Tải bản đầy đủ (.pdf) (74 trang)

(Luận văn thạc sĩ) Thực hiện chính sách tuyên truyền phổ biến pháp luật trên địa bàn huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (549.34 KB, 74 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM VĂN THỊNH

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TUYÊN TRUYỀN
PHỔ BIẾN PHÁP LUẬT TRÊN ÐỊA BÀN
HUYỆN SƠN TÂY, TỈNH QUẢNG NGÃI

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

HÀ NỘI, năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM VĂN THỊNH

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TUYÊN TRUYỀN
PHỔ BIẾN PHÁP LUẬT TRÊN ÐỊA BÀN
HUYỆN SƠN TÂY, TỈNH QUẢNG NGÃI

Chuyên ngành: Chính sách công
Mã số

: 8340402

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. Đỗ Thị Kim Định


HÀ NỘI, năm 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi. Các số liệu sử dụng phân tích trong luận văn có nguồn gốc rõ ràng,
đã công bố theo đúng quy định. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn do tôi
tự tìm hiểu, phân tích một cách trung thực, khách quan và phù hợp với thực
tiễn. Các kết quả này chưa từng được công bố trong bất kỳ nghiên cứu nào
khác.
Tác giả luận văn

Phạm Văn Thịnh


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH
SÁCH TUYÊN TRUYỀN, PHỔ BIẾN PHÁP LUẬT ................................ 8
1.1. Khái niệm, vai trò của thực hiện chính sách tuyên truyền, phổ biến pháp
luật ..................................................................................................................... 8
1.2. Nội dung thực hiện chính sách tuyên truyền, phổ biến pháp luật ............ 16
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc tổ chức thực hiện chính sách tuyên truyền,
phổ biến pháp luật ........................................................................................... 22
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TUYÊN
TRUYỀN, PHỔ BIẾN PHÁP LUẬT TẠI HUYỆN SƠN TÂY, TỈNH
QUẢNG NGÃI............................................................................................... 25
2.1. Khái quát về huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi ....................................... 25
2.2. Thực trạng thực hiện chính sách tuyên truyền, phổ biến pháp luật tại
huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi .................................................................... 30

2.3. Đánh giá chung về thực hiện chính sách tuyên truyền, phổ biến pháp luật
tại huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi ............................................................... 41
CHƯƠNG 3: QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG THỰC HIỆN
CHÍNH SÁCH TUYÊN TRUYỀN, PHỔ BIẾN PHÁP LUẬT TẠI
HUYỆN SƠN TÂY,TỈNH QUẢNG NGÃI ................................................. 45
3.1. Quan điểm và mục tiêu thực hiện chính sách tuyên truyền, phổ biến pháp
luật ................................................................................................................... 45
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách tuyên truyền, phổ biến
pháp luật .......................................................................................................... 49
KẾT LUẬN .................................................................................................... 65
TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

TTPBPL
CNH-HĐH
PBGDPL

Tuyên truyền, phổ biến pháp luật
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Phổ biến giáo dục pháp luật

CSC

Chính sách công

KT-XH

Kinh tế - xã hội


HĐND

Hội đồng nhân dân

UBND

Ủy ban nhân dân


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đềtài
Tuyên truyền, phổ biến pháp luật (TTPBPL) là hoạt động truyền tải các
kiến thức pháp luật tới toàn thể nhân dân; đây là hoạt động thuộc kiến trúc
thượng tầng, có vị trí quan trọng trong quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật.Công tác TTPBPL là quá trình đưa pháp luật đến với nhân
dân, đi vào ý thức, hành động của toàn xã hội.Hay nói một cách khác,
TTPBPL là cầu nối để chuyển tải pháp luật vào cuộc sống.Quá trình tuân thủ
và thực thi pháp luật của nhân dân, của tổ chức, các chủ thể khác trong xã hội
đều được thực hiện từ khâu thấu hiểu mới đến thực thi và tuân thủ.
Nhận thức được điều đó, trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta đã
xác định rõ công tác TTPBPL là một bộ phận của công tác giáo dục chính trị tư
tưởng, là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị, phải được tiến hành thường
xuyên, liên tục với nhiều hình thức phong phú, đa dạng và sáng tạo nhằm nâng
cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ và nhân dân, góp phần thúc đẩy kinh
tế phát triển, giữ vững ổn định chính trị và trật tự xã hội. Văn kiện Đại hội Đại
biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã nêu: “Tăng cường
giáo dục pháp luật, nâng cao hiểu biết và ý thức tôn trọng pháp luật, sống và
làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, bảo đảm cho pháp luật được thi hành
một cách nghiêm minh, thống nhất và công bằng”.

Tại ĐH ĐB lần thứ 9 của ĐCSVN khẳng định: Phát huy dân chủ, công
bằng XH đi đôi với giữ vững kỷ luật, kỷ cương, tăng cường PC, quản lý XH
bằng PL, đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả công tác TTPBPL, để nâng cao ý
thức chấp hành của nhân dân, toàn XH.
Trong bối cảnh hội nhập khu vực, quốc tế ngày càng sâu tộng; yêu cầu
của quá trình CNH - HĐH đất nước; muốn hòa nhập vào sân chơi chung quốc

1


tế thì công tác thực thi pháp luật, hiểu biết pháp luật, tôn trọng pháp luật phải
cấp thiết hơn bao giờ hết. Thực tế, qua hơn 30 năm đổi mới đất nước, Nhà
nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật liên quan đến công tác
TTPBPL, góp phần cụ thể hóa chủ trương của Đảng cũng như xác định đúng
vị trí của công tác TTPBPL trong tăng cường pháp chế XHCN, xây dựng nhà
nước pháp quyền. Đồng thời, để tiếp tục đưa công tác TTPBPL lên một tầm
cao mới, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng
Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, ngày 09 tháng 12 năm
2003, Ban Bí thư Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam đã ban hành Chỉ thị
số 32-CT/TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác PBGDPL,
nhằm khẳng định vai trò của các cấp ủy đảng trong việc định hướng, chỉ đạo
thực hiện các giải pháp thiết thực, hiệu quả trong việc nâng cao ý thức tuân
thủ pháp luật của nhân dân. Chỉ thị đã thể hiện sự đổi mới về nhận thức của
Đảng ta đối với công tác PBGDPL; về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong
công tác TTPBPL, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ và nhân
dân. …
Thực hiện chủ trương trên của Đảng, pháp luật của nhà nước, công tác
TTPBPL ngày càng được chính quyền các cấp quan tâm, chú trọng. Trách
nhiệm triển khai thực hiện công tác TTPBPL nói chung, thực hiện chính sách
TTPBPL nói riêng được ghi nhận tại Điều 27, Luật Phổ biến, giáo dục pháp

