Tải bản đầy đủ (.docx) (95 trang)

CƠ sở lý LUẬN về PHỐI hợp với CỘNG ĐỒNG TRONG tổ CHỨC HOẠT ĐỘNG PHÁT TRIỂN bản THÂN CHO học SINH TIỂU học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (386.99 KB, 95 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHỐI HỢP VỚI CỘNG
ĐỒNG TRONG TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG PHÁT
TRIỂN BẢN THÂN CHO HỌC SINH TIỂU HỌC


- Sơ lược lịch sử nghiên cứu về phối hợp với cộng
đồng trong tổ chức hoạt động phát triển bản thân cho học
sinh tiểu học
Giáo dục là một hoạt động mang tính xã hội cao, là một
hình thái ý thức xã hội, đồng thời là một trong những nhân tố
đánh dấu trình độ văn minh của các thời đại trong lịch sử.
Huy động cộng đồng để phát triển giáo dục đã xuất hiện
và có bề dày lịch sử trong các chế độ xã hội và thể chế chính
trị. Không chỉ ở Việt Nam mà nhiều nơi trên thế giới đều rất
quan tâm đến việc xây dựng và củng cố công tác giáo dục gắn
liền với phát triển cộng đồng với mục đích vì lợi ích cộng
đồng, nâng cao chất lượng cuộc sống.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Giáo dục là sự
nghiệp của quần chúng, không phân biệt già, trẻ, trai, gái, cứ
là người Việt Nam thì phải tham gia học tập, tham gia xóa nạn
mù chữ...”
Ở nước ta, trong thời kỳ đổi mới, thực hiện sự nghiệp
Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế,
sự nghiệp giáo dục được Đảng, Nhà nước ta coi là quốc sách


hàng đầu, khẳng định giáo dục là động lực, là nguồn lực để
thúc đẩy kinh tế văn hóa xã hội phát triển với phương châm:
“Giáo dục là sự nghiệp của toàn dân”.
- Những nghiên cứu ở nước ngoài
Trong quá trình phát triển của khoa học giáo dục, hoạt


động giáo dục dường như chưa được quan tâm nghiên cứu
như hoạt động dạy học (được nghiên cứu một cách có hệ
thống từ thời J.A.Cômenxki (1592-1670) tới nay). Tuy nhiên,
trong lịch sử cũng có những nghiên cứu đề cập tới vấn đề này:
Rabơle (1494 – 1553) là một trong những đại biểu xuất sắc
của chủ nghĩa nhân đạo Pháp và tư tưởng giáo dục thời kì văn
hóa Phục Hưng. Ông đòi hỏi việc giáo dục phải bao hàm các
nội dung: Trí dục, đạo đức, thể chất và thẩm mỹ và đã có sáng
kiến tổ chức các hình thức giáo dục như ngoài việc học ở lớp,
ở nhà, còn có các buổi tham quan các xưởng thợ, các cửa
hàng, tiếp xúc với các nhà văn, các nghệ sĩ, đặc biệt là mỗi
tháng một lần thầy và trò về sống ở nông thôn một ngày.
Đến thế kỉ XX, A.S Macarenkô (1888- 1939) – nhà sư
phạm nổi tiếng của Nga vào thập niên 20 - 30 cũng cho rằng
trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng không được quan niệm rằng


công tác giáo dục chỉ được tiến hành trên lớp.
Vào những năm 60-70, trong sách “Giáo dục học” tập 3
[T.A.Ilina (1970), Giáo dục học, tập 3, NXB giáo dục, Hà
Nội], tác giả T.A.Ilina đã đề cập tới khái niệm, nội dung và
các hình thức cơ bản của hoạt động Giáo dục ngoài giờ lên
lớp. Quyển “Tổ chức và lãnh đạo công tác giáo dục ở trường
phổ thông”, tác giả I.X. Macarenco đã trình bày sự thống nhất
của công tác giáo dục trong và ngoài giờ học, nội dung và các
hình thức tổ chức hoạt động Giáo dục ngoài giờ lên lớp, vị trí
của người hiệu trưởng trong việc lãnh đạo hoạt động giáo dục
và các tổ chức Đội thiếu niên và Đoàn thanh niên.
Những năm gần đây, với xu hướng đổi mới giáo dục
theo hướng tiếp cận năng lực, chú trọng giáo dục nhân văn,

