Tải bản đầy đủ (.docx) (65 trang)

CƠ sở lí LUẬN về PHỐI hợp lực LƯỢNG CỘNG ĐỒNG TRONG CÔNG tác CHỦ NHIỆM lớp ở TRƯỜNG TRUNG học PHỔ THÔNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (237.2 KB, 65 trang )

CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ PHỐI HỢP LỰC LƯỢNG
CỘNG ĐỒNG TRONG CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM
LỚP Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG

1


Cơ sở lý luận
Trong hệ thống tổ chức của các trường phổ thông, đơn vị
cơ bản được tổ chức để giảng dạy và giáo dục HS (Học sinh)
là lớp học. Hình thức tổ chức dạy học, GD theo lớp được hình
thành từ thế kỉ XVI do nhà giáo dục Tiệp Khắc JA. Cômenxki
đề xướng. Mô hình lớp học được duy trì và ngày càng phát
triển mạnh mẽ ở khắp các nước trên thế giới. Không những
vậy, mô hình lớp học được phát triển và mở rộng, tùy thuộc
vào điều kiện thực tế, song bao giờ một lớp học vẫn cần người
quản lý. Để quản lý lớp học, nhà trường cử ra một trong
những GV (giáo viên) đang giảng dạy làm chủ nhiệm lớp.
GVCN (giáo viên chủ nhiệm) được hiệu trưởng nhà trường
lựa chọn từ những GV ưu tú có kinh nghiệm GD (Giáo dục),
có uy tín trong HS, được hội đồng nhà trường nhất trí phân
công chủ nhiệm lớp học xác định để thực hiện mục tiêu. Như
vậy, khi nói đến GVCN lớp là nói đến mặt quản lý và mặt
lãnh đạo học sinh của một lớp.
Trong tác phẩm “Phương pháp công tác chủ nhiệm lớp”
(NXB Giáo dục Matxcơva,1984), Bôn - đư - rép N.I. đã trình

2


bày những phương pháp cơ bản về cách thức thực hiện công


tác chủ nhiệm lớp ở các trường phổ thông.
Từ định hướng trên, các nước phát triển đã chỉ ra những
nội dung GD cho HS trung học mà có liên quan đến công tác
chủ nhiệm lớp. Những nội dung GD học sinh như: GD kĩ
năng sống, GD những giá trị sống, GD hướng nghiệp… Theo
quan điểm của UNESCO đã cho rằng GD trung học là giai
đoạn mà thế hệ trẻ lựa chọn cho mình những giá trị cần thiết
cho cuộc sống cũng như con đường chuẩn bị bước vào hoạt
động nghề nghiệp và cuộc sống sau này. Đặc biệt, cuốn tài
liệu tập huấn kĩ năng cơ bản trong tham vấn (Unicef 2005)
cũng đưa ra những cách thức tham vấn cho HS lứa tuổi thanh
niên. Như vậy, người GV cần tổ chức các họat động khác
nhau để HS có thể tham gia được dễ dàng và học được rất
nhiều thứ từ đó.
Nghiên cứu về công tác chủ nhiệm lớp được tác giả
Nguyễn Thanh Bình quan tâm sâu sắc với các công trình:
“Công tác chủ nhiệm lớp ở trường THPT”, đề tài mã số
SPHN-09-465NCSP (2010) và “Một số vấn đề trong công tác
chủ nhiệm lớp ở trường THPT hiện nay” (NXB Đại học sư
phạm, 2011). Ở đây các tác giả đề cập đến những vấn đề cơ
3


bản của công tác chủ nhiệm lớp, những nội dung trong công
tác chủ nhiệm lớp ở trường THPT hiện nay từ góc nhìn của
chuẩn nghề nghiệp GV trung học.
Ngoài ra còn có nhiều nhà khoa học cũng quan tâm đến
công tác chủ nhiệm lớp với các công trình như: Nguyễn Dục
Quang, Lê Thanh Sử, Nguyễn Thị Kỷ, “Những tình huống
giáo dục HS của người GVCN”, NXB ĐHQG Hà Nội, 2000;

