Tải bản đầy đủ (.pdf) (63 trang)

Phân tích tác động của giá dầu lên cán cân thương mại tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (807.22 KB, 63 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH

PHẠM THỊ ÁNH LY

PHÂN TÍCH TÁC ĐỘNG CỦA GIÁ DẦU LÊN CÁN CÂN
THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

TP. Hồ Chí Minh – Năm 2019


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH

PHẠM THỊ ÁNH LY

PHÂN TÍCH TÁC ĐỘNG CỦA GIÁ DẦU LÊN CÁN CÂN
THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM

Chuyên ngành: Tài chính–Ngân hàng
Hướng đào tạo: Hướng ứng dụng
Mã số: 8340201

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS NGUYỄN KHẮC QUỐC BẢO

TP. Hồ Chí Minh – Năm 2019




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các nội dung nghiên
cứu và kết quả nêu trong đề tài này là trung thực, chưa được công bố dưới bất kỳ
hình thức nào trước đây. Các số liệu trong các bảng biểu phục vụ cho việc phân tích
được chính tác giả thu thập từ các nguồn khác nhau có ghi rõ trong phần tài liệu
tham khảo. Nếu phát hiện có bất kỳ sự gian lận nào, tôi xin hoàn toàn chịu trách
nhiệm về luận văn của mình.
TP. Hồ Chí Minh, ngày 06 tháng 12 năm 2019

Phạm Thị Ánh Ly


MỤC LỤC

TRANG BÀI PHỤ
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG BIỂU
DANH MỤC HÌNH
TÓM TẮT
ABSTRACT
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU ......................................................................................1
1.1. Giới thiệu chủ đề nghiên cứu ............................................................................1
1.2. Mục tiêu nghiên cứu .........................................................................................2
1.3. Đối tượng nghiên cứu .......................................................................................3
1.4. Phương pháp nghiên cứu ..................................................................................4
1.5. Kết cấu nghiên cứu ...........................................................................................4
CHƯƠNG 2: KHUNG LÝ THUYẾT......................................................................5

2.1. Các lý thuyết nền tảng liên quan.......................................................................5
2.1.1. Lý thuyết nền tảng về mối quan hệ giữa giá dầu và cán cân thương mại ..5
2.1.2. Lý thuyết nền tảng về mối quan hệ giữa tỷ giá và cán cân thương mại .....7
2.2. Các nghiên cứu thực nghiệm liên quan ..........................................................11
2.2.1. Các nghiên cứu thực nghiệm về tác động của giá dầu lên cán cân thương
mại ......................................................................................................................11
2.2.2. Các nghiên cứu thực nghiệm về tác động của tỷ giá lên cán cân thương
mại ......................................................................................................................16
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ..................................................24
3.1. Thiết lập mô hình thực nghiệm .......................................................................24
3.1.1. Lựa chọn biến nghiên cứu ........................................................................24
3.1.2. Mô hình nghiên cứu .................................................................................26
3.2. Dữ liệu nghiên cứu .........................................................................................27


3.3. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................30
3.3.1. Phương pháp ARDL .................................................................................30
3.3.2. Kiểm định nhân quả Toda-Yamamoto .....................................................31
3.3.3. Các bước thực hiện ...................................................................................33
CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ .........................................................................................34
4.1. Kiểm định tính dừng .......................................................................................34
4.2. Kết quả hồi quy mô hình ARDL.....................................................................35
4.3. Kiểm định nhân quả ........................................................................................38
CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN ......................................................................................40
5.1. Kết luận chính .................................................................................................40
5.2. Các hàm ý chính sách .....................................................................................41
5.3. Hạn chế của nghiên cứu ..................................................................................42
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC



DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Từ viết tắt

Định nghĩa

ARDL

Mô hình tự hồi quy phân phối trễ

ML

Điều kiện Marshall-Lerner

VECM

Mô hình vectơ sai số hiệu chỉnh

SVAR

Mô hình vectơ tự hồi quy cấu trúc


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Tóm tắt các nghiên cứu về tác động của giá dầu lên cán cân thương mại
...................................................................................................................................17
Bảng 2.2. Tóm tắt các nghiên cứu về tác động của tỷ giá lên cán cân thương mại .22
Bảng 3.1. Các biến nghiên cứu và kỳ vọng dấu (giai đoạn 1987–2018) ..................28
Bảng 3.2. Thống kê mô tả các biến nghiên cứu........................................................29

Bảng 4.1. Kết quả kiểm định tính dừng PP ..............................................................34
Bảng 4.2. Kết quả kiểm định ARDL(4,3,4,0)...........................................................37
Bảng 4.3. Kết quả kiểm định nhân quả Toda-Yamamoto ........................................39


DANH MỤC HÌNH
Hình 2.1. Khung lý thuyết giải thích tác động của cú sốc giá dầu lên cán cân thương
mại. ..............................................................................................................................8
Hình 2.2. Minh họa hiệu ứng đường cong J. ............................................................11
Hình 3.1. Khung phân tích trong nghiên cứu. ..........................................................26
Hình 3.2. Xu hướng của các biến nghiên cứu. .........................................................29
Hình 4.1. Kết quả kiểm định tính ổn định của các hệ số hồi quy.............................38


TÓM TẮT

Làn sóng cú sốc giá dầu toàn cầu và mất cân bằng thương mại đã gióng lên hồi
chuông cảnh báo cho các nhà hoạch định chính sách trên toàn thế giới. Mục tiêu của
nghiên cứu nhằm điều tra tác động của giá dầu lên cán cân thương mại của Việt
Nam bằng cách sử dụng phương pháp ARDL. Thêm nữa, nghiên cứu tìm hiểu
hướng nhân quả giữa cán cân thương mại và cú sốc giá dầu trong bối cảnh Việt
Nam, trong giai đoạn 1987–2018. Kết quả cho thấy tồn tại mối quan hệ ngược chiều
đáng kể giữa giá dầu và cán cân thương mại tại Việt Nam, tức là, nếu giá dầu tăng
1%, cán cân thương mại giảm 0,097%. Ngoài ra, kết quả kiểm định nhân quả
Granger cho thấy sự tồn tại của quan hệ nhân quả một chiều chạy từ giá dầu đến cán
cân thương mại. Các phát hiện cung cấp một số khuyến nghị và đề xuất cho các nhà
hoạch định chính sách trong nỗ lực nhằm giảm thiểu tác động tiêu cực của cú sốc
giá dầu lên cán cân thương mại Việt Nam.
Từ khóa: Mất cân bằng thương mại; giá dầu; đồng liên kết; ARDL.



