Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Pháp Luật Về Tiền Lương Tối Thiểu Tại Việt Nam Hiện Nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (668.75 KB, 86 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

CAO THỊ QUỲNH TRANG

PHÁP LUẬT VỀ TIỀN LƯƠNG TỐI THIỂU
TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

HÀ NỘI, 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

CAO THỊ QUỲNH TRANG

PHÁP LUẬT VỀ TIỀN LƯƠNG TỐI THIỂU
TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY

Ngành: Luật kinh tế
Mã số: 8 38 01 07

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. NGUYỄN HỮU CHÍ

HÀ NỘI, 2019


LỜI CAM ĐOAN


Tôi là Cao Thị Quỳnh Trang , Học viên cao học đợt 1 -2017 chuyên
ngành Luật Kinh tế tại Học viện Khoa học xã hội, xin cam đoan luận văn
“Pháp luật về tiền lương tối thiểu tại Việt Nam hiện nay” là công trình nghiên
cứu khoa học độc lập của cá nhân tôi. Kết quả nghiên cứu trong luận văn là
do tác giả thực hiện.
Các tài liệu, số liệu, kết quả nghiên cứu của các tổ chức, cá nhân khác
được tham khảo, sử dụng, trích dẫn trong luận văn đều đã được ghi rõ nguồn
gốc một cách trung thực. Tôi xin chịu trách nhiệm về những nội dung đã cam
đoan ở trên.
Tác giả luận văn

Cao Thị Quỳnh Trang


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chương 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TIỀN LƯƠNG TỐI THIỂU VÀ PHÁP
LUẬT VỀ TIÊN LƯƠNG TỐI THIỂU .................................................................. 6

1.1. Khái quát chung về tiền lương tối thiểu ..................................................... 6
1.2. Pháp luật về tiền lương tối thiểu ........................................................................ 21

1.3. Lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật về tiền lương tối thiểu tại
Việt Nam ......................................................................................................... 27
Chương 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ TIỀN LƯƠNG TỐI THIỂU Ở
VIỆT NAM .............................................................................................................. 33

2.1. Quy định của pháp luật hiện hành về tiền lương tối thiểu ở Việt Nam ... 33
2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật về tiền lương tối thiểu ở Việt Nam ............ 43
Chương 3. HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC

THI............................................................................................................................ 59
PHÁP LUẬT VỀ TIỀN LƯƠNG TỐI THIỂU Ở VIỆT NAM........................... 59

3.1. Yêu cầu của việc hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thi hành pháp
luật về tiền lương tối thiểu .............................................................................. 59
3.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thi hành pháp
luật về tiền lương tối thiểu .............................................................................. 64
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 81


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong hai thập niên trở lại đây, tình hình kinh tế - xã hội nước ta đã có
nhiều thay đổi quan trọng, đánh dấu bước ngoặt trên con đường phát triển: chỉ tiêu
tăng trưởng luôn được duy trì, các chỉ báo xoá đói giảm nghèo, phát triển con
người, bình đẳng giới tương đối khả quan trong điều kiện trình độ phát triển kinh
tế với xuất phát điểm thấp, bối cảnh thế giới và khu vực có nhiều biến động không
thuận lợi. Những thành tựu đó là kết quả của chính sách đổi mới đất nước đã được
Đảng và Nhà nước ta đề ra và thực hiện thông qua các chính sách và biện pháp
trên mọi lĩnh vực, trong đó các chính sách về tiền lương. Tiền lương là một trong
những công cụ kinh tế quan trọng và nhạy cảm trong đời sống kinh tế - chính trị
và xã hội của bất cứ một quốc gia nào. Chính vì vậy, việc nghiên cứu tiền lương,
nhất là tiền lương tối thiểu phải luôn được quan tâm để có thể giúp các nhà hoạch
định chính sách cũng như các nhà chức trách có được một cái nhìn đầy đủ, toàn
diện, chính xác và sâu sắc hơn nữa về chế định kinh tế đặc biệt quan trọng này.
Như chúng ta đã biết, tiền lương đóng vai trò quan trọng trong đời sống của
người lao động. Tiền lương là nguồn để tái sản xuất sức lao động, vì vậy nó tác
động rất lớn đến thái độ của người lao động đối với sản xuất, quyết định tâm tư,
tình cảm của nhân dân đối với chế độ của xã hội. Xét trên góc độ quản lý kinh

doanh, quản lý xã hội, vì tiền lương luôn là nguồn sống của người lao động nên nó
là đòn bẩy kinh tế quan trọng. Thông qua chính sách tiền lương, Nhà nước có thể
điều chỉnh lại nguồn lao động giữa các vùng theo yêu cầu phát triển kinh tế xã hội
của đất nước.
Tiền lương, trong đó có mức lương tối thiểu, là vấn đề rất phức tạp
trong chính sách kinh tế - xã hội của mọi quốc gia. Muốn giải quyết tương đối tốt,
phù hợp chính sách tiền lương, cần thống nhất nhận thức và hành động về vấn đề
này.

Tiền lương tối thiểu vốn nhằm bảo vệ người lao động, lo cho những người

làm công ăn lương khó khăn nhất. Nhưng để bảo đảm hài hòa lợi ích, Hội đồng
Tiền lương Quốc gia được thành lập theo quy định tại Bộ luật Lao động năm 2012

1


là một cơ chế đối thoại. Tiền lương tối thiểu từ chỗ hoàn toàn do Nhà nước dẫn
dắt chuyển sang cơ chế ba bên, ghi nhận tầm quan trọng của việc người lao động
và người sử dụng lao động tham gia vào quá trình xác định tiền lương tối thiểu.
Xuất phát từ tính cấp thiết, ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc của vấn đề
tiền lương tối thiểu tại Việt Nam nên tác giả mạnh dạn lựa chọn đề tài: “Pháp luật
về tiền lương tối thiểu tại Việt Nam hiện nay” làm đề tài nghiên cứu luận văn
thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Quá trình tìm hiểu và sưu tầm tài liệu cho thấy trước đây đã có không ít
công trình nghiên cứu về vấn đề tiền lương tối thiểu tại Việt Nam. Có thể kể đến
các công trình nghiên cứu như: Phạm Thị Quỳnh Trang (2009), Khóa luận tốt
nghiệp, “Tiền lương tối thiểu trong pháp luật lao động Việt Nam”, Trường Đại
học Luật Hà Nội; Đào Duy Phương (2010), Chế độ pháp lý về lương tối thiểu và

hướng hoàn thiện, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội; Phạm
Thị Hồng (2013), Pháp luật về tiền lương – thực trạng áp dụng tại công ty cổ phần
đầu tư và thương mại TNG, Luận văn ThS Luật học, Khoa Luật Đại học quốc gia
Hà Nội; Lưu Thị Lam (2014), luận văn thạc sĩ luật học, “Pháp luật Việt nam về
tiền lương tối thiểu” hay luận án tiến sĩ của Vũ Hồng Phong “Nghiên cứu tiền
lương, thu nhập trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước trên địa bàn Hà Nội” đề
cập đến vấn đề thực tiễn thực hiện các chế định pháp luật về tiền lương trên địa
bản thành phố Hà Nội – một trong những trung tâm kinh tế - chính trị - xã hội lớn
nhất cả nước; luận văn thạc sĩ “Hoàn thiện quy chế trả lương tại Tổng công ty
Sông Đà” của Nguyễn Thị Thùy Linh. Rất nhiều báo cáo chuyên đề, đề tài nghiên
cứu về tiền lương tối thiểu: Báo cáo phiên 1 và phiên 2 của Bộ phận kỹ thuật Hội
đồng tiền lương quốc gia về đề xuất mức lương tối thiểu năm 2018; Tham luận
“Hoàn thiện các quy định của pháp luật về tiền lương tối thiểu” của tiến sĩ Bùi Sỹ
Lợi – Phó chủ nhiệm Ủy ban về các vấn đề xã hội; các Báo cáo và đề xuất trao đổi
tại cuộc họp Hội đồng tiền lương quốc gia của Phòng Thương mại và Công nghiệp

