Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Phân tích Nguồn gốc tư tưởng hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (47.71 KB, 12 trang )

Nguồn gốc tư
tưởng Hồ Chí
Minh
Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, người sáng lập, giáo dục,
rèn luyện Đảng ta, anh hùng giải phóng dân tộc, danh
nhân văn hoá thế giới. Trong suốt cuộc đời hoạt động
cách mạng đầy nhiệt huyết, gian khổ, hết lòng vì nước, vì
dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho Đảng và nhân ta
một di sản tinh thần hết sức sâu sắc, cao cả. 85 năm qua,
tư tưởng của người luôn luôn soi đường, chỉ lối cho cách
mạng Việt Nam, cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành
thắng lợi. Vì vậy, Đảng cộng sản Việt Nam đã khẳng định


cùng với Chủ nghĩa Mác -Lê Nin, Tư tưởng Hồ Chí Minh
là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động cách
mạng Việt Nam. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX
của Đảng, Đảng ta một lần nữa nhấn mạnh “Đảng và nhân
dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con
đường XHCN trên nền tảng Chủ nghĩa Mác- Lê Nin và tư
tưởng Hồ Chí Minh”.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã nêu ra
một quan điểm khái quát như là một định nghĩa về tư
tưởng Hồ Chí Minh “ Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ
thống quan điểm lý luận sâu sắc và toàn diện về những
vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự
vận dụng và phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác- Lê Nin
vào điều kiện cụ thể ở nước ta, kế thừa và phát triển các
giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa
văn hoá nhân loại, là tài sản tinh thần vô cùng to lớn của
Đảng và nhân dân ta”. Đó là tư tưởng về giải phóng dân


tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; về độc lập
dân tộc gắn liền với CNXH; kết hợp sức mạnh dân tộc với
sức mạnh thời đại; về sức mạnh của nhân dân của khối
đoàn kết dân tộc; về quyền làm chủ của nhân dân, xây
dựng nhà nước thật sự của dân, do dân và vì dân; về quốc
phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân;
về phát triển kinh tế và văn hoá, không ngừng nâng cao


đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; về đạo đức
cách mạng cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; về
chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau; về xây
dựng Đảng trong sạch vững mạnh…
Tư tưởng Hồ Chí Minh hình thành bắt nguồn từ 4 nguồn
gốc:
Thứ nhất, những truyền thống tốt đẹp của dân tộc trước
hết là chủ nghĩa yêu nước Việt Nam
Hồ Chí Minh là người con ưu tú nhất của dân tộc Việt
Nam nên tư tưởng Hồ Chí Minh trước hết bắt nguồn từ
những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, đó là truyền
thống yêu nước, cần cù lao động, anh dũng, sáng tạo trong
dựng nước và giữ nước, đoàn kết, nhân ái của dân tộc
Việt Nam... những truyền thống tốt đẹp đó đã hun đúc qua
hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Trong
những truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam thì Chủ
nghĩa yêu nước là dòng chủ lưu xuyên suốt tiến trình lịch
sử dân tộc, giữ vị trí hàng đầu. Chủ nghĩa yêu nước đã trở
thành động lực, sức mạnh truyền thống, đạo lý làm người,
niềm tự hào và là nhân tố hàng đầu trong bảng giá trị tinh
thần của con người Việt Nam. Bác Hồ kính yêu đã viết:

“dân tộc ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một
truyền thống quí báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ


quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành
một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi
sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước
và lũ cướp nước”
Chúng ta ngược dòng lịch sử, vào năm 1858, Việt Nam từ
một nước phong kiến độc lập đã bị thực dân Pháp xâm
lược và đã trở thành một nước thuộc địa nữa phong kiến.
Dưới ánh thống trị của thực dân Pháp, nhân dân Việt
Nam không có tự do. Vì vậy, nhân dân ta không ngừng
nổi lên chống lại chúng. Lớp lớp sĩ phu và đồng bào yêu
nước đã liên tục đúng lên chiến đấu giành lại độc lập theo
nhiều phong trào và khuynh hướng khác nhau như: Phong
trào khởi nghĩa nông dân, điển hình là cuộc khởi nghĩa
của Phan đình Phùng, Hoàng Hoa Thám; phong trào Cần
vương phò vua Hàm Nghi cứu nước; phong trào theo
khuynh hướng tiểu tư sản, điển hình là hai nhà yêu nứơc
Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh, với tinh thần “đúc
gan sắt để dời non lấp bể, xối máu nóng rửa vết nhơ nô
lệ”. Song những kinh nghiệm lịch sử chống ngoại xâm đã
không phát huy được tác dụng trước một kẻ thù mạnh.
Các phong trào kháng chiến đều bị dìm trong biển máu,
bởi không có một đường lối cứu nước đúng đắn. Cả dân
tộc đắm chìm trong đêm dài nô lệ, lầm than “ tình hình
đen tối như không có đường ra”. Sứ mệnh lịch sử đặt ra