tính sáng tạo, kĩ năng sống cho học sinh, hoạt động trải
nghiệm với những tên gọi khác nhau đã được nhiều nước trên
thế giới quan tâm và chính thức đưa vào nội dung giáo dục
trong nhà trường phổ thông, như Hàn Quốc, Nhật, Singapore,
Đức, Mỹ, Anh v.v.
Các luật giáo dục của Hoa Kỳ, Trung Quốc, Nhật Bản,
Pháp, Đức..., các chiến lược phát triển giáo dục đến năm 2020


của nhiều nước trên thế giới đều coi trọng phương thức huy
động cộng đồng trong giáo dục. Các nước thuộc khu vực
Đông Nam Á và khối ASEAN cũng đang tích cực đẩy nhanh
quá trình phát triển giáo dục bằng cách phát huy sức mạnh
của cộng đồng trong việc tham gia phát triển giáo dục.
Tài liệu “Hoạt động Giáo dục ngoài giờ lên lớp giúp
khuyến khích sự phát triển năng động của thanh thiếu niên
như thế nào” của tác giả Randy Brown đã đưa ra khái niệm
hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp: Hoạt động ngoại khóa
là những chương trình mà thực hiện đầy đủ hai điều kiện cơ
bản: 1- đó không phải là một phần thường xuyên của trường
học, chương trình ngoại khóa và 2- chúng được cấu trúc theo
một cách nào đó không chỉ hướng đến xã hội hóa nhưng làm
việc hướng tới một số nhiệm vụ ủng hộ xã hội hay mục tiêu
(Holland & Andre, 1987) [dẫn theo Đinh Thị Kim Thoa
(2015)].
-Những nghiên cứu ở Việt Nam
Với quan điểm giáo dục toàn diện cho học sinh, ngay từ
những năm đầu thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa,
chủ tịch Hồ Chí Minh đã rất chú trọng đến công tác giáo dục



học sinh ngoài giờ lên lớp. Trong thư gửi học sinh nhân ngày
khai trường tháng 9 năm 1945 của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Người đã viết: “… nhưng các em cũng nên, ngoài giờ học ở
trường, tham gia vào các Hội cứu quốc để tập luyện thêm cho
quen với đời sống chiến sĩ và để giúp đỡ một vài việc nhẹ
nhàng trong cuộc phòng thủ đất nước”.
Sau 1975 khi đất nước hoàn toàn giải phóng, vấn đề này
được đề cập đến trong nhiều chỉ thị, văn bản của Đảng và Nhà
nước và được qui định cụ thể trong Điều lệ nhà trường phổ
thông và từ cải cách giáo dục lần thứ 3 tới nay vấn đề HĐGD
được đề cập, nghiên cứu cụ thể hơn.
Để đáp ứng yêu cầu cải cách giáo dục, đã có nhiều công
trình nghiên cứu làm rõ khái niệm “hoạt động giáo dục” và xác
định các hình thức tổ chức có chất lượng các HĐGD trong nhà
trường. Cụ thể chia theo hai hướng chính sau:
Thứ nhất: Các nghiên cứu cơ bản, mang tính lý luận
nhằm xác định nội hàm của khái niệm “hoạt động giáo dục”,
xác định mục tiêu, vị trí, vai trò, nhiệm vụ, nội dung, hình
thức của HĐGD. Đã có các công trình nghiên cứu của các tác
giả như Đặng Thùy Anh, Phạm Hoàng Gia, Lê Trung Tấn và


Phạm Lăng v.v. Một số nghiên cứu khác liên quan đến thực
nghiệm cải tiến nội dung, đổi mới phương pháp tổ chức nhằm
nâng cao chất lượng HĐGD do nhóm cán bộ nghiên cứu của
Viện KHGD thực hiện của các tác giả Đặng Thùy Anh,
Nguyễn Dục Quang, Nguyễn Thị Kỷ, Nguyễn Thanh Bình,
Nguyễn Thị Kim Dung v.v. Các tác giả như Nguyễn Lê Đắc,
Hoàng Minh Phú, Lê Trung Tân, Nguyễn Dục Quang, Hà