2


Việt Nam (VCCI); Báo cáo và đề xuất phương án lương tối thiểu vùng năm 2018
của Cục quan hệ lao động – Tiền lương…
Tuy nhiên, phần lớn các công trình trên chỉ đề cập đến những khía cạnh
khác nhau của vấn đề tiền lương tối thiểu hoặc có nghiên cứu chung về pháp luật
tiền lương tối thiểu thì về mặt thời gian, pháp luật tiền lương tối thiểu luôn luôn
vận động và thay đổi theo sự biến động của tình hình kinh tế - xã hội. Luận văn
“Pháp luật về tiền lương tối thiểu tại Việt Nam hiện nay” tập trung nghiên cứu
và bám sát về vấn đề tiền lương tối thiểu đang trong quá trình sửa đổi, bổ sung Bộ
luật lao động năm 2012 và việc ban hành Nghị định 157/2018/NĐ-CP của Chính
Phủ quy định về mức lương tối thiểu vùng của người lao động làm việc theo hợp
đồng lao động năm 2019 để đáp ứng yêu cầu đặt ra của thực tiễn áp dụng pháp

luật.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài nằm phân tích, làm rõ các nội dung pháp
lý về chính sách tiền lương tối thiểu, qua đó đưa ra những kiến nghị phù hợp để
hoàn thiện nội dung này.
Để đạt được mục đích trên, đề tài thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Khái quát về chế định tiền lương tối thiểu theo quy định của pháp luật
quốc tế, pháp luật Việt Nam cũng như sơ lược sự phát triển của chế định này qua
các thời kì. Phân tích, làm rõ các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về
chế định tiền lương tối thiểu.
- Tìm hiểu thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật Việt Nam hiện
hành về việc xác lập, điều chỉnh và áp dụng pháp luật về tiền lương tối thiểu.
- Đề xuất các giải pháp, kiến nghị hoàn thiện pháp luật về tiền lương tối
thiểu trong hiện tại và tương lai.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung vào đối tượng nghiên cứu là:
- Các quan điểm về tiền lương tối thiểu;
- Quy định của pháp luật Việt Nam về tiền lương tối thiểu;

3


- Thực tiễn thi hành pháp luật về tiền lương tối thiểu.
- Nội dung pháp lý về tiền lương tối thiểu bất cập cần hoàn thiện.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn tập trung vào chế định pháp luật tiền
lương tối thiểu hiện hành của Việt Nam. Cụ thể, bao gồm các nội dung như: quy
định của pháp luật về tiền lương tối thiểu vùng, tiền lương tối thiểu ngành, tình
hình thực hiện quy định về tiền lương tối thiểu trên thực tế và định hướng hoàn
thiện pháp lý dựa trên chính sách pháp luật về tiền lương tối thiểu hiện tại.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác- Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, đồng thời sử dụng và kết hợp một
cách hợp lý các phương pháp nghiên cứu khoa học như: phương pháp phân tích,
phương pháp lịch sử, phương pháp tổng hợp, diễn giải, suy luận logic, so sánh…
nhằm chứng minh các luận điểm nêu ra trong luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Ý nghĩa lý luận:
+ Đề xuất phương phương án xác định mức sống tối thiểu, phương án
kỹ thuật xây dựng phương án tiền lương tối thiểu tiến bộ, phù hợp với đặc thù
kinh tế - xã hội của Việt Nam hiện nay.
+ Đề xuất phương án pháp lý nhằm xác lập, điều chỉnh các quy định của
pháp luật về tiền lương tối thiểu.
Ý nghĩa thực tiễn:
+ Kết quả nghiên cứu giúp đánh giá tính phù hợp, những yếu tố tích cực
và những tồn tại, hạn chế còn tồn đọng của pháp luật về tiền lương tối thiểu ở Việt
Nam.
+ Kết quả nghiên cứu có thể được dùng để định hướng cho việc điều
chỉnh pháp luật về tiền lương tối thiểu, định hướng cho các phương án xác lập tiền
lương tối thiểu trong thời gian sắp tới.
+ Kết quả nghiên cứu có thể được sử dụng làm tài liệu giảng dạy, nghiên
cứu khoa học và tham khảo cho các đối tượng quan tâm.

4


7. Kết cấu của luận văn
Ngoài Lời mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn
gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát chung về tiền lương tối thiểu và pháp luật về tiền
lương tối thiểu.

Chương 2: Thực trạng pháp luật về tiền lương tối thiểu tại Việt Nam.
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật
về tiền lương tối thiểu ở Việt Nam.

5


Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TIỀN LƯƠNG TỐI THIỂU
VÀ PHÁP LUẬT VỀ TIÊN LƯƠNG TỐI THIỂU
1.1. Khái quát chung về tiền lương tối thiểu
1.1.1. Khái niệm và các loại tiền lương tối thiểu
1.1.1.1. Khái niệm tiền lương tối thiểu
Tiền lương tối thiểu theo quan điểm của Các Mác:
Lý luận nói chung về tiền lương đã được các nhà kinh tế nghiên cứu từ rất lâu
bắt đầu là W.Petty. Chính William Petty là người đầu tiên trong lịch sử đặt nền móng
cho lý thuyết “quy luật sắt về tiền lương”. Lý thuyết mức lương tối thiểu phản ánh trình
độ phát triển ban đầu của chủ nghĩa tư bản. Lúc này, sản xuất chưa phát triển, để buộc
công nhân làm việc, giai cấp tư sản phải dựa vào Nhà nước để duy trì mức lương thấp.
Tuy nhiên từ lý luận này ta thấy được là, công nhân chỉ nhận được từ sản phẩm lao động
của mình những tư liệu sinh hoạt tối thiểu do họ tạo ra. Phần còn lại đã bị nhà tư bản
chiếm đoạt. Đó là mầm mống phân tích sự bóc lột.
Lý luận về tiền lương của Mác là sự tiếp tục phát triển lý luận về tiền lương của
các nhà kinh tế cổ điển trước đó. Lý luận tiền lương của Mác đã vạch rõ bản chất của tiền
lương dưới chủ nghĩa tư bản đã bị che đậy – tiền lương là giá cả của lao động, bác bỏ
quan niệm của các nhà kinh tế tư bản trước đó (Ricardo). Những luận điểm của Mác về
tiền lương vẫn còn giá trị đến ngày nay.
Theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tiền lương là một phần thu nhập
quốc dân biểu hiện bằng tiền mà người lao động nhận được để bù đắp cho lao động đã
bỏ ra tuỳ theo số lượng và chất lượng của người lao động đó. Như vậy tiền lương là một

phần giá trị mới sáng tạo ra được phân phối cho người lao động để tái sản xuất sức lao
động của mình. Vì người lao động trong quá trình tham gia sản xuất phải hao phí một
lương sức lao động nhất định và sau đó phải được bù đắp bằng việc sử dụng tư liệu tiêu
dùng.
Dựa vào cơ sở xác định chi phí bù đắp và duy trì sức lao động của người công
nhân, C. Mác khẳng định: “Chi phí sản xuất ra sức lao động đơn giản là bao gồm chi phí

