Tải bản đầy đủ (.doc) (44 trang)

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CAO CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ ĐỀ TÀI THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CÔNG CHỨC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (278.63 KB, 44 trang )

Học viện chính trị quốc gia hồ chí minh
Học viện chính trị khu vực I
------------------------

đinh tiến dũng

Thực trạng và một số giảI pháp
nhằm nâng cao chất lợng
đội ngũ cán bộ công chức
Sở công nghiệp tỉnh hoà bình

Luận văn tốt nghiệp
Cao cấp lý luận chính trị

Ngời hớng dẫn khoa học:
Thạc sỹ nguyễn văn giang
Phó trởng ban quản lý đào tạo

Hà nội, tháng 6/ 2007
Lời mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài:


Ngay từ khi mới ra đời và trong suốt quá trình lãnh đạo
cách mạng Việt Nam, Đảng luôn coi trọng và đặt công tác dân
vận có một vị trí chiến lợc quan trọng đặc biệt. Dới sự lãnh
đạo của Đảng, thực hiện công tác dân vận khéo léo chúng ta
đã làm cách mạng tháng Tám thành công, lập nên nhà nớc dân
chủ cộng hòa đầu tiên ở Đông Nam á. Khi Đảng mới tròn 15 tuổi,
rồi tiến hành hai cuộc kháng chiến thần kỳ, vợt mọi khó khăn
gian khổ, giành thắng lợi vẻ vang thống nhất đất nớc. Từ bài


học đó chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ:
Dễ trăm lần không dân cũng chịu
Khó vạn lần dân liệu cũng xong
Những thành quả vĩ đại của sự nghiệp đổi mới trong 20
năm qua, đã một lần nữa khẳng định sức mạnh của công tác
dân vận và sức sống bất diệt của t tởng lấy dân làm gốc
của đờng lối, chủ trơng, chính sách, xuất phát từ thực tiễn của
đời sống nhân dân, đáp ứng nguyện vọng của nhân dân.
ở bất cứ thời kỳ nào thì đất nớc cũng cần phải có nguồn lực
để phát triển. Nguồn lực đó là trong dân, công tác dân vận là
khai thác nguồn lực đó, là phát huy, là khơi dậy tính sáng tạo
của nhân dân. Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám, của các
cuộc kháng chiến đấu tranh giải phóng dân tộc, cũng nh
trong sự nghiệp đổi mới đất nớc, đó chính là thắng lợi của
những bài học dân vận đợc vận dụng nhuần nhuyễn vào thực
tiễn.
Xây dựng một Nhà nớc của dân, do dân, vì dân, thờng
xuyên mở rộng dân chủ, thực hiện tốt phơng châm: Dân biết,
dâm bàn, dân lam dân, kiểm tra; dân đợc hởng thỏa đáng
những thành quả lao động của chính mình, đó là cốt lõi của
công tác dân vận, là cội nguồn của mọi thắng lợi.
2


Đất nớc ta đang đi vào thời kỳ đổi mới, thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nớc. Đây là con đờng duy
nhất để chúng ta thoát khỏi đói nghèo, lạc hậu là khát vọng của
quần chúng nhân dân và cũng là mục tiêu chiến đấu của
Đảng.
Bên cạnh những thành tựu đạt đợc trong quá trình lãnh

đạo cách mạng, trong công cuộc đổi mới, Đảng và Nhà nớc ta đã
phạm phải một số sai lầm, khuyến điểm: Mối quan hệ giữa
Đảng với nhân dân bị giảm sút, có lúc có nơi khá nghiêm
trọngMột bội phận cán bộ, đảng viên mang nặng bệnh quan
liêu, mệnh lệnh, xa rời quần chúng, chuyên quyền, độc đoán,
ức hiếp nhân dân, tham ô, hối lộ, sống xa hoa, lãng phí. Công
tác quần chúng bị quan liêu hóa, hành chính hóa, không đổi
mới nội dung, hình thức và phơng pháp tập hợp các tầng lớp
nhân dân, không ít tổ chức cơ sở hoạt động nhất thờng
hoặc không hoạt động, nhiều đoàn viên, hội viên không tha
thiết gắn bó với đoàn thể của mình. Hậu quả làm giảm nhiệt
tình cách mạng và hạn chế việc phát huy khả năng to lớn của
nhân dân trong công cuộc xây dựng đất nớc, xây dựng
đảng, bộ máy Nhà nớc và các đoàn thể quần chúng.
Những thiếu sót ở trên biểu hiện rất nhiều ở tổ chức
Đảng, cá địa phơng, các cơ quan Nhà nớc, các đoàn thể trong
hệ thống chính trị, các đơn vị kinh doanh.
Từ những vấn đề trên, một yêu cầu cần cấp bách đặt ra
là: Đảng muốn tồn tại và phát triển, Đảng muốn hoàn thành sử
mệnh lịch sử của mình thì phải tự đổi mới công tác dân vận
quần chúng của Đảng, Nghị quyết Trung ơng 8B (khóa VI),
Nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX và lần thứ X đã
đề ra: Tăng cờng công tác Dân vận của Đảng, mối quan hệ
giữa Đảng với nhân dân trớc hết và chủ yếu thể hiện ở mối
3


quan hệ giữa chính quyền và nhân dân thông qua chính
sách, pháp luật, thông qua hoạt động của cán bộ, công chức.
Chính vì vậy, công tác Dân vận phải đợc coi trọng, phải đợc

nâng lên cho đáp ứng yêu cầu mới.
Là cán bộ công tác tại cơ quan Quận ủy Ngô Quyền, bản
thân tôi rất quan tâm đến công tác Dân vận của Đảng. Nhận
thức tính cấp bách của công cuộc đổi mới công tác Dân vận
hiện nay của Đảng và ở Đảng bộ quận Ngô Quyền; xuất phát từ
tình hình thực tế của Đảng bộ về công tác dân vận nên tôi
chọn đề tài Công tác dân vận của đảng bộ quận Ngô
Quyền trong tình hình mới thực trạng và giải pháp- để
làm chuyên đề tốt nghiệp khóa học của mình, nhằm gắn
những vấn đề lý luận đã đợc học và thực tiễn ở Đảng bộ để
làm cơ sở lâu dài, có tính chất định hớng bớc đi cho công tác
của mình trong những năm tới
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài:
Việc nghiên cứu đề tài góp phần làm sáng tỏ một số vấn
đề cơ bản về cơ sở lý luận, thực tiễn của việc nâng cao chất
lợng công tác dân vận của Đảng trong tình hình hiện nay. Đánh
giá đúng thực trạng công tác dân vận của Đảng bộ quận Ngô
Quyền từ đó rút ra một số nguyên nhân và bài học kinh
nghiệm nhằm nâng cao chất lợng công tác dân vận của Đảng ở
địa phơng.
3. Phạm vi nghiên cứu:
- Thời gian: Phạm vi nghiên cứu đợc giới hạn trong 5 năm trở
lại đây (2000 đến 2005).
- Không gian: Đề tài đợc thực hiện trên địa bàn quận Ngô
Quyền thành phố Hải Phòng.
4. Phơng pháp nghiên cứu:
4


