật về quảng cáo; Cấp, thu hồi giấy phép thực hiện quảng cáo; giấy phép đặt
văn phòng đại diện quảng cáo, chi nhánh quảng cáo của tổ chức, cá nhân kinh
doanh dịch vụ quảng cáo nước ngoài tại Việt Nam; Tổ chức, quản lý công tác đào
tạo, nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ trong lĩnh vực quảng cáo; Kiểm
tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về quảng cáo.
Kinh doanh báo chí hiện nay đặc biệt phát triển mạnh trong lĩnh vực quảng
cáo, chính vì thế, cơ quan báo chí và cơ quan quản lý nhà nước về quảng cáo phải
luôn có sự phối hợp chặt chẽ với nhau như: Bộ Thông tin và Truyền thông chịu
trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về quảng cáo trên báo chí.
Bộ Công thương, các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, đài PTTH
trung ương, đài PTTH các tỉnh thành phố trực thuộc trung ương, thông tấn xã và các
cơ quan báo chí khác trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm
phối hợp với Bộ Thông tin và Truyền thông thực hiện quản lý nhà nước về quảng
cáo. Ngoài ra để quản lý chặt chẽ hơn thì Uỷ ban nhân dân các cấp trong phạm vi
nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực hiện quản lý nhà nước về quảng cáo tại địa

phương theo phân cấp của Chính phủ.
1.1.3. Quản lý kinh doanh, dịch vụ khác liên quan đến báo chí
- Đối với hoạt động liên kết sản xuất chương trình:
Hoạt động liên kết trong sản xuất chương trình phát thanh, truyền hình cũng
là một hoạt động kinh doanh báo chí ở nước ta hiện nay, là hình thức hợp tác giữa
một bên là đài PTTH với một bên là đối tác liên kết để tạo ra một phần hoặc toàn bộ
sản phẩm liên kết. Các hình thức hoạt động liên kết phổ biến ở Việt Nam hiện nay
là gồm: Trao đổi bản quyền chương trình hoàn chỉnh; Trao đổi bản quyền định dạng
chương trình; Tổ chức sản xuất chương trình hoặc một phần chương trình; Tổ chức
sản xuất toàn bộ kênh chương trình. Các đài PTTH, đối tác liên kết có thể lựa chọn
một hoặc nhiều hình thức hoạt động liên kết.

20


Việc liên kết này phải tuân thủ các quy định tại Thông tư số 19/2009/TTBTTTT của Bộ Thông tin và Truyền thông ban hành ngày 28 tháng 5 năm 2009
nhằm điều chỉnh các hoạt động liên kết để thực hiện việc sản xuất các chương trình
phát thanh, truyền hình mà trong đó quyền lợi của đối tác liên kết được trả bằng
quyền lợi từ hoạt động quảng cáo, tài trợ hoặc từ nguồn thu phí phát thanh, truyền
hình theo một phương thức nhất định khi phát sóng chính sản phẩm liên kết của đài
phát thanh, truyền hình. [12]
Với quy định này nhằm quản lý chặt chẽ và ưu tiên hơn đối với các chương
thời sự chính trị nhằm đảm bảo chức năng, nhiệm vụ là kênh thông tin tuyên truyền
trên lĩnh vực văn hóa, chính trị và tư tưởng của Đảng và nhà nước tới nhân dân.
- Các hoạt động kinh doanh dịch vụ truyền hình:
Quản lý kinh doanh báo chí trong lĩnh vực truyền hình trả tiền. Dịch vụ
truyền hình trả tiền là dịch vụ ứng dụng viễn thông để truyền dẫn, phân phối các
kênh chương trình, chương trình truyền hình trả tiền và các dịch vụ giá trị gia tăng
trên hạ tầng kỹ thuật cung cấp dịch vụ truyền hình trả tiền đến thuê bao truyền hình
trả tiền theo hợp đồng cung cấp dịch vụ hoặc các thỏa thuận có tính ràng buộc