Hà Nhật Thăng (chủ biên), “Phương pháp công tác của người
GVCN trường THPT”, NXB ĐHQG Hà Nội, 2001; Hà Nhật
Thăng, Nguyễn Dục Quang, Nguyễn Thị Kỷ, “Công tác
GVCN ở trường phổ thông”, NXBGD, 1998; Bộ Giáo dục và
Đào tạo, “Kỷ yếu hội thảo Công tác GVCN ở trường phổ
thông”, NXBGD, 2010.
Các tác giả còn đi sâu vào nghiên cứu những khía cạnh
khác có liên quan đến công tác chủ nhiệm như: Nguyễn
Thanh Bình với tác phẩm “Giáo dục kĩ năng sống” (NXB Đại
học sư phạm, HN 2007); Nguyễn Thị Kim Dung và cộng sự
có bài viết “Hướng dẫn tổ chức họat động giáo dục ngoài giờ
lên lớp” (tài liệu dành cho lớp 11) ....Tác giả Nguyễn Khắc
Hiếu (2005) cũng nghiên cứu về công tác chủ nhiệm lớp với
tên đề tài “Một số biện pháp tăng cường quản lý của hiệu
4


trưởng đối với công tác chủ nhiệm lớp trong các trường
THPT tỉnh Bắc Ninh”.
Tại Hải Phòng, công tác chủ nhiệm lớp ở trường THPT
cũng được Sở GD&ĐT Hải Phòng rất quan tâm, chỉ đạo sát
sao và đưa vào nhiệm vụ các năm học. Đặc biệt Sở GD&ĐT
Hải Phòng đã tổ chức các hội thảo, hội nghị bàn về công tác
chủ nhiệm lớp dưới sự tham dự của các ban ngành, sở như:
Hội thảo Vai trò của công tác chủ nhiệm trong trường phổ
thông, năm 2006; Hội nghị Đổi mới công tác chủ nhiệm lớp
trường trung học, năm 2009… đã được hầu hết các trường
phổ thông trong thành phố tham gia rất tích cực. Nhiều bài
viết, tham luận của lãnh đạo các trường và của chính các đồng
chí giáo viên trực tiếp làm công tác chủ nhiệm đã nêu lên tầm

quan trọng của công tác chủ nhiệm lớp, thực trạng, những
kinh nghiệm quý báu được đúc kết trong quá trình làm công
tác chủ nhiệm như: Tầm quan trọng của công tác chủ nhiệm
lớp của Trương Thị Yến; Chỉ đạo công tác chủ nhiệm ở
trường THPT Thái Phiên của Đào Thị Huệ; Trường
THPT Nguyễn Trãi với công tác bồi dưỡng giáo viên
chủ nhiệm của Lê Hoàng Việt; Công tác chủ nhiệm với
việc xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực của

5


Trần Thị Hương Duyên…Bên cạnh đó, có sự quan tâm đóng
góp của lực lượng cộng đồng như Ban thanh thiếu của thành
phố, Ban Tuyên giáo...
Tóm lại, qua nghiên cứu các tư tưởng, quan điểm, về
phối hợp các lực lượng cộng đồng trong công tác CNL (Chủ
nhiệm lớp) trong các trường THPT của các tác giả, tác giả
nhận thấy: công tác CNL trong các trường THPT rất quan
trọng việc giáo dục đạo đức, hướng nghiệp, giáo dục giá trị và
kỹ năng sống, tư vấn học đường… cho học sinh; thiết lập và
duy trì có hiệu quả mối quan hệ giữa GVCN lớp với giáo viên
bộ môn, các đoàn thể xã hội và gia đình học sinh trong việc
phụ đạo học sinh yếu kém, bồi dưỡng học sinh giỏi. Tuy
nhiên, những nghiên cứu về phối hợp các lực lượng cộng
đồng trong công tác chủ nghiệm lớp ở trường THPT Hùng
Thắng, huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng một cách toàn
diện hệ thống vẫn còn là vấn đề mới mẻ. Do vậy, thực hiện đề
tài sẽ không trùng lắp, có ý nghĩa cần thiết góp phần nâng cao
hiệu quả phối hợp các lực lượng cộng đồng trong công tác

chủ nghiệm lớp ở trường THPT Hùng Thắng, huyện Tiên
Lãng, thành phố Hải Phòng nói riêng và các trường THPT nói
chung.