Để thực hiện đề tài này ngời viết sử dụng lý luận và thực

tiễn dựa trên cơ sở phơng pháp luận của chủ nghĩa Mác
LêNin, kết hợp với phơng pháp lịch sử và phơng pháp lôgíc.
Đồng thời có sử dụng thêm các phơng pháp phân tích, tổng
hợp, so sánh.
5. Bố cục của đề tài:
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài đợc chia làm 3
chơng:
* Lời nói đầu:
Chơng I: Những quan điểm của Chủ nghĩa Mác
Lênin, Đảng ta về vị trí vai trò công tác dân vận và tăng
cờng lãnh đạo công tác dân vận trong tình hình mới.
1. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác Lênin về công tác
dân vận
2. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh,

Đảng ta về

công tác dân vận
3. Tính cấp bách phải tăng cờng và đổi mới công tác dân
vận trong giai đoạn hiện nay.
Chơng II: Thực trạng công tác dân vận của Đảng bộ
quận Ngô Quyền từ năm 2002 đến nay.
I. Khái quát đặt điểm tình hình của quận Ngô Quyền
II. Tình hình công tác dân vận của Đảng bộ quận Ngô
Quyền những năm qua.
1. Bộ máy dân vận quận, phờng
2. Thực trạng công tác dân vận của Đảng bộ quận Ngô
Quyền trong những năm qua.
3. Thành tựu
4. Về tồn tại

5. Một số bài học kinh nghiệm
5


Chơng III:

Nhiệm vụ và giải pháp nhằm tăng cờng

công tác dân vận của Đảng bộ quận Ngô Quyền trong
giai đoạn hiện nay.
I . Nhiệm vụ.
II. Những giải pháp chủ yếu
III. Một số kiến nghị
* Kết luận
* Thảm khảo và sử dụng tài liệu
* Phục lục

Chơng I
Quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, t tởng Hồ Chí Minh và
Đảng ta về quần chúng nhân dân và công tác dân vận

6


1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin về quần chúng
nhân dân và công tác dân vận:
ở mỗi thời kỳ quan niệm về quần chúng nhân dân đều
có sự khác nhau bởi nó mang tính chất lịch sử và tính giai cấp
cụ thể.
Do hạn chế về lịch sử và thế giới quan, xuất phát từ mục

đích bảo vệ quyền lợi của giai cấp thống trị, các nhà t tởng trớc Mác và giai cấp t sản cho rằng: Mọi hiện tợng lịch sử đều do
chúa, trời xếp, đặt, họ hạ thấp vai trò của quần chúng lao
động nhng lại nhấn mạnh: lịch sử là do các vĩ nhân tạo nên
quần chúng chỉ làm theo ý chúa, tuân thủ tuyệt đối và góp
phần thực hiện ý chí của giai cấp thống trị.
Chủ nghĩa Mác- Lênin nhận thức đúng về quần chúng và
đã đặt vị trí, vai trò của quần chúng nhân dân lên tầm cao
mới.
Theo quan điểm của Mác- Ăng ghen: Quần chúng nhân
dân là những cộng đồng xã hội bao gồm các giai cấp, các tầng
lớp nhân dân nhng không bao gồm toàn bộ dân c mà những
ngời không đủ t cách công dân đi ngợc lợi ích trào lu chung,
chống phá cách mạng thì không coi họ là thành viên trong
nhân dân.
Trong lời nói đầu viết vào năm 1895 cho tác phẩm Đấu
tranh giai cấp ở Pháp, Ăng ghen đã viết: Tất cả các giai cấp
thống trị từ trớc tới nay đều chỉ là những nhóm thiểu số nhỏ
bé so với quần chúng nhân dân bị thống trị.
Theo nghĩa trên, Lênin đã định nghĩa: quần chúng là
toàn bộ những ngời lao động và những ngời bị t bản bóc lột,
đặc biệt là những ngời ít đợc tổ chức và giáo dục nhất, bị áp
bức nhất và khó đa và tổ chức nhất". Lênin cho rằng khái niệm
7


quần chúng có thể thay đổi tuỳ theo sự thay đổi tính chất
của cuộc đấu tranh, thay đổi theo cái nghĩa ngời ta hiểu
quần chúng là đa số những ngời bị bóc lột. Ngời cách mạng
không thể khác thế đợc theo quan điểm của chủ nghĩa Mác,
cơ sở của quần chúng nhân dân ở mọi giai đoạn phát triển

của lịch sử bao giờ cũng là những ngời lao động- nhân tố
quan trọng nhất của lực lợng sản xuất. Vì vậy Lênin nhấn mạnh
rằng: Khi sử dụng từ quần chúng nhân dân Mác không làm sự
lu mờ sự khác nhau giữa các giai cấp bằng danh từ đó, mà ông
luôn luôn làm nổi bật lực lợng có khả năng tiến hành cách mạng
đến cùng.
Do tính chất lịch sử của nó, cũng là một giai cấp hay một
tập đoàn xã hội trong giai đoạn này, họ thuộc vào nhân dân,
nhng ở giai đoạn khác họ lại đối lập với nhân dân. ở thế kỷ
XVI- XVII và XVIII, cách mạng t sản nổ ra, lúc này t sản, công
nhân và nhân dân lao động là quần chúng. Khi giai cấp t sản
đã giành đợc quyền thống trị và quay lại bóc lột ngời lao động
thì tức là họ đã tách khỏi bộ phận cấu thành nhân dân và trở
thành kẻ thù của quần chúng nhân dân.
Quá trình phát triển của lịch sử loài ngời là sự chuyển
hoá từ hình thái kinh tế- xã hội này sang hình thái kinh tế- xã
hội khác do các quy luật khách quan chi phối, động lực thúc
đẩy xã hội phát triển chính là quần chúng nhân dân. Theo
Các Mác, mọi sự kiện lớn trong lịch sử, mọi sự biến đổi cách
mạng trong đời sống xã hội sẽ không thành công, nếu khômh có
sự tham ra tích cực của quần chúng, Các Mác khẳng định:
lịch sử không phải là một nhân cách đặc thù nào đó sử dụng
con ngời làm phơng tiện để đạt tới mục đích của mình. Lịch
sử chẳng qua chỉ là hoạt động của con ngời theo đuổi mục
đích của bản thân mình. Đây là một chuyển biến cách
8


mạng trong nhận thức lịch sử loài ngời sáng tạo ra lịch sử của
mình, trớc hết là sáng tạo của cải vật chất, vì không có hoạt