6


sinh hoạt của người công nhân và chi phí tái sản xuất ra công nhân. Giá những chi phí
sinh hoạt và chi phí tái sản xuất đó là tiền công. Tiền công được quy định như vậy là tiền
công tối thiểu”[3,tr.38,39] .
Tiền lương tối thiểu theo quan điểm của quốc tế:
Tiền lương tối thiểu là một chính sách, chế định pháp luật được nhiều quốc gia
trên thế giới quan tâm. Có tới 90% các nước duy trì hệ thống lương tối thiểu và sử dụng
lương tối thiểu như một công cụ quan trọng để bảo vệ những người lao động lương thấp
dễ bị tổn thương. Là kênh điều tiết thị trường quan trọng nhằm tạo dựng sự ổn định trong
phát triển kinh tế, bền vững trong yếu tố dân sinh.
Ngay từ năm 1919, trong hiến chương thành lập của mình, ILO đã khuyến cáo
“đảm bảo mức tiền lương đủ sống cho người lao động” là một trong những nội dung thể
hiện sự quan tâm và chủ trương hoàn thiện các điều kiện lao động, an sinh xã hội và thúc
đẩy hòa bình, đặt ra những cơ sở đầu tiên về việc ghi nhận tiền lương tối thiểu của một tổ
chức quốc tế hàng đầu về vấn đề lao động. Trong Công ước số 26 ngày 30/05/1928 của
Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) cho rằng: “Tiền lương tối thiểu là mức trả công lao
động thấp nhất trả cho người lao động làm các công việc đơn giản nhất đủ đảm bảo cho
họ một mức sống tối thiểu với tư cách là người chủ gia đình, phù hợp với điều kiện kinh
tế xã hội” và “không có sự sắp đặt nào để có thể điều chỉnh lương theo thoả ước tập thể
hoặc bằng cách khác, với một mức lương thấp”.
Năm 1944, Tuyên bố Philadenphia đã khuyến khích các nước đấu tranh bảo vệ

“mức tiền lương tối thiểu đủ sống cho toàn thể những người làm công ăn lương”.
Tiếp theo, tại Công ước 131 về tiền lương tối thiểu do ILO ban hành năm 1970
và Khuyến nghị kèm theo số 135, đã xác định “đảm bảo cho những người làm công ăn
lương một sự đảm bảo xã hội cần thiết dưới dạng mức tiền lương tối thiểu đủ sống”. Như
vậy, đã có sự định hình rất rõ ràng về một mức “đảm bảo xã hội cần thiết” được ILO
thiết lập như cơ chế đảm bảo mức sống tối thiểu cho người lao động trên cơ sở tiền
lương tối thiểu. Nguyên tắc tham vấn đầy đủ về tiền lương tối thiểu đối với xã hội là
trọng tâm của Công ước này.

7


Trong tuyên bố Chương trình hành động tại Hội nghị thế giới 03 bên năm 1976
về việc làm, phân phối thu nhập và tiến bộ xã hội, đã khuyến nghị “Bảo đảm mức sống
tối thiểu là một trong những nội dung cơ bản của chiến lược phát triển kinh tế xã hội và
chính sách tiền lương của mỗi nước”.
Việc làm và tiền lương là hai phạm trù có mối quan hệ với nhau, nó khác với
khái niệm “thu nhập tối thiểu”. Thu nhập tối thiểu có mục tiêu đảm bảo mức sống tối
thiểu cho một người không phụ thuộc vào việc người đó có đi làm hay không. Mức tiền
lương tối thiểu không bao gồm các khoản tiền thưởng hoặc phúc lợi xã hội và cũng
không áp dụng đối với một số việc nhất định. Các mức tiền lương thấp nhất xác định
thông qua thỏa ước lao động tập thể không phải các mức tiền lương tối thiểu vì nó không
được luật pháp hóa. Tương tự, mức tiền lương thấp nhất trong khu vực hưởng lương từ
ngân sách nhà nước cũng không phải mức tiền lương tối thiểu.
Quan niệm tiền lương tối thiểu ở Việt Nam:
Tại Việt Nam, tiền lương tối thiểu được quy định tại Điều 91 Bộ luật lao động
2012, là mức thấp nhất trả cho người lao động làm công việc đơn giản nhất, trong điều
kiện lao động bình thường và phải bảo đảm nhu cầu sống tối thiểu của người lao động và
gia đình họ. Tiền lương tối thiểu hay mức lương tối thiểu được Chính phủ quyết định dựa
trên cơ sở khuyến nghị của Hội đồng tiền lương quốc gia – là cơ quan đại diện ba bên

cấp quốc gia, tiêu chí để xác định tiền lương tối thiểu căn cứ vào nhu cầu sống tối thiểu
của người lao động, gia đình họ và các điều kiện kinh tế - xã hội.
Để làm rõ, có thể hiểu mức lương tối thiểu được sử dụng để trả cho người lao
động làm công việc yêu cầu trình độ lao động giản đơn nhất, cường độ lao động nhẹ
nhàng nhất, diễn ra trong điều kiện lao động bình thường và được sử dụng để xác định
các mức lương, phụ cấp và các khoản bổ sung khác cho người lao động. Do đó, tiền
lương tối thiểu có những đặc trưng cơ bản sau đây:
Thứ nhất, tiền lương tối thiểu được áp dụng để trả cho người lao động làm công
việc giản đơn nhất, không cần qua đào tạo.
Thứ hai, tiền lương tối thiểu được trả tương ứng với điều kiện lao động và môi
trường lao động bình thường. Do vậy, mức lương tối thiểu sẽ không thể được sử dụng để

8


trả cho những người lao động làm các công việc có yếu tố nặng nhọc hoặc trong môi
trường độc hại, nguy hiểm.
Thứ ba, tiền lương tối thiểu được quy định nhằm đảm bảo bù đắp sức lao động
giản đơn và một phần giúp tái sản xuất sức lao động cho người lao động.
Bàn về tiền lương tối thiểu tại Việt Nam, Ông Vũ Quang Thọ, Viện trưởng
Viện Công nhân và Công đoàn (Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam) đã có chia sẻ:
“Lương tối thiểu không phải tự chúng ta nghĩ ra mà do những lực lượng tiến bộ
trên thế giới, trong đó có Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) thấy rằng, người lao động
chính là những tầng lớp yếu thế trong xã hội, nhưng lại chiếm số đông nên cần phải
được bảo vệ một cách tích cực.
Tiền lương tối thiểu là lưới an toàn cuối cùng để bảo vệ người lao động, với vai
trò như vậy rất cần có tiền lương tối thiểu. Hiện nay trong 189 quốc gia tham gia ILO thì
có đến 130 nước có quy định về tiền lương tối thiểu. Nhiều nước phát triển như Mỹ, Nhật
Bản, EU hay các nước xung quanh chúng ta như Trung Quốc, Thái Lan, Indonesia…
đều có quy định về tiền lương tối thiểu chứ không phải ngẫu nhiên”[8].

