Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (179.29 KB, 31 trang )

CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI.
2.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN:
2.1.1. Khái niệm, đặc điểm và các loại hình tín dụng ngân hàng:
2.1.1.1. Khái niệm:
Tín dụng là quan hệ vay mượn dưới dạng tiền tệ có hoàn trả gốc và lãi giữa người có vốn
( Ngân hàng, TCTD) và người thiếu vốn ( tổ chức, cá nhân).Theo nghĩa nguyên thủy của khái niệm
tín dụng (credit) là tin mà đưa tiền cho sử dụng. Như vậy tín dụng phụ thuôc rất nhiều chữ tin hay
chữ tín ở người vay tiền. Theo nghĩa rộng, chữ tín này bao hàm cả năng lực tài chính và sự sẵn sàng
trả tiền của người đi vay hay không.
Theo các nhà kinh tế, tín dụng là một phạm trù kinh tế đã tồn tại qua nhiều hình thái kinh tế xã
hội. Tín dung hình thành và phát triển cùng với quá trình hình thành và phát triển của nền sản xuất
hàng hóa. Tuy nhiên, dưới những góc độ khác nhau, các nhà kinh tế đưa ra những định nghĩa khác
nhua về tín dụng.
Khi nghiên cứu về tiền tệ, tín dụng và ngân hàng trong nền sản xuất TBCN, C.Mác đã chỉ rõ:
“Tín dụng là sự tín nhiệm ít nhiều có căn cứ đã khiến 1 người này giao cho 1 người khác 1 số tư bản
nào đó, dưới hình thái tiền hoặc dưới hình thái hàng hóa đáng giá 1 số tiền nhất định nào đó. Số tiền
này được trả lại trong thời gian nhất định. Từ đó theo C.Mác điểm tất yếu của sự luân chuyển ( trở
về) điểm xuất phát của đồng tiền không chỉ giữ được nguyên vẹn giá trị mà nó lại đồng thời lớn lên
trong quá trình vận động.
Theo tác giả Lê Văn Tề, trong quyển Tiền tệ, tín dụng và ngân hàng cho rằng: “ Tín dụng là
quan hệ kinh tế vay mượn trên cơ sở lòng tin của cả người cho vay và người đi vay”.
Dù được định nghĩa dưới nhiều góc độ khác nhau nhưng bản chất của tín dụng được thể hiện
là quan hệ chuyển nhượng quyền sử dụng vốn và người có vốn dựa trên cơ sở lòng tin. Biểu hiện bề
mặt của quan hệ tín dụng là sự vận động lượng giá trị vốn tín dụng qua các giai đoạn: phân phối vốn
tín dụng, sử dụng vốn tín dụng và hoàn trả vốn tín dụng. Sự vận động của lượng giá trị vốn tín dụng
khi quay về điểm xuất phát luôn phải đảm bảo giá trị và giá trị tăng thêm dưới hình thức lợi tức
thông qua cơ chế điều tiết lãi suất.
Như vậy, ta có thể khái quát như sau: “Tín dụng là quan hệ kinh tế gắn với quá trình tạo lập và
sử dụng quỹ tín dụng theo nguyên tắc hoàn trả nhằm thỏa mãn nhu cầu vốn phát triển kinh tế xã
hội”.
Trong nền kinh tế thị trường, tín dụng ngân hàng được coi là hình thức tín dụng phát triển, giữ


vị trí chủ đạo trong hệ thống tín dụng. Đối với ngân hàng nghiệp vụ tín dụng là nghiệp vụ chính yếu,
quyết định sự tồn tại và phát triển của ngân hàng.
Tín dụng ngân hàng được định nghĩa là các quan hệ vay mượn vốn tiền tệ phát sinh giữa các
ngân hàng với các chủ thể kinh tế khác trong nền kinh tế theo nguyên tắc tín dụng. Trong đó, đối
tượng của tín dụng ngân hàng là vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong xã hội. Ngân hàng thực hiện
nhiệm vụ đi vay vốn của những người có vốn để cho vay những người cần vốn, được hưởng lợi
nhuận, theo sự điều tiết của cơ chế thị trường và được pháp luật bảo vệ.
2.1.1.2. Đặc điểm của tín dụng ngân hàng:
Tín dụng ngân hàng huy động vốn và cho vay đều thực hiện dưới hình thức tiền tệ.
Hoạt động tín dụng của ngân hàng bao gồm hai quá trình tạo lập và sử dụng quỹ tín dụng hay
còn gọi là hoạt động huy động vốn và cho vay. Trong quan hệ tín dụng, các ngân hàng bằng cơ chế
thích hợp huy động các nguồn tài chính tạm thời nhàn rỗi trong xã hội để tạo ra quỹ tiền tệ của mình.