động sản xuất vật chất của con ngời lao động thì con ngời và
xã hội sẽ bị diệt vong. Tiền đề đầu tiên của mọi sự tồn tại của
con ngời, do đó cũng là của mọi lịch sử. Nhng trớc hết muốn
sống phải có cái ăn, ở, mặc và một vài thứ khác nữa. Vì vậy
hành động lịch sử đầu tiên là sự sản xuất những t liệu thoả
mãn những nhu cầu đó, sự sản xuất ra bản thân đời sống vật
chất nhng sự phát triển sản xuất, phát triển xã hội chính là do
lực lợng sản xuất quyết định, lực lợng sản xuất không chỉ là
công cụ lao động mà trớc hết là con ngời lao động, đó là một
lực lợng sản xuất hàng đầu, sự phát triển của lực lợng sản xuất
xã hội là cơ sở sâu xa nhất của sự vận động phát triển không
ngừng của lịch sử nhân loại, sự phát triển của lực lợng sản xuất
dẫn đến các cuộc cách mạng về phơng thc sản xuất, đồng
thời là cuộc cách mạng xã hội. Nh vậy lịch sử phát triển của xã
hội loài ngời trớc hết là lịch sử phát triển của lực lợng sản xuất.
Lịch sử thay đổi các phơng thức sản xuất cũng chính là lịch
sử của quần chúng lao động- những ngời trực tiếp sản xuất ra
của cải vật chất. Toàn bộ cách gọi là lịch sử toàn thế giới
chẳng qua chỉ là sự sáng tạo của con ngời kinh qua lao động
của con ngời .
Quần chúng nhân dân không chỉ là ngời sản xuất ra của
cải vật chất mà còn là ngời sáng tạo ra những giá trị tinh
thần ,họ để phản ánh những hiểu biết về thiên nhiên, xã hội
những cảm xúc trong lao động sản xuất, trong đấu tranh bảo
tồn và phát triển nòi giống với nhiều hình thức phong phú và
đa dạng.
Trong xã hội có đối kháng giai cấp, mâu thuẫn giữa lực lợng sản
xuất mới với quan hệ sản xuất cũ lỗi thời, lạc hậu là mâu thuẫn
9



chủ yếu, mâu thuẫn này sớm muộn sẽ dẫn đến cuộc đấu
tranh một mất, một còn, giữa quần chúng bị áp bức bóc lột với
giai cấp thống trị, trong đấu tranh quần chúng ngày càng đợc
giác ngộ, lực lợng ngày càng phát triển, khi đó cuộc đấu tranh
nhân dân thành cuộc cách mạng xã hội, cách mạng sẽ xoá bỏ
chế độ xã hội cũ, tức phơng thức sản xuất cũ và xác lập một
chế độ xã hội mới với phơng thức sản xuất mới, tiến bộ hơn.
Lênin đã khẳng định cách mạng là một ngày hội của những
ngời bị áp bức và bóc lột, không lúc nào quần chúng nhân
dân có thể tỏ ra là ngời tích cực sáng tạo, những trật tự xã hội
mới nh trong thời kỳ cách mạng, trong thời kỳ nh thế nhân dân
có thể làm đợc những kỳ công . Điều khẳng định trên cũng
đợc chứng minh qua các cuộc đấu tranh của nô lệ, nông dân
và các tầng lớp lao động khác đứng lên đấu tranh thiết lập các
chế độ tiến bộ hơn, văn minh hơn trong khi Đảng khẳng
định vai trò to lớn của quần chúng nhân dân là lực lợng sáng
tạo ra lịch sử, chủ nghĩa Mác- Lênin không phủ nhận vai trò to
lớn của lãnh tụ trong tiến trình đó, song vai trò của lãnh tụ đó,
vĩ nhân chỉ có thể có đợc trong mối quan hệ mật thiết với vai
trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử, vì chính từ
phong trào quần cúng nhân dân mà sản sinh ra lãnh tụ nếu
tách khỏi quần chúng, đứng trên quần chúng nhân dân, không
đợc quần chúng ủng hộ lãnh tụ sẽ mất tác dụng và bị lịch sử
phế bỏ.
Cách mạng vô sản là cuộc cách mạng khác căn bản với các cuộc
cách mạng đã có trong lịch sử. Đó là cuộc cách mạng của nhân
dân lao động, do nhân dân lao động tiến hành, đa lại lợi ích
cho nhân dân lao động do đảng của giai cấp công nhân lãnh
đạo, là cuộc cách mạng sâu sắc, toàn diện và triệt để nhất.

Các Mác, Ăng ghen và Lênin đã chỉ ra rằng: Các Đảng cộng sản
10


phải làm công tác dân vận, đó là công tác lâu dài và phải kiên
trì, đó là cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp và vô sản để
giành đợc sự đồng tình, giành lấy sự ủng hộ của đa số nhân
dân lao động. Mỗi thời kỳ cách mạng khác nhau phải có những
hình thức công tác quần chúng khác nhau. Các nhà sáng lập lý
luận chủ nghĩa Mác- Lênin đã chỉ ra những luận điểm sau:
Quần chúng nhân dân là ngời làm nên lịch sử, cách mạng
là sự nghiệp của chính bản thân quần chúng. Các Mác, Ăng
ghen khẳng định Những công việc và t tởng của lịch sử
đều là t tởng và công việc cảu quần chúng. Phát triển t tởng
đó trong thời đại đế quốc chủ nghĩa và cách mạng vô sản,
Lênin lại khẳng định: :Chủ nghĩa xã hội sinh động và sáng tạo
là sự nghiệp của bản thân quần chúng nhân dân. Chính lợi
ích đã gắn bó con ngời lại với nhau, lợi ích đã gắn liền với cuộc
đấu tranh là động lực của các cuộc đấu tranh, trong đó lợi ích
kinh tế, lợi ích thiết thân của cá nhân là động lực rất mạnh
mẽ. Các Mác và Ăng ghen nói: Chính lợi ích là các liên kết các
thành viên xã hội gần lại với nhau hay Tất cả những gì mà con
ngời đấu tranh để giành lấy, đều dính liền với lợi ích của
họ.Vì vậy, Lênin đã kế thừa t tởng đó của Mác và ăng ghen,
ngời nhấn mạnh: Những lý tởng cao cả nhất cũng không đáng
một xu nhỏ, chừng nào mà ngời ta không biết kết hợp chặt chẽ
những lý tởng đó vơí lợi ích của chính những ngời lao động
tham ra cuộc đấu tranh kinh tế .
Quần chúng phải hợp thành một tổ chức mới có sức mạnh Lênin
đã nói: Tổ chức, tổ chức và tổ chức!Hãy cho tôi một tổ chức