Thật vậy, tiền lương tối thiểu không phải ngẫu nhiên mà có, tiền lương tối thiểu
là công cụ điều tiết và kiểm soát dân sinh quan trọng của mỗi chính phủ, nhà nước. Tiền
lương tối thiểu phải phản ánh được mức sống tối thiểu của người lao động làm công ăn
lương trong từng thời kỳ nhất định. Đây là một trong những nền tảng đảm bảo quan
trọng cho việc duy trì năng suất và chất lượng lao động; là cơ sở cho việc vươn tới các
mục tiêu tiến bộ và công bằng xã hội của Việt Nam nói riêng, yêu cầu của quá trình hội
nhập quốc tế nói chung.
1.1.1.2. Các loại tiền lương tối thiểu
Việc phân loại tiền lương tối thiểu có ý nghĩa pháp lý quan trọng. Trước hết,
giúp chúng ta phân biệt được loại tiền lương tối thiểu này với loại tiền lương tối thiểu
khác, từ đó đưa ra được các cơ chế điều chỉnh hợp lý tuỳ thuộc vào đặc trưng của mỗi
loại. Bên cạnh đó, phân loại tiền lương tối thiểu giúp đảm bảo được sự công bằng trong
việc trả lương cho người lao động khi điều kiện lao động có những yếu tố khác nhau nhất

9


định. Có rất nhiều cách phân loại tiền lương tối thiểu, tác giả khái quát và phân tích một
số căn cứ phân loại điển hình như sau:
Thứ nhất, căn cứ vào phạm vi áp dụng của tiền lương tối thiểu, có thể phân chia
thành tiền lương tối thiểu chung duy nhất và tiền lương tối thiểu cho từng nhóm lao động
cụ thể.
Theo quy định tại Điều 5 Mục III Khuyến nghị số 135 về ấn định lương tối
thiểu của Tổ chức Lao động quốc tế ngày 22/06/1970 quy định:
“(1) Hệ thống lương tối thiểu có thể được áp dụng với những người làm công
ăn lương theo Điều 1 của Công ước trên bằng cách ấn định một mức lương tối thiểu duy
nhất để áp dụng chung hoặc ấn định một loạt mức lương tối thiểu áp dụng cho các nhóm
người lao động cụ thể.
(2) Một hệ thống dựa trên mức lương tối thiểu duy nhất:
(a) phải tương thích với mức ấn định các mức lương tối thiểu khác tại các vùng

hoặc miền khác nhau với ý định cho phép những khác biệt về chi phí cuộc sống;
(b) phải không làm tổn hại đến các tác dụng của quyết định, trước đây hoặc sau
này, về mức lương tối thiểu cao hơn mức tối thiểu chung cho các nhóm người lao động
cụ thể”.
Một là, tiền lương tối thiểu chung duy nhất.
Tiền lương tối thiểu chung duy nhất là tiền lương tối thiểu do Nhà nước quy
định, áp dụng chung cho người lao động làm việc trong mọi ngành nghề, mọi khu vực
trong cả nước.
Tiền lương tối thiểu chung duy nhất là loại tiền lương phổ cập được áp dụng
thống nhất trên toàn lãnh thổ quốc gia, không phân biệt vùng, ngành kinh tế cũng như
quan hệ lao động. Mọi mức lương kể cả mức lương tối thiểu khác cũng không được thấp
hơn mức lương tối thiểu chung. Nói cách khác, lương tối thiểu chung phải đảm bảo là
“lưới an toàn chung”, là nền thấp nhất để trả công cho lao động xã hội, là cơ sở để xây
dựng hệ thống thang lương, bảng lương và các loại tiền tối thiểu khác. Tiền lương tối
thiểu chung duy nhất là loại tiền lương được nhiều quốc gia áp dụng làm “lưới an toàn

10


chung” cho chính sách tiền lương tối thiểu. Điển hình như Mỹ, Hàn Quốc, Trung Quốc,
Nhật Bản, Đức…
Hai là, tiền lương tối thiểu áp dụng cho nhóm người lao động cụ thể.
Việc xây dựng và áp dụng chính sách tiền lương tối thiểu cho nhóm người lao
động cụ thể có thể được các quốc gia tiếp cận tùy thuộc vào đặc thù kinh tế và định
hướng lập pháp của từng quốc gia. Hiện nay, tiền lương áp dụng cho nhóm người lao
động cụ thể theo tinh thần của Khuyến nghị số 135 về ấn định tiền lương tối thiểu của Tổ
chức Lao động quốc tế khá đa dạng. Nhóm người lao động cụ thể dựa trên cơ sở phân
chia về lĩnh vực lao động, chúng ta có “tiền lương tối thiểu theo ngành”; dựa trên cơ sở
phân chia về vị trí địa lý, chúng ta có “tiền lương tối thiểu theo vùng”.
Tiền lương tối thiểu theo ngành là loại tiền lương tối thiểu do Nhà nước quy

định hoặc đại diện hai bên quan hệ lao động thỏa thuận để áp dụng cho người lao động
trong một ngành hoặc một nhóm ngành kinh tế kỹ thuật có tính chất ngành nghề tương
đồng trên cơ sở tiền lương tối thiểu chung và có tính đến các yếu tố lao động đặc thù của
từng ngành nghề đó sao cho tiền lương tối thiểu theo ngành ít nhất cũng phải bằng hoặc
phải cao hơn tiền lương tối thiểu chung.
Tiền lương tối thiểu vùng do nhà nước quy định, áp dụng cho người lao động
làm việc ở từng vùng lãnh thổ nhất định, căn cứ trên mức lương tối thiểu chung và có
tính đến những yếu tố đặc thù vùng lãnh thổ đó như điều kiện kinh tế của vùng, mức thu
nhập bình quân trên đầu người của từng vùng, mức chi tiêu tối thiểu chung của vùng và
các yếu tố có liên quan khác như điều kiện làm việc, ăn ở, đi lại, yếu tố địa lý… Phạm vi
áp dụng của tiền lương tối thiểu vùng hẹp hơn so với tiền lương tối thiểu chung vì nó chỉ
áp dụng cho một vùng lãnh thổ nhất định đặc trưng bởi những yếu tố địa lý như đồng
bằng, miền núi, trung du, miền biển khác nhau… do đó, ảnh hưởng khác nhau đến quá
trình lao động, sản xuất và sinh hoạt của người lao động và gia đình họ. Mục tiêu của tiền
lương tối thiểu theo vùng là đáp ứng sự khác biệt về không gian của các yếu tố chi phối
tiền lương tối thiểu chung, nhấn mạnh yếu tố đặc thù của từng vùng cũng như chiến lược
phát triển trong từng vùng đó.