Đồng thời với quỹ tiền tệ này , ngân hàng sẽ đáp ứng cho nhu cầu về vốn cho quá trình phát triển
kinh tế. Như vậy tiền chính là đối tượng kinh doanh của mỗi ngân hàng đây chính là điểm dặc biệt
phân biệt giữa ngành ngân hàng và các ngành sản xuất kinh doanh khác.
Trong tín dụng ngân hàng, các ngân hàng đóng vai trò là tổ chức trung gian tài chính trong
quá trình huy động vốn và cho vay vốn.
Đăc trưng quan trọng nhất là tín dụng ngân hàng chỉ thay đổi quyền sử dụng mà không thay
đổi quyền sở hữu vốn tín dụng. Những người thừa vốn không biết đầu tư vào đâu nên đã nhượng
quyền sử dụng vốn cho ngân hàng. Ngân hàng tuy là người mắc nợ nhưng các ngân hàng lại là người
chủ động ra điều kiện vay. Hàng kì ngân hàng phải thanh toán 1 phần phí sử dụng nguồn vốn gọi đó
là lãi và có trách nhiệm hoàn trả đủ gốc khi đến hạn. Sau khi đã huy động được vốn ngân hàng sẽ
tiến hành đưa nguồn tiền đó vào lưu thông bằng cách cho những người có nhu cầu về vốn vay để thu
về 1 phần lãi gọi là phí cho vay. Khoản phí cho vay này bao gồm phần phí phải chi trả cho nguồn
vốn mà ngân hàng đã huy động và khoản lãi theo quy định của từng ngân hàng. Khi ngân hàng
chuyển giao quyền sử dụng vốn cho những người có nhu cầu về vốn, ngân hàng sẽ là người chủ
động ra điều kiện cho vay. Người đi vay cũng phải có trách nhiệm trả cả vốn và lãi theo hợp đồng đã
kí với ngân hàng.
Qúa trình vận động và phát triển của tín dụng ngân hàng không hoàn toàn phù hợp với quy mô
phát triển sản xuất hàng hóa.

Vốn tín dụng ngân hàng tham gia vào quá trình sản xuất hàng hóa. Nhưng trong nhiều trường
hợp vốn tín dụng ngân hàng không tham gia vào quá trình sản xuất và lưu thông hàng hóa mà chỉ
tham gia vào những hoạt động phi sản xuất vật chất như: cho vay tái chiết khấu hoặc cho vay tái cầm
cố các loại công trái quốc gia, các loại trái khoán của chính phủ. Những trường hợp trên tín dụng
ngân hàng có gia tăng nhưng quy mô sản xuất hàng hóa không tăng. Trường hợp khác sản xuất hàng
hóa tăng nhưng vốn tín dụng không đáp ứng kịp, mâu thuẫn này diễn ra thường xuyên trong nền
kinh tế thị trường. Những trường hợp trên chứng tỏ vận động tín dụng ngân hàng có sự độc lập
tương đối với sự vận động của quá trình tái sản xuất xã hội.
2.1.1.3. Phân loại tín dụng ngân hàng:
Tín dụng ngân hàng có nhiều loại hay nhiều hình thức khác nhau. Nền kinh tế càng phát triển
các hình thức tín dụng càng phong phú. Việc phân loại tín dụng nhằm hiểu rõ thêm sự khác biệt của
từng loại tín dụng và qua đó ta có thể sử dụng hoặc hiểu được tín dụng trong từng hoàn cảnh cụ thể.
Tùy theo đối tượng và mục đích ngiên cứu ta có thể phân loại tín dụng theo các hình thức như sau:
Phân loại theo mục đích:
+Cho vay bất động sản.
+Cho vay công nghiệp.
+Cho vay nông nghiệp.
+Cho vay các định chế tài chính.
+Cho vay cá nhân.
+Cho thuê.
Phân loại theo thời hạn cho vay:
+Cho vay ngắn hạn: là các khoản vay có thời hạn đến 12 tháng được sử dụng để bù đắp sự
thiếu hụt vốn lưu động và các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân.
+Cho vay trung hạn: là là khoản vay có thời hạn từ 12 tháng đến 5 năm được dung vào đầu tư
TSCĐ và còn là nguồn hình thành vốn lưu động thường xuyên của các doanh nghiệp đặc biệt là
ngững doanh nghiệp mới thành lập.