luật quy định: “Trách nhiệm của chính quyền các cấp ở địa phương: Hội đồng
nhân dân các cấp có trách nhiệm: Quyết định các biện pháp nhằm nâng cao
hiệu quả công tác phổ biến, giáo dục pháp luật; phân bổ dự toán ngân sách địa
phương cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật; Giám sát việc thực hiện
pháp luật về phổ biến, giáo dục pháp luật. UBND các cấp có trách nhiệm: Ban
hành theo thẩm quyền chương trình, kế hoạch, đề án về phổ biến, giáo dục
pháp luật; Chỉ đạo, hướng dẫn, tổ chức triển khai và kiểm tra công tác

2


PBGDPL; Xây dựng, tập huấn, bồi dưỡng, quản lý đội ngũ Báo cáo viên pháp
luật, tuyên truyền viên pháp luật; thực hiện chuẩn hóa đội ngũ giáo viên dạy
môn giáo dục công dân, giáo viên dạy môn pháp luật theo quy định của pháp
luật; tạo điều kiện để các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp hỗ trợ cho hoạt động
tuyên truyền, phổ biến pháp luật.
Đối với huyện Sơn Tây - một đơn vị hành chính cấp huyện của tỉnh
Quảng Ngãi, trong những năm qua, công tác PBGDPL nhìn chung đã được
cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương quan tâm; đã có những hoạt động
phong phú, nội dung, hình thức cũng như phương pháp từng bước được đổi
mới; thu được một số kết quả bước đầu đáng ghi nhận. Hoạt động PBGDPL
đã góp phần từng bước nâng cao ý thức pháp luật, hình thành dần thói quen
“Sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật” trong cán bộ và nhân dân
trên địa bàn huyện, đưa pháp luật vào các hoạt động quản lý nhà nước và đời
sống xã hội. Bên cạnh sự chỉ đạo của UBND các cấp, thì các phòng, ban
chuyên môn, các tổ chức chính trị - xã hội căn cứ vào nhiệm vụ chính trị
được giao chủ động triển khai, phổi hợp thực hiện các hoạt động cụ thể nhằm
lồng ghép việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của đơn vị mình với nhiệm vụ
TTPBPL tại cơ sở hoặc theo nhóm đối tượng phục vụ của đơn vị, địa phương
mình. Trong giai đoạn vừa qua, công tác TTPBPL tại huyện Sơn Tây đã được

Huyện ủy, UBND huyện quan tâm triển khai với nhiều hoạt động thiết thực,
hình thức tuyên truyền phong phú; các nội dung truyền tải mang tính thời sự,
từng bước đáp ứng nhu cầu tìm hiểu, góp phần nâng cao hiệu quả thực thi
pháp luật trên địa bàn huyện; công tác TTPBPL đi vào nền nếp, mang tính
thường xuyên; đã tạo được các đợt truyền thông mang tính cao điểm, tạo điểm
nhấn trong công tác TTPBPL.
Mặc dù vậy, công tác TTPBPL trên địa bàn huyện vẫn còn bộc lộ
không ít khó khăn, hạn chế ở nhiều mặt: Về nhận thức; về kinh phí, cơ sở vật

3


chất; về nhân lực; về nội dung; về phương pháp; về hình thức… đang đặt cấp
ủy Đảng, chính quyền địa phương cũng như đội ngũ làm công tác TTPBPL
của huyện trước những băn khoăn, trăn trở. Thực trạng công tác TTPBPL trên
địa bàn huyện như thế nào? Những mặt đạt được? Những mặt hạn chế?
Giải pháp cụ thể gì cho công tác TTPBPL tại huyện Sơn Tây?... Chất
lượng và hiệu quả thực hiện công tác TTPBPL của huyện Sơn Tây chỉ được
cải thiện, được nâng cao khi tất cả những vấn đề trên được nhìn nhận và giải
quyết một cách có hệ thống, khoa học trên cơ sở thực tiễn.
Xuất phát từ tầm quan trọng của công tác TTPBPL pháp luật trong bối
cảnh xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, trong công cuộc xóa
đói giảm nghèo (trong đó tiêu chí tiếp cận pháp luật là quy định cần có trong
xây dựng nông thôn mới); đồng thời xuất phát từ thực tiễn địa phương và lĩnh
vực tôi đang công tác; tôi lựa chọn đề tài “Thực hiện chính sách tuyên
truyền phổ biến pháp luật trên địa bàn huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi”
là đề tài nghiên cứu tốt nghiệp chương trình đào tạo thạc sĩchuyên ngành
chính sách công.
2.Tình hình nghiên cứu đềtài
Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật là một vấn đề được nhiều

học giả, nhà nghiên cứu quan tâm, có thể kể đến như:
- Bài viết Bàn về giáo dục pháp luật, của TS Ngọc Đường, TS Thanh
Mai. Trong tác phẩm này, các tác giả đã đưa ra những khái niệm mang tính lý
luận về TTPBPL, cụ thể như: Mục đích; Đối tượng; chủ thể; khách thể;
phương pháp ... trong thực hiện hoạt động TTPBPL.
- Nghiên cứu Giáo dục pháp luật góp phần nâng cao ý thức và nghĩa vụ
tuân thủ pháp luật, tạp chí Lý luận chính trị, số 10/2006) của tác giả Tống
Đức Thảo đã nghiên cứu vai trò tác động của giáo dục pháp luật đối với việc
hình thành và nâng cao ý thức pháp luật cho các tầng lớp dân cư, đồng thời