ABSTRACT

Global oil price shock waves and continuous trade imbalance have raised serious
alarms among the policy makers around the world. The objective of this study is to
investigate the impact of oil prices on the trade balance of Vietnam by using ARDL
approach. Further, this study explores the causality direction between trade balance
and oil price shocks in the context of Vietnam over a period of 1987–2018. The
result shows that there is a significant negative relationship between oil prices and
trade balance in Vietnam, i.e., if there is 1% increase in oil prices, the trade balance
decreases by 0,097%. In addition, the result of Granger causality indicates that there
is a unidirectional causality running from oil prices to trade balance. These findings
allow some recommendations and suggestions for policy makers in an effort to
reduce negative effects of oil price shocks on Vietnam’s trade balance.
Keywords: Trade imbalance; oil prices; cointegration; ARDL.


1

CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU
1.1. Giới thiệu chủ đề nghiên cứu
Nghiên cứu thực nghiệm mối liên kết giữa giá dầu thô và hoạt động kinh tế đã
trở thành chủ đề tranh luận sôi nổi kể từ giữa những năm 80 của thế kỷ trước. Phần
lớn các nghiên cứu về chủ đề này tập trung vào việc xác định ảnh hưởng của biến
động giá dầu lên các biến số kinh tế vĩ mô trong nước, như tăng trưởng (Lee và
cộng sự, 1995; Jones và cộng sự, 2004), lạm phát và lãi suất (Sek và cộng sự, 2015;
Abounoori và cộng sự, 2014), giá cổ phiếu (Basher và cộng sự, 2012; Diaz và cộng
sự, 2016), hay tỷ lệ việc làm (Alkhateeb và cộng sự, 2017; Karaki, 2018). Kể từ
giữa những năm 1990, xu thế toàn cầu hóa đã lan rộng nhanh chóng trên khắp thế
giới. Theo Rubin (2009), do toàn cầu hóa hiện nay dựa trên vận tải giá rẻ, nên toàn

cầu hóa sẽ đảo ngược khi giá dầu tăng vọt. Tác giả cho rằng nếu giá dầu tăng quá
cao sẽ làm chi phí vận chuyển đắt đỏ, làm tăng giá xuất khẩu và nhập khẩu, tạo ra
trở ngại lớn cho thương mại quốc tế. Do đó, thời gian qua xuất hiện ngày càng
nhiều nghiên cứu nhìn nhận tầm ảnh hưởng của biến động giá dầu lên cán cân
thương mại của một quốc gia (ví dụ Backus và Crucinic, 2000; Kilian và cộng sự,
2009; Bodenstein và cộng sự, 2011; Hassan và Zaman, 2012; Le và Chang, 2013;
Rafiq và cộng sự, 2016). Nghiên cứu đầu tiên về chủ đề này được Backus và
Crucini (2000) thực hiện thông qua mô hình cân bằng động của chu kỳ kinh doanh
quốc tế (dynamic equilibrium model of international business cycle) dựa trên các
đặc tính chu kỳ kinh doanh ở 8 quốc gia phát triển giai đoạn 1955–1990. Nghiên
cứu cho thấy dầu thô chiếm phần lớn sự thay đổi trong tỷ lệ trao đổi (terms of
trade)1 trong giai đoạn năm 1972–1987. Kết quả dường như vẫn đúng bất kể cấu
trúc thị trường tài chính. Bằng cách áp dụng phương pháp vectơ tự hồi quy (SVAR)
cho 26 quốc gia xuất khẩu dầu và 14 quốc gia nhập khẩu dầu, Kilianvà cộng sự

Tỷ lệ trao đổi (term of trade–TOT) là chỉ số giá biểu thị tỷ lệ giữa giá xuất khẩu và giá nhập khẩu. Nó được
tính toán như sau: (1) Tính chỉ số giá hàng xuất khẩu, (2) tính chỉ số giá hàng nhập khẩu, (3) lấy chỉ số thứ
nhất chia cho chỉ số thứ hai. Khi giá hàng xuất khẩu của một nước tăng nhanh hơn giá hàng nhập khẩu của
nó, nước đó có sự cải thiện tỷ lệ trao đổi.
1


2

(2009) phân tích tác động của giá dầu lên cán cân thương mại (bao gồm cả cán cân
thương mại dầu và các hàng hóa ngoài dầu). Nghiên cứu phát hiện sự biến động của
giá dầu dường như đóng vai trò quan trọng để xác định cân bằng đối ngoại (external
balance). Nghiên cứu nổi bật của Hassan và Zaman (2012), thông qua phương pháp
ARDL, được xem là nghiên cứu đầu tiên khẳng định được rõ mối quan hệ ngược
chiều giữa giá dầu và cán cân thương mại ở Pakistan trong giai đoạn 1975–2010.

Việt Nam là nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào việc nhập khẩu dầu và do đó,
khó thể tránh khỏi hậu quả do các cú sốc dầu mang lại (Nguyễn Khắc Quốc Bảo,
2013). Mặt khác, trong quá trình công nghiệp hóa hiện nay, thương mại quốc tế
đang là động lực và cơ hội cho tăng trưởng kinh tế của Việt Nam, và mục tiêu này
đạt được chủ yếu bằng các hoạt động xuất nhập khẩu. Nói cách khác, ổn định cán
cân thương mại sẽ là tiền đề cho sự phát triển bền vững trong tương lai. Do đó, việc
xem xét các phản ứng của cán cân thương mại Việt Nam đối với những thay đổi của
giá dầu thế giới là rất quan trọng và mang lại nhiều ý nghĩa chính sách lẫn thực tiễn
có giá trị. Kết quả nghiên cứu sẽ là cơ sở cho các đề xuất về các điều chỉnh phù hợp
cho các chính sách kinh tế khi đối mặt với cú sốc giá dầu.