+Cho vay dài hạn: Là các khoản vay có thời hạn trên 5 năm và thời hạn tối đa có thể lên đến
20 đến 30 năm. Được dùng đáp ứng cá nhu cầu dài hạn.
Phân loại theo mức độ tín nhiệm đối với khách hàng:
+Cho vay không đảm bảo: là loại cho vay không có tài sản thế chấp, câm cố hoặc có sự bảo

lãnh của bên thứ ba, mà việc cho vay chỉ dựa vào uy tín của khách hàng.
+Cho vay có đảm bảo: là loại cho vay dựa trên các cơ sở đảm bảo như thế chấp, cầm cố hoặc
phải có sự bảo lãnh của bên thứ ba.
Phân loại theo phương pháp hoàn trả:
+Cho vay có thời hạn: là loại cho vay có thỏa thuận thời hạn trả nợ cụ thể theo hợp đồng.
+Cho vay không có thời hạn cụ thể: với hình thức này ngân hàng có thể yêu cầu hoặc người đi
vay tự nguyện trả nợ vào bất kì lúc nào, nhưng phải báo trước 1 thời hạn hợp lí, thời gian này có thể
được thỏa thuận trong hợp đồng.
Phân loại theo xuất xứ tín dụng:
+Cho vay trực tiếp: ngân hàng cấp vốn trực tiếp cho người có nhu cầu, đồng thời người đi vay
trực tiếp hoàn trả nợ cho ngân hàng.
+Cho vay gián tiếp: là các khoản cho vay được thực hiện thông qua việc mua lại các khế ước
hoặc chứng từ nợ đã phát sinh và còn trong thời hạn thanh toán.
Các NHTM cho vay gián tiếp theo các loại sau:
- Chiết khấu thương phiếu: người hưởng thụ hối phiếu hoặc lệnh phiếu còn trong hạn thanh
toán có thể nhượng lại cho ngân hàng. Ngân hàng sẽ cấp cho khách hàng 1 khoản tiền bằng mệnh
giá trừ đi lãi chiết khấu và hoa hồng. Khi chứng từ đến hạn thanh toán người thụ lệnh hối phiếu hoặc
người phát hành lệnh phiếu có trách nhiệm thanh toán cho ngân hàng.
- Mua các phiếu bán hàng trả góp: Trong điều kiện hiện nay nhiều doanh nghiệp thực hiện bán
hàng hóa theo hình thức trả góp. Tuy nhiên nguồn vốn có hạn nên cần có nguồn tài trợ của ngân
hàng thông qua việc nhượng lại các phiếu bán hàng trả góp. Định kì người mua sẽ thanh toán tiền
cho ngân hàng.
- Nghiệp vụ thanh tín( nghiệp cụ factoring) là nghiệp vụ mua các khoản nợ thương mại(các
khoản phải thu), trong đó bên mua( factor) nhận việc thu nợ và chấp nhận rủi ro tín dụng.
2.1.1.4. Ưu , nhược điểm của tín dụng ngân hàng:
+ Ưu điểm:
- Về khối lượng tín dụng: tín dụng ngân hàng có khả năng cung ứng những khoản vốn lớn đáp
ứng đầy đủ nhu cầu vay của khách hàng.
- Về thời hạn tín dụng: thông thường người có vốn muốn cho vay ngằn hạn hơn là cho vay dài
hạn bởi vì thời hạn ngắn thì đồng tiền ít rủi ro hơn và ít tổn thất về khả năng thanh khoản, nhưng

người đi vay thường có nhu cầu vay dài hạn. Còn ngân hàng có thể “đi vay ngắn hạn để cho vay dài
hạn”. Chính nhờ, khả năng chuyển hóa thời hạn này mà ngân hàng có thể tạo điều kiện cho nhu cầu
người tích lũy và người đầu tư được đáp ứng phù hợp.
- Về phạm vi tín dụng: Tín dụng ngân hàng có phạm vi huy động vốn cũng như cho vay rất
lớn, liên quan đến rất nhiều chủ thể và các lĩnh vực khác nhau trong nền kinh tế. Bởi vậy, nó thích
hợp với nhiều đối tượng xin vay cũng như cho vay.
+ Nhược điểm:
Hạn chế cơ bản của TDNH là có độ rủi ro cao. Hạn chế này gắn liền với chính những ưu điểm
của TDNH, do việc ngân hàng có thể cho vay số tiền lớn hơn nhiều so với số vốn tự có hoặc sự
chuyển hóa thời hạn và phạm vi tín dụng rất rộng. Những rủi ro về khả năng thu hồi vốn vay hoặc
đầu tư vào dự án lợi nhuận thấp … có nguyên nhân cơ bản là sự lựa chọn đối nghịch, hay rủi ro đạo
đức.