những ngời cách mạng và chúng tôi sẽ đảo ngợc nớc Nga và ngời khẳng định những công việc tổ chức nh thế chính là Đảng
của giai cấp công nhân, Đảng phải biết cách làm công tác
tuyên truyền, tổ chức, vận động làm sao cho dễ tiếp thu
11


nhất, dễ hiểu nhất, rõ dàng nhất và sinh động nhất cả đối với
phố, thuyền, nhà máy lẫn đối với các vùng nông thôn. Đoàn kết
là sức mạnh, đoàn kết sẽ trở thành một sức mạnh to lớn, không
thể có thế lực nào phá vỡ nổi, vì thế tuyên ngôn của Đảng
cộng sản, Các Mác đã kêu gọi vô sản tất cả các nớc đoàn kết
lại. Trong thời đại đế quốc chủ nghĩa và cách mạng vô sản,
vận dụng t tởng của Mác và Ăng ghen, Lênin đã mở rộng khối
đại đoàn kết của giai cấp vô sản với các dân tộc bị áp bức trên
toàn thế giới, ngời đã kêu gọi Vô sản tất cả các nớc, các dân tộc
bị áp bức đoàn kết lại.ở nớc Nga sau khi cách mạng tháng 10
năm 1917 thành công, giai cấp vô sản nắm đợc chính quyền,
Lê nin đã căn dặn: Chúng ta không chấp chúng bằng cách chia
rẽ, mà bằng cách tạo ra giữa tất cả mọi ngời lao động những
mối quan hệ keo sơn về những quyền lợi thiết thân và ý thức
giai cấp. Trong xây dựng chủ nghĩa, Lênin nhấn mạnh: Muốn
xây dựng chủ nghĩa cộng sản thành công, những ngời cộng
sản phải biết dùng bàn tay của ngời khác, phải học tập kinh
nghiệm tốt của giai cấp t sản, của nớc ngoài.
Tăng cờng giáo dục, thuyết phục và nêu gơng trớc quần chúng,
đó là nhiệm vụ hàng đầu mà Lênin đề ra cho các Đảng có:
Thuyết phục cho đa số nhân dân thấy đợc sự đúng đắn
của cơng lĩnh và sách lợc của mình. Ngời cho đây là nhiệm
vụ chiến lợc quan trọng trong thời kỳ cha có chính quyền và
thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, đội ngũ cán bộ, Đảng viên

phải thực sự gơng mẫu ở mọi lúc, mọi nơi và mọi lĩnh vực,
tăng cờng mở rộng dân chủ, công khai cho mọi ngời biết công
việc của Đảng và Nhà nớc. Đây là công tác dân vận có tác dụng
nâng cao tính chủ động, tính tích cực sáng tạo cách mạng của
quần chúng nhân dân. Lênin viết: Một nớc mạnh là nhờ vào sự
giác ngộ của quần chúng, nớc mạnh là khi quần chúng biết rõ
12


tất cả mọi cái, quần chúng có thể phán đoán đợc về mọi cái đi
vào hoạt động một cách có ý thức.
2. T tởng Hồ Chí Minh về Công tác dân vận.
Hồ Chí Minh đã thừa kế và phát triển những quan điểm
tiến bộ về nhân dân trong lịch sử t tởng Việt Nam, lịch sử t tởng của phơng Đông, phơng Tây, đặc biệt là quan điểm của
chủ nghĩa Mác- Lênin về Quần chúng nhân dân. Hồ Chí
Minh nói về quần chúng nhân dân, tuỳ theo trong văn cảnh
mà ngời dùng những thuật ngữ khác nhau: quần chúng, nhân
dân, Dân chúng và có thể hiểu khái niệm nhân dân của
Ngời bao gồm anh em trong cộng đồng dân tộc Việt Nam,
không phân biệt giai cấp, tầng lớp tôn giáo, giới tính...kể cả ngời Việt Nam ở nớc ngoài, miễn là ngời việt Nam yêu nớc, trừ
những kẻ cố tình phản dân hại nớc cam tâm làm tay sai cho
định.
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh luôn
luôn hớng về quần chúng nhân dân và coi nhân dân là gốc
của cách mạng.
Trong bài Dân vận Hồ Chí Minh đã viết Dân vận là vận
động tất cả lực lợng của mỗi ngời dân, không để sót một ngời
dân nào góp thành lực lợng toàn dân để thực hành những
việc nên làm, những công việc Chính phủ và đoàn thể giao
cho. Ngời nhấn mạnh dân vận không phải chỉ dùng bảo chơng, sách vở, mít tinh, khẩu hiệu hay chỉ thị, truyền đơn là

đủ mà trớc hết tìm mọi cách để giải thích cho mỗi ngời dân
hiểu rõ rằng việc đó là lợi ích cho họ và nhiệm vụ của họ là
phải hăng hái làm cho kỳ đợc. Bất cứ việc gì cũng phải bàn bạc
với dân, hỏi ý kiến và kinh nghiệm của dân, cùng với dân đặt
kế hoạch cho thiết thực với hoàn cảnh địa phơng, rồi động
viên và tổ chức thực hiện, trong lúc thực hiện phải luôn theo
13