tương đương. Dịch vụ truyền hình trả tiền có thể được cung cấp trực tiếp (dịch vụ
truyền hình trực tuyến) hoặc theo yêu cầu (dịch vụ truyền hình theo yêu cầu) đến
thuê bao truyền hình trả tiền.
Quy chế quản lý hoạt động truyền hình trả tiền được Thủ tướng Chính phủ
ban hành ngày 15 tháng 5 năm 2011 kèm theo Quyết định số 20/2011/QĐ-TTg quy
định việc quản lý, cung cấp, sử dụng hạ tầng kỹ thuật, dịch vụ truyền hình trả tiền;
nội dung thông tin trên truyền hình trả tiền tại Việt Nam và việc thu tín hiệu truyền
hình trực tiếp từ vệ tinh. Theo đó, mục tiêu quy chế là góp phần quản lý chặt chẽ
việc cung cấp nội dung các kênh chương trình truyền hình trả tiền theo quy định của
pháp luật về báo chí; quản lý hạ tầng kỹ thuật truyền hình trả tiền theo quy định của
pháp luật về viễn thông; bảo đảm phát triển thị trường truyền hình trả tiền có cạnh
tranh lành mạnh, đáp ứng nhu cầu thông tin giải trí đa dạng của người dân và phù
hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam. [12]

21


Việc quản lý này khuyến khích phát triển hệ thống truyền hình trả tiền theo
công nghệ hiện đại nhằm hỗ trợ việc truyền tải các kênh chương trình phát thanh,
truyền hình vừa phục vụ nhiệm vụ chính trị thông tin tuyên truyền của Đảng và Nhà
nước, vừa đáp ứng nhu cầu thông tin giải trí ngày càng đa dạng của người dân.
Kênh chương trình trong nước được cung cấp trên truyền hình trả tiền bao gồm: các
kênh chương trình đang được phát sóng quảng bá theo quy định của pháp luật về
báo chí; các kênh chương trình được cấp phép sản xuất cho truyền hình trả tiền.
Các kênh chương trình phải có nội dung phù hợp với nhu cầu lành mạnh của
người dân, không vi phạm những quy định của pháp luật về báo chí của Việt Nam;
không bao gồm thông tin quảng cáo được cài đặt sẵn từ nước ngoài. Hoạt động
quảng cáo (nếu có) phải được thực hiện tại Việt Nam và tuân thủ quy định của pháp
luật Việt Nam về quảng cáo. Tất cả các kênh chương trình nước ngoài trên truyền
hình trả tiền tại Việt Nam phải được biên tập bảo đảm nội dung các kênh chương

trình không trái với quy định của pháp luật Việt Nam về báo chí và quảng cáo, trừ
việc tường thuật trực tiếp các trận thi đấu thể theo, lễ khai mạc, lễ bế mạc các giải
thi đấu thể thao quy mô khu vực và thế giới.
- Hoạt động xuất - nhập khẩu báo chí:
Quản lý nhập khẩu và xuất khảo báo chí bao gồm nhiều khía cạnh như: mua
bán bản quyền chương trình truyền hình, các thiết bị, mua bán và trao đổi tin tức
của các công ty truyền thông, tập đoàn truyền thông, đài Phát thanh và Truyền hình
trong nước và quốc tế.
Bởi trong sự phát triển của báo chí hiện nay, nhất là báo phát thanh, báo in,
báo hình, đem lại nguồn thu rất lớn cho báo chí quốc gia, ngoài ra còn liên quan tới
các lĩnh vực văn hóa, kinh tế - xã hội và an ninh quốc phòng.
Hiện nay, nhiều quốc gia coi xuất khẩu báo chí là một thế mạnh. Hàn Quốc
là một trong những nước đạt được lợi nhuận khổng lồ từ bản quyền truyền hình.
Theo số liệu Bộ Văn hóa Hàn Quốc cho biết, năm 2010 Hàn Quốc đã đạt doanh thu
180 triệu đô từ việc bán bản quyền phát sóng các phim truyền hình và các chương
trình truyền hình khác sang Nhật, Trung Quốc và các khu vực Nam và Trung Mỹ.