1.2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu của nghiên cứu nhằm đánh giá tác động của giá dầu lên cán cân
thương mại tại Việt Nam trong khuôn khổ đa biến, thông qua các phân tích đồng
liên kết trong giai đoạn 1987–2018. Các mục tiêu cụ thể bao gồm:
1) Kiểm chứng mối quan hệ dài hạn tiềm năng giữa các biến số: cán cân thương
mại, tỷ giá hối đoái, lỗ hổng sản lượng và giá dầu;
2) Xác minh hướng nhân quả giữa cán cân thương mại và cú sốc giá dầu.tại Việt
Nam trong giai đoạn 1987–2018.
3) Do sử dụng khung đa biến, có kết hợp biến cán cân thương mại và tỷ giá, do
vậy, tác giả cũng song song kiểm định sự hiện diện của hiệu ứng đường cong J
trong mẫu hình thương mại của Việt Nam.


3

Để giải quyết các mục tiêu trên, nghiên cứu tiến hành giải đáp các câu hỏi
nghiên cứu thực nghiệm chính sau:
1) Mối quan hệ đồng liên kết dài hạn giữa cán cân thương mại và các yếu tố xác
định có hiện diện trong trường hợp của Việt Nam giai đoạn 1987–2018 hay

không?
2) Nếu quan hệ dài hạn được thiết lập, quan hệ nhân quả giữa cán cân thương
mại và giá dầu có tồn tại hay không? Nếu có, hướng nhân quả xuất phát từ cán
cân thương mại đến giá dầu, hay ngược lại, hoặc cả hai (quan hệ nhân quả hai
chiều)?
3) Sau khi phá giá nội tệ (VND), cán cân thương mại của Việt Nam xấu đi hay
cải thiện trong ngắn hạn? Trong dài hạn, phá giá nội tệ có giúp cải thiện cán
cân thương mại của Việt Nam hay không?

1.3. Đối tượng nghiên cứu
Khung phân tích đa biến trong nghiên cứu này không thể bao gồm toàn bộ các
khía cạnh và các nhân tố của tự do hóa thương mại và các cú sốc năng lượng, nhưng
giới hạn ở các biến sau:
1) Cán cân thương mại: Giá dầu cao dẫn đến thâm hụt thương mại và hạn chế sự
tăng trưởng kinh tế (Hassan và Zaman, 2012). Nghiên cứu của Le (2011) cho
thấy các quốc gia xuất khẩu dầu cải thiện cán cân thương mại nhờ vào doanh
thu từ dầu tăng; nhưng đối với các quốc gia nhập khẩu dầu, cú sốc giá dầu làm
xấu đi cán cân thương mại chung.
2) Tỷ giá hối đoái: Nikbakht (2010) xác nhận giá dầu thực là nguồn gốc chi phối
các bước đi của tỷ giá hối đoái thực. Do đó, tồn tại mối quan hệ dài hạn và
cùng chiều giữa giá dầu thực và tỷ giá hối đoái thực.
3) Lỗ hổng sản lượng: Tác động của các cú sốc dầu thế giới đã được tìm thấy
trong việc tạo ra sai lệch trong sản lượng khỏi sản xuất tiềm năng (Deserres và
cộng sự, 1995).


4

4) Giá dầu: Những thay đổi lớn trong sự tăng trưởng của nền kinh tế, tỷ giá hối
đoái, giá cả hàng hóa, lỗ hổng sản lượng, phúc lợi (welfare), các cuộc khủng

hoảng kinh tế toàn cầu và thâm hụt thương mại đều do giá dầu mang lại
(Sanchez, 2011).

1.4. Phương pháp nghiên cứu
Nhằm thực hiện mục tiêu thứ nhất là kiểm chứng mối quan hệ dài hạn giữa các
biến số, tác giả sử dụng khuôn khổ mô hình đồng liên kết ARDL và kiểm định
đường bao (bound test) của Pesaran và cộng sự (2001). Phương pháp này cho phép
kết hợp các hiệu ứng động ngắn hạn lẫn dài hạn trong cùng một phương trình. Đồng
thời và cũng là ưu điểm chính của phương pháp, đó là cho phép hỗn hợp tính chất
dừng của các biến, cụ thể là I(0), I(1) hoặc kết hợp cả hai. Đối với mục tiêu thứ hai,
xác định hướng nhân quả giữa các biến, tác giả sử dụng phương pháp kiểm định
nhân quả của Toda-Yamamoto (1995) nhằm khắc phục các hạn chế trước đây của
phương pháp nhân quả Granger truyền thống–liên quan đến vấn đề đặc tả sai mô
hình và lựa chọn độ trễ (Gujarati, 1995).

1.5. Kết cấu nghiên cứu
Kết cấu nghiên cứu bao gồm:
1) Chương 1 giới thiệu chủ đề nghiên cứu, lý do chọn đề tài, xác định rõ mục tiêu
nghiên cứu.
2) Chương 2 cung cấp các lý thuyết nền tảng cùng các nghiên cứu thực nghiệm
có liên quan.
3) Chương 3 mô tả phương pháp ARDL và dữ liệu nghiên cứu.
4) Chương 4 trình bày các kết quả thực nghiệm
5) Chương 5 cung cấp các kết luận.