dõi, giúp đỡ, đôn đốc khuyến khích họ, khi hoàn thành phải
cùng dân kiểm thảo lại công việc, rút kinh nghiệm, có khen,
chê....
T tởng Hồ Chí Minh về công tác Dân vận đợc Ngời nói và viết
ở nhiều góc độ, nhiều nơi và ở những thời điểm khác nhau.
Xong có thể khái quát lại thành những nội dung chính nh sau:
Cách mệnh là việc chung của dân chúng, chứ không phải
việc môt hai ngời. Đây là t tởng lớn, xuyên suốt cuộc đời hoạt
động lý luận và thực tiễn của ngời. Năm 1923, trớc khi dời nớc
Pháp để đến với đất nớc của Lênin, Trong th để lại cho các
đồng chí ở Hội liên hiệp thuộc địa Ngời đã tỏ quyết tâm:
Đối với tôi cần trả lời rõ ràng, trở về nớc đi vào quần chúng,
thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đa họ
ra đấu tranh giành tự do, độc lập. Tại đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ 3(tháng 9 năm 1960) trong bài diễn văn khai mạc Đại hội,
Ngời khẳng định nguyên nhân những thắng lợi của cách
mạng là công lao của quần chúng nhân dân, Ngời nói Tất cả
những thắng lợi đó không phải là công lao riêng của Đảng ta,
đó là công lao chung của toàn đồng bào ta trong cả nớc, cách
mạng là sự nghiệp của quần chúng, chứ không phải là sự
nghiệp của cá nhân anh hùng nào, thành công của Đảng ta là ở

nơi Đảng ta đã tổ chức phát huy lực lợng cách mạng vô tận của
nhân dân. Đó là sự nhìn nhận đánh giá đúng đắn của Ngời
về lực lợng to lớn của nhân dân. Ngời còn viết: Không có lực lợng nhân dân thì việc nhỏ mấy, dễ mấy cũng không làm
song. Có lực lợng thì việc khó mấy, to mấy cũng làm đợc. Vì
vậy ngời căn dặn: trong mọi việc đều phải dựa vào quần
chúng, lấy sức quần chúng để vợt qua khó khăn. Trong chiến
đấu hay xây dựng chủ nghĩa xã hội đều phải dựa vào quần
chúng: Dân khí mạnh thì quân lính nào, súng ống nào cũng
14


không chống lại nổi và Chủ nghĩa xã hội chỉ có thể xây
dựng đợc với sự giác ngộ đầy đủ vào lao động sáng tạo hàng
chục triệu ngời.
Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin vào điều kiện
một nớc thuộc địa nửa phong kiến nh nớc ta, Hồ Chí Minh
không chỉ tin tởng, đánh giá đúng đắn lực lợng cách mạng to
lớn của nhân dân nói chung, mà còn nhìn nhận, xác định lực
lợng cách mạng nhất trong quần chúng, đó là giai cấp công
nhân, giai cấp nông dân. Ngời viết: Chủ nghĩa Mác- Lênin đã
giúp đỡ Đảng ta thấy rằng trong điều kiện một nớc nông
nghiệp lạc hậu nh nớc ta thì vẫn đề dân tộc thực chất là vẫn
đề nông dân, cách mạng dân tộc thực chất là cách mạng của
nông dân, do giai cấp nông dân lãnh đạo , Vì vậy, trải qua
các thời kỳ, Đảng ta đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
nắm vững và giải quyết đúng đắn vấn đề nông dân, củng
cố liên minh công nông. Đây là đấu tranh chống xu hớng hữu
khuynh và tả khuynh, đánh giá vai trò của nông dân, quân
chủ lực cách mạng, là bạn đồng minh chủ yếu và tin cậy nhất
của giai cấp công nhân, là lực lợng cơ bản cùng giai cấp công

nhân xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đồng thời trong văn kiện
đầu tiên mang tính cơng lĩnh của Đảng, Hồ Chí Minh cũng
chỉ rõ: Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu t sản, trí thức, trung
nông để lôi kéo họ đi về phe vô sản giai cấp. Khi cách mạng
tháng 8/1945 thành công, Ngời nhấn mạnh: Tri thức là vốn quý
báu của dân tộc() đầu óc dân tộc và đầu óc cách mạng,
cách mạng rất cần tri thức và thực hiện cách mạng mới biết
trọng tri thức nhng không phải bất cứ tri thức nào cũng đều
phải trọng trọng dụng, đáng trọng là tri thức hết lòng phục vụ
cách mạng, phục vụ nhân dân. T tởng Hồ Chí Minh là một cơ
sở rất quan trọng, nó quyết định hớng, đờng lối, chủ chơng,
15


chính sách đúng đắn của Đảng ta về phát huy đợc lực lợng
của tầng lớp trí thức đoàn kết xung quanh Đảng cùng giai cấp,
các tầng lớp nhân dân lao động khác trong sự nghiệp đấu
tranh giành độc lập tự do và xây dựng đất nớc.
Quan tâm đến lợi ích của nhân dân là một trong những
vấn đề cốt lõi trong T tởng Hồ Chí. T tởng này đã trở thành
mục tiêu duy nhất của Đảng. Ngời nói Ngoài lợi ích của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động, Đảng ta không có lợi ích
gì khác. Ngời đã hy sinh cả cuộc đời cho mục tiêu cao cả là nớc độc lập, nhân dân đợc tự do, hạnh phúc: Cả cuộc đời tôi
chỉ là mục đích phấn đấu cho quyền lợi của Tổ quốc và hạnh
phúc của nhân dân() bất kỳ bao giờ, bất kỳ ở đâu tôi cũng
chỉ theo đuổi một đích là ích nớc lợi dân. Vì thế Hồ Chí
Minh cho rằng: Nếu có độc lập mà dân không đợc hởng hạnh
phúc tự do thì độc lập cũng không có nghĩa lý gì. Ngời căn
dặn cán bộ Đảng viên: Việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức
làm, việc gì hại cho dân ta phải hết sức tránh và Chính phủ

và Đảng chỉ muốn giải phóng cho nhân dân, vì thế bất cứ
việc gì cũng vì lợi ích của nhân dân mà làm mà chịu trách
nhiện trớc nhân dân. Trớc lúc phải đi xa Ngời đã căn dặn:
Đảng phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn
hoá, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân.
Quan tâm chăm lo lợi ích của nhân dân, Ngời cũng đã luôn
nhắc nhở phải chống quan liêu, tham ô, lãng phí, cửa quyền
của đội ngũ cán bộ Đảng viên, Ngời căn dặn: Chúng ta phải
hiểu rằng các cơ quan của Chính phủ, từ toàn quốc đến các
làng bản đều là đầy tớ của dân, nghĩa là gánh việc chung
cho dân, chứ không phải đè đầu dân nh trong thời kỳ thống
trị của Nhật, Pháp và Ngời đã đa ra phơng thức để cứu chữa
bệnh cửa quyền, quan liêu, mệnh lệnh đó là:
16