2.1.2. Vai trò của tín dụng ngân hàng:
Tín dụng ngân hàng thúc đẩy quá trình tập trung, tích tụ và điều hòa vốn giữa các chủ thể
trong nền kinh tế.
Trong nền kinh tế thị trường, vấn đề hiệu quả tài chính được đặt lên hàng đầu và việc tính toán
sử dụng vốn bao giờ cũng gắn liền với cả chi phí, kể cả chi phí cơ hội. Một khi vốn tạm thời nhàn rỗi
chưa được sử dụng thì sẽ lãng phí và tốn kém chi phi cơ hội do vốn chưa được sử dụng vào mục tiêu
sinh lợi. Khi ấy, vốn cần được đem cho vay hay phân phối lại từ nơi tạm thời nhàn rỗi sang nơi thiếu
hụt vốn. Ngược lại, khi thiếu hụt vốn cần có sự bổ sung kịp thời nhằm đảm bảo cho hoạt động sản
xuất kinh doanh được diễn ra liên tục hoặc tăng trưởng như hoạch định. Nhờ có tín dụng ngân hàng,
việc điều hòa hay phân phối lại nguồn vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu có thể được thực hiện 1 cách dễ
dàng và nhanh chóng.
Việc tập trung và tích lũy vốn có vai trò rất quan trọng đối với nền kinh tế đang phát triển như
nước ta. Đứng trước các yêu cầu cấp bách cho sự phát triển kinh tế đòi hỏi 1 lượng vốn lớn tập trung
cho việc phát triển các ngành và các vùng kinh tế. Hiện nay, nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi được nắm
giữ ở các chủ thể khác nhau trong nền kinh tế là rất lớn. Nhưng nhiều người tích lũy không muốn
đầu tư bởi vì họ bị hạn chế về khả năng và kiến thức tài chính. Trong khi đó, hệ thống tín dụng ngân
hàng có đủ độ tin cậy do tính chuyên môn hóa cao và làm giảm bớt rủi ro các cá nhân của những
người tích lũy. Do đó, tín dụng làm cho quá trình tập trung vốn được thực hiện nhanh chóng và có

hiệu quả, tăng khả năng cung ứng vốn cho nền kinh tế, dặc biệt là nguồn vốn dài hạn.
Tín dụng ngân hàng là đòn bẩy kích thích sản xuất và lưu thông hàng hóa phát triển.
Bất kì 1 doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nào cũng có nhu cầu về vốn đầu tư cho quá trình
sản xuất và tái sản xuất phát triển. Chính vì vậy hiện tượng thừa thiếu vốn tạm thời là hiện tượng
diễn ra thường xuyên tại các doanh nghiệp. Điều đó ảnh hưởng rất lớn tới khả năng sản xuất liên tục
và nếu không chủ động được nguồn vốn kịp thời sẽ gây mất khả năng thanh toán có thể dẫn tới phá
sản đối với từng doanh nghiệp. Tín dụng ngân hàng với việc cấp tín dụng thông qua cho vay kịp
thời, đã giúp các doanh nghiệp thỏa mãn nhu cầu về vốn luôn thay đổi, tạo khả năng đảm bảo tính
liên tục của quá trình sản xuất kinh doanh, không để tồn đọng vốn trong quá trình luân chuyển. Bên
cạnh đó, vốn tín dụng tạo điều kiện những người muốn đầu tư có được khả năng vay vốn để đầu tư
vào quá trình sản xuất kinh doanh tạo thêm sản phẩm, hàng hóa cho nền kinh tế quốc dân.
Ngày nay. các doanh nghiệp hoạt động trong môi trường cạnh tranh rất cao đòi hỏi các doanh
nghiệp phải cải tiến cơ sở vật chất, mở rộng sản xuất, ứng dụng công nghệ mới và hiện đại nâng cao
năng lực của máy móc, giảm giá thành và nâng cao chất lượng sản phẩm. Tín dụng ngân hàng góp
phần tạo điều kiện cho doanh nghiệp có thể thực hiện được các dự án đầu tư lớn, tạo ra những bước
nhảy vọt về năng lực do được tiếp cận với máy móc thiết bị hiện đại, từ đó thúc đẩy sản xuất phát
triển.
Tín dụng ngân hàng góp phần điều chỉnh, ổn định và tăng trưởng kinh tế.