11


Tiền lương tối thiểu vùng được áp dụng tại đa số các nước châu Á như Trung
Quốc, Ấn Độ, Indonesia, Việt Nam...[11]
Thứ hai, căn cứ vào thẩm quyền quyết định mức lương tối thiểu, có tiền lương
tối thiểu do Chính phủ quyết định, công bố và tiền lương tối thiểu do doanh nghiệp tự
quy định.
Một là, tiền lương tối thiểu do Chính phủ quyết định.
Tiền lương tối thiểu có vai trò quan trọng không chỉ đối với chính sách tiền
lương mà ảnh hưởng trực tiếp tới cuộc sống của người lao động và sự tăng trưởng phát
triển kinh tế - xã hội trong các thời kỳ. Cho nên việc công bố tiền lương tối thiểu là rất

quan trọng, phải thông qua cơ quan Nhà nước có thẩm quyền mới đảm bảo được hiệu
lực pháp lý và tầm quan trọng của nó. Dựa trên quyết định đơn phương của chính phủ
theo luật tiền lương tối thiểu được một số quốc gia ấn định như Mỹ, Trung Quốc, Nhật
Bản, Đức...
Hai là, tiền lương tối thiểu do doanh nghiệp tự quy định, áp dụng trong phạm vi
doanh nghiệp.
Việc Nhà nước ban hành tiền lương tối thiểu là để tạo ra “lưới an toàn” xã hội
cho người lao động, đảm bảo cho họ có thể duy trì cuộc sống và tái sản xuất sức lao
động. Người sử dụng lao động trong mọi trường hợp phải tiến hành trả lương cho người
lao động ở “ngưỡng” đó, nghĩa là không được thấp hơn tiền lương tối thiểu. Tuy nhiên,
tùy theo điều kiện và khả năng, các doanh nghiệp có thể quy định, áp dụng mức lương
tối thiểu cao hơn mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định. Quy định này là phù hợp
với yêu cầu thực tiễn, bởi mỗi doanh nghiệp đều có khả năng riêng, đồng thời chính sách
tiền lương cũng là công cụ hữu hiệu để các doanh nghiệp thu hút lao động khi cần thiết.
Thứ ba, dựa trên cơ cấu mức tiền lương tối thiểu theo thời gian, có tiền lương
tối thiểu theo giờ và tiền lương tối thiểu theo tháng.
Tiền lương tối thiểu theo giờ phụ thuộc vào tổng số giờ làm việc. Do đó, nếu
người lao động không được bố trí đủ thời gian làm việc hoặc bị lạm dụng để trả cho công
việc toàn thời gian hoặc theo tháng, mức lương tháng của họ sẽ không đảm bảo được
mức sống tối thiểu. Tuy nhiên, lương tối thiểu theo giờ có yếu tố linh hoạt thuận lợi cho

12


người lao động và doanh nghiệp. Việc trả lương tối thiểu theo giờ dành cho những người
lao động làm công việc trong điều kiện giản đơn, công việc không đầy đủ, công việc
trong thời gian ngắn và linh hoạt. Những công việc có đặc thù ngắn hạn, người lao động
làm việc bán thời gian. Hiện nay, quy định về tiền lương tối thiểu theo giờ thường được
Chính phủ ở các nước phát triển ấn định.
Tiền lương tối thiểu theo tháng là mức tiền lương quy định cho một tháng làm

việc của lao động giản đơn, làm việc trong điều kiện lao động bình thường mà người sử
dụng lao động không được trả thấp hơn cho người lao động.
1.1.2. Bản chất của tiền lương tối thiểu
Dưới góc độ của một doanh nghiệp, tiền lương trong sản xuất kinh doanh là yếu
tố được tính vào chi phí sản xuất. Nó phụ thuộc vào quan hệ cung - cầu lao động trên thị
trường, giá cả sinh hoạt, tập quán tiêu dùng, hiệu quả kinh doanh của từng ngành, cũng
như chính sách tiền lương của mỗi doanh nghiệp.
Về bản chất, tiền lương là giá cả sức lao động được hình thành trên cơ sở giá trị
sức lao động, thông qua sự thoả thuận giữa người có sức lao động và người thuê mướn,
sử dụng sức lao động, đồng thời chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế trong đó có quy
luật cung - cầu. Trong đó giá trị sức lao động là toàn bộ những chi phí về ăn, ở, đi lại, các
chi phí thiết yếu khác nhằm bù đắp một lượng nhất định những hao phí sức lao động: cơ
bắp, trí tuệ, thần kinh, để duy trì sức khoẻ của bản thân người lao động trong trạng thái
bình thường và tái sản xuất sức lao động cả về lượng và chất.
Xét về mặt cấu trúc, tiền lương tối thiểu là một bộ phận cấu thành của tiền
lương. Về bản chất tiền lương tối thiểu là giá cả sức lao động được hình thành trên cơ sở
giá trị sức lao động. Tuy nhiên, giá cả sức lao động ở đây được hiểu là giá cả thấp nhất
của hàng hoá sức lao động. Tiền lương tối thiểu không chỉ được áp dụng cho lao động
giản đơn mà là khung pháp lý quan trọng, mang tính chất bắt buộc người sử dụng lao
động phải trả thấp nhất là bằng chứ không được thấp hơn mức Nhà nước ấn định, tạo ra
lưới an toàn bảo vệ người lao động trong quan hệ lao động. Tuy nhiên, tùy theo điều kiện
và khả năng, các doanh nghiệp có thể quy định, áp dụng mức lương tối thiểu cao hơn
mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định. Quy định này là phù hợp với yêu cầu thực