6


- Một số khái niệm cơ bản
- Phối hợp
Theo nghĩa đơn giản “phối hợp” có nghĩa là tổ chức hoạt
động cho hai hoặc nhiều cơ quan, tổ chức.
Phối hợp là hoạt động cùng nhau của hai hay nhiều cá
nhân, tổ chức để hỗ trợ cho nhau thực hiện một công việc
chung.
Xét từ khía cạnh phối hợp trong công tác giáo dục, phối
hợp là một phương thức, một hình thức, một quy trình kết hợp
hoạt động của các cơ quan, tổ chức lại với nhau để bảo đảm
cho các cơ quan, tổ chức này thực hiện được đầy đủ, hiệu quả
các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao, nhằm đạt
được các lợi ích chung. Phối hợp tồn tại trong suốt quá trình
quản lý, từ hoạch định chính sách, xây dựng thể chế, đến việc
tổ chức thực thi cơ chế, chính sách, pháp luật, ở đâu có quản
lý thì ở đó có nhu cầu phối hợp. Mục tiêu cuối cùng của phối
hợp là tạo ra sự thống nhất, đồng thuận, bảo đảm chất lượng
và hiệu quả trong quản lý. Nói khác đi, phối hợp là phương
thức thực hiện các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các
chủ thể giáo dục trong hoạt động giáo dục.
7



- Lực lượng cộng đồng
Theo Từ điển Đại học Oxford: “Cộng đồng là một nhóm
người có cùng tín ngưỡng, chủng tộc, cùng loại hình nghề
nghiệp, hoặc cùng mối quan tâm”; “Cộng đồng là một tập thể
cùng chia sẻ, hoặc có tài nguyên chung, hoặc có tình trạng
tương tự nhau về một số khía cạnh nào đó”.
Có thể phân ra 2 loại cộng đồng:
- Cộng đồng địa lý bao gồm những người dân cư trú
trong cùng một địa bàn có thể có chung các đặc điểm văn hoá
xã hội và có thể có mối quan hệ ràng buộc với nhau. Họ cùng
được áp dụng chính sách chung.
- Cộng đồng chức năng gồm những người có thể cư trú
gần nhau hoặc không gần nhau nhưng có lợi ích chung. Họ
liên kết với nhau trên cơ sở nghề nghiệp, sở thích, hợp tác hay
hiệp hội có tổ chức (Tổ chức liên hiệp thế giới NGO).
Những người chỉ sống gần nhau, không có sự tổ chức lại
đơn thuần chỉ là sự tập trung của một nhóm các cá nhân và
không thực hiện chức năng như một thể thống nhất thì không
được gọi là cộng đồng.

8


Khi nói đến khái niệm cộng đồng, cần chú ý đến các yếu tố
cơ bản sau đây:
- Cộng đồng trước hết là một tập hợp người;
- Sự tương quan giữa các cá nhân trong cộng đồng rất chặt
chẽ và mật thiết;
- Mọi thành viên trong cộng đồng đều có ý thức đoàn
kết, có tình cảm gắn bó với nhau, cùng phấn đấu vì những lợi

ích và nguyện vọng chung;
- Có sự phấn đấu của mỗi thành viên trong sự phát triển
và gìn giữ chung về vật chất và tinh thần.
Từ nghiên cứu trên có thể đưa ra khái niệm cộng đồng
là: cộng đồng là một tập thể có tổ chức, bao gồm các cá nhân
con người sống chung ở một địa bàn nhất định, có chung một
đặc tính xã hội hoặc sinh học nào đó và cùng chia sẻ với nhau
một lợi ích vật chất hoặc tinh thần nào đấy” [13]
Lực lượng cộng đồng là cộng đồng người sống trong cùng
một địa bàn/khu vực địa lí xác định, có chung các đặc điểm văn
hoá xã hội, có mối quan tâm chung và có sự ràng buộc lẫn
nhau, cùng được áp dụng chính sách chung [18]