22


Ngoài ra, doanh thu bán bản quyền các phim truyền hình đạt hơn 132 tiệu đô, chiếm
87% trong tổng số các chương trình bán bản quyền phát sóng, tiếp theo là các
chương trình phim tài liệu chiếm 6,5% và các chương trình giải trí khác chiếm
2,7%.
Đối với Việt Nam hiện nay, việc xuất khẩu báo chí, các chương trình truyền
hình còn chưa thực sự phát triển và hầu như là chưa có thương hiệu trên thị trường
quốc tế, mà chủ yếu báo chí nước ta còn nhập khẩu các chương trình, bản quyền từ
nước ngoài, do đó công tác quản lý lĩnh vực này đang được cơ quan quản lý chức
năng tăng cường đẩy mạnh.
Hiện nay các đài PTTH đều thành lập Trung tâm Quảng cáo và Dịch vụ

Truyền hình. Đây là đơn vị sự nghiệp trực thuộc Đài PTTH có chức năng xây dựng
kế hoạch hàng năm và dài hạn về phát triển hệ thống quảng cáo - dịch vụ liên quan
tới truyền hình theo quy hoạch phát triển phát triển của Đài và tổ chức thực hiện kế
hoạch đã được phê duyệt. Tổ chức sản xuất, biên tập các chương trình quảng cáo
cho các tổ thức, cá nhân trong và ngoài nước và các dịch vụ truyền hình khác theo
qui định của pháp luật.
1.1.4. Quản lý nguồn ngân sách cấp cho hoạt động báo chí
Có thể nhận thấy rằng, nguồn vốn ngân sách nhà nước cấp cho Đài PTTH
hàng năm chỉ đủ để đảm bảo hoạt động một cách cơ bản cũng tốn tới hàng 100 tỷ
đồng. Do đó, nếu không có các nguồn thu khác thì hoạt động PTTH sẽ rất khó khăn.
Hàng năm Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố chi
hàng chục tỷ đồng để các đài PTTH hoạt động. Cụ thể, trong bản dự toán ngân sách
của tỉnh Bình Dương năm 2011 chi cho PTTH 26,235 tỷ đồng, trong đó chi cho đài
PTTH tỉnh là 16,930 tỷ đồng, kinh phí tự chủ là 14,580 tỷ đồng; chi cho hãng phim
truyền hình là 9,324 tỷ, kinh phí tự chủ là 2,052 tỷ đồng. Ngoài ra còn có các khoản
chi cho trung tâm dịch vụ PTTH của các đài hoạt động theo cơ chế tự chủ về tài
chính; có chức năng vân động các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp thực hiện quảng
cáo, tài trợ .v.v..

23


Quá trình hoạt động và quản lý mọi mặt, nhất là nguồn vốn của các đài
PTTH hiện nay tại địa phương hiện nay như sau. Thứ nhất là, hàng năm các đài
PTTH phải lập kế hoạch chi tiêu ngắn hạn và dài hạn để thực hiện nhiệm vụ của
Trung ương, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh giao. Ngoài ra, xây dựng quy hoạch, kế
hoạch phát triển sự nghiệp phát thanh, truyền thanh, truyền hình và tổ chức thực
hiện quy hoạch, kế hoạch đã được phê duyệt theo sự phân công của Ủy ban nhân
dân cấp tỉnh và cấp có thẩm quyền.
Thứ hai là, quản lý việc thu chi phục sản xuất và phát sóng các chương trình