Xu hướng của các nhà đầu tư hiện nay là đầu tư vào những ngành, lĩnh vực thu lại lợi nhuận
cao đặc biệt là 1 số ngành như công nghệ thông tin, hay chứng khoán… trong khi đó nền kinh tế đòi
hỏi phải có sự phát triển cân đối, đồng bộ giữa các ngành và các vùng, cần phải có những ngành then
chốt, mũi nhọn để tạo đà cho nền kinh tế phát triển. Tín dụng ngân hàng góp phần đảm bảo đầu tư
vốn cho cơ sở hạ tầng, hình thành các ngành then chốt và các ngành kinh tế trọng điểm, góp phần
hình thành cơ cấu kinh tế tối ưu.
Tín dụng còn là phương tiện để nhà nước thực hiện các chính sách tiền tệ thích hợp để ổn định
nền kinh tế khi nền kinh tế có những dấu hiệu bất ổn. Với các công cụ trực tiếp như: hạn mức tín
dụng, lãi suất, tỷ giá đồng thời thiết lâp và bước đàu sử dụng các công cụ gián tiếp như dự trữ bắt
buộc, tái cấp vốn, nghiệp vụ thị trường mở… đã góp phần giúp nhà nước tăng cường phạm vi và
hiệu quả điều tiết kiểm soát tiền tệ. góp phần quan trọng trong ổn định hệ thống tài chính, ổn định
kinh tế vĩ mô, tạo vốn cho quá trình tăng trưởng kinh tế và tạo điều kiện phát triển thị trường tiền tệ.

Tín dụng góp phần nâng cao đời sống của nhân dân và thực hiện các chính sách xã hội của nhà
nước.
Với hệ thống ngân hàng rộng khắp, tín dụng ngân hàng giúp cho mọi người dân có thể tiếp
cận được với nguồn vốn tín dụng từ đó có điều kiện nâng cao thu nhập và chất lượng cuộc sống. Gắn
trách nhiệm của người dân đối với nguồn vốn vay tạo sức ép buộc chủ thể kinh doanh phải thiết lập
và phát triển các dự án kinh doanh có hiệu quả để vừa có thể trả lãi ngân hàng đồng thời kinh doanh
có lãi, tái sản xuất sức lao động, làm giàu cho mình và cho xã hội.
Tín dụng ngân hàng thúc đẩy phát triển cơ sở hạ tầng, các ngành nghề công nghiệp, tiểu thủ
công nghiệp, dịch vụ đặc biệt là ở khu vực nông thôn. Thông qua đó góp phần giải quyết vần đề việc
làm, hạn chế các tiêu cực xã hội và các luồng dân cư di chuyển từ khu vực nông thôn vào thành thị.
Nhà nước sử dụng tín dụng ngân hàng không chỉ là 1 công cụ thực hiện các chính sách điều
tiết kinh tế mà còn hướng tới các mục tiêu xã hội nhằm giải quyết các vấn đề cấp bách đang diễn ra
hiện nay là xóa đói giảm nghèo, dân số, việc làm…Với việc áp dụng các ưu đãi về vốn, lãi suất, điều
kiện và thời hạn vay cho các đối tượng chính sách và các hộ nghèo, tín dụng đã đóng vai trò rất quan
trọng trong thực hiện xóa đói giảm nghèo, nâng cao dân trí, giải quyết công ăn việc làm, xây dựng
đội ngũ cán bộ cho địa phương giảm dần khoảng cách chênh lệch giữa nông thôn và thành thị.
Tín dụng góp phần mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế.
Trong nền kinh tế mở, nhu cầù vay vốn nước ngoài trở thành nhu cầu bức thiết đặc biệt là đối
với những quốc gia đang phát triển như Việt Nam còn nhiều hạn chế về điều kiện và nguồn lực.
Nguồn vốn vay từ nước ngoài đóng vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao năng lực sản xuất, tiếp
cận trình độ công nghệ hiện đại và kinh nghiệm quản lí của các nước trên thế giới.
Tín dụng ngân hàng thúc đẩy việc giao lưu, trao đổi hàng hóa giữa các nước trên thế giới mở
rộng quan hệ ngoại thương tạo điều kiện nâng cao thu nhập cho ngân sách nhà nước đồng thời thu
hút được nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài cho phép khai thác tối đa nguồn lực hiện có cho
quá trình phát triển kinh tế.
2.1.3. Lãi suất tín dụng:
2.1.3.1. Khái niệm:
Hoạt động tín dụng ngân hàng gắn liền với lợi tức thu được từ hoạt động tín dụng hay còn gọi
là lợi tức tín dụng bởi vì lợi tức tín dụng là thước đo hiệu quả hoạt động tín dụng của ngân hàng. Khi
ngân hàng thực hiện quyền cho vay, lợi tức được hiểu là thu nhập có được do chuyển nhượng quyền

sử dụng vốn vay hay là thu nhập nhằm bù dắp cho chi phí cơ hội của vốn vay. Ngược lại, khi ngân
hàng thực hiện quyền vay, lợi tức chính là chi phí mà người đi vay phải trả cho người cho vay để có
được quyền sử dụng vốn vay.