9


Thành phần lực lượng cộng đồng bao gồm:
- Cộng đồng dân cư;
- Cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội, tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã
hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức nghề nghiệp, tổ
chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân.
Mối quan hệ giữa trường học và lực lượng cộng đồng là
mối quan hệ tương hỗ, tác động qua lại với nhau. Việc tăng
cường mối quan hệ này sẽ góp phần thực hiện mục tiêu giáo
dục, nâng cao chất lượng GD&ĐT. Sự tham gia của lực lượng
cộng đồng vào quá trình giáo dục của nhà trường tạo cơ hội
cho việc giáo dục và đào tạo của nhà trường gắn với thực tế
cuộc sống, giúp học sinh có thể tiếp cận với sự đa dạng của
đời sống cộng đồng và xã hội, gắn cuộc sống của các em với
các hoạt động và phát triển cộng đồng. Gắn nhà trường với

thực tiễn cuộc sống.
- Công tác chủ nghiệm
Trong trường học, lớp học là đơn vị cơ bản được thành
lập để tổ chức giảng dạy và GD học sinh. Để quản lý GD học

10


sinh trong lớp, nhà trường phân công một trong những GV
đang giảng dạy có năng lực chuyên môn tốt, có kinh nghiệm
làm công tác quản lý GD học sinh, có tinh thần trách nhiệm
cao và lòng nhiệt tình trong công tác, có uy tín với HS và
đồng nghiệp làm chủ nhiệm lớp. Đó là giáo viên chủ nhiệm.
Hiệu trưởng không thể quản lí trong lớp học, nắm vững
từng học sinh (trừ trường hợp đặc biệt), Hiệu trưởng thường
giao trách nhiệm cho GVCN là “Hiệu trưởng nhỏ”. Do vậy,
nhắc đến công tác CNL là nhắc đến công việc, chức năng,
nhiệm vụ của người giáo viên CNL. Công tác CNL là công
tác giáo dục quản lí toàn diện một lớp học bao gồm: quản lí
nhân sự như: Số lượng, tuổi tác, giới tính, hoàn cảnh gia đình,
trình độ học sinh về học lực và đạo đức,... đồng thời phải đưa
ra dự báo, vạch được một kế hoạch giáo dục phù hợp với thực
trạng để dắt dẫn học sinh thực hiện kế hoạch đó, khai thác hết
những điều kiện khách quan, chủ quan trong và ngoài nhà
trường đạt tới mục tiêu giáo dục.
- Phối hợp lực lượng cộng đồng và nhà trường trong
công tác chủ nhiệm lớp

11



Phối hợp nhà trường và cộng đồng trong việc công tác
CNL là quá trình vận động bao gồm động viên, khuyến khích
và thu hút cộng đồng tham gia xây dựng và phát triển giáo
dục và tổ chức mọi thành viên trong cộng đồng tham gia vào
công tác CNL từ việc tìm hiểu từng đối tượng học sinh đến
lập kế hoạch chủ nhiệm lớp và xây dựng lớp thành một tập
thể HS vững mạnh và tổ chức các hoạt động giáo dục toàn
diện.
- Một số vấn đề về công tác chủ nhiệm lớp trong
trường THPT
- Vị trí, nhiệm vụ của giáo dục THPT trong hệ thống
giáo dục quốc dân
Trường THPT là cơ sở giáo dục nối tiếp cấp trung học
cơ sở thuộc bậc trung học của hệ thống giáo dục quốc dân.
Cấp THPT gồm 3 năm học từ lớp 10 đến lớp 12. Đây là cấp
học vừa trực tiếp tạo nguồn cho bậc cao đẳng, đại học nói
riêng, vừa góp phần quan trọng vào việc đào tạo nguồn nhân
lực. Do đó trường THPT có mục tiêu, nội dung, phương pháp
giáo dục mang tính phổ thông cơ bản, toàn diện, với những
đặc thù riêng.

12


- Mục tiêu giáo dục của nhà trường trung học phổ thông
Mục tiêu của giáo dục THPT theo điều 27 của Luật Giáo
dục nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2005:
“Giáo dục THPT nhằm giúp học sinh củng cố và phát triển
những kết quả của giáo dục THPT, có học vấn phổ thông ở

trình độ cơ sở và những hiểu biết ban đầu về kỹ thuật hướng
nghiệp để tiếp tục học TCCN, CĐ, hay ĐH hoặc đi vào cuộc
sống lao động”.[3, tr,13]
Mục tiêu của giáo dục phổ thông là giúp học sinh phát
triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ
năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và
sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội
chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân; chuẩn
bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao
động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Giáo dục trung học phổ thông nhằm giúp học sinh củng
cố và phát triển những kết quả của giáo dục trung học cơ sở,
hoàn thiện học vấn phổ thông và có những hiểu biết thông
thường về kỹ thuật và hướng nghiệp, có điều kiện phát huy
năng lực cá nhân để lựa chọn hướng phát triển, tiếp tục học

