VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
VÕ THÀNH LONG
THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUỐC PHÒNG CỦA
ỦY BAN NHÂN DÂN CẤP XÃ TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI, NĂM 2019
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
VÕ THÀNH LONG
THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUỐC PHÒNG CỦA
ỦY BAN NHÂN DÂN CẤP XÃ TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
Chuyên ngành : Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số
: 8.38.01.02
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
GS.TS. VÕ KHÁNH VINH
HÀ NỘI, NĂM 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được
ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận văn
Võ Thành Long
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN PHÁP
LUẬT VỀ QUỐC PHÒNG CỦA ỦY BAN NHÂN DÂN CẤP XÃ ............ 8
1.1. Khái niệm, đặc điểm của thực hiện pháp luật về quốc phòng của Uỷ
ban nhân dân cấp xã .......................................................................................... 8
1.2. Các nội dung của thực hiện pháp luật về quốc phòng của Uỷ ban nhân
dân cấp xã ........................................................................................................ 16
1.3. Các yếu tố tác động đến thực hiện pháp luật về quốc phòng của Uỷ
ban nhân dân cấp xã ........................................................................................ 22
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUỐC
PHÒNG CỦA ỦY BAN NHÂN DÂN CẤP XÃ Ở THÀNH PHỐ ĐÀ
NẴNG ............................................................................................................. 26
2.1. Thực trạng của các yếu tố tác động đến thực hiện pháp luật về quốc
phòng của Uỷ ban nhân dân cấp xã ở thành phố Đà Nẵng ............................. 26
2.2. Thực trạng các qui định của pháp luật về chức năng, nhiệm vụ của Uỷ
ban nhân dân cấp xã trong lĩnh vực quốc phòng............................................. 30
2.3. Thực trạng tổ chức thực hiện pháp luật về quốc phòng của Uỷ ban
nhân dân cấp xã ở thành phố Đà Nẵng ........................................................... 36
2.4. Đánh giá về thực trạng tổ chức thực hiện pháp luật về quốc phòng của
Uỷ ban nhân dân cấp xã ở thành phố Đà Nẵng ............................................... 43
CHƯƠNG 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN
PHÁP LUẬT VỀ QUỐC PHÒNG CỦA ỦY BAN NHÂN DÂN CẤP
XÃ TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG ....................................... 49
3.1. Quan điểm bảo đảm thực hiện pháp luật về quốc phòng của Uỷ ban
nhân dân cấp xã từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng ........................................... 49
3.2. Các giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về quốc phòng của Uỷ ban
nhân dân cấp xã từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng ........................................... 52
KẾT LUẬN .................................................................................................... 60
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quốc phòng là vấn đề hệ trọng đối với mọi quốc gia độc lập có chủ
quyền. Trong quá trình hình thành và phát triển của nhân loại, giai cấp giữ địa
vị thống trị xã hội nào cũng đều coi trọng xây dựng lực lượng vũ trang, xây
dựng nền quốc phòng, chăm lo phòng thủ quốc gia và giữ vững độc lập chủ
quyền của đất nước. Qúa trình xây dựng và phát triển đất nước của dân tộc ta
khẳng định: “Dựng nước phải đi đôi với giữ nước”. Ngày nay, quan niệm đó
được thể hiện ở sự kết hợp thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa
(XHCN). Thực hiện đúng nguyên tắc Đảng cộng sản Việt Nam giữ vai trò
lãnh đạo tuyệt đối về mọi mặt đối với quân đội, đây là nguyên tắc cốt lõi, Nhà
nước điều hành và quản lý đối với sự nghiệp xây dựng nền quốc phòng toàn
dân.