4


nêu những đặc điểm cơ bản của ý thức pháp luật.
- Luận văn thạc sĩ của Hồ Quốc Dũng đã nghiên cứu “Một số vấn đề về
giáo dục pháp luật trong giai đoạn hiện nay (1997)”. Tác giả đã tiếp cận, tìm
hiểu công tác giáo dục pháp luật, từ đó thấy được những khó khăn, thách thức
trong việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật, song nghiên cứu, phân tích đề
xuất một số giải pháp giáo dục pháp luật, nhằm nâng cao nhận thức của nhân
dân trong việc thi hành pháp luật trong giai đoạn hiện nay.
- Tác giả Nguyễn Thị Thu Ba (2012), “Nâng cao chất lượng TTGDPL
cho công nhân tại các doanh nghiệp ở Thành phố Đồng Tháp giai đoạn hiện
nay”, Luận văn thạc sĩ Luật học.
- Nguyễn Thị Thu Huyền (2016), ”Phổ biến, giáo dục pháp luật cho đội
ngũ cán bộ, công chức cấp xã ở huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội”, Luận
văn thạc sỹ Luật học.
Các nghiên cứu trên đã đưa ra ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác
tuyên truyền, phổ biến pháp luật; đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật. Tuy nhiên, các nghiên cứu đã
chưa sâu vào việc thực thi các chính sách tuyên truyền, phổ biến pháp luật;

chưa phân tích rõ quá trình thực thi chính sách TTPBPL, chưa đưa ra các yêu
cầu trong quá trình nâng cao chất lượng thực hiện chính sách tuyên truyền,
phổ biến pháp luật; chưa đưa ra các giải pháp nâng cao chất lượng thực hiện
chính sách tuyên truyền, phổ biến pháp luật tại một địa bàn khó khăn, tỷ lệ
người dân tộc thiểu số cao như huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi. Xuất phát từ
lý luận và thực tiễn cũng như phù hợp với yêu cầu thực tiễn công tác, tôi lựa
chọn đề tài trên là thực sự cần thiết về cả mặt lý luận và thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiêncứu
3.1 Mục đích nghiêncứu
Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách phổ

5


biến, giáo dục pháp luật tại huyện Sơn Tây trong thời gian tới.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu các vấn đề lý luận cơ bản về tuyên truyền pháp luật, chính
sách TTPBPL; ý nghĩa và vai trò của việc thực hiện chính sách TTPBPL, các
nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả thực hiện chính sách TTPBPL.
- Phân tích thực trạng thực hiện chính sách phổ biến, giáo dục pháp
luật tại huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi trong những năm gần đây qua đó rút
ra những hạn chế cần khắc phục và tìm ra những nguyên nhân hạn chế đó.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
4.1. Đối tượng nghiêncứu
Luận văn tập trung nghiên cứu việc thực hiện chính sách phổ biến, giáo
dục pháp luật tại huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi.
4.2. Phạm vi nghiêncứu
Phạm vi không gian: Luận văn nghiên cứu việc thực hiện phổ biến,
giáo dục pháp luật tại huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi.
Phạm vi thời gian: Luận văn nghiên cứu thực trạng thực hiện phổ biến,

giáo dục pháp luật tại huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi từ năm 2013 - 2018.
5. Cơ sở lýluậnvàphươngphápnghiêncứu
5.1. Cơ sở lýluận
Cơ sở lý luận được sử dụng trong luận văn là phương pháp dựa trên
phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các định hướng, chủ trương của Đảng
CSVN, Nhà nước Việt nam về vấn đề TTPBPL.
5.2. Phương pháp nghiêncứu
Các phương pháp cụ thể được sử dụng:
- Phương pháp phân tích các kết quả thực hiện và tổng hợp những ý
kiến đánh giá để phân tích, tổng hợp những vấn đề về phương thức phát huy
quyền lực, nội dung đường lối chính sách và quá trình hiện thực hóa những
đường lối phổ biến, giáo dục pháp luật tại huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi
6


trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa .
- Phương pháp thống kê để tập hợp các số liệu: thống kê tổng hợp số xã
có tủ sách pháp luật; số ấn phẩm về pháp luật..
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luậnvăn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn vận dụng khung lý thuyết về chính sách công, các bước trong
thực hiện chu trình chính sách công để làm tham chiếu để đánh giá việc thực
hiện chính sách TTPBPL. Trên cơ sở vận dung khung lý thuyết để nghiên cứu
thực tiễn sẽ giúp tác giải tìm tòi, phát hiện những bất cập, những độ chệnh giữa
lý luận và thực tiễn thực hiện. Đồng thời mạnh dạn đề xuất các giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách TTPBPL trongt hời gian tới.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn thực hiện chính sách TTPBPL tại
huyện Sơn Tây; tác giả đánh giá và đề xuất các giải pháp thiết thực, hữu hiệu
phù hợp với thực tiễn địa phương trong việc nâng cao hiệu quả thực hiện

chính sách tuyên truyền, phổ biến pháp luật trên địa bàn huyện Sơn Tây nói
riêng.
7. Cơ cấu của luậnvăn
Nội dung chính của luận văn được cơ cấu theo ba chương cụ thể.
Chương 1. Những vấn đề lý luận về thực hiện chính sách tuyên truyền,
phổ biến pháp luật.
Chương 2. Thực trạng thực hiện chính sách tuyên truyền, phổ biến pháp
luật trên địa bàn huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi.
Chương 3. Quan điểm, giải pháp hoàn thiện, nâng cao hiệu quả tổ chức
thực hiện chính sách tuyên truyền, phổ biến pháp luật trên địa bàn huyện Sơn
Tây.