Lợi tức tín dụng thu được nhiều hay ít phụ thuộc vào doanh số cho vay và lãi suất tín dụng của
mỗi ngân hàng. Trong đó, Lãi suất tín dụng là 1 yếu tố quan trọng trong hoạt động của ngân hàng.
Lãi suất tín dụng là sự cụ thể hóa lợi tức tín dụng dưới hình thức giá trị tương đối ( tỷ lệ %) bao
gồm 2 loại lãi suât đó là : lãi suất huy động tiết kiệm và lãi suất cho vay. LS hiểu theo nghĩa chung
nhất là giá cả của tín dụng, vì nó là giá của một quyền vay trong một khoảng thời gian nhất định
được biểu hiện bằng tỷ lệ so sánh tổng lợi tức thu được so với tổng vốn cho vay trong 1 khoản thời
gian xác định.. Việc quyết định lãi suất cho vay sẽ phải dựa trên các thông số về mức kỳ vọng sinh
lời của ngân hàng, rủi ro tín dụng của khoản vay và tỷ lệ an toàn vốn.
. Công thức:

Lãi suất tín dụng trong kì =
Tổng lợi tức thu được trong kì
Tổng doanh số cho vay trong kì
2.1.3.2. Ý nghĩa của lãi suất tín dụng:
Lãi suất tín dụng là công cụ quản lí vĩ mô nền kinh tế.
Trong điều kiện thị trường tiền tệ có nhiều biến động bất thường, LSTD được NHTƯ sử dụng
như là một công cụ để điều hành chính sách kinh tế. Khi nền kinh tế rơi vào tình trạng suy thoái và
trì trệ NHTƯ có thể hạ lãi suất nhằm tăng cung tiền và kích cầu để thúc đẩy kinh tế phát triển vượt
qua tình trạng suy thoái. Ngược lai khi nền kinh tế rơi vào tình trạng lạm phát cao NHTƯ có thể
nâng lãi suất huy động vốn và cho vay, điều chỉnh lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu; tăng mạnh
tỷ lệ giữ trữ bắt buộc bằng VND và ngoại tệ … qua đó hạn chế khả năng tạo tiền và mở rộng tín
dụng của các TCTD, góp phần ổn định tiền tệ, bình ổn giá và thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế.
LSTD tác động ở một mức độ nhất định đến hoạt động kinh doanh của từng doanh nghiệp và
đến đời sống của dân cư. Khi lãi suất cho vay giảm, làm cho cầu về vốn của các doanh nghiệp tăng,
các doanh nghiệp có xu hướng mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, giải quyết được tình trạng thất
nghiệp trong nền kinh tế và ngược lại. Chính vì vậy lãi suất là công cụ giúp Nhà Nước điều chỉnh cơ
cấu ngành, cơ cấu vùng nhằm phát triển cân đối nền kinh tế.

LSTD là công cụ điều tiết kinh tế vi mô.
LSTD là 1 công cụ thực hiện hoạt động của các trung gian tài chính trong diều kiện cạnh tranh
lành mạnh, đảm bảo tính tự chủ tài chính của các tổ chức này để có thể tồn tại và phát triển. Dựa trên
lãi suất cơ bản và biên độ giao động cho phép để tăng khối lượng nguồn vốn huy động, đồng thời
mở rộng quan hệ tín dụng với khách hàng, các tổ chức tài chính trung gian có thể nâng lãi suất tiền
gửi và hạ lãi suất cho vay. Sự cạnh tranh lành mạnh giữa các tổ chức này sẽ tạo ra lợi ích kinh tế
chung cho toàn bộ nền kinh tế.
2.1.3.3. Các loại lãi suất tín dụng:
Nếu căn cứ vào tính chất chỉ đạo của Nhà Nước, lãi suất tín dụng được chia thành:
+ Lãi suất chỉ đạo: là lãi suất do ngân hàng nhà nươc trung ương công bố dưới các dạng như
lãi suất chiết khấu, lãi suất trần, lãi suất sàn, lãi suất cơ bản…làm cơ sở để ngân hàng thương mại và
các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất cho vay.