Đặt lợi ích của dân lên trên hết, liên hệ chặt chẽ với nhân
dân, việc gì cũng bàn với nhân dân, giải thích cho dân hiểu
rõ. Có khuyết điển phải thật thà tự phê bình trớc dân và hoan
nghênh dân phê bình mình. Sẵn sàng học hỏi nhân dân, tự
mình phải làm gơng mẫu cần kiệm liêm chính để nhân dân
noi theo.
Bên cạnh quan tâm đến lợi ích, đoàn kết cũng là một
nội dung lớn của t tởng Hồ Chí Minh về công tác Dân vận. Ngay
trong tác phẩm Đờng cách mệnh Hồ Chí Minh đã viết: Cách
mệnh thì phải đoàn kết dân chúng bị áp bức để đánh đổ
cả các giai cấp áp bức mình, chứ không phải nhờ 5;7 ngời giết
2; 3 vua, 9 ;10 quan mà đợc Sau khi kháng chiến trống thực
dân Pháp thắng lợi tại đại hội Mặt trận tổ quốc thống nhất
năm 1955, Ngời đã tổng kết: Trong lịch sử những năm qua đã

tỏ rõ lực lợng đoàn kết của nhân dân ta là vô địch. Hay
trong th gửi đồng bào cả nớc tháng 7 năm 1956, Hồ Chủ Tịch lại
một lần nữa khảng định Đại đoàn kết là một lực lợng tất
thắng. Khi cuộc chiến đấu chống Mỹ đang lan rộng khắp
miền nam, Ngời kêu gọi: Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết.
Thành công, thành công, đại thành công.
Nh vậy Hồ Chí Minh đã khảng định sức mạnh tất thắng
của sự đoàn kết. Đoàn kết ở t tởng Hồ Chí Minh là đoàn kết
dân tộc kết hợp với đoàn kết quốc tế, mà trớc hết đó là đoàn
kết dân tộc, đoàn kết trong trong từng giai cấp, từng giới, các
giai cấp và đoàn kết quân dân, đoàn kết cán bộ. Nhờ t tởng
đó mà Đảng ta đã tập hợp lực lợng ngày càng đông đảo, hùng
mạnh của các giai cấp, các tầng lớp, các dân tộc trong nớc và
tranh thủ đợc sự đồng tình và ủng hộ của nhân loại tiến bộ
đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Để phát huy sức mạnh
của khối đại đoàn kết toàn dân, Hồ Chí Minh đã đánh giá rất
17


cao về dân chủ và thực hành dân chủ. Ngời cho rằng: Dân
chủ là quý báu nhất, thực hành dân chủ là cái chìa khoá vạn
năng có thể giải quyết mọi khó khăn. Ngời chỉ rõ: Dân chủ là
dựa vào lực lợng quần chúng, đi đúng đờng lối quần chúng,
Có dân chủ mới làm cho cán bộ và quần chúng đề ra sáng
kiến và phát huy dân chủ cao độ thì mới động viên đợc tất
cả lực lợng nhân dân đa cách mạng tiến lên. Từ Dân chủ đã
nói lên Hồ Chí Minh rất tôn trọng và đề cao địa vị, quyền lợi
và trách nhiệm của nhân dân. Ngời cho rằng nớc ta là một nớc
dân chủ Dân là chủ, Địa vị cao nhất là dân do đó:
Bao nhiêu lợi ích đều vì dân,

Bao nhiêu quyền hạn đều vì dân,
Công việc dổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân
Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân.
Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ơng do dân cử
ra.
Đoàn thể từ Trung ơng đến xã do dân tổ chức nên.
Nói tóm lại, quyền hành lực lợng đều ở nơi dân.
Để phát huy dân chủ cao độ, Hồ Chí Minh yêu cầu phải
xây dựng một Đảng chân chính cách mạng và một chính
quyền thực sự dân chủ coi trọng phơng thức và tác phong
công tác quần chúng, trớc hết cán bộ đảng viên phải tự mình
làm gơng cho quần chúng, Ngời căn dặn Nâng cao tinh thần
phụ trách trớc Đảng và trớc quần chúng, hết lòng, hết sức phục
vụ nhân dân, phải thật tôn trọng quyền làm chủ của nhân
dân, tuyệt đối không đợc lên mặt quan liêu cách mạng, ra
lệnh, ra oai, phải gần gũi quần chúng, kiên trì giải thích cho
quần chúng hiểu rõ đờng lối, chủ chơng chính sách của Đảng
và Nhà nớc. Ngời dặn: Muốn thật sự gần gũi quần chúng, thì
phải cùng ăn, cùng ở, cùng làm mới biết sinh hoạt của quần chúng
18


nh thế nào, mới biết nguyện vọng của quần chúng ra sao.
Thực tiễn cách mạng cho thấy t tởng Hồ Chí Minh là một trong
những nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt
Nam.
Nhất là thời kỳ hiện nay, t tởng của Ngời càng trở lên quan
trọng, cần thiết. Do vậy phải quán triệt và vận dụng sáng tạo t
tởng Hồ Chí Minh về Dân vận đang là vấn đề cấp bách đối
với toàn Đảng, toàn dân.

3. Quan điểm của Đảng ta về công tác dân vận.
Quán triệt và vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin
về nhân dân và công tác Dân vận từ khi mới ra đời, Đảng ta
đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhanh chóng phát huy
đợc sức mạnh đoàn kết dân tộc làm nên các phong trào cách
mạng 1930- 1931, 1936- 1939, 1939-1945, đặc biệt là thắng
lợi(1945-1975) và xây dựng phát triển đất nớc trong thời kỳ mới.
Công tác dân vận là một bộ phận của công tác xây dựng Đảng.
Ngày nay trong tình hình mới, công tác dân vận là một nhiệm
vụ quan trọng mang tính chiến lợc và hết sức cấp bách. Bởi
công cuộc đổi mới của đất nớc diễn ra trong tình hình trong
nớc và thế giới có những thuận lợi, khó khăn phức tạp đòi hỏi
phải phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc để tập hợp lực
lợng, huy động mọi tiềm lực xây dựng đất nớc.
Công tác dân vận chính là toàn bộ hoạt động của đảng nhằm
tăng cờng mối liên hệ chặt chẽ giữa Đảng với nhân dân. Đây là
mối quan hệ hai chiều trách nhiệm của Đảng trớc dân và ngợc
lại nghĩa vụ của dân với sự nghiệp của cách mạng do Đảng lãnh
đạo.
Công tác dân vận là công tac đối với con ngời, chăm sóc,
bồi dỡng, giáo dục và phát huy nhân tố con ngời, vì mục tiêu
Dân giàu, nớc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
19