phát thanh, các chương trình truyền hình, nội dung thông tin trên trang thông tin
điện tử bằng tiếng Việt, bằng các tiếng dân tộc và tiếng nước ngoài theo quy định
của pháp luật, tham gia phát triển sự nghiệp PTTH trên địa bàn tỉnh như tư vấn quản
lý nguồn vốn cho đài truyền thanh các huyện, thị xã để thực hiện tốt công tác thông
tin trên địa bàn. Thứ ba là, các đài PTTH trực tiếp vận hành, quản lý, khai thác hệ
thống kỹ thuật chuyên ngành để sản xuất chương trình, truyền dẫn tín hiệu và phát
sóng các chương trình PTTH của địa phương và quốc gia theo quy định của pháp
luật; phối hợp với các cơ quan, tổ chức khác để đảm bảo sự an toàn của hệ thống kỹ
thuật này hiện tại đối với địa phương, ngoài sự phối hợp chặt chẽ giữa Ủy ban nhân
dân tỉnh, các sở ban ngành trong tỉnh, thì các đài còn chịu sự quản lý trực tiếp về nội
dung PTTH từ ngành dọc là Bộ Thông tin và Truyền thông, và quản lý thu chi theo
sự hướng dẫn của Bộ Tài chính.
Thứ tư là, thực hiện việc quản lý ngân sách nhà nước cấp cho lĩnh vực
PTTH, như chi ngân sách (theo quy định của Luật Ngân sách Nhà nước thì đây là
chi đầu tư xây dựng cơ bản trong ngành) cho các dự án đầu tư và xây dựng; tham
gia thẩm định các dự án đầu tư thuộc lĩnh vực phát thanh, truyền thanh, truyền hình
theo sự phân công của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và cấp có thẩm quyền theo quy
định của pháp luật. Đối với trung ương, các đài Phát thanh và Truyền hình có sự
phối hợp với Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam sản xuất các
chương trình PTTH phát sóng trên sóng đài quốc gia. Đối với địa phương, hướng
dẫn về chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ thuật đối với các Đài Truyền thanh - Truyền hình
hoặc Đài Truyền thanh huyện, thị xã, thành phố thuộc Ủy ban nhân dân huyện, thị

24


xã, thành phố trực thuộc tỉnh, thành phố theo quy định của pháp luật về nội dung
chương trình, kỹ thuật, kinh phí,...
Thứ năm là, quản lý việc thu- chi ngân sách nhà nước phục vụ cho việc
nghiên cứu khoa học và ứng dụng các thành tựu kỹ thuật, công nghệ thuộc lĩnh vực

phát thanh, truyền hình, thông tin điện tử. Chi cho tổ chức đào tạo, bồi dưỡng
chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ thuật chuyên ngành phát thanh, truyền hình theo quy
định của pháp luật. Xây dựng định mức kinh tế, kỹ thuật thuộc lĩnh vực PTTH theo
sự phân công, phân cấp. Xây dựng tiêu chuẩn về chuyên môn, nghiệp vụ của đài
Truyền thanh - Truyền hình, Đài Truyền thanh huyện, thị xã, thành phố thuộc Ủy
ban nhân dân cấp huyện để Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ban hành.
Thứ sáu là, tổ chức quản lý các hoạt động quảng cáo, kinh doanh, dịch vụ;
tiếp nhận sự tài trợ, ủng hộ của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước theo quy
định tạo cơ sở tăng nguồn thu cho đài. Cân đối viêc chi quản lý và chi lương,
thưởng, phụ cấp cho cán bộ, nhân viên (lao động) làm việc cho đài PTTH. Quản lý
việc mua bán vật tư, tài sản từ ngân sách do Nhà nước cấp nhằm tăng cường sự
quản lý của nhà nước thì hiện tại các cơ quan báo chí nói chung, đài PTTH địa
phương và trung ương phải thực hiện chế độ báo cáo định kỳ, đột xuất với cơ quan
chủ quản (Uỷ ban nhân dân cùng cấp), cơ quan quản lý cấp trên và cơ quan chức
năng về các mặt công tác được giao (Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Tài chính).
1.1.5. Quản lý thuế trong kinh doanh báo chí
Công tác quản lý thuế trong kinh doanh báo chí căn cứ vào các quy định của
pháp luật về Thuế như: Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp do Quốc hội thông qua
ngày 03/6/2011; Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2008 quy định quyền tự
chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ tổ chức, bộ máy, biên chế và tài
chính đối với đơn vị sự nghiệp ngoài công lập; Thông tư số 150/2010/TT-BTC của
Bộ Tài chính ban hành ngày 27/9/2010 hướng dẫn về thuế GTGT và thuế TNDN
đối với các cơ quan báo chí; Thông tư số 55/2010/TT-BTC của Bộ Tài chính ban
hành ngày 16/4/2010 hướng dẫn về thuế GTGT và thuế TNDN đối với Đài Truyền

25


×