cho cả dân tộc, mỗi người yêu nước Việt Nam lúc bấy giờ
là phải tìm con đường cứu nước, cứu dân thoát khỏi ách
thống trị của đế quốc Pháp và tay sai của chúng.
Chính sức mạnh truyền thống ấy đã thúc dục Nguyễn Tất
Thành ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân. Yêu nước là
động lực chi phối mọi suy nghỉ, hành động trong suốt
cuộc đời hoạt động cách mạng đầy gian lao, cực khổ của
Hồ Chí Minh. Với một hoài bảo và lòng yêu nước nồng
nàn cháy bỏng làm hành trang. Hồ Chí Minh đã ra đi tìm
đường cứu nước, người tự đặt cho mình cái tên Nguyễn
Ái Quốc (nguyễn yêu nước) để luôn nhắc nhở cổ vũ bản
thân và cổ vũ quốc dân đồng bào. Năm 1969 cả nước đã
bật khóc vô cùng xúc động lúc Bác mãi mãi đi xa: “Dân
tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước Việt Nam ta đã sinh
ra Hồ Chủ Tịch, người anh hùng dân tộc vĩ đại và chính
người đã làm rạng rỡ cho dân tộc ta, nhân dân ta, non
sông đất nước Việt Nam ta. Người là tinh hoa của dân tộc
Việt Nam, là ý chí kiên cườn,g bất khuất của nhân dân
Việt Nam bốn ngàn năm lịch sử...” (Diễn văn truy điệu
Bác năm 1969)
Chủ nghĩa yêu nưởc truyền thống Việt Nam đầu thế kỷ
XX đòi hỏi phải đổi mới là tiền đề tư tưởng thôi thúc Hồ
Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước và đưa người đến với
Chủ nhĩa Mác- Lê Nin một cách tự nhiên. Bác viết: “lúc


đầu chính chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải chủ nghĩa
cộng sản đã đưa tôi tin theo Lê Nin, tin theo Quốc tế thứ
III”.
Thứ hai, là tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại: Phương

Đông và phương Tây
Tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ kết tinh từ những giá trị
của dân tộc mà còn bắt nguồn từ tinh hoa văn hoá nhân
loại cả phương Đông và phương Tây được người kế thừa
và phát triển.
Trong văn hoá phương Đông, Hồ Chí Minh đặc biệt coi
trọng việc kế thừa và phát triển những nhân tố tích cực
của Nho giáo. Nho giáo vào Việt Nam từ thời Bắc thuộc,
bắt đầu từ những năm đầu sau công nguyên theo con
đường quan phương. Song khi gặp dòng chủ lưu cơ bản
của tư tưởng Việt Nam đã hình thành nên một trào lưu
Nho giáo Việt Nam- Nho giáo yêu nước.
Nền học vấn đầu tiên mà Hồ Chí Minh tiếp nhận là Nho
học. Đến tuổi thanh niên và cả thời kỳ hoạt động cách
mạng, Hồ Chí Minh luôn quan tâm nghiên cứu văn hoá
phương Đông, nhất là Nho giáo. Trong các tác phẩm bài
viết, bài nói của mình, Hồ Chí Minh nhiều lần nhắc đến
khái niệm phạm trù, mệnh đề của Nho giáo. Nho giáo
thấm vào tư tưởng, tình cảm của người không phải là


những giáo điều trong “tam cương”,
“ngủ thường”,
đạo “tu thân”... của các nhà hiền triết phương Đông được
Hồ Chí Minh hết sức trân trọng. Song trong khi vận dụng
những yếu tố tích cực của Nho giáo, người cũng đồng thời
phê phán, loại bỏ những yếu tố tiêu cực của học thuyết
đó. Nếu như chữ “trung”, ‘hiếu” trong Nho giáo là trung
với vua, hiếu với cha mẹ, thì được Hồ Chí Minh nâng lên
một tầm cao mới là trung với nước, hiếu với dân. Trung