13


tiễn, bởi mỗi doanh nghiệp đều có khả năng riêng, đồng thời chính sách tiền lương cũng
là công cụ hữu hiệu để các doanh nghiệp thu hút lao động khi cần thiết, đồng thời đó
cũng là cách Nhà nước tôn trọng và khuyến khích sự thỏa thuận hợp pháp giữa hai bên

trên tinh thần tự nguyện.
Giá trị sức lao động được coi là cơ sở tính tiền lương tối thiểu bao gồm những
chi phí cần thiết để duy trì sức khỏe và đảm bảo tái sản xuất sức lao động ở mức tối
thiểu. Nghĩa là tiền lương tối thiểu chỉ đáp ứng cho giá trị sức lao động có trình độ giản
đơn nhất trong điều kiện lao động bình thường với cường độ lao động nhẹ nhàng nhất.
Nó không thể đáp ứng được tất cả nhu cầu cuộc sống của người lao động và gia đình họ,
mà chỉ đáp ứng được nhu cầu tối thiểu cần thiết để duy trì cuộc sống nhằm tái sản xuất
sức lao động giản đơn và một phần tái sản xuất sức lao động mở rộng. Đây chính là một
trong những lý do việc hoạch định chính sách tiền lương tối thiểu qua từng thời kỳ của
Nhà nước luôn được quan tâm, bàn luận, dự thảo và sửa đổi nhiều để có phương án phù
hợp nhất theo từng thời kỳ.
1.1.3. Vai trò của lương tối thiểu và pháp luật về tiền lương tối thiểu
1.1.3.1. Vai trò của tiền lương tối thiểu
Tiền lương tối thiểu có vị trí và vai trò rất quan trọng. Hiện nay, chế độ tiền
lương bao gồm các nội dung cơ bản: tiền lương tối thiểu, hệ thống thang bảng lương, các
chế độ phụ cấp lương, chế độ tiền thưởng. Trong đó tiền lương tối thiểu có vị trí đặc biệt,
là mức “sàn”, là cơ sở để xác định các nội dung khác trong chế độ tiền lương. Chế định
quan trọng đã được ILO khẳng định rất rõ ràng trong Khuyến nghị lương tối thiểu số 135
năm 1970. Tựu chung lại, tiền lương tối thiểu có những vai trò cơ bản sau:
Thứ nhất, tiền lương tối thiểu giúp tăng năng suất lao động.
Năng suất lao động và tiền lương luôn tỷ lệ thuận với nhau. Tuy nhiên, năng
suất lao động không thể tăng đột biến ngay được vì vậy tiền lương sẽ chỉ tăng từ từ. Bà
Sandra Polaski, Phó Tổng giám đốc Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), khẳng định lương
tối thiểu có vai trò rất quan trọng trong việc tăng năng suất lao động[7]. Tăng tiền lương
khiến người sử dụng lao động tìm cách tăng năng suất lao động thông qua đầu tư kỹ
thuật, quá trình làm việc hiệu quả hơn.

14



Thứ hai, tiền lương tối thiểu là “lưới an toàn” đối với người lao động.
Vai trò này rất dễ nhận ra bởi tính đảm bảo của lương tối thiểu đối với các nhu
cầu thiết yếu của người lao động. Tiền lương tối thiểu loại bỏ sự bóc lột có thể xảy ra đối
với người làm công ăn lương trước sức ép của thị trường. Trong điều kiện nền kinh tế thị
trường, sức lao động được coi là một loại hàng hoá và cũng được tự do mua bán theo
thoả thuận của người lao động và người sử dụng lao động. Hiện nay, tình trạng thất
nghiệp còn cao, cung lao động nhiều hơn cầu lao động, là điều kiện để người sử dụng lao
động có cơ sở gây sức ép với người lao động, trả cho họ một mức lương thấp hơn mức
lương họ đáng được hưởng. Việc quy định tiền lương tối thiểu giới hạn rõ hành vi của
người sử dụng lao động trong việc trả lương, bảo đảm sự cân bằng và bảo vệ người lao
động khỏi sự bóc lột trước sức ép của thị trường.
Thứ ba, tiền lương tối thiểu giúp xóa đói, giảm nghèo, đảm bảo tiến bộ xã hội.
Về mặt lý thuyết, mỗi chính sách xóa đói giảm nghèo đều nhằm cụ thể những
mục tiêu riêng, hỗ trợ một khu vực riêng, một đối tượng hay nhóm nhỏ đối tượng nào đó,
tuy nhiên, đều có những điểm chung là giải quyết nguyên nhân dẫn đến gia tăng đói
nghèo, cải thiện môi trường, trợ giúp dân thoát nghèo, từ đó giảm tỷ lệ nghèo đói. Việc
quy định khung tiền lương an toàn cho người lao động có vai trò quan trọng trong công
tác xóa đói, giảm nghèo và đảm bảo tiến bộ xã hội. Bởi lẽ, với khung tiền lương an toàn
này, người lao động và gia đình của họ có thể được tiếp cận ở mức tối thiểu và đảm bảo
đối với các nhu cầu thiết yếu, các dịch vụ y tế, văn hóa, dịch vụ xã hội. Có thể coi việc
xác định tiền lương tối thiểu là công cụ tấn công trực diện vào đói nghèo và vấn đề đảm
bảo công bằng, tiến bộ xã hội của một quốc gia.
Thứ tư, tiền lương tối thiểu là công cụ điều tiết của Nhà nước trên phạm vi toàn
xã hội và trong từng cơ sở kinh tế.
Tiền lương tối thiểu là sự đảm bảo có tính pháp lý của Nhà nước đối với người
lao động trong mọi ngành nghề, khu vực có tồn tại quan hệ lao động, đảm bảo đời sống
tối thiểu cho họ phù hợp với khả năng của nền kinh tế. Xuất phát từ nguyên tắc bảo vệ
người lao động khi tham gia quan hệ lao động, Nhà nước quy định tiền lương tối thiểu
như là một sự đảm bảo về mặt pháp lý đối với người lao động. Tiền lương tối thiểu là


15


khoản tiền đáp ứng nhu cầu tối thiểu nhất cho người lao động. Khi xác định tiền lương
tối thiểu, Nhà nước đã căn cứ vào những thoả thuận của người lao động phù hợp với trên
cơ sở nền kinh tế của đất nước, do đó tiền lương tối thiểu luôn đảm bảo cho người lao
động có cuộc sống phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội ở từng thời kỳ.
Thứ năm, tiền lương tối thiểu bảo vệ sức mua cho các mức tiền lương trước sự
gia tăng của lạm phát và các yếu tố kinh tế khác.
Tiền lương tối thiểu được xác định dựa trên cơ sở giá cả trung bình của thị
trường trong nước, vì thế nó có sự cân bằng với giá cả thị trường, hạn chế được sự lạm
phát. Tiền lương tối thiểu loại bỏ sự cạnh tranh không công bằng của thị trường lao động.
Cạnh tranh là quy luật chung của thị trường trong điều kiện hàng hoá sức lao động dư
thừa, cung lao động cao hơn so với cầu lao động cho nên cạnh tranh giữa người lao động
với nhau là tất yếu. Nhà nước quy định mức lương tối thiểu là khung pháp lý quan trọng,
đảm bảo cho sự cạnh tranh này luôn ở trong khuôn khổ pháp luật, đảm bảo cho yếu tố
cạnh tranh trên thị trường lành mạnh hơn.
Thứ sáu, tiền lương tối thiểu là cơ sở xây dựng thang bảng lương, điều hòa tiền
lương giữa các nhóm, vùng, lĩnh vực lao động.
Tiền lương tối thiểu đảm bảo sự trả lương tương đương cho những công việc
tương đương, tiền lương tối thiểu ở một mức độ nào đó là sự điều hoà trong các nhóm
người lao động mà ở đó thường không được tính đúng mức. Tiền lương tối thiểu, là cơ
sở tính các mức lương tiếp theo trong thang, bảng lương. Vì thế, ở những công việc
tương đương người lao động sẽ được trả mức lương tương đương.
Thứ bảy, tiền lương tối thiểu giúp phòng ngừa xung đột lao động.
Tiền lương tối thiểu phòng ngừa xung đột, tranh chấp lao động giữa giới chủ và
giới thợ. Sự xác định thoả đáng các mức tiền lương tối thiểu có thể xoá bỏ một trong
những nguyên nhân gây nên xung đột giữa chủ và thợ để thúc đẩy kinh tế phát triển.
Tóm lại, tiền lương tối thiểu là một chế định quan trọng trong nền tài chính của
một quốc gia. Tiền lương tối thiểu giải quyết được rất nhiều vấn đề quan trọng trong việc

xây dựng lưới an toàn lao động chung cho toàn xã hội; là công cụ pháp lý, công cụ kinh