Nhật Thăng hướng đến nghiên cứu lý luận nhằm xây dựng cơ
sở lý luận về Hoạt động giáo dục. Tác giả Đặng Vũ Hoạt cho
rằng: “Hoạt động giáo dục là việc tổ chức giáo dục thông qua
hoạt động thực tiễn của học sinh về khoa học kỹ thuật, lao
động công ích, hoạt động xã hội, hoạt động nhân đạo, văn hóa
nghệ thuật, thẩm mỹ, thể dục thể thao, vui chơi giải trí v.v để
giúp các em hình thành và phát triển nhân cách” [14].
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã xây dựng Chương trình
HĐGD ngoài giờ lên lớp cho các cấp học và từ đây nhiều tài
liệu tập huấn dành cho HĐGD ngoài giờ lên lớp và rèn kĩ
năng sống cho học sinh phổ thông được biên soạn. Đó là các
tác giả Nguyễn Thanh Bình, Nguyễn Dục Quang, Bùi Sỹ
Tụng, Lưu Thu Thủy, Lê Thanh Sử, Nguyễn Thị Kim Dung,
Nguyễn Thị Hằng, Bùi Ngọc Diệp v.v. Các tài liệu đã đi sâu


phân tích ý nghĩa, vị trí, vai trò của hoạt động giáo dục ngoài
giờ lên lớp đối với việc phát huy tính tích cực họat động và sự
phát triển toàn diện nhân cách học sinh; Những cơ sở tâm lí
học, giáo dục học, xã hội học trong việc đổi mới phương pháp
tổ chức hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp; Một số cách
tiếp cận mới và các hình thức, phương pháp tổ chức họat động
giáo dục ngoài giờ lên lớp cho học sinh.
Thứ 2: Một số bài viết về kinh nghiệm thực tiễn của các
trường phổ thông trong tổ chức sinh hoạt tập thể, hoạt động
ngoại khóa, hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp mà tác giả là
giáo viên, CBQL trường phổ thông như Trần thị Minh Hiền,
Trần Văn Thế, Nguyễn Hoài Nam, Nguyễn Thị Thu Anh v.v.
Nhiều trường và giáo viên phổ thông đã có những sáng kiến
kinh nghiệm trong việc tổ chức hoạt động giáo dục ngoài giờ

lên lớp như đa dạng hóa các hình thức tổ chức (câu lạc bộ, các
hoạt động văn hóa, văn nghệ, tham quan, dã ngoại, các hội
thi, giao lưu, tọa đàm v.v). Nội dung hoạt động cũng gần gữi
với đời sống và kinh nghiệm của học sinh hơn như các buổi
tọa đàm, giao lưu về tình bạn, tình yêu, tham quan các di tích
lịch sử, văn hóa của địa phương, các câu lạc bộ sở thích v.v.
Tuy nhiên, những sáng kiến kinh nghiệm này chủ yếu diễn ra


ở qui mô nhỏ, thiếu tính hệ thống, mang tính phong trào và
vẫn với vai trò chủ đạo là giáo viên v.v.
Hướng nghiên cứu thứ ba: Các nghiên cứu liên quan trực
tiếp đến hoạt động trải nghiệm sáng tạo: Với định hướng đổi
mới căn bản và toàn diện giáo dục phổ thông mà Nghị quyết
29-NQ/TW [24] đề ra, dự thảo chương trình giáo dục phổ
thông mới ra đời với sự xuất hiện của cụm từ “Hoạt động trải
nghiệm sáng tạo” thay cho cụm từ “Hoạt động giáo dục ngoài
giờ lên lớp”. Từ đây, có một số nghiên cứu và các bài viết về
hoạt động trải nghiệm bắt đầu xuất hiện của các tác giả: Định
Thị Kim Thoa, Bùi Ngọc Diệp, Nguyễn Thị Thu Anh, Nguyễn
Thị Hằng, Ngô Thu Dung, Lê Huy Hoàng v.v. Nghiên cứu
đầu tiên liên quan trực tiếp đến hoạt động trải nghiệm phải kể
đến là nhiệm vụ nghiên cứu cấp Bộ “Mục tiêu, chuẩn kết quả,
nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức giáo dục, đánh giá
kết quả học tập của học sinh qua các hoạt động trải nghiệm
trong chương trình giáo dục phổ thông mới” do PGS.TS Đinh
Thị Kim Thoa chủ trì [22].Trong nghiên cứu này, các tác giả
đã đi sâu phân tích những cơ sở lí luận về hoạt động trải
nghiệm, làm rõ nội hàm cũng như mục tiêu, nội dung, kết quả
và kiểm tra, đánh giá hoạt động trải nghiệm.