13


đại học, cao đẳng, trung cấp, học nghề hoặc đi vào cuộc sống
lao động. Bao gồm những phẩm chất năng lực chủ yếu cần
hình thành cho học sinh THPT để góp phần vào quá trình đào
tạo nguồn nhân lực phục vụ cho giai đoạn công nghiệp hoá hiện đại hoá và hội nhập quốc tế.
Mục tiêu chung của bậc THPT trong giai đoạn mới là
“Xây dựng bậc học lành mạnh, đậm đà bản sắc dân tộc, phát
triển bền vững và về cơ bản đạt trình độ tiên tiến”.
Chuẩn bị các điều kiện để triển khai đổi mới chương
trình sách giáo khoa, đổi mới phương pháp dạy và học; dạy
đủ các bộ môn bắt buộc và tự chọn; xây dựng và đánh giá
trường THPT theo chuẩn quốc gia; xây dựng các điều kiện

đảm bảo cho việc giáo dục đào tạo học sinh về các mặt: đức,
trí, thể, mỹ và các kỹ năng cơ bản.
Phát triển toàn diện con người là mục tiêu chung và lâu
dài của giáo dục phổ thông. Con người phát triển toàn diện có
đầy đủ các phẩm chất và năng lực về đạo đức, trí tuệ, thể chất,
thẩm mỹ và phải có kỹ năng cơ bản để tiếp tục học lên, sẵn
sàng tham gia xây dựng và bảo vệ tổ quốc.

14


Với mục tiêu trên, nội dung giáo dục THPT phải đảm
bảo cho học sinh có hiểu biết cần thiết ban đầu về kỹ thuật và
hướng nghiệp, học sinh có những hiểu biết phổ thông cơ bản
về tiếng Việt, toán, lịch sử dân tộc, kiến thức khác về khoa
học tự nhiên, pháp luật, tin học, ngoại ngữ…
- Vai trò, nhiệm vụ của nhà trường trung học phổ thông
Vai trò của giáo dục THPT là bậc học phổ cập nhằm
nâng cao mặt bằng dân trí, chuẩn bị đào tạo nguồn nhân lực
cho công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.
Nhiệm vụ và quyền hạn của trường trung học
Tổ chức giảng dạy, học tập và các hoạt động giáo dục
khác của Chương trình giáo dục phổ thông.
Quản lý giáo viên, cán bộ, nhân viên; tham gia tuyển
dụng và điều động giáo viên, cán bộ, nhân viên.
Tuyển sinh và tiếp nhận học sinh, vận động học sinh đến
trường, quản lý học sinh theo quy định của Bộ Giáo dục và
Đào tạo.
Thực hiện kế hoạch phổ cập giáo dục trong phạm vi
cộng đồng.

15


Huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực cho hoạt động
giáo dục. Phối hợp với gia đình học sinh, tổ chức và cá nhân
trong hoạt động giáo dục.
Quản lý, sử dụng và bảo quản cơ sở vật chất, trang thiết
bị theo quy định của Nhà nước.
Tổ chức cho giáo viên, nhân viên, học sinh tham gia hoạt
động xã hội.
Tự đánh giá chất lượng giáo dục và chịu sự kiểm định
chất lượng giáo dục của cơ quan có thẩm quyền kiểm định
chất lượng giáo dục.
Thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của
pháp luật.
- Vai trò phối hợp lực lượng cộng đồng trong công tác
chủ nhiệm lớp
Hiện nay, công cuộc đổi mới đất nước bước đầu đạt được
những kết qủa đáng phấn khởi, làm thay đổi bộ mặt xã hội.
Những yếu tố tích cực có tác dụng định hướng và phát triển
nhân cách thế hệ trẻ. Song bên cạnh những mặt tích cực, nền
kinh tế thị trường không tránh khỏi những mặt tiêu cực, đang