7


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
TUYÊN TRUYỀN, PHỔ BIẾN PHÁP LUẬT
1.1. Khái niệm, vai trò của thực hiện chính sách tuyên truyền, phổ
biến pháp luật
1.1.1. Khái niệm thực hiện chính sách tuyên truyền, phổ biến pháp
luật
1.1.1.1. Khái niệm tuyên truyền, phổ biến pháp luật
Theo Đại từ điển Tiếng Việt thì: "Tuyên truyền" khái niệm để rộng, có
ý nghĩa miêu tả hoạt động truyền bá những tri thức, giá trị tinh thần, tư tưởng
đó thành nhận thức, niềm tin, tình cảm, cổ vũ đối tượng hành động theo
những định hướng do chủ thể tuyên truyền đặt ra [4,tr16].
Tuyên truyền là phổ biến chính là quá trình cung cấp, cập nhật thông
tin, những yêu cầu, nội dung và các quy định pháp luật mới, hoặc được sửa
đổi bổ sung để giúp nhân dân nắm bắt, hiểu, tuân thủ chấp hành những quy

định mới, hoặc sửa đổi bổ sung đó. Đó chính là phương tiện hỗ trợ tích cực để
nâng cao hiểu biết pháp luật cho nhân dân, là cầu nối để chuyển tải pháp luật
vào cuộc sống. Bởi lẽ, khi pháp luật có hiệu lực thì cần phải có đội ngũ truyền
tải, phương tiện truyền tải, và các nội dung đó phải được cụ thể hóa, tồn tại
dưới các hình thức văn bản cụ thể: bản giấy, bản điện tử.. để nhân dân đọc,
hiểu, tiếp thu, tuân thủ …Như vậy, pháp luật mới đi vào cuộc sống.
Theo Đại từ điển Tiếng Việt thì "Phổ biến là hoạt động truyền đạt trực
tiếp hoặc một hình thức cụ thể nào đó làm cho nhiều người biết đến một vấn
đề cụ thể nào đó" [4, tr3].
Hoạt động TTPBGDPL là việc các chủ thể (Cấp ủy chính quyền địa
phương; các cơ quan chuyên môn; các tổ chức chính trị - xã hội...) có trách

8


nhiệm dùng các phương tiện, hình thức khác nhau truyền đạt tới đối tượng
quản lý nhằm cung cấp thường xuyên, bài bản, hệ thống để giúp cho đối
tượng có những nhận thức đầy đủ hơn, trên cơ sở đó thực hiện các hành vi,
các ứng xử chuẩn mực hơn.
Sử dụng những hình thức khác nhau, có thể trực tiếp hoặc gián tiếp tác
động một cách có hệ thống, bài bản và thường xuyên đến ý thức của con
người nhằm trang bị những kiến thức pháp lý nhất định để từ đó họ có những
nhận thức đúng đắn về pháp luật, tôn trọng pháp luật và tự giác xử sự theo
yêu cầu của pháp luật.
Theo nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật của Luật Phổ biến, giáo dục
pháp luật năm 2012 (Điều 10) thì phổ biến, giáo dục pháp luật là hoạt động
truyền đạt thông tin, nội dung pháp luật, bao gồm: (i) Quy định của Hiến pháp
và văn bản quy phạm pháp luật về dân sự, hình sự, hành chính, hôn nhân và
gia đình, bình đẳng giới, đất đai, xây dựng, bảo vệ môi trường, lao động, giáo
dục, y tế, quốc phòng, an ninh, giao thông, quyền và nghĩa vụ cơ bản của

công dân, quyền hạn và trách nhiệm của cơ quan nhà nước, cán bộ, công
chức, các văn bản quy phạm pháp luật mới được ban hành; (ii) Các điều ước
quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, các thỏa
thuận quốc tế; (iii)Ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật; ý thức bảo vệ
pháp luật; lợi ích của việc chấp hành pháp luật; gương người tốt, việc tốt
trong thực hiện pháp luật. Các chủ thể thực hiện các hoạt động TTPBPL là
các cơ quan trong hệ thống cơ quan nhà nước, hệ thống cơ quan hành chính
nhà nước; hệ thống tổ chức chính trị xã hội từ trung ương đến địa phương.
[21].
Từ cách giải thích của từ điển về hai khái niệm “tuyên tryền” và “phổ
biến”, “giáo dục” kết hợp với các nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật mà
Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật đưa ra, có thể khái quát lại khái niệm Tuyên

9


truyền, phổ biến pháp luật như sau:
- Theo nghĩa hẹp: Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật là giới
thiệu tinh thần văn bản pháp luật cho người có nhu cầu; theo đó phổ biến,
giáo dục pháp luật là việc truyền bá pháp luật cho đối tượng nhằm nâng cao
tri thức, tình cảm, niềm tin pháp luật cho đối tượng từ đó nâng cao ý thức tôn
trọng pháp luật, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật của đối tượng.
- Theo nghĩa rộng: TTPBGDPL là một khâu của hoạt động tổ chức thực
hiện pháp luật bởi lẽ nó nâng cao các tri thức pháp luật của cá nhân, tổ chức;
từng bước định hướng nhận thức, điều chỉnh hành vi ứng xử cho phù hợp với
chuẩn mức đạo đức, chuẩn mực pháp luật chung mà nhà nước, cộng đồng dân
cư hướng tới, bảo vệ.”
1.1.1.2. Khái niệm chính sách
Hiện nay, có nhiều khái niệm về chính sách.
Theo Từ điển tiếng Việt thì “chính sách” là “sách lược và KH được chủ

thể có thẩm quyền đưa ra, thực hiện nhằm đtạ mục tiêu nhất định theo định
hướng của chủ thể đó”[27].
Qua các khái niệm trên, có thể thấy, chính sách có những đặc điểm cụ
thể:
+ Chủ thể ban hành chính sách là chủ thể được xác định (Xác định dựa
trên Quyền lực hoặc Chủ thể có thẩm quyền Quản lý).
+ Nội dung của chính sách phải dựa trên quan điểm thống nhất, chung
nhất của Đảng cầm quyền; định hướng phát triển; tình hình thực tiễn của địa
phương, tổ chức.
+ Mục đích của chính sách: Chính sách phải có mục đích rõ ràng, cụ
thể (có thể định lượng hoặc định tính bởi những thước đo cụ thể). Do vậy, khi
xây dựng kế hoặc thực hiện chính sách; các chủ thể phải căn cứ và lượng tính
được thước đo và kết quả đo.