Trong năm (2014 - 2015), đề tài nhiệm vụ khoa học
công nghệ cấp trường của Đại học sư phạm Hà Nội về vấn đề:
“Nghiên cứu phát triển năng lực thiết kế chương trình hoạt
động trải nghiệm sáng tạo cho giáo viên phổ thông” SPHN
2014-17-02NV do ThS. Nguyễn Thị Hằng chủ nhiệm đã được
triển khai [13], Nghiên cứu phát triển năng lực thiết kế
chương trình hoạt động trải nghiệm sáng tạo cho giáo viên
phổ thông, Mã số SPHN 2014-17-02NV]. Đề tài đã bước đầu
xác định được những kỹ năng cần thiết của giáo viên trong
thiết kế chương trình hoạt động trải nghiệm sáng tạo cho học
sinh phổ thông; Xây dựng quy trình thiết kế và tổ chức thực
hiện các hoạt động trải nghiệm sáng tạo; Xây dựng một số
mẫu thiết kế hoạt động trải nghiệm sáng tạo và đề xuất khung
chương trình bồi dưỡng giáo viên phổ thông về thiết kế hoạt
động trải nghiệm sáng tạo. Sau đề tài này, trường Đại học Sư
phạm Hà Nội đã có nhiều đề tài nghiên cứu về HĐTNST như:
Lý thuyết “Học tập trải nghiệm" và định hướng vận dụng vào
việc tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong nhà trường
phổ thông của tác giả Nguyễn Thị Hằng; Nghiên cứu nguyên
tắc thiết kế hoạt động theo phương thức trải nghiệm, sáng tạo
của tác giả Nguyễn Thanh Bình; Nghiên cứu phát triển


chương trình bồi dưỡng nâng cao năng lực tổ chức hoạt động
trải nghiệm sáng tạo cho sinh viên Đại học Sư phạm Hà Nội
của tác giả Nguyễn Thị Kim Dung; Xây dựng tiêu chí đánh
giá HĐTNST ở học sinh THPT của tác giả Dương Thị Thúy
Hà; Kinh nghiệm tổ chức dạy học các môn Khoa học tự nhiên

ở trường THCS theo phương thức trải nghiệm sáng tạo ở một
số nước trên thế giới của tác giả Nguyễn Hoàng Đoan Huy.
Mục tiêu, chuẩn kết quả, nội dung, phương pháp, hình
thức tổ chức giáo dục, đánh giá kết quả học tập của học sinh
qua các hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong chương trình
giáo dục phổ thông mới, nhiệm vụ KHCN cấp Bộ]. Hoạt động
ngoại khóa có thể bao gồm việc tham gia vào các câu lạc bộ,
tổ chức học sinh, các nhóm thanh niên, v.v. Tài liệu cũng chỉ
rõ những lợi ích cụ thể của hoạt động ngoài giờ lên lớp đối
với sự tham gia của học sinh và những yếu tố thúc đẩy hoạt
động ngoài giờ lên lớp.
* Khái niệm huy động cộng đồng thường được hiểu là
một bộ phận, một hoạt động của xã hội hoá sự nghiệp giáo
dục.
Chỉ từ những năm 1980 đến nay trong lĩnh vực khoa học


quản lý mới nói đến cộng đồng. Quan điểm của Hồ Chí Minh,
của Đảng và Nhà nước ta về sự tham gia của gia đình và xã
hội vào sự nghiệp giáo dục là nền tảng cho việc thực hiện xã
hội hoá sự nghiệp giáo dục. huy động cộng đồng tham gia
giáo dục là cốt lõi của quan điểm giáo dục là sự nghiệp của
toàn xã hội. Huy động cộng đồng đã có sức sống tiềm tàng
trong truyền thống giáo dục của nhân dân ta suốt chiều dài
lịch sử. Tư tưởng dân là gốc, “lấy dân làm gốc” đã được kết
tinh truyền thống và lưu thành bản sắc độc đáo của dân tộc
Việt Nam “Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân
liệu cũng xong” (Bác Hồ).
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành Trung
ương khoá VIII; Đại hội lần thứ X của Đảng đã khẳng định xã

hội hoá là một trong những quan điểm để hoạch định hệ thống
các chính sách xã hội.
Quan điểm của Đảng, Nhà nước về xã hội hoá sự nghiệp
giáo dục được thể chế hoá bằng pháp luật thể hiện ở Luật
Giáo dục là cơ sở pháp lý để thực hiện xã hội hoá sự nghiệp
giáo dục. Tại Điều 1 về xã hội hoá sự nghiệp giáo dục, Luật
này ghi rõ: “Mọi tổ chức, gia đình và công dân đều có trách
nhiệm chăm lo sự nghiệp giáo dục, xây dựng phong trào học