16


hằng ngày, hằng giờ len lỏi vào thế hệ trẻ chúng ta. Chẳng hạn
như: các tệ nạn xã hội có nguy cơ phát triển, đặc biệt là tệ nạn
ma túy, những yếu tố độc hại của sách báo, phim ảnh. Chính sự
phát triển của xã hội làm cho học sinh ngày nay cũng xuất hiện

một bộ phận thói quen hưởng thụ, lười học tập và lao động...
Chính mặt trái của nền kinh tế thị trường cũng làm cho
môi trường xã hội nảy sinh những quan hệ phức tạp, ảnh
hưởng đến nhận thức giá trị, tư tưởng, tính cách và hành vi
của thế hệ trẻ, các em dễ bị lôi kéo, bị kích động bởi những
thói hư, tật xấu. Nó đã ảnh hưởng đến công tác giáo dục của
nhà trường, đã ít nhiều làm cho công tác chủ nhiệm của người
giáo viên gặp khó khăn. Do vậy, bên cạnh việc khai thác và
tận dụng những yếu tố tích cực của xã hội thì chúng ta cần
phải thường xuyên ngăn ngừa và cải tạo những yếu tố tiêu
cực, không để chúng ảnh hướng đến học sinh và nhà trường.
Hơn lúc nào hết, nhà trường nói chung và giáo viên chủ
nhiệm nói riêng cần phải thực hiện tốt nhiệm vụ phối hợp
giữa nhà trường và gia đình học sinh nhằm thống nhất tác
động giáo dục của đôi bên đến học sinh, để cùng nhau xây
dựng thế hệ trẻ phát triển một cách toàn diện.

17


Có thể nói công tác CNL là người quyết định mọi sự
phát triển và tiến bộ của lớp, người chịu ảnh hưởng nhiều nhất
về mọi hoạt động của học sinh (HS). Không những thế, đội
ngũ GVCN còn là một lực lượng hỗ trợ đắc lực cho hiệu
trưởng, sẽ “nối thêm đầu, gắn thêm mắt, nối dài tay và mở
rộng vòng tay” bao quát mọi hoạt động của nhà trường. Ngày
nay dưới sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường,
trong thời kỳ hội nhập của đất nước, vì gánh nặng về kinh tế
gia đình mà phụ huynh hoc sinh trông chờ chủ yếu vào giáo
viên chủ nhiệm trong việc nuôi dạy con. Sự du nhập nền văn

hoá thời mở cửa, ảnh hưởng không ít đến tâm sinh lí học sinh.
Bên cạnh đó, sự đua đòi chạy theo mốt sống hiện đại của một
bộ phận học sinh, vẫn còn hiện tượng xử lý những học sinh vi
phạm chưa dứt khoát và đồng bộ. Sự thiếu quan tâm của một
đại bộ phận phụ huynh học sinh vì lo gánh nặng kinh tế gia
đình cộng thêm sự bùng nổ công nghệ thông tin làm cho một
bộ phận học sinh sử dụng Internet sai mục đích giáo dục. Một
số học sinh ý thức tự giác học tập, rèn luyện của HS chưa tốt,
còn ỷ lại.

18


Trong vậy, công tác CNL có ý nghĩa quan trọng trong
không chỉ đối với nhà trường mà còn đối với sự phát triển
toàn diện của học sinh.
Học sinh THPT là những em ở lứa tuổi cuối thiếu niên
và đầu thanh niên. Lứa tuổi đang khẳng định mình, giàu ước
mơ, bước đầu có kinh nghiệm sống, có khả năng tự quản, tổ
chức hoạt động tập thể… Tuy nhiên, vẫn là lứa tuổi mong
muốn lớn hơn khả năng, muốn khẳng định nhưng chưa đủ về
mọi mặt kinh nghiệm, tri thức. Khi có thành công thì dễ tự tin
quá mức, ngược lại gặp những thất bại đầu tiên dễ dao động,
lòng tự tin bị giảm sút… Xuất phát từ những đặc điểm đó về
tâm lý lứa tuổi, việc định hướng giáo dục đối với học sinh
trung học là rất cần thiết.
Căn cứ vào đặc điểm, điều kiện của lớp, của nhà trường,
cộng đồng, gia đình học sinh… giáo viên chủ nhiệm tổ chức
phối hợp với các lực lượng xã hội nhằm tạo ra sự thống nhất,
có tác dụng đặc biệt quan trọng.