- Lãi suất sàn, lãi suất trần là mức lãi suất thấp nhất hoặc cao nhất trong 1 khung lãi suất nào
đó, mà ngân hàng trung ương quy định để can thiệp vào hoạt động tín dụng nhằm bảo vệ quyền lợi
của người cho vay hoặc người đi vay.
- Lãi suất cơ bản bao gồm lãi suất tiền gửi, lãi suất cho vay và lãi suất lien ngân hàng.
.Lãi suất tiền gửi là lãi suất mà ngân hàng thương mại trả cho người gửi trên số tiền ở tài
khoản tiền gửi tiết kiệm.
.Lãi suất cho vay được xác định trên cơ sở lãi suất tiền gửi theo tính chất của khoản vay và
thời gian vay vốn.
.Lãi suất trên thị trường liên ngân hàng là lãi suất mà các ngân hàng cho nhau vay nhằm giải
quyết nhu cầu vốn ngắn hạn trên thị trường tiền tệ.
+ Lãi suất kinh doanh: là lãi suất do từng hệ thống nâng hàng thương mại và các tổ chức tín
dụng xác định trên cơ sở lãi suất chỉ đạo của ngân hàng nhà nước.
Nêu căn cứ vào thời gian vay mượn:
+ Lãi suất ngắn hạn.
+ Lãi suất trung hạn.
+ Lãi suất dài hạn.
Nếu căn cứ vào giá trị của tiền tệ:
+ Lãi suất danh nghĩa là lãi suất được xác định cho 1 kì hạn gửi hoặc vay chưa tính đén sự

giảm giá trị của tiền khi có lạm phát.
+ Lãi suất thực là lãi suất được xác định giá trị thực của khoản lãi có tính đén sự giảm giá trị
của tiền.
Nếu phân loại theo tiền vay:
+ Lãi suất nội tệ là lãi suất để huy động vốn hoặc cho vay bằng đồng nội tệ trên thị trường vốn
trong nước.
+ Lãi suất ngoại tệ là lãi suất dung để huy động vốn hoặc cho vay bằng dồng ngoại tệ trên thị
trường vốn trong nước.
2.1.3.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất tín dụng:
+Quan hệ cung cầu vốn tín dụng trên thị trường vốn:
Lãi suất tín dụng ngân hàng( LSTDNH) là 1 loại giá của tiền tệ. Đã là giá thì LSTDNH phải
được hình thành từ nhiều yếu tố kinh tế thậm chí cả các yếu tố phi kinh tế. Cũng như giá của các loại
hàng hóa thông thường khác, giá của loại hàng hóa tiền tệ luôn luôn chịu tác động của quan hệ cung
cầu trên thị trường. Khi nhu cầu vốn của thị trường tăng lên mà khả năng cung cấp vốn không thể
đáp ứng được thì lãi suất cho vay của các NHTM tăng lên; ngược lại, khi nhu cầu vốn trên thị trường
giảm thấp trong khi vốn huy động được các NHTM tăng lên, không có nơi tiêu thụ thì lãi suất cho
vay của các NHTM có thể giảm thấp. Đây là vấn đề có tính quy luật trong nền kinh tế.
LSTDNH khác với các loại giá cả thông thường khác ở chỗ, giá cả của các hàng hóa thông
thường được hình thành trên cơ sở giá thành là chủ yếu; các yếu tố về quan hệ cung cầu trên thị
trường có ảnh hưởng nhất định đến sự tăng giảm giá của giá cả trên thị trường nhưng không phải là
quyết định; thường có tính chất tạm thời và phạm vi ảnh hưởng, tác động của nó là không lớn. Trong
khi đó, LSTDNH thường được xác định bằng “giá mua vào” tức là “giá vốn” trên thị trường và chi
phí sử dụng vốn. Gía vốn và chi phí huy động vốn không những chịu sự chi phối của quan hệ cung
cầu trên thị trường mà còn phụ thuộc rất nhiều vào tình hình thị trường, vào đặc điểm kinh tế - xã
hội nơi các NHTM hoạt động.
+ Thực trạng nền kinh tế:
Vì LSTDNH chịu tác động rất nhiều vào tình hình cung cầu vốn trên thị trường, nên những
nhân tố tác động đến LSTDNH bao giờ cũng là các nhân tố phản ánh một cách đầy đủ tình hình tăng
trưởng của nền kinh tế, tình hình ổn định của sức mua tiền tệ. Kinh tế tăng trưởng bền vững luôn là
yếu tố quyết định đến sự ổn định của sức mua tiền tệ, của LSTDNH. Sự biến động tăng giảm của

LSTDNH hầu như hoàn toàn phụ thuộc vào tình hình tăng trưởng kinh tế trong từng thời kỳ. Khi nền
kinh tế đang tăng trưởng, đầu tư trong xã hội tăng làm cho cầu vốn đàu tư tăng do đó lãi suất có xu
hướng tăng. Ngược lại, khi nền kinh tế đang trong tình trạng suy thoái, đầu tư xã hội giảm, để kích
cầu đầu tư, Nhà nước chủ trương hạ lãi suất cơ bản để hạ lãi suất cho vay.