tập và môi trường giáo dục lành mạnh, phối hợp nhà trường
thực hiện mục tiêu giáo dục. Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong
phát triển sự nghiệp giáo dục..., khuyến khích vận động và tạo
điều kiện để tổ chức cá nhân tham gia phát triển sự nghiệp giáo
dục”.
Ngày 18/4/2005 Chính Phủ đề ra Nghị quyết
05/2005/NQ-CP về “Đẩy mạnh xã hội hoá các hoạt động giáo
dục,...” để đẩy mạnh hơn nữa quá trình xã hội hoá [29].
Như vậy, hệ thống quan điểm của Đảng và các chính
sách của Nhà nước ta về xã hội hoá sự nghiệp giáo dục thực
chất là khẳng định tư tưởng chiến lược của Đảng trong quá
trình phát triển Giáo dục & Đào tạo.
Vấn đề huy động cộng đồng để đầu tư cho giáo dục thực
chất là vấn đề tăng cường xã hội hoá sự nghiệp giáo dục, vấn
đề này đã được nhiều sách báo đề cập, ở nước ta đã có một số
nhà khoa học, nhà quản lý giáo dục nghiên cứu lĩnh vực này.
Tuy nhiên, vẫn còn rất ít nghiên cứu tập trung vào vấn đề huy
động cộng đồng. Do đó, cần thiết phải xem xét huy động cộng
đồng từ góc độ khoa học quản lý giáo dục để làm rõ mối quan
hệ giữa huy động cộng đồng và xã hội hoá sự nghiệp giáo



dục, các biện pháp huy động cộng đồng và cách cải tiến quản
lý giáo dục nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả của các
biện pháp huy động cộng đồng tham gia xây dựng và phát
triển giáo dục.
Tuy nhiên ở mỗi tỉnh, thành phố, quận, huyện, thị xã có
điều kiện địa lý, đặc điểm kinh tế xã hội khác nhau, nên hoạt
động huy động cộng đồng tham gia xây dựng giáo dục và việc
vận dụng những phương pháp huy động cũng mang những sắc
thái riêng, đặc trưng cho địa phương đó.
Trong định hướng phát triển giáo dục hiện nay, khái
niệm hoạt động phát triển bản thân được hiểu như là một phần
nội hàm của khái niệm hoạt động trải nghiệm.
Từ những nghiên cứu trên chúng tôi rút ra một số nhận
xét sau:
Thứ nhất: Các nghiên cứu về hoạt động giáo dục nói
chung, hoạt động trải nghiệm, hoạt động phát triển bản thân
theo chương trình mới ở trường phổ thông đã được quan tâm
nghiên cứu từ khá lâu ở trên thế giới cũng như ở nước ta. Các
nghiên cứu đều chỉ ra tầm quan trọng của hoạt động giáo dục
trong việc giáo dục toàn diện nhân cách. Tuy nhiên, với tên


gọi HĐTNST thì có duy nhất là Hàn Quốc và của nước ta
trong những nghiên cứu gần đây khi Đề án Đổi mới căn bản,
toàn diện giáo dục phổ thông bắt đầu triển khai.
Thứ hai: Sự phối hợp của cộng đồng với nhà trường là
vô cùng quan trọng trong công tác giáo dục nói chung và tổ
chức các hoạt động giáo dục phát triển bản thân cho học sinh

nói riêng. Sự tham gia của cộng đồng vào nhà trường là một
trong giải pháp quan trọng để giúp cho học sinh không chỉ đạt
được kết quả cao nhất trong học tập, mà qua đó giúp giáo dục
nhà trường thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện cho học
sinh.
Thứ ba: Tùy thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội của mỗi
quốc gia, mỗi địa phương mà sự tham gia của cha mẹ học
sinh, sự phối hợp của cộng đồng mà có những phương thức
khác nhau, có biện pháp phối hợp khác nhau. Sự tham gia của
cộng đồng sẽ hiệu quả và bền vững khi có sự phối hợp đồng
bộ. Trong đó nhà trường giữ vai trò chính trong tổ chức, điều
phối các hoạt động tham gia của cộng đồng.
Kết luận, các nghiên cứu đều khẳng định vai trò và tầm
quan trọng của sự phối hợp giữa nhà trường và cộng đồng


trong giáo dục học sinh. Tuy nhiên, nghiên cứu về sự phối
hợp đó trong một hoạt động cụ thể như tổ chức hoạt động
phát triển bản thân học sinh dựa vào cộng đồng thì chưa có
nghiên cứu nào. Do đó, nghiên cứu về tổ chức hoạt động phát
triển bản thân dựa vào cộng đồng trong giai đoạn hiện này là
có ý nghĩa khoa học, thực tiễn, và đó cũng là đóng góp mới
của tác giả luận văn.
-Cơ sở lý luận về tổ chức hoạt động phát triển bản
thân cho học sinh tiểu học
-Hoạt động phát triển bản thân
-