10


Qua các định nghĩa trên, khái niệm “chính sách tuyên truyền, phổ biến
pháp luật” được hiểu trong luận văn “Chính sách tuyên truyền, phổ biến pháp
luật là tập hợp các quyết định có liên quan để lực chọn mục tiêu và giải pháp,
công cụ chính sách nhằm giải quyết các vấn đề chính sách tuyên truyền, phổ
biến pháp luật theo mục tiêu tổng thể đã xác định”.
1.1.1.3. Khái niệm thực hiện chính sách tuyên truyền, phổ biến pháp
luật
Thực hiện chính sách TTPBPL là quá trình đưa chính sách TTPBPL
vào thực tiễn đời sống thông qua việc ban hành các đề án, chương trình, kế
hoạch, dự án .. thực hiện chính sách TTPBPL và tổ chức thực hiện các hoạt
động cụ thể nhằm đạt được mục tiêu mà các kế hoạch, đề án, chương trình, dự
án đề ra.
Các Chương trình, đề án TTPBPL phải được đảm bảo bởi nguồn lực

nhất định; phải có sự phân công rõ rằng trong tổ chức và phối hợp thực hiện...
* Yếu tố ảnh hưởng tới thực hiện chính sách.
Có thể chia làm 2 nhóm yếu tố cụ thể như sau:
+ Yếu tố khách quan: là các yếu tố bên ngoài, yếu tố mang tính tự nhiên
về điều kiện tự nhiên, đất đai, vị trí địa lý..... Những yếu tố này tác động đến
tổ chức thực thi chính sách từ bên ngoài, độc lập với ý muốn của chủ thể quản
lý, các yếu tố này vận động theo quy luật khách quan nên ít tạo sự biến đổi do
đó cũng khó gây sự chú ý của các nhà quản lý nhưng lại tác động lớn đến
quá trình thực thi chính sách, đó là các yếu tố: Tính chất của vấn đề chính
sách là yếu tố gắn liền với mỗi chính sách nó có tác động trực tiếp đến hoạch
định và thực hiện chính sách có nghĩa là nếu vấn đề chính sách đơn giản liên
quan đến ít đối tượng thì thực thi sẽ dễ dàng và đơn giản hơn.
Môi trường thực thi chính sách tốt để chính sách đạt hiệu quả cáo nhất
đó là một môi trường ổn định ít biến đổi về chính trị sẽ đưa tới sự ổn định về

11


hệ thống chính sách và thực thi thuận lợi. Nếu các bộ phận của môi
trườngổn định thì nó sẽ tạo cho các hoạt động thực thi dễ dàng; còn ngược lại
nếu Môi trường thực thi chính sách có nhiều bất lợi , như: rào cản của phong
tục tập quán lạc hậu; điều kiện tự nhiên..... dẫn đến việc thực thi chính sách
kém hiệu quả, thậm chí không đạt mục tiêu.
Tiềm lực của các nhóm đối tượng chính sách: Mỗi đối tượng chính sách
có tiềm năng khác nhau, có thế mạnh, lợi thế, thuận lợi và khó khăn khác
nhau trong quá trình thực hiện TTPBPL. Có thể nhìn nhận tiềm lực này qua
các phương diện chính trị, kinh tế, xã hội.... Đặc tính của đối tượng chính sách
như tính tự giác, kỷ luật, sáng tạo.... cũng góp nhiều vào việc hiệu quả hay
không trong quá trình thực thi chính sách.
+ Yếu tố chủ quan: là các yếu tố thuộc về chủ thể thực thi chính sách,

cụ thể hơn, đó chính là hệ thống cơ quan thực hiện nhiệm vụ TTPBPL các
cấp; đội ngũ cán bộ công chưc, viên chức trong các các cơ quan thực thi
nhiệm vụ TTPBP:L... các chủ thể này là các chủ thể thực thi chính sách nên
nó có ảnh hưởng lớn đến việc hiệu quả thực thi. Thực thi đúng đầy đủ các
bước trong quy trình tổ chức thực thi chính sách, các bước này được coi là
nguyên lý khoa học được đúc kết từ thực tiễn cuộc sống, việc tuân thủ quy
trình là một nguyên tắc quản lý.
Bên cạnh đó phải nói đến vai trò của đội ngũ CBCC, mà cụ thể là đội
ngũ thực thi chính sách hay nói cách khác là năng lực thực thi chính sách của
CBCC trong hệ thống cơ quan nhà nước từ trung ướng đến địa phương. Chủ
thể giữ vai trò quyết định tới sự thành bại của chính sách, bỏi lẽ: người CBCC
tận tâm, có đạo đức công vụ, tâm huyết với nghề nghiệp thì sẽ vượt khó để
thực thi còn ngược lại nếu CBCC có năng lực yếu kém, làm việc thiếu khoa
học, trách nhiệm; sự thờ ơ của cấp ủy chính quyền; của bàng quang của cán
bộ công chức thực thi chính sách .. thì việc thực hi chính sách sẽ gặp nhiều

12


khó khăn, việc triển khai chính sách sẽ không đem lại hiệu quả như móng
muốn.
Cùng với yếu tố CBCC thì phải đề cập đến yếu tố tài chính: nguồn vật
lực quan trọng để thực thi chính sách. Nguồn tài chính sẽ đảm bảo các hoạt
động được triển khai trên thực tiễn; bởi lẽ: Phải trang bị các tài liệu, tư liệu;
phải có phương tiện thực hiện, phải có nguồn lực để chi trả nhân công. Do
vậy, các điều kiện về tài chính là điều kiện thiết yếu để đảm bảo các hoạt
động có thể thực hiện được trên thực tế. Thực tiễn đã chứng minh, nếu không
có nguồn tài chính thì các hoạt động chỉ nằm trên giấy tờ, không có giá trị
thực tế, không có điều kiện hiện thực hóa trên thực tiễn.
Sự hưởng ứng của đối tượng hướng tới của chính sách: Đối tượng

hướng tới của chính sách TTPBPL chính là nhân dân, sự đồng tình của nhân
dân. Nếu chính sách có được sự đồng tình ủng hộ của nhân dân thì việc thực
thi mới có hiệu quả. Bởi lẽ, nếu chính sách không co sự hưởng ứng này thì
mục tiêu hướng tới của chính sách không đạt được; tri thức pháp luật không
được nhân nhân đón nhận, thực thi pháp luật sẽ lệch chuẩn; ý thức pháp luật
không được nâng lên.
1.1.2. Vai trò của thực hiện chính sách tuyên truyền, phổ biến phápluật
Công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật thuộc kiến thức
thượng tầng, là công tác tư tưởng quan trọng trong việc định hướng, dẫn dắt
xã hội.
TTPBPL là phương tiện để chủ thể quản lý tác động vào đối tượng
quản lý nhằm hướng đối tượng quản lý thực hiện những giá trị, những chuẩn
mực mà chủ thể quản lý hướng tới. Muốn thực thi, tuân thủ pháp luật đúng và
đầy đủ thì phải hiểu đầu đủ, hiểu đúng, sử dụng đúng và đầy đủ pháp luật đó.
Để thực hiện được mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam thì công tác phổ biến, giáo dục pháp luật có vai trò hết sức