Liên kết các lực lượng xã hội trong giáo dục thế hệ trẻ là
một nguyên tắc nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục, để thực
hiện tốt chức năng phối hợp lực lượng xã hội không ai thực

19


hiện bằng giáo viên chủ nhiệm. Phối hợp các lực lượng xã hội
không chỉ dừng ở nhận thức, mà quan trọng hơn cả là xây
dựng được chương trình kế hoạch hoạt động nhằm thống nhất,
khép kín quá trình hoạt động, không gian, thời gian tác động
đến học sinh của lớp chủ nhiệm.
- Vai trò, nhiệm vụ của giáo viên chủ nhiệm lớp
-Vai trò của GVCN lớp
Trong quá trình làm việc, GVCN là người tổ chức các
hoạt động GD học sinh trong lớp. Vai trò tổ chức của GVCN
được thể hiện trong các việc: i) - Thành lập bộ máy tự quản
của lớp; ii) - Phân công trách nhiệm cho từng cá nhân và cho
các tổ, nhóm; iii) - Tổ chức các hoạt động của lớp theo mục
tiêu GD đã được xây dựng; iv) - Các hoạt động của lớp thực
hiện theo năm mặt toàn diện, GVCN phải quán xuyến tất cả
các hoạt động của lớp một cách chặt chẽ. Chất lượng học tập
và tu dưỡng đạo đức của HS trong lớp phụ thuộc rất nhiều vào
khả năng tổ chức GD của GVCN.
GVCN là người cố vấn đắc lực của Chi đoàn Thanh niên
(Chi đội Thiếu

20



niên tiền phong) trong việc tổ chức sinh hoạt tập thể. Ở
đây, GVCN làm cố vấn cho các tổ chức đoàn thể việc lập kế
hoạch công tác, thành lập các Ban chấp hành Chi đoàn (Chi
đội), tổ chức các mặt hoạt động, sinh hoạt các đoàn thể và phối
hợp với các hoạt động của tập thể lớp nhằm thực hiện mục tiêu
giáo dục chung.
GVCN giữ vai trò chủ động trong việc phối hợp các lực
lượng GD: Gia đình, nhà trường, xã hội là ba lực lượng GD,
trong đó nhà trường là lực lượng GD có tính chất chuyên
nghiệp. GVCN là người giữ vai trò chủ động trong việc phối
hợp các lực lượng GD. Do vậy, GVCN phải là người đứng ra
điều phối và kết hợp cùng các lực lượng GD để tổ chức các
hoạt động GD một cách có hiệu quả nhất.
Năng lực chuyên môn, đạo đức, uy tín và kinh nghiệm
công tác của GVCN là điều kiện quan trọng nhất cho việc tổ
chức, phối hợp thành công các hoạt động GD học sinh của
lớp.
- Nhiệm vụ của GVCN
Tại điều 31, Điều lệ trường trung học cơ sở, trường trung
học phổ thông và trường phổ thông có nhiều cấp học, GVCN
21


trước hết phải là GV giảng dạy bộ môn, đã được quy định rõ
như sau:
“1. GV bộ môn có những nhiệm vụ sau đây: a) Dạy học
và GD theo chương trình, kế hoạch GD, kế hoạch dạy học của
nhà trường theo chế độ làm việc của GV do Bộ trưởng Bộ
GD&ĐT quy định; QL học sinh trong các hoạt động GD do
nhà trường tổ chức; tham gia các hoạt động của tổ chuyên

môn; chịu trách nhiệm về chất lượng, hiệu quả GD; tham gia
nghiên cứu khoa học SP ứng dụng; b) Tham gia công tác phổ
cập GD ở địa phương; c) Rèn luyện đạo đức, học tập văn hoá,
bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ để nâng cao chất lượng,
hiệu quả giảng dạy và GD; vận dụng các phương pháp dạy
học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo,
rèn luyện PP tự học củaHS; d) Thực hiện Điều lệ nhà trường;
thực hiện quyết định của Hiệu trưởng, chịu sự kiểm tra, đánh
giá của Hiệu trưởng và các cấp QLGD; đ) Giữ gìn phẩm chất,
danh dự, uy tín của nhà giáo, gương mẫu trước HS; thương
yêu, tôn trọng HS, đối xử công bằng với HS, bảo vệ các
quyền và lợi ích chính đáng của HS; đoàn kết, giúp đỡ đồng
nghiệp; tạo dựng môi trường học tập và làm việc dân chủ,
thân thiện, hợp tác, an toàn và lành mạnh; e) Phối hợp với