+ Tỷ lệ lạm phát trong nền kinh tế:
Lạm phát hay tăng giá có tác động nhất định đến lãi suất trên thị trường. Bởi lẽ, lãi suất là 1
biến số hết sức nhạy cảm đối với nền kinh tế nói chung và các hiện tượng của lạm phát nói chung.
Khi nền kinh tế có lạm phát quá cao trong 1 thời kì nào thì lãi suất có xu hướng tăng lên. Khi lạm
phát tăng (đặc biệt là khi lạm phát gia tăng cao hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế) thì gửi tiền tiết kiệm
có thể phải chịu lãi suất âm tức là gửi tiền tiết kiệm không những không có lãi mà còn lỗ do đồng
tiền mất giá khi đó người có vốn sẽ dùng nguồn vốn tiết kiệm sang tích trữ hàng hóa hoặc đầu tư
sang lĩnh vực khác làm giảm nguồn cung tiền gây áp lực tăng lãi suất trên thị trường. Bên cạnh đó để
hạn chế lạm phát gia tăng ngân hàng trung ương sẽ thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt,tức là giảm
cung tiền cũng là 1 trong những yếu tố làm cho LSTDNH gia tăng nhanh chóng.
+ Thời hạn hoàn trả.
Nói chung, thời hạn hoàn trả tiền vay càng dài , ngân hàng sẽ yêu cầu lãi suất càng cao. Lý do
là ngân hàng sẽ gặp tình hình rủi ro lớn hơn trong những thay đổi thực trạng tài chính củ doanh
nghiệp trong tương lai và thời gian cho vay càng dài, tài sản thế chấp càng có thể bị sụt giá tới mức
mà giá trị của nó sẽ không còn dủ để đảm bảo số dư cho tiền vay.
+ Các chính sách vĩ mô của Nhà Nước.
Mỗi chính sách điều tiết vĩ mô của nhà nước đề ra ảnh hưởng đến toàn bộ ngành, lĩnh vực và
mọi đối tượng trong nền kinh tế chính vì vậy nó cũng tác động rất lớn tới thị trường tín dụng.
Bội chi ngân sách là 1 bộ phận quan trọng trong cầu quỹ cho vay nên khi bội chi ngân sách
tăng làm cho cầu quỹ cho vay tăng kéo theo lãi suất có xu hướng tăng. Thông thường để bù dắp bội
chi ngân sách, Chính phủ thường phát hành thêm trái phiếu và chứng từ có giá. Lượng cung trái
phiếu trên thị trường tăng làm cho giá trái phiếu có xu hướng giảm, lãi suất thị trường có xu hướng
tăng lên.
Chính sách tiền tệ của Chính phủ nhằm kiểm soát lượng cung tiền, kiểm soát lạm phát và tác
động tới lãi suất nhằm thực hiện các mục tiêu nhất định nên các chính sách tiền tệ tác động mạnh mẽ
đến lãi suất.

2.1.4. Chất lượng tín dụng:
2.1.4.1. Khái niệm:
Trong bất kì một hoạt động kinh doanh nào chất lượng hoạt động, chất lượng sản phẩm luôn
là yếu tố quyết định tới sự thành công của mỗi doanh nghiệp, đối với ngân hàng cũng như vậy.
Ngân hàng là doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ, tín dụng là sản
phẩm đặc biệt và chiếm vị trí chủ yếu trong mọi hoạt động của ngân hàng. Chính vì vậy chất lượng
hoạt động ngân hàng được thể hiện rõ nét nhất qua chất lượng của hoạt động tín dụng.
Khái niệm về chất lượng tín dụng là một phạm trù rộng bao hàm nhiều nội dung về khả năng
tài chính ngân hàng, mức độ thích nghi với sự thay đổi môi trường, khả năng thu hút khách hàng, tỷ
lệ an toàn vốn, tỷ lệ nợ quá hạn, trình độ quản lí, trình độ cán bộ CNV …Chất lượng tín dụng thể
hiện ở khả năng đáp ứng nhu cầu khách hàng, đáp ứng nhu cầu phát triển của ngân hàng và mục tiêu
phát triển kinh tế xã hội. Cụ thể như sau:

×