13


quan trọng là cầu nối để đưa pháp luật vào cuộc sống, góp phần nâng cao hiệu
lực, hiệu quả của quản lý nhà nước, quản lý xã hội bằng pháp luật. Song song
với nhiệm vụ xây dựng pháp luật là nhiệm vụ đưa pháp luật vào cuộc sống.
Phổ biến, giáo dục pháp luật có những vai trò cơ bản như sau:
- Thứ nhất, phổ biến giáo dục pháp luật có vai trò quan trọng trong việc
hình thành ý thức pháp luật cho nhân dân, tăng cường sự hiểu biết pháp luật,
khuyến khích thói quen ứng xử theo pháp luật, góp phần nâng cao hiệu lực,
hiệu quả quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Nhà nước ban hành hệ thống pháp
luật như ban hành một "hành lang" để mọi công dân, tổ chức, doanh nghiệp
có thể bước đi trong khuôn khổ cho phép.

Phổ biến, giáo dục pháp luật cho công dân có tri thức pháp lý, tình cảm
pháp luật đúng đắn và hành vi hợp pháp, tạo tiền đề cho việc sử dụng quyền
lực nhà nước, tăng cường pháp chế, phát huy dân chủ và quyền tự do của mỗi
người góp phần tăng cường trật tự, kỷ cương xã hội; phòng ngừa có hiệu quả
các hành vi vi phạm pháp luật. Ý thức pháp luật của công dân được hình
thành từ hai yếu tố đó là tri thức pháp luật và tình cảm pháp luật.
Tri thức pháp luật của mối chủ thể có được qua quá trình tích luỹ kiến
thức của hoạt động thực tiễn và công tác, thể hiện ở sự hiểu biết sâu sắc về
một vấn đề pháp luật cụ thể. Tình cảm PL chính là trạng thái tâm lý của các
chủ thể khi thực hiện và ADPL, họ có thể đồng tình ủng hộ với những hành vi
thực hiện đúng PLt, lên án các hành vi VPPL. Ý thức tự giác chấp hành PL
của công dân chỉ có thể được nâng cao khi công tác phổ biến, giáo dục pháp
luật được tiến hành thường xuyên, kịp thời và có tính thuyết phục. Phổ biến,
giáo dục pháp luật không đơn thuần là phổ biến các văn bản pháp luật đang có
hiệu lực mà còn lên án các hành vi vi phạm pháp luật, đồng tình ủng hộ các
hành vi thực hiện đúng pháp luật, hình thành dư luận và tâm lý đồng tình ủng
hộ với hành vi hợp pháp, lên án các hành vi vi phạm pháp luật.
Tuyên truyền, phổ biến còn có ý nghĩa củng cố niểm tin vào pháp luật,

14


từng bước nâng cao sự hiểu biết của con người đối với các văn bản pháp luật
và các hiện tượng pháp luật trong đời sống, từ đó nâng cao ý thức tự giác chấp
hành pháp luật của nhân dân.
Thứ hai, tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho công dân góp phần nâng
cao hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Vai trò quan trọng
này của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật bắt nguồn từ chính vai trò và
giá trị xã hội của pháp luật là phương tiện hàng đầu để quản lý nhà nước,
quản lý xã hội. Phổ biến, giáo dục pháp luật giúp cho mọi người có tri thức

pháp lý, tình cảm pháp luật đúng đắn và hành vi hợp pháp, tạo tiền đề cho
việc sử dụng quyền lực nhà nước, tăng cường pháp chế, phát huy dân chủ và
quyền tự do của mỗi người.
Tuyên truyền, phổ biến pháp luật đồng thời tạo ra khả năng đổi mới các
quan hệ xã hội trong môi trường quản lý nhà nước bằng pháp luật, hình thành
các điều kiện và nhân tố thuận lợi cho quá trình quản lý nhà nước, quản lý xã
hội; tạo ra khả năng phát hiện và loại trừ những hiện tượng tiêu cực, chống
đối pháp luật diễn ra trong quá trình quản lý.
Quá trình tổ chức thực hiện chính sách tuyên truyền, phổ biến pháp
luật là toàn bộ quá trình chuyển ý chí của Nhà nước (chủ thể chính sách) tới
đối tượng tác động của chính sách (có thể là đối tượng hưởng lợi trực tiếp
hoặc gián tiếp) nhằm đạt được mục tiêu mà chính sách đã đưa ra hoặc dự kiến
sẽ đạt được. Nói cách khác tổ chức thực hiện chính sách TTPBPL là quá trình
thực hiện trên thực tế các hoạt động để đưa chính sách vào thực tiễn cuộc
sống. Tổ chức thực hiện chính sách được thực hiện bởi những chủ thể xác
định, nguồn lực cụ thể và các mục tiêu rõ ràng.
Tổ chức thực hiện chính sách TTPBPL là bước kết nối giữa xây dựng
chính sách và thực hiện chính sách. Tổ chức thực hiện chính sách là quá trình
kiểm nghiệm giá trị đích thực, tính đúng đắn, tính khoa học, sự cần thiết của
chính sách; đồng thời cũng là quá trình đánh giá sự tham gia của các chủ thể