5

CHƯƠNG 2: KHUNG LÝ THUYẾT
2.1. Các lý thuyết nền tảng liên quan

2.1.1. Lý thuyết nền tảng về mối quan hệ giữa giá dầu và cán cân thương mại
Tác động của cú sốc giá dầu lên tài khoản đối ngoại (external account) của
một nền kinh tế hoạt động thông qua 2 kênh chính là kênh thương mại (trade
channel) và kênh tài chính (financial channel). Kênh thương mại hoạt động thông
qua những thay đổi về số lượng và giá cả hàng hóa trao đổi trong khi kênh tài chính
hoạt động thông qua thay đổi vị thế danh mục đầu tư đối ngoại và giá tài sản (Kilian
và cộng sự, 2009). Nghiên cứu này tập trung vào trình bày kênh thương mại và thảo
luận về các cơ chế theo đó giá dầu dự kiến sẽ thúc đẩy cán cân thương mại. Cú sốc
giá dầu có tác động kinh tế trực tiếp và gián tiếp lên cả nền kinh tế nhập khẩu và
xuất khẩu dầu. Tác động gián tiếp là việc truyền dẫn cú sốc thông qua thương mại
quốc tế. Đầu tiên, giá dầu thế giới tăng thường được cho là mang lại áp lực lạm phát
và gia tăng giá cả tại các quốc gia đối tác thương mại. Điều này đến lượt làm tăng
giá nhập khẩu trong nước ở cả nền kinh tế nhập khẩu và xuất khẩu dầu. Cơ quan
tiền tệ của các nền kinh tế đối tác thương mại có thể tăng lãi suất trong nỗ lực kiềm
chế lạm phát, dẫn đến giảm tiêu dùng, đầu tư và do đó hạ nhiệt tăng trưởng kinh tế.
Điều này đến lượt làm giảm nhu cầu đối với nhiều mặt hàng xuất khẩu từ nền kinh
tế trong nước của cả quốc gia nhập khẩu và xuất khẩu dầu.
Đối với nền kinh tế xuất khẩu dầu ròng, tác động trực tiếp của cú sốc tăng giá
dầu thế giới được dự kiến là dương (tích cực), xuất phát từ gia tăng doanh thu xuất
khẩu. Tuy nhiên, các tác động gián tiếp được dự kiến là âm (tiêu cực). Đầu tiên, như
đã đề cập, giá dầu toàn cầu tăng làm tăng giá nhập khẩu trong nước ở cả quốc gia
nhập khẩu và xuất khẩu dầu. Thứ hai, sự gia tăng ngoại sinh của giá dầu thế giới tạo
ra cú sốc cung cho các quốc gia nhập khẩu dầu ròng, dẫn đến sự hạ nhiệt tăng
trưởng kinh tế trong nước của quốc gia nhập khẩu dầu ròng và làm giảm xuất khẩu
dầu và xuất khẩu khác từ các quốc gia xuất khẩu dầu. Vì thế, lợi ích cho nền kinh tế


6

xuất khẩu dầu không lớn như chúng ta nghĩ. Tác động ròng của cú sốc giá dầu lên

cán cân thương mại của nền kinh tế xuất khẩu dầu phụ thuộc vào độ lớn của doanh
thu xuất khẩu dầu cao so với giá nhập khẩu tăng. Lập luận này củng cố mối quan
tâm chung rằng biến động lớn của giá dầu thế giới không chỉ mang lại tác động bất
lợi cho nền kinh tế nhập khẩu dầu mà còn đặt ra thách thức cho các nhà hoạch định
chính sách trong các nền kinh tế xuất khẩu dầu. Đối với các quốc gia xuất khẩu dầu,
doanh thu từ dầu đặt ra những thách thức tài khóa xuất phát từ thực tế là dầu thô
đang dần cạn kiệt, dễ bốc hơi và phần lớn phụ thuộc vào cầu từ bên ngoài. Tăng giá
dầu có thể gây thêm bất ổn, đặc biệt đối với những nền kinh tế rủi ro như các thị
trường mới nổi. Tài khoản vốn cũng có thể chịu ảnh hưởng bất lợi do sự suy giảm
danh mục đầu tư nước ngoài và đầu tư trực tiếp vào trong nước, hoặc thậm chí là
một cú cất cánh vốn (capital flight). Do đó, mặc dù giá dầu toàn cầu tăng vọt nên
được coi là có lợi đối với các quốc gia xuất khẩu dầu ròng và gây bất lợi đối với các
quốc gia nhập khẩu dầu ròng, nhưng thực tế không đơn giản. Đành rằng, các nền
kinh tế xuất khẩu dầu ròng vẫn có thể được hưởng lợi từ giá dầu cao hơn nhờ khả
năng cải thiện tỷ lệ trao đổi TOT và tăng doanh thu xuất khẩu dầu, có thể được sử
dụng cho cả tiêu dùng và đầu tư (Korhonen và Ledyaeva, 2010).
Đối với nền kinh tế nhập khẩu dầu ròng, sự gia tăng ngoại sinh trong giá dầu
thô nhập khẩu thường được coi là cú sốc tỷ lệ trao đổi TOT tiêu cực thông qua các
tác động của chúng lên các quyết định sản xuất (xem, Backus và Crucini, 2000;
Kim và Loungani, 1992). Dầu nhập khẩu được coi là đầu vào trung gian trong sản
xuất trong nước và do đó, giá dầu tăng dẫn đến sự gia tăng trực tiếp chi phí đầu vào
và dẫn đến giảm tổng sản phẩm quốc nội (GDP) thực. Các doanh nghiệp và hộ gia
đình sẽ phải cắt giảm kế hoạch chi tiêu và đầu tư. Sản lượng thực giảm ít nhất là
tạm thời trong các nền kinh tế nhập khẩu dầu. Nền kinh tế trong nước của các quốc
gia nhập khẩu dầu ròng sẽ sản xuất ít hơn và do đó xuất khẩu ít hơn, nhưng có thể
không tiêu thụ tương ứng ít sản phẩm nhập khẩu. Tác động của việc tăng giá ngoại
sinh lên cán cân thương mại chung của các quốc gia nhập khẩu dầu ròng dự kiến sẽ
là tiêu cực.