với nước, hiếu với dân là trung thành vô hạn với sự
nghiệp dựng nước và giữ nước.
Có thể nói Hồ Chí Minh là hình ảnh của một bậc hiền triết
phương Đông, cốt cách phương Đông của người không
chỉ là văn hoá ứng xử, một chủ nghĩa nhân văn cao cả,
một tấm lòng thương yêu con người vô bờ bến mà còn
thể hiện một bản lĩnh không bao giờ chịu khuất phục
“quắc mắt khinh thường ngàn lực sĩ, cúi đầu làm ngựa các
nhi đồng” hay “Giàu sang không quyến rủ, nghèo khó
không chuyển lay, uy vũ không khuất phục” mà còn thể
hiện ở phương pháp, phong cách tư duy và hành động.
Người am hiểu sâu sắc những vấn đề lịch sử cũng như
những vấn đề nóng hổi đương đại của các dân tộc phương
Đông. Trong khi tiếp thu, vận dụng những luận điểm tích
cực của Nho giáo, đồng thời người cũng chỉ ra những hạn
chế của nó như phân chia đẳng cấp, phân ra các hạng


người: Thánh nhân, đại nhân, tiểu nhân, coi thừơng phụ
nữ, coi khinh lao động chân tay, trọng nông, ức thương.....
Trước khi đến với Chủ nghĩa Mác –Lê nin, Hồ Chí Minh
đã quan tâm nghiên cứu, tìm hiểu tư tưởng nhân văn, dân
chủ tư sản của cách mạng Pháp, Mỹ cả văn hoá Phục
hưng, Thế kỷ ánh sáng và của các cuộc cách mạng tư sản
phương Tây, Chủ nghĩa tam dân của Tôn Trung Sơn
(Trung Quốc) “về dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân
sinh hạnh phúc”. Nguồn văn hoá phương Tây ảnh hưởng
tới Hồ Chí Minh trước hết phải kể đến tư tưởng “tự do,
bình đẳng, bác ái” mà giai cấp tư sản đã nêu cao để tập
hợp lực lượng lật đổ chế độ phong kiến.

Trong quá trình tìm đường cứu nước bôn ba khắp các
châu lục, đến những trung tâm văn minh của châu Âu, từ
các thư viện ở Pa Ri, Luân Đôn, từ những cuộc sinh hoạt
luận bàn ở các câu lạc bộ chính trị, văn hoá, từ sách báo,
từ những quan hệ tiếp xúc với nhiều nhà trí thức, các
chính khách có tiếng ở Pháp và thế giới... Hồ chí Minh đã
tiếp thu những tinh hoa văn hoá phương Tây cần thiết cho
sự nghiệp cách mạng của mình.
Cũng như khi đến với những giá trị văn hoá phương
Đông, Hồ Chí Minh tiếp thu những giá trị tư tưởng văn
hoá phương Tây với tinh thần chọn lọc phê phán, người


đã vận dụng và phát triển các trào lưu tư tưởng và văn hoá
ấy lên một trình độ mới phù hợp với yêu cầu mới của dân
tộc và thời đại.
Nhà nghiên cứu Hê Len Tuốc Mê Rơ đã có lý khi viết: “
Hồ Chí Minh là hình ảnh hoàn chỉnh của sự kết hợp: Đức
khôn ngoan của Phật, lòng bác ái của Chúa, triết học của
Các Mác, thiên tài cách mạng của V. I . Lê Nin và tình
cảm của người chủ gia tộc, tất cả đều hoà hợp trong một
dáng dấp rất tự nhiên”
Thứ ba, Tư tưởng Hồ chí Minh có nguồn gốc từ Chủ
nghĩa Mác- Lê Nin, từ khi rời Tổ quốc ra đi tìm đường
cứu nước vào ngày 5 tháng 6 năm 1911 đến năm 1917,
Hồ Chí Minh đã đến nhiều nước thuộc địa và nhiều nước
tư bản đế quốc. Trong khoảng thời gian đó Hồ Chí Minh
đã bổ sung cho mình những nhận thức mới về những gì ẩn
dấu đằng sau các từ “tự do”, “bình đẳng”. “bác ái” mà vào
trạc tuổi 13 lần đầu tiên Người đã nghe. Khoảng cuối năm