15


thực hiện chính sách có tuân thủ tính hệ thống, tính pháp lý, tính mục đích của
chính sách hay không?
Nếu chính sách TTPBPL không được thực hiện đúng sẽ ảnh hưởng đến
quá trình nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật, châp hành pháp luật, thiếu hiểu
biết và ý thức tuân thủ pháp luật sẽ gây mất trật tự xã hội, ảnh hưởng tới sự
phát triển kinh tế- xã hội.. là nguyên nhân sâu xa của tệ nạn xã hội; phản ứng

tiêu cực; hành vi lệch chuẩn.. Tất cả nhứng hệ quả đó ảnh hưởng tiêu cực đến
quá trình quản lý xã hội của nhà nước; quá trình xây dựng xã hội công bằng,
văn minh, hiện đại, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Qua tổ chức thực hiện chính sách TTPBPL mới biết được chính sách có
đúng hay không đúng, chính sách có đi vào cuộc sống hay không đi vào cuộc
sống. Chính sách TTPBPL có vị trí và vai trò vô cùng quan trọng trong quá
trình xây dựng NNXHCN hiện nay, là một bộ phận của công tác GDCTTT, là
trách nhiệm của toàn bộ HTCT, dưới sự lãnh đạo của ĐCSVN và sự điều
phối, tổ chức thực hiện của các CQNN và các tổ chức, đoàn thể; là khâu then
chốt, quan trọng để chủ trương, chính sách của Đảng, PL của nhà nước thực
sự đi vào cuộc sống xã hội, đi vào ý thức, hành động của từng chủ thể trong
xã hội.
1.2. Nội dung thực hiện chính sách tuyên truyền, phổ biến pháp
luật
1.2.1. Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách tuyên
truyền, phổ biến pháp luật
Kế hoạch triển khai là việc xác định phương hướng, nhiệm vụ, chỉ tiêu,
biện pháp, các hoạt động cụ thể để tiến hành thực hiện nhiệm vụ TTPBPL của
từng ngành, cơ quan, đơn vị, địa phương nói riêng. Theo nguyên tắc, kế hoạch
mỗi khi đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt thì nó bắt buộc các cơ quan,
đơn vị hữu quan triển khai thực hiện và hoàn thành đúng thời hạn. Kế hoạch
đề ra (hoặc được giao) có được hoàn thành tốt và đúng thời hạn hay không là

16


căn cứ chủ yếu để đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ được giao của một
cơ quan, đơn vị.
Tổ chức thực hiện chính sách TTPBPL là nhiệm vụ quan trọng, có sự
tham gia của nhiều ngành, địa phương, đơn vị ... do vậy cần phải có kế hoạch

để các ngành, địa phương căn cứ để thực hiện; cũng như kinh phí phân bổ để
đảm bảo các hoạt động được thực hiện theo đúng tiến độ, yêu cầu. Do đó, kế
hoạch phải đảm bảo các yêu cầu sau:
- Kế hoạch được xây dựng dựa trên chức năng, nhiệm vụ của cơ quan tổ
chức: Phải dự kiến các cơ quan chủ trì và phối hợp triển khai thực hiện chính
sách, số lượng và chất lượng nhân sự tham gia tổ chức thực thi chính sách,
quyền và trách nhiệm của cán bộ quản lý và cán bộ thực thi chính sách, cơ
chế tác động của giữa cơ quan, đơn vị trong tổ chức thực hiện chính sách.
- Kế hoạch phải đáp ứng được chủ trương quyết định của cấp trên.
- Nội dung của kế hoạch cần chỉ rõ danh mục những công việc dự kiến,
nguồn lực (nhân lực, vật lực, tài lực) và phải thể hiện rõ các mục tiêu, nhiệm
vụ, biện pháp và tiến độ cụ thể đối với từng việc, như: Dự kiến về cơ sở vật
chất, trang thiết bị kỹ thuật phục vụ tổ chức thực hiện chính sách, các nguồn
lực tài chính, vật tý văn phòng phẩm…Dự kiến thời gian duy trì chính sách,
dự kiến thời gian thực hiện các bước tổ chức triển khai thực hiện chính sách
từ xây dựng kế hoạch tổ chức thực hiện đến tổng kết đánh giá rút kinh nghiệm
thực hiện chính sách. Mỗi buớc phải nêu rõ mục tiêu cần đạt được và thời
gian dự kiến cho việc thực hiện mục tiêu; Dự kiến về tiến độ, hình thức,
phương pháp kiểm tra, giám sát tổ chức thực hiện chính sách hoặc có thể
được xem xét điều chỉnh nếu kế hoạch đó không phù hợp với tình hình thực
tế; việc điều chỉnh kế hoạch cũng do cấp có thẩm quyền thông qua kế hoạch
quyết định.
1.2.2. Phổ biến, tuyên truyền thực hiện chính sách tuyên truyền, phổ
biến pháp luật

17


Bước tiếp theo trong tổ chức thực hiện chính sách TTPBPL là phổ biến,
tuyên truyền chính sách. Đây là hoạt động có ý nghĩa quan trọng, bởi lẽ

tuyêntruyền phổ biến chính sách qua các phương tiện thông tin đại chúng, các
điển hình tiên tiến, các bài báo, các chuyên mục... sẽ giúp người dân hiểu về
chính sách; hiểu mục tiêu của chính sách; hiểu nghĩa vụ và quyền lợi khi thực
thi chính … để họ tự giác thực hiện, tích cực hưởng ứng, đáp ứng theo mục
đích của chính sách, thực hiện các hoạt động theo yêu cầu của nhà nước;
đồng thời còn giúp cho cán bộ công chức có trách nhiệm tổ chức thực hiện
chính sách nhận thức được đầy đủ tính chất, độ phức tạp, quy mô của chính
sách đối với đời sống xã hội, để họ chủ động tích cực tìm kiếm các giải pháp
thích hợp cho việc thực hiện mục tiêu chính sách và triển khai thực hiện có
hiệu quả kế hoạch tổ chức thực hiện chính sách được giao: Phổ biến, tuyên
truyền chính sách TTPBPL cần được thực hiện thường xuyên liên tục để các
đối tượng thụ hưởng chính sách có thêm niềm tin vào chính sách và tích cực
thực thi chính sách. Phổ biến tuyên truyền chính sách TTPBPL có thể thực
hiện bằng nhiều hình thức khác nhau: như trực tiếp tiếp xúc, trao đổi với các
đối tượng chính sách, hoặc gián tiếp thông qua các phương tiện thông tin đại
chúng như: các đài phát thanh, đài truyền hình, các báo, tạp chí…
1.2.3. Phân công, phối hợp thực hiện chính sách tuyên truyền, phổ
biến pháp luật
Trên cơ sở Kế hoạch thực hiện chính sách, thì các cơ quan được phân
công trong Kế hoạch phải có trách nhiệm phối hợp với nhau. Bởi lẽ, việc thực
thi kế hoạch là một chuối hoạt động liên hoàn, hoạt động này sẽ tạo tiền đề
cho hoạt động khác được thực hiện.
Chính sách TTPBPL được thực thi trên phạm vi toàn quốc, toàn tỉnh
toàn huyện, toàn xã ... do vậy, các đối tượng, các chủ thể.. của chính sách rất
lớn. Số lượng tham gia bao gồm các đối tượng tác động của chính sách
TTPBPL là: Cấp ủy chính quyền các cấp; các cơ quan chuyên môn thuộc