7

Hình 2.1 trình bày khung lý thuyết giải thích tác động của cú sốc giá dầu lên
cán cân thương mại của một quốc gia. Theo đó, giá dầu tăng sẽ góp phần làm tăng
giá năng lượng dẫn đến tăng chi phí sản xuất. Sự tăng giá của hàng hóa nông nghiệp
và công nghiệp dẫn đến thu nhập quốc gia giảm theo cấp số nhân (phụ thuộc vào hệ
số nhân). Kết quả là giá nhập khẩu sẽ tăng (chủ yếu do biến động tỷ giá), có thể gây
ra sự mất cân bằng thương mại, tạo ra nhiều hệ lụy vĩ mô, chủ yếu là khủng hoảng
tài chính toàn cầu; lạm phát và thất nghiệp làm giảm chất lượng sống của người
dân; nền kinh tế phát triển không bền vững (Hassan và Zaman, 2012).
2.1.2. Lý thuyết nền tảng về mối quan hệ giữa tỷ giá và cán cân thương mại
2.1.2.1. Điều kiện Marshall-Lerner
Về mặt lý thuyết, tỷ giá hối đoái có tác động đến cán cân thương mại. Một
trong các cách để chứng minh liên kết này là thảo luận điều kiện Marshall-Lerner
(điều kiện ML). Độ co giãn của cầu xuất khẩu và nhập khẩu không chỉ quan trọng
trong việc xác định tỷ lệ trao đổi TOT của một quốc gia, tác động lên hạn ngạch và
thuế quan, và tác động đến tăng trưởng kinh tế mà còn đóng vai trò chính trong việc
đánh giá tác động của sự phá giá (định giá thấp) tiền tệ trong việc cải thiện vị thế
cán cân thương mại của nền kinh tế. Phá giá tiền tệ chủ yếu nhằm mục đích thay đổi
giá cả tương đối, từ đó khuyến khích xuất khẩu và không khuyến khích nhập khẩu.
Phá giá là sự gia tăng có chủ ý của đồng nội tệ so với ngoại tệ, do đó làm tăng giá
nhập khẩu trong nước. Tuy nhiên, liên quan đến mức tăng của giá cả trong nước,
hiệu ứng chỉ phụ thuộc vào độ co giãn cầu. Cụ thể, khi độ co giãn cầu cao hơn 1,
khi đó sự mất giá sẽ gây ra sự sụt giảm tương đối lớn khối lượng nhập khẩu trong
nền kinh tế và sẽ đạt được hiệu quả như mong muốn. Ngược lại, nếu độ co giãn thấp
hơn 1, mặc dù mất giá sẽ gây ra một số mức giảm trong nhập khẩu, khối lượng
giảm có thể không đủ để bù đắp cho sự tăng giá của đồng nội tệ. Do đó, để đạt được
hiệu quả như mong muốn, là cải thiện cán cân thương mại, độ co giãn cầu phải
tương đối cao.



8

Cú sốc giá
dầu
Khủng hoảng kinh
tế

Giá năng
lượng tăng

Giá đầu vào
tăng

Sản xuất nông
nghiệp giảm
Sản xuất công
nghiệp giảm

Sản xuất của nền
kinh tế giảm

Mất cân bằng
thương mại

Phát triển không
bền vững

Lỗ hổng sản lượng
tăng


Chất lượng cuộc
sống giảm

GDP giảm

Chi phí nhập khẩu
tăng
Nguồn: Sắp xếp lại của tác giả từ nghiên cứu của Hassan và Zaman (2012).

Hình 2.1. Khung lý thuyết giải thích tác động của cú sốc giá dầu lên cán cân thương mại.

Thâm hụt thương
mại


9

Hơn nữa, độ co giãn còn phụ thuộc vào mức độ của hiệu ứng thay thế
(substitution effect) và thu nhập (income effect). Liên quan hiệu ứng thay thế, nếu
khối lượng thay thế hàng nhập khẩu trong thị trường nội địa tương đối lớn, thì hiệu
ứng thay thế sẽ mạnh mẽ, hàm ý sự sụt giảm lớn trong nhập khẩu. Ngược lại, nếu
nhập khẩu trong nước chủ yếu để tạo ra nhu yếu phẩm, trong nước có ít hoặc không
có sản phẩm thay thế, thì hiệu ứng thay thế đối với hàng nhập khẩu sẽ tương đối
nhỏ, hàm ý triển vọng kém của mục đích phá giá. Đôi khi, những trường hợp như
vậy được xác nhận ở các quốc gia đang phát triển, kể cả các quốc gia phát triển như
Pháp, Nhật Bản, Đức và Mỹ, khi không có sản phẩm thay thế cho một số hàng hóa
nhập khẩu chính như dầu mỏ (Dunn và Mutii, 2000). Mặt khác, hiệu ứng thu nhập
được coi là mạnh hơn nếu nhập khẩu chiếm phần đáng kể trong ngân sách trung
bình của một công dân. Đây là lý do tại sao phá giá không phổ biến trong tình

huống này. Khi phá giá làm cho giá của hàng hóa trong nước như nhiên liệu và thực
phẩm trong ngân sách của người tiêu dùng tăng lên, làm cho thu nhập thực giảm và
do đó làm giảm việc mua hàng hóa khác bao gồm cả hàng hóa nhập khẩu. Cùng với
xuất khẩu, sự mất giá của đồng nội tệ sẽ gây ra cả việc giảm giá cả ngoại tệ và tăng
giá cả nội tệ, với độ co giãn tương đối của cung và cầu quyết định kết quả. Trong
tình huống giá nội tệ của xuất khẩu không đổi, hàm ý hàm cung co giãn vô hạn, vì
giá cả ngoại tệ giảm do phá giá, do đó khiến người nước ngoài phải mua thêm hàng
xuất khẩu trong nước. Ngược lại, nếu giá ngoại tệ của xuất khẩu không đổi, hàm ý
cầu nước ngoài co giãn vô hạn đối với hàng hóa đó, giá nội tệ của xuất khẩu tăng
(kết quả từ phá giá) và do đó sẽ làm tăng xuất khẩu trong nước trên thị trường quốc
tế.
Khi độ co giãn của cầu xuất khẩu và nhập khẩu tương đối thấp, sự mất giá của
đồng nội tệ có thể làm giảm cán cân thương mại thay vì cải thiện nó. Nếu giá của
hàng hóa là cố định trong tiền tệ của các nhà xuất khẩu, một điều kiện cần được
thỏa mãn để đạt được phản ứng mong muốn của tỷ giá hối đoái lên cán cân thương
mại. Điều kiện nêu rõ, tổng độ co giãn cầu của xuất khẩu và nhập khẩu dài hạn phải
nhiều hơn 1. Điều này có nghĩa là trung bình của cả xuất khẩu và nhập khẩu nên