Trong điều kiện hiện nay phát triển kinh tế nhiều thành phần
vận hành theo cơ chế thị trờng, đinh hớng xã hội chủ nghĩa đã
làm biến động cơ cấu giai cấp xã hội, phân hoá giàu nghèo
ngày càng sâu sắc. Do đó công tác dân vận phải có sự phân
tích thật khoa học để có những chính sách phù hợp, những nội

dung và phơng thức vận động thích hợp với mọi tầng lớp trong
xã hội.
Hơn nữa, các thế lực thù định trong và ngoài nớc đang
hoạt động chống phá Đảng và Nhà nớc, gây mất ổn định
chính trị, chia rẽ Đảng với nhân dân. Do vậy, đòi hỏi Đảng phải
tăng cờng củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, gắn bó mật
thiết với nhân dân nhằm làm thất bại âm mu phá hoại của kẻ
thù.
Trong thời gian qua, tệ quan liêu, rời xa quần chúng của một bộ
phận không nhỏ cán bộ, Đảng viên ở nhiều nơi làm cho mối
quan hệ máu thịt giữa Đảng và quần chúng nhân dân bị suy
yếu, uy tín của Đảng và Nhà nớc với nhân dân có phần giảm
sút. Tình hình đó đòi hỏi Đảng phải hết sức quan tâm đổi
mới công tác dân vận và kiên quyết khắc phục tệ quan liêu, rời
xa quần chúng.
Trong công cuộc đổi mới đất nớc do Đảng ta khởi xớng và lãnh
đạo, Đảng đã quán triệt và vận dụng chủ nghĩa Mác- Lênin và t
tởng Hồ Chí Minh về công tác dân vận bằng nhiều Nghị quyết
trong những thời điểm khác nhau, trong đó Nghị quyết trung
ơng 8 B(khoá VI) ra đời có tầm quam trọng đặc biệt cho công
tác dân vận hiện nay. Những quan điểm chỉ đạo đổi mới
công tác Dân vận của Nghị quyết trung ơng 8B và các Nghị
quyết của đại hội VII, VIII, IX và X nêu ra ngày càng thiết thực,
phù hợp với tình hình mới. Các quan điểm đó là một hệ thống
20


nhận thức liên hoàn ngày càng hoàn chỉnh hơn về công tác
dân vận của Đảng ta đó là:
Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, đó là nhân dân,

vì nhân dân:
Phải luôn lấy mục tiêu vì hạnh phúc của nhân dân làm
trọng, chăm lo hạnh phúc con ngời là mục tiêu phấn đấu cao
nhất.
Nhân dân là lực lợng tiến hành mọi nhiệm vụ, mọi công việc
to lớn trong sự nghiệp cách mạng, do đó đòi hỏi tuyệt đối tôn
trọng quyền làm chủ của nhân dân, tăng cờng củng cố khối
đại đoàn kết dân tộc, có những chính sách cụ thể nhằm củng
cố liên minh công- Nông- trí thức. Đây là hạt nhân của khối đại
đoàn kết dân tộc, nền tảng của chế độ ta, đồng thời phải
tôn trọng các chính sách dân tộc, tự do tín ngỡng của đồng
bào các tôn giáo.
Để thực hiện tốt vẫn đề này phải dựa trên cơ sở t tởng Hồ Chí
Minh:
Mọi việc có ích cho dân thì phải làm, mọi việc có hại cho dân
thì phải tránh. Phải nghiêm khắc phê phán những t tởng hành
động quan liêu, xa dời quần chúng, tham nhũng, độc đoán,
chuyên quyền, vi phạm dân chủ của một bộ phận cán bộ Đảng
viên.
Động lực thúc đẩy phong trào quần chúng, là đáp ứng lợi
ích thiết thực của nhân dân, kết hợp hài hoà các lợi ích, thống
nhất quyền lợi và nghĩa của công dân. Lợi ích chính là động
lực thúc đẩy phong trào hành động cách mạng của quần
chúng, đồng thời đó chính là mục tiêu của Đảng, của cách
mạng. Để có phong trào quần chúng và các chủ trơng chính
sách của Đảng và Nhà nớc nhanh chóng đi vào đời sống xã hội
thì vẫn đề cốt lõi là các chủ trơng, chính sách đó phải phù
21



hợp với lợi ích chính đáng của nhân dân, mọi hoạt động của
Đảng, Nhà nớc phải đáp ứng yêu cầu, lợi ích và nguyện vọng
của nhân dân. Nhng trong xã hội ta, con ngời thuộc về nhiều
cộng đồng dân tộc với nhiều nghành nghề khác nhau, mức
sống và trình độ cũng rất khác nhau. Do đó nguyện vọng của
mỗi vùng, mỗi dân tộc rất đa dạng.
Vì vậy, vẫn đề lợi ích phải kết hợp hài hoà giữa lợi ích
của các giai tầng trong xã hội. Nghị quyết Trung ơng 8B(khoá
VI) đã chỉ đạo: Trong xã hội do nhân dân làm chủ, lợi ích cá
nhân lợi ích tập thể và lợi ích xã hội gắn chặt với nhau, trong
đó lợi ích cá nhân là động lực trực tiếp, nhng lợi ích phải gắn
liền với nghĩa vụ, cần khắc phục những lệch lạc cho rằng chỉ
nhắn mạnh huy động sức dân mà coi nhẹ việc bồi dỡng sức
dân, đồng thời khắc phục t tởng mị dân, cục bộ làm hại đến
lợi ích chung, chỉ chú trọng đến vấn đề kinh tế mà quyên
mất chính sách xã hội, chính sách giáo dục- đào tạo, chỉ biết
đến quyền lợi mà quyên mất nghĩa vụ, chỉ thấy lợi ích cá
nhân mà coi nhẹ lợi ích xã hội, của Quốc gia.
Để thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ cách mạng trong giai
đoạn mới, Đảng ta bao giờ cũng coi trọng vẫn đề xây dựng lực
lợng cách mạng, đó là xây dựng Mặt trận thống nhất và tập hợp
các tầng lớp nhân dân trong các tổ chức đoàn thể chính trị,
tổ chức xã hội.
Nghị quyết Trung ơng 8B(khoá VI) đã khẳng định:
Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, các hình thức tập hợp
dân phải đa dạng. Tại đại hội khoá VII, VIII, IX và X Đảng ta lại
tiếp tục khẳng định: Củng cố mở rộng tổ chức hoạt động
của Mặt trận tổ quốc Việt Nam và mở rộng và đa dạng hoá
các hình thức tập hợp nhân dân tham ra các đoàn thể nhân
dân, các tổ chức xã hội, các hội nghề nghiệp, văn hoá, hữu