1917, khi trở lại Pa Ri (Pháp), Hồ Chí Minh dã làm quen
với nhiều nhà hoạt động chính trị xã hội của Pháp và thế
giới. Năm 1919, Hồ Chí Minh tham gia Đảng xã hội
Pháp, một đảng tiến bộ lúc bấy giờ. Cuối năm 1920, Hồ
Chí Minh cùng với những đảng viên ưu tú của Đảng xã
hội Pháp, bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế III, Quốc tế
cộng sản do Lê Nin sáng lập, trở thành một trong những


người sáng lập Đảng cộng sản Pháp. Tháng 7 năm 1920,
Hồ Chí Minh đọc “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương
về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lê Nin”. Luận
cương đã giải đáp trúng những vấn đề mà Nguyễn Ái
Quốc đang trăn trở, tìm hiểu bấy lâu nay, giúp người thấy
rõ con đường thắng lợi của cách mạng giải phóng dân
tộc. Người nói: “Muốn cứu nước giải phóng dân tộc
không có con đường nào khác con đường cách mạng vô
sản”. Người đã tìm thấy ở Chủ nghĩa Mác - Lê Nin “cái
cần thiết” và “con đường giải phóng chúng ta” là bước
quyết định nhảy vọt về chất trong quá trình hình thành tư
tưởng Hồ Chí Minh.
Luận cương của Lê Nin đã giúp Hồ chí Minh nhận thức
sâu sắc hơn về bản chất cách mạng khoa học của Chủ
nghĩa Mác- Lê Nin và phương pháp biện chứng mác xít,
tâm đắc sâu sắc câu nói của Lê Nin “ không có lý luận
cách mạng thì khôThứ tư, tài năng bẩm sinh và hoạt động
thực tiễn của Hồ Chí Minh
Lý luận tư tưởng bao giờ cũng là sản phẩm của con người,
do con người sáng tạo ra và khái quát trên cơ sở nhận
thức các nhân tố khách quan



Ngay từ khi còn trẻ. Hồ Chí Minh đã có hoài bảo lớn, có
bản lĩnh kiên định, giàu tình cảm nhân ái và sớm có chí
cứu nước, giải phóng đồng bào mình
Vào đầu thế kỷ XX đã có nhiều người Việt Nam sang
Pháp và đã có những người tham gia Đảng xã hội Pháp.
Thế nhưng trong số những người Việt Nam yêu nước ở
Pháp vào năm 1920, duy nhất có Hồ Chí Minh trở thành
người cộng sản và cũng là một công dân thuộc địa tham
gia sáng lập Đảng cộng sản Pháp. Tư chất thông minh, tư
duy độc lập, sáng tạo, tính ham hiểu biết và nhạy bén với
cái mới là những đức tính dễ thấy ở người thanh niên
Nguyễn Tất Thành. Phẩm chất đó được rèn luyện phát
huy trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của người.
Nhờ vậy giữa thực tiễn phong phú và sinh động, giữa
nhiều học thuyết quan điểm khác nhau, giữa biết bao tình
huống phức tạp. Hồ chí Minh đã tìm hiểu phân tích, tổng
hợp khái quát tình hình thành những luận điểm đúng đắn
và sáng tạo hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minhng thể
có phong trào cách mạng…chỉ đảng nào có được một lý
luận tiên tiến hướng dẫn thì mời có thể làm tròn vai trò
của chiến sỹ tiền phong”.
Trong các nguồn gốc trên thì Chủ nghĩa Mác- Lê Nin là
cơ sở chủ yếu nhất hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh.
Chủ nghĩa Mác - Lê Nin đã cung cấp cho Hồ Chí Minh


thế giới quan và phương pháp luận duy vật biện chứng
khoa học và cách mạng để tổng kết lịch sử và kinh

nghiệm thực tiễn, tích luỹ kiến thức tìm ra con đường cứu
nước đúng đắn. Chính Chủ nghĩa Mác -Lê Nin đã giúp
người vựợt hẳn lên phía trước so với những người yêu
nước đương thời, khắc phục cuộc khủng hoảng về đường
lối giải phóng dân tộc, vạch ra con đường cứu nước, giải
phóng dân tộc đúng đắn bằng con đường cách mạng vô
sản.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là di sản tinh thần vô cùng to lớn
và sâu sắc không chỉ góp phần to lớn và quyết định vào
thắng lợi của dân tộc ta trong những năm qua mà còn có ý
nghĩa chỉ đạo lâu dài cho sự nghiệp cách mạng của Đảng
ta, nhân dân ta. Vì vậy, chúng ta phải luôn luôn đấu tranh
để bảo vệ, vận dụng sáng tạo và phát triển tư tưởng Hồ
Chí Minh, nhất là trong sự nghiệp đổi mới, phấn đấu vì
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công băng
và văn minh.



×