16


tế - xã hội quan trọng giúp đảm bảo ổn định các vấn đề tiên quyết, thiết yếu của một quốc
gia.
1.1.3.2. Vai trò của pháp luật về tiền lương tối thiểu
Như đã đề cập bên trên, tiền lương tối thiểu là một chế định tài chính quan
trọng, tạo ra lưới an toàn lao động cho cho giới thợ. Từ đó, hạn chế và loại trừ sự bóc lột
triệt sức lao động có thể xảy ra đối với người lao động. Việc luật hóa các quy định liên
quan đến tiền lương tối thiểu là một vấn đề tiên quyết; chế định tiền lương tối thiểu là
một bộ phận quan trọng trong hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật về lao động nói
riêng của bất kỳ quốc gia nào.
Thứ nhất, pháp luật về lương tối thiểu đảm bảo vai trò điều chỉnh của hệ thống
pháp luật nói chung, là công cụ thể chế hóa đường lối lãnh đạo của Đảng cầm quyền đối
với lĩnh vực tiền lương. Ở Việt Nam, từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng,
Đảng và Nhà nước chủ trương chuyển nền kinh tế Việt Nam phát triển theo nền kinh tế
thị trường, có sự điều tiết của Nhà nước, hình thành và phát triển thị trường sức lao động.
Hệ thống các quy định của pháp luật, trong đó có chế định tiền lương tối thiểu đã cụ thể
hóa chủ trương này để có thể hiện thực hóa trong đời sống lao động; trở thành công cụ
pháp lý cho phép các quan hệ lao động mới hình thành.
Thứ hai, lưới an toàn lao động được luật hóa là một công cụ điều tiết thị trường,
điều tiết quan hệ lao động quan trọng của Nhà nước. Công cụ pháp lý mang tính quyền
lực nhà nước có phạm vi điều chỉnh trên phạm vi toàn xã hội và đi sâu vào từng khu vực,
cơ sở kinh tế nhằm hạn chế và loại trừ sự bóc lột lao động; bảo vệ giá trị của tiền lương
thực tế trước sự gia tăng của lạm phát và các yếu tố kinh tế khác; hạn chế sự cạnh tranh
không công bằng trong thị trường lao động. Khung pháp lý về tiền lương tối thiểu nhằm
bảo vệ tối thiểu cho người lao động, khuyến khích những thỏa thuận có lợi cho người lao
động trên mức sàn của luật.

Thứ ba, pháp luật về tiền lương tối thiểu còn là căn cứ pháp lý để đảm bảo
quyền và lợi ích cho các bên trong quan hệ lao động, là cơ sở pháp lý để các bên thỏa
thuận, làm rõ nhu cầu và chính kiến của mình về vấn đề tiền lương phù hợp với điều kiện
và khả năng thực tế của các bên, là một trong những căn cứ để giải quyết các tranh chấp

17


lao động và đình công nếu có. Đồng thời là công cụ pháp lý nhằm ràng buộc các bên
thực hiện nghiêm túc các thỏa thuận về vấn đề tiền lương trong và sau khi kết thúc quan
hệ lao động.
1.1.4. Các yếu tố chi phối mức lương tối thiểu
1.1.4.1. Quy định về tiền lương tối thiểu của Nhà nước
Trên thực tế các quốc gia có sự khác biệt nhất định về hoàn cảnh kinh tế, xã hội,
do đó dẫn đến sự khác biệt về hệ thống tiền lương tối thiểu. Tuy nhiên, có những nguyên
tắc chung được áp dụng phổ biến trong việc xây dựng chính sách pháp luật lương tối
thiểu như sau:
Pháp luật về tiền lương tối thiểu chỉ thực sự hiệu quả khi xác định được đầy đủ
các mục đích của lương tối thiểu và sự xác định chính xác các mục tiêu. Chính sách pháp
luật về tiền lương tối thiểu phải nhất quán với các chính sách khác như chính sách an
sinh xã hội, thương lượng tập thể. Điều này ngày càng trở nên quan trọng bởi trong một
số trường hợp, lương tối thiểu được quy định thấp hơn so với trợ cấp thất nghiệp và như
vậy làm giảm hiệu quả và động lực làm việc. Một số trường hơp khác, lương tối thiểu có
những hậu quả ngoài ý muốn gây nản lòng (thậm chí thay thế) cho việc thương lượng tập
thể về tiền lương.
1.1.4.2. Chỉ số giá tiêu dùng và hiện tượng lạm phát
Định nghĩa mức lương tối thiểu đã cho thấy mức lương tối thiểu phụ thuộc trực
tiếp vào giá sinh hoạt (được xác định thông qua chỉ số giá tiêu dùng – CPI). Chỉ số giá
tiêu dùng là một trong những chỉ tiêu thuộc Hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc gia. Chỉ tiêu
này phản ánh mức độ và xu hướng biến động của giá hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng theo

thời gian. Cụ thể, nếu chỉ số giá tiêu dùng tăng, giá cả hàng hóa tăng, người lao động
phải dành phần lương để chi cho đời sống cao hơn, mức còn lại để tiết kiệm sẽ bị giảm
hoặc thậm chí không còn tiền cho tiết kiệm. Và như vậy, nếu chỉ số giá tiêu dùng tăng thì
mức lương tối thiểu phải tăng theo để đảm bảo nhu cầu sống tối thiểu. Do đó, các nhà
hoạch định chính sách sẽ phải tính đến mức độ tăng, giảm của chỉ số giá tiêu dùng để
làm căn cứ tính toán mức lương tối thiểu.