10

nhiều hơn 1. Nếu tổng độ co giãn chính xác bằng 1, thì sẽ không có thay đổi trong
cán cân thương mại khi phá giá tiền tệ. Tác động bất lợi của phá giá lên cán cân
thương mại xảy ra nếu tổng độ co giãn cầu của xuất khẩu và nhập khẩu nhỏ hơn 1.
Điều kiện được gọi là điều kiện Marshall-Lerner, được chứng minh bởi Alfred
Marshall và Abba Lerner.
2.1.2.2. Hiệu ứng đường cong J
Mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và cán cân thương mại cũng có thể được giải
thích thông qua hiệu ứng đường cong J. Nội dung đằng sau hiệu ứng đường cong J
là, cán cân thương mại có thể xấu đi tạm thời trong ngắn hạn do sự phá giá tiền tệ.

Tương tự như vậy, sự mất ổn định tỷ giá có thể chỉ là một vấn đề trong ngắn hạn.
Kể từ nửa cuối thập niên 1980, hiệu ứng đường cong J đóng vai trò là lý thuyết
quan trọng trong việc giải thích vấn đề tạm thời gây ra trong cán cân thương mại do
sự phá giá của tiền tệ. Thông thường, các cá nhân mất một thời gian để điều chỉnh
sở thích của mình đối với hàng hóa thay thế. Các nhà kinh tế tin rằng điều này là do,
thực tế trong ngắn hạn, cầu không co giãn hơn so với dài hạn. Điều này đặc biệt
đúng đối với độ co giãn cầu nhập khẩu, bởi vì đường cầu nhập khẩu suy ra từ chênh
lệch giữa đường cung và đường cầu của sản phẩm trong nước; với cả cung và cầu
không co giãn trong ngắn hạn hơn so với trong dài hạn, sự khác biệt giữa cung và
cầu sẽ không co giãn hơn trong ngắn hạn. Điều này hàm ý rằng, khi mất giá tiền tệ,
gây ra sự gia tăng giá nhập khẩu, cư dân của quốc gia đó có thể tiếp tục mua hàng
nước ngoài vì chưa điều chỉnh sở thích của mình sang hàng hóa thay thế sản xuất
trong nước (đường cầu không co giãn) và cũng vì sản phẩm thay thế trong nước có
thể không được sản xuất (đường cung trong nước không co giãn). Do đó, nhập khẩu
chỉ có thể giảm hoàn toàn sau khi người tiêu dùng quyết định điều chỉnh sở thích
của mình sang mua hàng hóa được sản xuất trong nước có sẵn tại thời điểm đó.
Tương tự như vậy, xuất khẩu trong nước cũng mở rộng do phá giá nếu sản xuất
trong nước tăng để tạo hàng hóa nhiều hơn cho xuất khẩu với cả nếu người tiêu
dùng nước ngoài mua các sản phẩm này.


11

Phá giá tiền tệ sẽ làm xấu đi cán cân thương mại của một nền kinh tế trong
ngắn hạn nhưng sẽ cải thiện nếu cả cầu nhập khẩu và cung xuất khẩu không co giãn
hơn trong ngắn hạn so với dài hạn. Mẫu thời gian thay đổi trong cán cân thương mại
có thể trông như trong Hình 2.2. Phá giá được giả định xảy ra tại thời điểm 0 và cán
cân thương mại xấu đi ngay sau khi phá giá vì các cá nhân tạm thời chi nhiều hơn
cho nhập khẩu và cũng vì xuất khẩu không tăng đủ. Nhưng sau một thời gian, khi
độ co giãn của cả nhập khẩu và xuất khẩu tăng lên, cán cân thương mại cuối cùng

được cải thiện. Điều này có thể thấy rõ trong Hình 2.2. Do mẫu hình phản ứng của
cán cân thương mại theo thời gian giống chữ J, nên có tên gọi là hiệu ứng đường
cong J.

Nguồn: Minh họa của tác giả.

Hình 2.2. Minh họa hiệu ứng đường cong J.

2.2. Các nghiên cứu thực nghiệm liên quan
2.2.1. Các nghiên cứu thực nghiệm về tác động của giá dầu lên cán cân thương
mại
Các nghiên cứu thực nghiệm về vai trò của cú sốc giá dầu đã được tiến hành từ
khá sớm. Các cú sốc dầu vào giữa và cuối những năm 1970 kéo theo hệ lụy lên tăng
trưởng, tỷ lệ thất nghiệp và lạm phát ở hầu hết các quốc gia phát triển (Blanchard và
Gali, 2007). Có nhiều quan điểm trái ngược nhau về tác động của giá dầu đến cán
cân thương mại. Một số ý kiến cho rằng giá dầu có tác động tích cực lên cán cân