22


nghị, từ thiện nhân đạo. Đa dạng hoá các hình thức tập hợp
nhân dân là hợp với quy luật phát triển của xã hội mới, có nh
vậy mới phát huy đợc khả năng sáng tạo phong phú của nhân
dân để giải quyết những lợi ích nguyện vọng chính đáng về
mọi mặt của các tầng lớp nhân dân và đóng góp thiết thực
vào sự nghiệp chung của đất nớc.
Công tác quần chúng là trách nhiệm của đảng, chính quyền
và các đoàn thể nhân dân. Công tác quản lý không phải là
công việc riêng của các đoàn thể, mà là của cả hệ thống
chính trị, có sự phối hợp chặt chẽ với nhau dới sự lãnh đạo của
Đảng. Có nh vậy mới tập hợp mọi lực lợng, đoàn kết đợc toàn
dân, tạo thành phong trào quần chúng rộng lớn.
Trớc hết, công tác dân vận là trách nhiệm của Đảng, là một
trong những công tác cơ bản của Đảng, nó có mối quan hệ
chặt chẽ với công tác xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền.
Đảng không chỉ lãnh đạo hệ thống chính trị làm công tác vận
động quần chúng, mà mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân
còn đợc thể hiện thông qua tổ chức Đảng, hệ thống Nhà nớc,
Mặt trận, các đoàn thể và bộ máy tham mu các cấp uỷ trong
việc lãnh đạo công tác Dân vận. Đòng thời cử cán bộ, đảng viên
làm nòng cốt lãnh đạo các cơ quan dân cử các đoàn thể nhân
dân , trong điều kiện Đảng lãnh đạo chính quyền thì mối
quan hệ giữa Đảng và nhân dân chủ yếu tiến hành thông qua
bộ máy Nhà nớc. Do đó Nhà nớc có vai trò trách nhiệm to lớn đối
với công tác quần chúng, để Nhà nớc thật sự là của dân, do
dân và vì nhân dân thì đòi hỏi bộ máy Nhà nớc từ Trung ơng đến địa phơng, từ cơ quan dân cử đến cơ quan hành
pháp, t pháp đều phải nêu cao tinh thần phục vụ nhân dân, ý

thức trách nhiệm trớc nhân dân, gắn bó chặt chẽ với nhân
dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Mọi cán bộ Đảng
23


viên, chính quyền khi thực hiện chức trách của mình đều
phải tôn trọng nhân dân, có ý thức dựa vào dân, học hỏi
nhân dân, tự giác nhận sự kiểm tra của nhân dân, khắc
phục tệ hách dịch, quan liêu, mệnh lệnh. Có những chính
sách, kế hoạch kinh tế- xã hội phù hợp và vận động nhân dân
thực hiện để tiếp tuc cải cách hành chính, nâng cao nghiệp
vụ cho đội ngũ cán bộ, phối hợp và tạo điều kiện để phát huy
vai trò chính trị xã hội của mặt trận và các đoàn thể nhân
dân.
Mặt trận là liên minh chính trị, cơ quan tiêu biểu của các
giai tầng trong xã hội, mặt trận là cơ sở chính trị- xã hội của
chính quyền nhân dân và các đoàn thể chính trị- xã hội là
lực lợng nòng cốt trong phong trào quần chúng. Các hội viên,
đoàn viên không chỉ sinh hoạt và công tác trong tổ chức mà
còn phải là ngời gơng mẫu và biết thuyết phục, vận động
những ngời xung quanh mình tham ra hoạt động do đoàn thể
mình đề ra.
Cùng với sự nghiệp đổi mới của đất nớc, trong đó công tác dân
vận của Đảng cũng đợc đổi mới nhằm đáp ứng với tình hình
mới.
Trong đổi mới về công tác dân vận, Đảng bộ thành phố Hải
phòng xác định: Cấp uỷ Đảng cần tăng cờng công tác lãnh
đạo, chỉ đạo có chơng trình kế hoạch cụ thể tiếp tục thực
hiện Nghị quyết trung ơng 8B(khoá VI) về công tác quần
chúng. Đảng bộ thành phố Hải Phòng xác định: Công tác dân

vận có một ý nghĩa chiến lợc cực kỳ quan trọng, làm tốt công
tác dân vận của Đảng sẽ là một yếu tố quyết định trong việc
thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế- xã hội, an ninh quốc
phòng địa ở địa phơng. Trớc hết, các tổ chức Đảng phải lấy
công tác vận động quần chúng và chăm lo lợi ích của quần
24


chúng làm nội dung chủ yếu cho vận động của mình, chăm lo,
tạo điều kiện cho nhân dân phát triển kinh tế, mọi nhà ấm
no, không còn mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học, trung học cơ
sở, trung học và nghề, từng bớc nâng cao dân trí, đảm bảo
quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng các cụm dân c, xóm
làng đoàn kết, yên vui, gia đình hoà thuận, hạnh phúc, xã hội
công bằng, dân chủ và văn minh Nghị quyết Đại hội đảng bộ
thành phố Hải Phòng lần thứ XIII tiếp tục nhẫn mạnh: Tăng cờng mối liên hệ mật thiết- giữa Đảng với nhân dân, Thu hút
đông đảo nhân dân tham ra vào phong trào thi đua yêu nớc
phát triển kinh tế-xã hội, chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng
của hội viên, đoàn viên và nhân dân
Cùng với việc kiện toàn, bổ sung cho ban Dân vận của Quận
để chỉ đạo các cấp, các ngành thực hiện tốt công tác dân
vận, theo tinh thần Nghị quyết Trung ơng và Đảng Bộ thành
phố Hải Phòng. kết hợp công tác dân vận với chính sách kinh
tế- xã hội để mang lại hiệu quả tốt nhất cho sự nghiệp đổi mới
ở địa phơng.
4. Tính cấp bách phải tăng cờng và đổi mới công tác dân
vận trong giai đoạn hiện nay:
Tăng cờng và đổi mới công tác Dân vận là đòi hỏi khách
quan, bức thiết và thực trạng công tác Dân vận của Đảng, Nhà
nớc, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trớc đây

làm cha tốt.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI đã tổng kết từ thực
tiễn cách mạng nớc ta rút ra bốn bài học kinh nghiệm. Trong đó,
bài học kinh nghiệm số một là Lấy dân làm gốc. Đồng thời
phê phán nghiêm khắc tệ quan liêu, mệnh lệnh, xa dời quần
chúng, đi ngợc lợi ích của nhân dân, làm suy yếu sức mạnh
của Đảng, dẫn đến hậu quả làm giảm sút nhiệt tình cách
25


×