Hoạt động phát triển bản thân
Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể công bố ngày

19 tháng 01 năm 2018 đã xác định: HĐTN là hoạt động giáo
dục, trong đó học sinh dựa trên sự huy động tổng hợp kiến
thức và kỹ năng từ nhiều lĩnh vực giáo dục khác nhau để trải
nghiệm thực tiễn đời sống nhà trường, gia đình, xã hội, tham
gia hoạt động hướng nghiệp và hoạt động phục vụ cộng đồng
dưới sự hướng dẫn và tổ chức của nhà giáo dục, qua đó hình
thành những phẩm chất chủ yếu, năng lực chung và một số
năng lực thành phần đặc thù của hoạt động này như: năng lực


thiết kế và tổ chức hoạt động, năng lực định hướng nghề
nghiệp, năng lực thích ứng với những biến động trong cuộc
sống và các kỹ năng sống khác [ 1].
Theo tác giả Đinh Thị Kim Thoa “Hoạt động trải nghiệm
là hoạt động giáo dục thông qua sự trải nghiệm và sáng tạo
của cá nhân trong việc kết nối kinh nghiệm học được trong
nhà trường với thực tiễn đời sống mà nhờ đó các kinh nghiệm
được tích lũy thêm và dần chuyển hóa thành năng lực”[22].
Mục tiêu, chuẩn kết quả, nội dung, phương pháp, hình thức tổ
chức giáo dục, đánh giá kết quả học tập của học sinh qua các
hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong chương trình giáo dục
phổ thông mới].
Tác giả Nguyễn Thị Hằng (2015) và nhóm nghiên cứu
cho rằng: “hoạt động trải nghiệm sáng tạo là một loại hình
hoạt động giáo dục tích cực, tự giác có mục đích, được tổ
chức theo phương thức trải nghiệm nhằm tạo điều kiện cho
học sinh tham gia trực tiếp vào các loại hình hoạt động và
giao lưu, nhằm hình thành và phát triển ở các em những phẩm
chất, tư tưởng, ý chí, tình cảm, giá trị, kỹ năng sống và những
năng lực cần có của con người trong xã hội hiện đại, v.v và

phát huy khả năng sáng tạo ra cái mới có giá trị đối với bản


thân và xã hội” [13].
Nhìn chung, dù được diễn đạt bằng những cách khác
nhau nhưng các tác giả đều thống nhất ở một điểm: hoạt động
trải nghiệm là hoạt động giáo dục được tổ chức theo phương
thức trải nghiệm và sáng tạo nhằm phát triển toàn diện nhân
cách học sinh.
Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể đã xác định:
Nội dung cơ bản của chương trình HĐTN xoay quanh các
mối quan hệ giữa cá nhân học sinh với bản thân; giữa học
sinh với người khác, cộng đồng và xã hội; giữa học sinh với
môi trường; giữa học sinh với nghề nghiệp. Nội dung này
được triển khai qua 4 nhóm hoạt động chính: Hoạt động phát
triển cá nhân; Hoạt động lao động; Hoạt động xã hội và phục
vụ cộng đồng; Hoạt động hướng nghiệp.
Như vậy, hoạt động phát triển bản thân là một nhóm của
hoạt động trải nghiệm.
Hoạt động trải nghiệm, trong đó có hoạt động phát triển
bản thân học sinh coi trọng các hoạt động thực tiễn, mang tính
tập thể trên tinh thần tự chủ cá nhân của học sinh, với sự nỗ
lực giáo dục giúp phát triển sự sáng tạo và cá tính riêng của


mỗi cá nhân trong tập thể. Đây là những hoạt động giáo dục
được tổ chức gắn liền với kinh nghiệm và cuộc sống của học
sinh. Điều đó đòi hỏi các hình thức và phương pháp tổ chức
HĐ phải đa dạng, linh hoạt, học sinh tự hoạt động, trải
nghiệm là chính. Khi nói đến HĐ có nghĩa trong hoạt động sẽ