22


GVCN, các GV khác, gia đình HS, Đoàn Thanh niên Cộng
sản Hồ Chí Minh, Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh
trong dạy học và GD học sinh; g) Thực hiện các nhiệm vụ
khác theo quy định của pháp luật.
Ngoài các nhiệm vụ quy định tại khoản 1 của Điều này,
GVCN còn có những nhiệm vụ sau đây: a) Xây dựng kế
hoạch các hoạt động GD thể hiện rõ mục tiêu, nội dung, PP
GD bảo đảm tính khả thi, phù hợp với đặc điểm HS, với hoàn
cảnh và điều kiện thực tế nhằm thúc đẩy sự tiến bộ của cả lớp
và của từng HS; b) Thực hiện các hoạt động GD theo kế
hoạch đã xây dựng; c) Phối hợp chặt chẽ với gia đình HS, với
các GV bộ môn, Đoàn thanh niên Cộng sản HCM, Đội Thiếu

niên Tiền phong HCM, các tổ chức xã hội có liên quan trong
việc hỗ trợ, giám sát việc học tập, rèn luyện, hướng nghiệp
của HS lớp mình chủ nhiệm và góp phần huy động các nguồn
lực trong cộng đồng phát triển nhà trường; d) Nhận xét, đánh
giá và xếp loại HS cuối kỳ và cuối năm học; đề nghị khen
thưởng và kỷ luật HS; đề nghị danh sách HS được lên lớp
thẳng, phải kiểm tra lại, phải rèn luyện thêm về hạnh kiểm
trong kỳ nghỉ hè, phải ở lại lớp; hoàn chỉnh việc ghi sổ điểm

23


và học bạ HS; đ) Báo cáo thường kỳ hoặc đột xuất về tình
hình của lớp với Hiệu trưởng.”
- Nội dung phối hợp lực lượng cộng đồng trong công
tác chủ nhiệm lớp ở trường THPT
- Mục tiêu phối hợp
Thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ giáo dục, đào tạo toàn
diện học sinh trong nhà trường bậc trung học phổ thông
Nâng cao vai trò, trách nhiệm của từng giáo viên làm
công tác chủ nhiệm lớp đặc biệt trong công tác tìm hiểu, nắm
bắt hoàn cảnh học sinh; tư vấn kịp thời cho học sinh.
Tổ chức thi đua tích cực giữa các khối lớp, giữa các giáo
viên chủ nhiệm nhằm nâng cao hiệu quả quản lí và giáo dục
học sinh.
Tổ chức phối hợp giữa Nhà trường, Đoàn TN, Hội
LHTN, Công Đoàn, GVCN, Ban nề nếp, phụ huynh học
sinh trong công tác giáo dục học sinh, phối hợp giữa nhà
trường với các xã, phường thị trấn và các lực lượng ngoài
nhà trường để tăng cường công tác đảm bảo an ninh trật tự

và quản lý học sinh.

24


Xây dựng mối liên hệ giữa Nhà trường và Cộng đồng;
Nhà trường chia sẻ trách nhiệm với cộng đồng để thúc
đẩy và tạo điều kiện tối ưu cho công tác CNL. Công tác phối
hợp giữa nhà trường và cộng đồng có tác động phát huy được
sức mạnh tổng hợp và huy động được các nguồn lực trong xã
hội tham gia ngày càng tích cực vào sự nghiệp giáo dục và
đào tạo;
Cha mẹ thường xuyên nắm bắt được tình hình ở trường,
lớp của con trên cơ sở đó có biện pháp hỗ trợ con em phát huy
các điểm tốt hoặc kịp thời ngăn chặn, điều cỉnh, sửa chữa các
điểm hạn chế trong quá trình học tập, giáo dục tại nhà trường.
Giáo viên có thêm hiểu biết về học sinh, nhất là các em
có hoàn cảnh khó khăn, từ đó có phương pháp giáo dục phù
hợp, toàn diện và có định hướng đúng để quan tâm giúp đỡ
được nhiều hơn đối với từng cháu trong từng hoàn cảnh khác
nhau.
Cộng đồng nhận thấy vai trò trách nhiệm của mình, tích
cực hỗ trợ tạo môi trường thuận lợi giúp đỡ cho nhà trường,
gia đình để các học sinh được phát triển tốt hơn.

25


×