18


Lạm phát nói chung có thể được hiểu là việc giá cả hàng hóa tăng lên so với
mức giá thời điểm trước. Cần phải hiểu việc tăng giá ở đây là tăng giá chung cho hầu hết
các hàng hóa và dịch vụ chứ không phải tăng giá một loại hàng hóa cá biệt. Khi giá trị
của hàng hóa và dịch vụ tăng lên đồng nghĩa với sức mua của đồng tiền sẽ giảm đi. Khi
đó với cùng một lượng tiền nhưng người tiêu dùng mua được ít hàng hóa hơn so với
trước đó. Như vậy, trượt giá hay lạm phát có ảnh hưởng đến việc tăng lương tối thiểu
chung. Để đảm bảo mức sống tối thiểu, tiền lương tối thiểu phải tăng đảm bảo bù phần
trượt giá của đồng tiền hay mức lạm phát của nền kinh tế.
1.1.4.3. Đặc điểm về cung – cầu trên thị trường lao động
Khi cung về lao động lớn hơn cầu về lao động thì tiền lương có xu hướng giảm,
khi cung về lao động nhỏ hơn cầu về lao động thì tiền lương có xu hướng tăng, còn khi
cung về lao động bằng với cầu lao động thì thị trường lao động đạt tới sự cân bằng. Tiền
lương lúc này là tiền lương cân bằng, mức tiền lương này bị phá vỡ khi các nhân tố ảnh
hưởng tới cung cầu về lao động thay đổi như năng suất biên của lao động, giá cả của
hàng hoá, dịch vụ…
Như vậy, lương tối thiểu cũng là một loại tiền lương nên chế định này cũng bị
chi phối bởi đặc điểm về cung cầu trên thị trường lao động. Nếu cung lớn hơn cầu, mức
lương tối thiểu sẽ giảm và ngược lại. Sở dĩ như vậy vì sức lao dộng cũng là một loại hàng
hóa nên nó cũng có các thuộc tính là giá trị và giá trị sử dụng. Để thấy được giá trị và giá
trị sử dụng của hàng hóa sức lao động thì cũng như các loại hàng hóa khác là phải thông

qua thị trường của nó (thị trường lao động) mà nhân tố cấu thành là cung, cầu và giá cả.
Giá cả luôn luôn tỷ lệ thuận với cầu và tỷ lệ nghịch với cung. Nghĩa là, trong điều kiện
các yếu tố khác không đổi, thì một sự tăng lên của cầu hay giảm xuống của cung sẽ làm
cho giá cả tăng lên; và ngược lại, một sự giảm xuống của cầu và một sự tăng lên của
cung sẽ làm cho giá cả giảm xuống.
1.1.4.4. Một số yếu tố khác
Thứ nhất, vai trò của tổ chức Công đoàn đối với pháp luật tiền lương tối thiểu.
Không thể phủ nhận trong những năm qua, tổ chức Công đoàn Việt Nam đã đạt được
nhiều nước tiến trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao

19


động. Chúng ta cũng có thể bắt gặp hình ảnh tương tự tại Úc, Singapore hay sự tăng lên
về vai trò của Công đoàn tại Trung Quốc. Năng lực của công đoàn đóng vai trò quan
trọng trong việc lên tiếng bảo vệ quyền lợi cho người lao động bằng chế định tiền lương
tối thiểu trên cơ sở đại diện 03 bên tại cơ quan tiền lương quốc gia.
Thứ hai, cũng giống như tiền lương, tiền lương tối thiểu phụ thuộc vào loại hình
công việc, mức độ “đơn giản” trong thực hiện công việc.
Với mỗi loại công việc khác nhau sẽ có mức lương sàn khác nhau. Ví dụ những
ngành đòi hỏi trình độ tay nghề cao, sức khỏe tốt như công việc hầm mỏ, khai khoáng,
các công việc tiếp xúc với môi trường hoặc các chất độc hại thì tiền lương tối thiểu của
các công việc đó sẽ cao hơn. Các công việc nhẹ nhàng như dệt may, thủ công sẽ có mức
lương tối thiểu thấp hơn. Điều này thể hiện với các ngành khác nhau thì mức lương tối
thiểu khác nhau.
Thứ ba, các yếu tố thuộc về sức khỏe, năng lực tài chính của doanh nghiệp
Khi doanh nghiệp mạnh về tài chính thì mức tiền lương chi trả cho người lao
động sẽ tăng, đồng nghĩa với mức lương tối thiểu cũng tăng. Tuy nhiên, do mức lương
tối thiểu chỉ bảo vệ quyền lợi tối thiểu cho người lao động mà thực tế, mức lương doanh
nghiệp trả thường sẽ cao hơn, thậm chí cao hơn nhiều so với mức lương tối thiểu nên

việc điều chỉnh mức lương tối thiểu dường như không có tác động xấu đến tình hình tài
chính của doanh nghiệp trừ phi doanh nghiệp đang áp dụng lương tối thiểu để trả cho
người lao động.
Thứ tư, các yếu tố chủ quan thuộc về Người lao động
Các yếu tố thuộc về người lao động như năng suất lao động, trình độ lao động,
thâm niên công tác, kinh nghiệm làm việc, vị trí làm việc, thể lực…Trong đó, năng suất
lao động là yếu tố ảnh hưởng nhiều nhất đến mức lương tối thiểu. Vì theo lý thuyết, năng
suất lao động tăng kéo theo thu nhập bình quân đầu người (GDP) tăng và ngược lại,
GDP tăng có sự đóng góp đáng kể của năng suất lao động. Năng suất lao động tăng thì
lương tối thiểu trả cho người lao động cũng phải tăng theo.

20


1.2. Pháp luật về tiền lương tối thiểu
1.2.1. Khái niệm của pháp luật về tiền lương tối thiểu
Tiền lương tối thiểu là một chế định pháp lý quan trọng trong nền tài chính của
một quốc gia. Chính vì vậy, Nhà nước đã sớm ghi nhận chế định này trong các văn bản
pháp luật chuyên nghành. Ở Việt Nam hiện nay, chế định tiền lương tối thiểu được ghi
nhận trong Bộ luật lao động năm 2012 như sau:
Khái niệm tiền lương được quy định tại Điều 90 Bộ luật lao động 2012:
“1. Tiền lương là khoản tiền mà người sử dụng lao động trả cho người lao động
để thực hiện công việc theo thỏa thuận.
Tiền lương bao gồm mức lương theo công việc hoặc chức danh, phụ cấp lương và
các khoản bổ sung khác.
Mức lương của người lao động không được thấp hơn mức lương tối thiểu do
Chính phủ quy định.
2. Tiền lương trả cho người lao động căn cứ vào năng suất lao động và chất
lượng công việc.
3. Người sử dụng lao động phải bảo đảm trả lương bình đẳng, không phân biệt

giới tính đối với người lao động làm công việc có giá trị như nhau”.
Mức lương tối thiểu được quy định tại Điều 91 Bộ luật lao động 2012 như sau:
“1. Mức lương tối thiểu là mức thấp nhất trả cho người lao động làm công việc
giản đơn nhất, trong điều kiện lao động bình thường và phải bảo đảm nhu cầu sống tối
thiểu của người lao động và gia đình họ.
Mức lương tối thiểu được xác định theo tháng, ngày, giờ và được xác lập theo
vùng, ngành.
2. Căn cứ vào nhu cầu sống tối thiểu của người lao động và gia đình họ, điều
kiện kinh tế - xã hội và mức tiền lương trên thị trường lao động, Chính phủ công bố mức
lương tối thiểu vùng trên cơ sở khuyến nghị của Hội đồng tiền lương quốc gia.
3. Mức lương tối thiểu ngành được xác định thông qua thương lượng tập thể
ngành, được ghi trong thỏa ước lao động tập thể ngành nhưng không được thấp hơn
mức lương tối thiểu vùng do Chính phủ công bố”.

21


×