chứa đựng nội dung, đặc điểm, tính chất và phương thức tiến
hành hoạt động.
Hoạt động phát triển bản thân học sinh là các hoạt
động thực tiễn được tiến hành song song với hoạt động dạy
học trong nhà trường phổ thông. Hoạt động phát triển bản
thân học sinh là một bộ phận của quá trình giáo dục, được tổ
chức ngoài giờ học các môn văn hóa ở trên lớp và có mối
quan hệ bổ sung, hỗ trợ cho hoạt động dạy học. Thông qua
các hoạt động thực hành, những việc làm cụ thể và các hành
động của học sinh, Hoạt động phát triển bản thân học sinh là
các hoạt động giáo dục có mục đích, có tổ chức được thực
hiện trong hoặc ngoài nhà trường nhằm phát triển, nâng cao
các tố chất và tiềm năng của bản thân học sinh, nuôi dưỡng ý
thức sống tự lập, đồng thời quan tâm, chia sẻ tới những người
xung quanh. Thông qua việc tham gia vào các Hoạt động phát
triển bản thân học sinh, học sinh được phát huy vai trò chủ


thể, tính tích cực, chủ động, tự giác và sáng tạo của bản thân.
Các em được chủ động tham gia vào tất cả các khâu của quá
trình hoạt động: từ thiết kế hoạt động đến chuẩn bị, thực hiện
và đánh giá kết quả hoạt động phù hợp với đặc điểm lứa tuổi
và khả năng của bản thân. Các em được trải nghiệm, được bày
tỏ quan điểm, ý tưởng, được đánh giá và lựa chọn ý tưởng
hoạt động, được thể hiện, tự khẳng định bản thân, được tự
đánh giá và đánh giá kết quả hoạt động của bản thân, của
nhóm mình và của bạn bè v.v. Từ đó, hình thành và phát triển
cho các em những giá trị sống và các năng lực cần thiết. Hoạt
động phát triển bản thân học sinh về cơ bản mang tính chất
của hoạt động trên tinh thần tự chủ, với sự nỗ lực giáo dục

nhằm phát triển khả năng sáng tạo và cá tính riêng của mỗi cá
nhân trong tập thể.
Trong luận văn này, chúng tôi quan niệm hoạt động phát
triển bản thân là một nhóm trong hoạt động trải nghiệm,
gồm:
Khám phá, phát triển thể chất: hiểu về cơ thể, rèn luyện
cơ thể cân đối, khỏe mạnh, chiều cao đúng lứa tuổi, vận động
nhanh nhẹn, khéo léo, …


Khám phá, phát triển nhận thức của bản thân:khả năng
nhận thức về tự nhiên, xã hội và thế giới xung quanh.
Phát triển đạo đức, nhân cách, như: biết yêu thương,
quan tâm giúp đỡ cha mẹ, bạn bè và những người xung
quanh, biết cách cảm ơn, xin lỗi và biết chia sẻ với những
người không may mắn, tính nguyên tắc, có ý chí…
Phát triển kĩ năng xã hội: thói quen tự giác làm bài tập
về nhà, giúp đỡ gia đình với những công việc vừa sức, tích
cực tham gia các hoạt động chung của lớp, tinh thần làm việc
đội nhóm, khả năng tự bảo vệ bản thân…
Khám phá, phát triển năng khiếu: nhận biết, phát hiện
năng khiếu ; có nhu cầu và hứng thú tham gia các hoạt động
nghệ thuật: ca hát, đóng kịch, vẽ tranh, …; nuôi dưỡng phát
triển năng khiếu của bản thân.
-

Khái niệm tổ chức hoạt động phát triển bản thân học sinh
Tổ chức hoạt động phát triển bản thân học sinh theo
hướng tiếp cận dựa vào cộng đồng chính là việc tổ chức các
hoạt động trải nghiệm nhằm phát triển bản thân học sinh như:

nhận thức, thể chất, đạo đức; năng khiếu…và nhân cách của


học sinh, là sự huy động cộng đồng, các lực lượng xã hội
tham gia vào tổ chức hoạt động.
Hoạt động phát triển bản thân học sinh là hoạt động giáo
dục có lợi thế thu hút được rất nhiều học sinh ở các độ tuổi
khác nhau, người dân trong cộng đồng tham gia các hoạt động
khác nhau; các nhà giáo dục hoàn toàn có thể tổ chức nhiều
hoạt động khác nhau để thực hiện các mục tiêu giáo dục của
mình.
Để các hoạt động này hiệu quả, nhà tổ chức có thể thu
hút, huy động cộng đồng, dựa vào các lực lượng cộng đồng
mở rộng các nguồn đầu tư, khai thác tiềm năng về nhân lực,
vật lực, tài lực trong xã hội, phát huy và sử dụng có hiệu quả
các nguồn lực của nhân dân, tạo điều kiện cho giáo dục phát
triển.
Huy động cộng đồng cần được tiến hành với các chiến
lược: Cộng đồng hoá giáo dục; Cộng đồng hoá trách nhiệm; Đa
phương hoá nguồn lực với sự đóng góp của cộng đồng; Thể chế
hoá sự tham gia của cộng động trong giáo dục.
- Vị trí, vai trò, mục tiêu, nhiệm vụ của hoạt động phát triển
bản thân


- Vị trí của hoạt động phát triển bản thân
Hoạt động phát triển bản thân có vị trí rất quan trọng
trong việc thực hiện nhiệm vụ dạy ngườitrong các nhà trường
hiện nay.
Dưới góc độ chỉ đạo chung, vị trí của hoạt động phát

triển bản thân cho học sinh là một trong các hoạt động giáo
dục trong nhà trường:
- Hoạt động phát triển bản thân được tiến hành thông
qua các môn bắt buộc và tự chọn…
- Hoạt động phát triển bản thân do nhà trường phối hợp
với các lực lượng giáo dục ngoài nhà trường tổ chức,…
Như vậy, hoạt động giáo dục phát triển bản thân cho học
sinh không phải là hoạt động “phụ”, hoạt động “bề nổi” mà
giữ một vị trí rất quan trọng trong các hoạt động giáo dục của
các nhà trường.
- Hoạt động phát triển bản thân cho học sinh là cầu nối
tạo ra mối liên hệ hai chiều giữa nhà trường và xã hội.
+ Thông qua hoạt động giáo dục này nhà trường có điều
kiện phát huy vai trò tích cực của mình đối với xã hội , mở ra


khả năng thuận lợi để gắn học với hành, nhà trường với xã hội
thông qua việc đưa Thầy và Trò tham gia các hoạt động cộng
đồng.
+ Bằng việc đóng góp sức người, sức của của cộng đồng
để tổ chức các hoạt động giáo dục, hoạt động giáo dục ngoài
giờ lên lớp là điều kiện và phương tiện để huy động sức
mạnh cộng đồng tham gia vào quá trình đào tạo thế hệ trẻ, vào
sự phát triển nhà trường.
- Vai trò của hoạt động giáo dục phát triển bản thân
Hoạt động giáo dục phát triển bản thân có những vai trò
thể hiện ở những điểm sau [14]:
- Đây là dịp để học sinh củng cố tri thức đã học ở trên
lớp. Thông qua các hình thức hoạt động cụ thể, học sinh có
dịp để đối chiếu, để kiểm nghiệm tri thức đã học, làm cho

những tri thức đó trở thành của chính các em.
- Hoạt động giúp học sinh phát triển toàn diện hơn về cả
thể chất, đạo đức, năng khiếu.
- Hoạt động phát triển bản thân là sự tiếp nối hoạt động
dạy học, do đó tạo nên sự hài hòa, cân đối của quá trình sư


phạm tổng thể nhằm hiện thực hóa mục tiêu giáo dục của cấp
học.
- Hoạt động giáo dục phát triển bản thân vừa củng cố,
vừa phát triển quan hệ giao tiếp giữa các lớp trong trường và
với cộng đồng xã hội.
- Hoạt động giáo dục phát triển bản thân thu hút và phát
huy được tiềm năng của các lực lượng giáo dục trong và ngoài
nhà trường để nâng cao hiệu quả giáo dục học sinh.
- Hoạt động giáo dục phát triển bản thân phát huy cao độ
tính chủ thể, tính chủ động, tích cực của học sinh. Dưới sự cố
vấn, giúp đỡ của giáo viên, học sinh cùng nhau tổ chức các
hoạt động tập thể khác nhau trong đời sống hàng ngày ở nhà
trường, ngoài xã hội. Từ đó giúp hình thành những kinh
nghiệm giao tiếp, ứng xử có văn hóa, giúp cho việc hình
thành và phát triển nhân cách ở các em.
- Mục tiêu của hoạt động giáo dục phát triển bản thân
Ở trường Tiểu học, Hoạt động giáo dục trải nghiệm nói
chung gồm các mục tiêu:
- Củng cố và khắc sâu những kiến thức của các môn học;


×