18



UBND các cấp; các đoàn thể, tổ chức chính trị - xã hội ... Bên cạnh đó, các
hoạt động nhằm thực hiện mục tiêu của chính sách TTPBPL diễn ra cũng hết
sức phong phú, phức tạp theo không gian và thời gian, chúng có thể cùng diễn
ra tại một thời điểm, một địa bàn hoặc có giá trị tạo tiền đề cho nhau thực hiện
v.v… Bởi vậy, muốn tổ chức thực thi chính sách công có hiệu quả phải tiến
hành phân công, phối hợp giữa các cơ quan quản lý ngành, các cấp chính
quyền địa phương, các yếu tố tham gia thực thi chính sách và các quá trình
ảnh hưởng đến thực hiện mục tiêu chính sách. Do vậy, để có cơ sở đánh giá
trách nhiệm trong thực hiện chính sách, cũng như căn cứ để xác định nguồn
lực .. thì yêu cầu phải phân định rõ cơ quan chủ trì, cơ quan phối hợp…. Hoạt
động phân công, phối hợp diễn ra theo tiến trình thực hiện chính sách một
cách chủ động, sáng tạo để luôn duy trì chính sách được ổn định, góp phần
nâng cao hiệu lực, hiệu quả chính sách.
1.2.4. Duy trì chính sách tuyên truyền, phổ biến pháp luật
Duy trì chính sách TTPBPL là toàn bộ hoạt động đảm bảo cho chính
sách phát huy tác dụng trong đời sống chính trị xã hội hay nói cách khác duy
trì chính sách TTPBPL là làm cho chính sách tồn tại và phát huy hết tác dụng
trong môi trường thực tế.
Trong quá trình duy trì thực hiện chính sách sẽ có những phát sinh đòi
hỏi chủ thể thực thi chính sách phải bám sát yêu cầu, bám sát mục tiêu chính
sách hướng tới; kiên định với mục tiêu đề ra. Tuy nhiên, trước những phát
sinh, những bất cập (cả chủ quan và khách quan) thì chủ thể thực hiện chính
sách phải kịp thời có giải pháp khắc phục. Trong điều kiện và thẩm quyền có
thể, cơ quan hành chính nhà nước được phép sử dụng các phương pháp, mệnh
lệnh hành chính .. để đảm bảo các hoạt động được diễn ra đúng tiến độ, hiệu
qủa về mặt xã hội, về mặt kinh tế.
Tuy nhiên, cũng cần phải nói đến sự duy trì của chủ thể này sẽ được
các chủ thể khác cùng triển khai thực hiện trên nguyên tắc đồng bộ, bởi lẽ, có

19



như vậy thì việc thực thi chính sách mới có ý nghĩa; không gây ra sự khác biệt
giữa các địa phương, vùng miền.
1.2.5. Điều chỉnh chính sách tuyên truyền, phổ biến pháp luật
Ðiều chỉnh chính sách được thực hiện với cơ quan nhà nước có thẩm
quyền để chính sách phù hợp với yêu cầu quản lý và tình hình thực tế. Theo
quy định cơ quan nào ban hành chính sách thì cơ quan đó có quyền điều
chỉnh, bổ sung chính sách, nhưng trên thực tế việc điều chỉnh các biện pháp
cõ chế chính sách diễn ra rất năng động, linh hoạt vì thế cơ quan nhà nước các
ngành, các cấp, chủ động điều chỉnh biện pháp, cơ chế chính sách để thực
hiện có hiệu quả chính sách miễn là không làm thay đổi mục tiêu chính sách.
Một nguyên tắc cần phải chấp hành khi điều chỉnh chính sách là: Ðể
chính sách TTPBPL tiếp tục tồn tại chỉ được điều chỉnh các biện pháp, cõ chế
thực hiện mục tiêu, hoặc bổ sung hoàn thiện mục tiêu theo yêu cầu thực tế.
Nếu điều chỉnh làm thay đổi mục tiêu, nghĩa là làm thay đổi chính sách thì coi
như chính sách đó thất bại. Trong quá trình điều chỉnh chính sách, đồi hỏi vẫn
phải đi trên "hành lang pháp lý" cho phép. Bởi lẽ, hệ thống văn bản QPPL, hệ
thống đề án chính sách, kế hoạch .. điều chỉnh chính sách đều yêu cầu tính
pháp lý, tính chính xác.
1.2.6. Theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chính sách tuyên
truyền, phổ biến pháp luật
Ðôn đốc, theo dõi, kiểm tra là công cụ của quản lý. Theo dõi, kiểm tra
thực thic hính sách có thể phát hiện bất cập để kịp thời có giải pháp tháo gỡ;
theo dõi, kiểm tra có thể hỗ trợ kỹ thuật trong quá trình triển khai thực hiện để
tránh có những "lệch chuẩn" trong quá trình triển khai.
Qua phân tích tại phần trên cho thấy, việc thực hiện chính sách
TTPBPL diễn ra trên địa bàn rộng lớn, trong cả nước và do nhiều cơ quan, tổ
chức, cá nhân tham gia, các điều kiện về khác nhau, cũng như trình độ, năng
lực, tổ chức điều hành của các cán bộ, công chức trong các cơ quan nhà nước


20


×