12

thương mại trong khi một số khác cho là tiêu cực hoặc không có tác động (Akpan,
2007). Hanson và cộng sự (1993) nghiên cứu ảnh hưởng của cú sốc giá dầu lên
ngành nông nghiệp Mỹ trong giai đoạn năm 1973–1991. Sử dụng mô hình đầu ra–
đầu vào (mô hình I–O), các tác giả phân tích mối liên kết chi phí trực tiếp và gián
tiếp giữa năng lượng và nhiều ngành kinh tế. Các mô hình cân bằng tổng thể khả
tính (computable general equilibrium–CGE) được sử dụng để phân tích hiệu ứng
ngành với 3 điều chỉnh vĩ mô khác nhau, gồm lên nông nghiệp liên quan đến chi phí
năng lượng, và điều chỉnh tỷ giá hoặc vay nước ngoài khi chi phí nhập khẩu dầu cao
hơn và các chương trình hỗ trợ của chính phủ cho nông nghiệp. Kết quả cho thấy
mối quan hệ cùng chiều và đáng kể giữa giá dầu thấp và phát triển ngành nông

nghiệp. Mussa (2000) nghiên cứu tác động của giá dầu cao lên nền kinh tế toàn cầu
bằng cách sử dụng các mô hình kinh tế vĩ mô toàn cầu trong giai đoạn 1970–2000.
Các quốc gia nhập khẩu dầu, gồm Ấn Độ, Hàn Quốc, Pakistan, Philippines, Thái
Lan và Thổ Nhĩ Kỳ được đề cập trong nghiên cứu này. Kết quả cho thấy giá dầu
tăng dẫn đến tăng chi phí sản xuất hàng hóa và dịch vụ tại các quốc gia, dẫn đến
tăng giá đầu vào năng lượng tương đối và gây áp lực lên biên lợi nhuận. Nghiên cứu
cũng xác nhận tồn tại tác động dài hạn lên thị trường tài chính do các thay đổi giá
dầu. Phát hiện cho thấy việc tăng giá dầu dai dẳng sẽ dẫn đến hiện tượng chuyển
dời khoảng 0,25% GDP từ các quốc gia nhập khẩu dầu sang các quốc gia xuất khẩu
dầu; đồng nghĩa tồn tại sự chuyển giao thu nhập từ nơi tiêu thụ dầu sang nơi sản
xuất dầu.
Otto (2003) ước tính mô hình VAR cấu trúc cho 55 nền kinh tế mở nhỏ, bao
gồm 15 quốc gia OECD nhỏ và 40 quốc gia đang phát triển. Mẫu quan sát trong giai
đoạn 1960–1997. Kết quả nghiên cứu tìm thấy quan hệ cùng chiều giữa giá dầu và
tỷ lệ trao đổi TOT, đó là cú sốc giá dầu tích cực lên tỷ lệ trao đổi. Phát hiện này gần
như được tìm thấy ở cả các quốc gia đang phát triển và các quốc gia OECD nhỏ.
Ahmed và Donoghue (2010) nghiên cứu tác động của các thay đổi trong cán cân đối
ngoại của Pakistan trong giai đoạn 1998–2002. Kết quả cho thấy, việc tăng giá xăng
dầu nhập khẩu, nguyên liệu thô và các mặt hàng sản xuất khác đã làm giảm đáng kể


13

hiệu suất tăng trưởng của nền kinh tế, ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh và đe dọa
đến lợi ích quốc gia. Mô hình cân bằng tổng thể khả tính (CGE) với mô hình mô
phỏng vi mô được sử dụng để nghiên cứu ảnh hưởng của các thay đổi trong tiết
kiệm và giá nhập khẩu nước ngoài mà Pakistan phải đối mặt. Phát hiện cho thấy sự
gia tăng của tiết kiệm nước ngoài dẫn đến tăng nhập khẩu và giảm xuất khẩu. Hơn
nữa, nghiên cứu còn tìm thấy mối liên hệ ngược chiều dài hạn giữa giá dầu và xuất
khẩu, cụ thể là sự gia tăng giá nhập khẩu xăng dầu hoặc nguyên liệu thô công

nghiệp dẫn đến giảm xuất khẩu. Mohammad (2010) nghiên cứu tác động của biến
động giá dầu lên thu nhập xuất khẩu ở Pakistan trong giai đoạn 1975–2008. Thông
qua mô hình vectơ sai số hiệu chỉnh lỗi (VECM), nghiên cứu mô tả mối tương quan
đáng kể giữa thu nhập xuất khẩu với nhiều biến số kinh tế vĩ mô như tăng trưởng
GDP, mức sống, cán cân thương mại, biến động giá dầu và cung tiền M2. Phát hiện
cho thấy giá dầu có mối tương quan ngược chiều (âm) với thu nhập xuất khẩu.
Nghiên cứu tiếp tục chỉ ra rằng việc tăng giá dầu có tác động tiêu cực đến tài khoản
vãng lai của Pakistan và đồng thời tác động tiêu cực đến xuất khẩu và do đó, chi phí
sản xuất tăng.
Islam (1981) nghiên cứu hệ quả vĩ mô của giá dầu cao đối với Bangladesh
trong giai đoạn 1972–1979. Nghiên cứu phân tích tác động của việc giá dầu tăng
mạnh diễn ra từ năm 1973 lên tỷ lệ trao đổi TOT và cán cân thương mại. Bằng cách
tính toán thông qua chỉ số của Laspeyre, Paasche hoặc Fisher, nghiên cứu chỉ ra
những thay đổi cấu trúc đáng kể do giá dầu tăng. Giá dầu cao làm suy giảm nghiêm
trọng tỷ lệ trao đổi TOT, ảnh hưởng sâu sắc đến xuất khẩu. Nghiên cứu tiếp tục cho
thấy sự gia tăng đáng kể gấp đôi hoặc gấp ba về giá của các mặt hàng nhập khẩu
quan trọng như gạo, sợi bông, phân bón và xi măng. Ngoài ra, tác động bất lợi dài
hạn lên thu nhập ngoại hối được quan sát thấy. Hassan và Zaman (2012) điều tra tác
động của giá dầu tăng lên cán cân thương mại của Pakistan trong giai đoạn 1975–
2010, bằng cách sử dụng phương pháp ARDL. Ngoài ra, nghiên cứu còn tìm hiểu
hướng nhân quả giữa cán cân thương mại và cú sốc giá dầu. Kết quả cho thấy tồn
tại mối quan hệ ngược chiều đáng kể giữa giá dầu, tỷ giá hối đoái và cán cân thương


14

mại ở Pakistan, tức là, nếu giá dầu và tỷ giá tăng 1%, cán cân thương mại giảm lần
lượt 0,382% và 0,342%. Điều này cho thấy giá dầu và tỷ giá hối đoái gây mất cân
bằng thương mại ở Pakistan. Ngoài ra, tồn tại mối quan hệ cùng chiều giữa lỗ hổng
sản lượng và cán cân thương mại, phản ánh việc phân bổ và sử dụng tài nguyên

trong sản xuất không hiệu quả. Kilian và cộng sự (2009) sử dụng mô hình SVAR
cho 26 quốc gia xuất khẩu dầu và 14 quốc gia nhập khẩu dầu trong giai đoạn 1970–
2005, nhằm cung cấp các ước tính về tác động của cú sốc cung và cầu trên thị
trường dầu thô toàn cầu lên các thước đo cân bằng đối ngoại, bao gồm cán cân
thương mại dầu (oil trade balance), cán cân thương mại không dầu (non-oil trade
balance), tài khoản vãng lai, thu nhập vốn (capital gain) và những thay đổi trong tài
sản nước ngoài ròng (NFA). Các phát hiện có thể được tóm tắt như sau: (1) Nghiên
cứu cho thấy tác động của cú sốc cung và cầu dầu lên cán cân thương mại hàng hóa
và tài khoản vãng lai, tùy thuộc vào nguồn gốc sốc, có thể lớn, tùy thuộc rất lớn vào
phản ứng của cán cân thương mại các sản phẩm ngoài dầu. Kết quả nghiên cứu
cung cấp bằng chứng về mức độ trung gian của hội nhập tài chính quốc tế. (2)
Nghiên cứu ghi nhận sự hiện diện của các hiệu ứng định giá (valuation effect) lớn
và có hệ thống để phản ứng với những cú sốc này. Hiệu ứng định giá nói chung có
xu hướng làm giảm bớt ảnh hưởng của cú sốc cầu dầu và cú sốc cung lên vị thế
NFA của các nhà xuất khẩu và nhập khẩu dầu. (3) Nghiên cứu định lượng tầm quan
trọng chung của các cú sốc cầu chu kỳ kinh doanh toàn cầu cũng như cú sốc cung
và cầu cụ thể của thị trường dầu mỏ đối với các cân bằng đối ngoại.
Le và Chang (2013) kiểm tra xem liệu phần lớn sự thay đổi của cán cân
thương mại và các cấu thành dầu (oil component) và không dầu (non-oil
component) có liên quan đến biến động giá dầu hay không. Quan hệ nhân quả dài
hạn chạy từ giá dầu đến cán cân thương mại dầu, không dầu và cán cân chung; cùng
động lực ngắn hạn của chúng được điều tra bằng cách áp dụng phương pháp nhân
quả Toda–Yamamoto (1995) và các hàm phản ứng đẩy tổng quát hóa (GIRFs),
tương ứng với dữ liệu hàng tháng kéo dài từ tháng 1/1999 đến tháng 11/2011. Ba
nền kinh tế châu Á đại diện cho ba đặc điểm khác biệt về dầu được chọn: Malaysia


15

là quốc gia xuất khẩu dầu, Singapore là nơi lọc dầu và Nhật Bản là quốc gia xuất

khẩu dầu. Dựa trên các kết quả thu được từ việc phân tích ba nền kinh tế nghiên cứu
rút ra các kết luận như sau: (1) Sự cải thiện trong cán cân thương mại của quốc gia
xuất khẩu dầu (Malaysia) dường như liên quan đến doanh thu từ dầu tăng. (2) Đối
với một nền kinh tế lọc dầu như Singapore, cú sốc giá dầu dường như có tác động
dài hạn không đáng kể đến cán cân thương mại chung và các cấu thành dầu và
không dầu. Tuy nhiên, cú sốc giá dầu có thể có tác động đáng kể trong ngắn hạn. (3)
Đối với quốc gia nhập khẩu dầu ròng, tác động của giá dầu toàn cầu tăng lên thâm
hụt thương mại dầu (oil trade deficit) phụ thuộc vào bản chất của nhu cầu về dầu.
Nếu nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào dầu nhưng không có khả năng sản xuất, nhu
cầu dầu sẽ rất không co giãn. Đối với các nền kinh tế nhập khẩu dầu và tiêu thụ dầu
lớn kết hợp phụ thuộc dầu cao như Nhật Bản, giá dầu tăng dường như làm tăng
mạnh thâm hụt thương mại dầu và có thể dẫn đến thâm hụt thương mại chung. Tuy
nhiên, tác động ngắn hạn đối với cán cân thương mại không dầu có thể là tích cực,
điều này cuối cùng có thể chuyển thành tác động thuận lợi lên cán cân thương mại
chung, nếu cú sốc giá dầu tăng đến nền kinh tế bắt nguồn từ phía cầu.
Ngoài ra, còn nhiều nghiên cứu khác cũng tìm hiểu về tác động của giá dầu lên
cán cân thương mại. Điển hình như Tsen (2009) thông qua mô hình VAR cho các
quốc gia châu Á (Nhật Bản, Hồng Kông và Singapore) trong giai đoạn 1960–2006,
khám phá ra rằng các biến tỷ lệ trao đổi TOT, cú sốc giá dầu ảnh hưởng đến cán cân
thương mại cả trong ngắn hạn lẫn dài hạn. Cùng chung phương pháp nghiên cứu với
Tsen (2009), nghiên cứu của Ozlale và Pekkurnaz (2010), cho mẫu dữ liệu giai đoạn
1999–2009 lại chỉ ra, mối quan hệ giữa giá dầu và cán cân thương mại Thổ Nhĩ Kỳ
là một hiện tượng ngắn hạn thay vì dài hạn. Có phần tương đồng với Hassan và
Zaman (2012), nghiên cứu của Tiwari và Olayeni (2013) rút ra một kết luận quan
trọng: trong giai đoạn 1980–2011, giá dầu tác động ngược chiều với cán cân thương
mại của Ấn Độ. Tại Việt Nam, nghiên cứu của Nguyễn Khắc Quốc Bảo (2013)
được xem là nghiên cứu duy nhất tính đến hiện nay, đánh giá trực tiếp tác động của
cú sốc giá dầu thế giới lên cán cân thương mại của Việt Nam. Sử dụng khung đồng



×