Nhiệm vụ quốc phòng và an ninh trong những năm tới được khẳng định
rất rõ trong Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ XII đó là “ Phát huy mạnh
mẽ sức mạnh tổng hợp toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, tranh thủ tối đa
sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo
vệ vững chắc độc lập, chủ quyền thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc,
bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Đây là mục
tiêu trọng yếu của quốc phòng, an ninh nước ta hiện nay, sức mạnh bảo vệ Tổ
quốc là sức mạnh tổng hợp toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, dưới sự
lãnh đạo của Đảng. Lực lượng bảo vệ Tổ quốc là toàn dân, trong đó lực lượng
vũ trang nhân dân giữ vai trò nòng cốt. Sức mạnh tổng hợp trong bảo vệ Tổ
quốc là sức mạnh tổng hợp của các yếu tố: Chính trị, quân sự, kinh tế, khoa
học và công nghệ, văn hóa, đối ngoại; Sức mạnh của toàn bộ nhân dân trong
nước và kiều bào Việt Nam định cư ở nước ngoài; Là sự kết hợp chặt chẽ sức
1
mạnh bên trong với sức mạnh bên ngoài, sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời
đại. Cùng với việc khẳng định sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, bảo vệ Tổ
quốc cũng cần tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế. Đây là
một trong những kinh nghiệm lớn của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
của đất nước ta, nhất là trong điều kiện bối cảnh quốc tế hiện nay”, “Xây
dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân vững mạnh là lực lượng nòng
cốt của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Xây dựng lực lượng
Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện
đại là lực lượng chính trị tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà
nước và nhân dân, có số lượng hợp lý, có sức chiến đấu cao; Xây dựng lực
lượng dự bị động viên hùng hậu, dân quân tự vệ rộng khắp, chủ động chuẩn bị
lực lượng và các kế hoạch, phương án tác chiến cụ thể, khoa học, đủ khả năng
bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh
quốc gia trong mọi tình huống…”, “Phải tiếp tục giữ vững, tăng cường sự
lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung, thống
nhất của Nhà nước đối với Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và sự
nghiệp bảo vệ Tổ quốc”.
Chương IV Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2013 đã
đề ra các nguyên tắc cơ bản làm cơ sở pháp lý cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam XHCN. Trong đó, “Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là
sự nghiệp của toàn dân. Nhà nước củng cố và tăng cường nền quốc phòng
toàn dân và an ninh nhân dân mà nòng cốt là lực lượng vũ trang nhân dân;
phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước để bảo vệ vững chắc Tổ quốc, góp
phần bảo vệ hòa bình ở khu vực và trên thế giới. Cơ quan, tổ chức, công dân
phải thực hiện đầy đủ nhiệm vụ quốc phòng và an ninh” (Điều 64).
“Nhà nước phát huy tinh thần yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách
mạng của Nhân dân, giáo dục quốc phòng và an ninh cho toàn dân; xây dựng
2
công nghiệp quốc phòng, an ninh; bảo đảm trang bị cho lực lượng vũ trang
nhân dân, kết hợp quốc phòng, an ninh với kinh tế, kinh tế với quốc phòng, an
ninh; thực hiện chính sách hậu phương quân đội; bảo đảm đời sống vật chất,
tinh thần của cán bộ, chiến sỹ, công nhân, viên chức phù hợp với tính chất
hoạt động của Quân đội nhân dân, Công an nhân dân; xây dựng lực lượng vũ
trang nhân dân hùng mạnh, không ngừng tăng cường khả năng bảo vệ Tổ
quốc” (Điều 68).
Để tăng cường thực hiện của Ủy ban nhân dân (UBND) xã trong việc
triển khai và thực hiện pháp luật về quốc phòng trong giai đoạn phát triển
hiện nay, nhằm đạt được các mục tiêu và theo các quy định của Hiến pháp,
cần có sự thống nhất về các vấn đề chung như: khái niệm, đặc điểm, nội dung,
hình thức, phương pháp, nguyên tắc quản lý đối với quốc phòng, thực trạng
quản lý nhà nước về quốc phòng hiện nay.
Trong thực tế hiện nay, do chưa có nhận thức thống nhất về khái niệm,
nội dung, phương pháp, chưa thấy rõ trách nhiệm của từng cấp, từng ngành
nên công tác triển khai thực hiện pháp luật về quốc phòng còn chưa được
quan tâm đúng mức. Cũng vì chưa có sự thống nhất trong việc soạn thảo các
văn bản quy phạm pháp luật nên đã gặp nhiều vướng mắc. Trong quá trình
soạn thảo những nội dung quản lý về quốc phòng như: Pháp lệnh dự bị động
viên, cụ thể chương quy định quản lý nhà nước, vẫn chưa đề cặp đến những
nội dung quản chặt chẽ nhà nước về quốc phòng, trách nhiệm của các ngành,
… Qua hoạt động thực tiễn chức năng chỉ đạo chưa phân định rõ rang giữa
hành chính nhà nước với hành chính quân sự, do đó việc quy trách nhiệm,
chức năng , nhiệm vụ nên quá trình quy định chức năng nhiệm vụ không rõ
ràng nên khi chỉ đạo chưa thống nhất.
Do vậy, việc nghiên cứu “Thực hiện pháp luật về quốc phòng của
UBND cấp xã từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng” là yêu cầu cấp thiết với mong
3
muốn đóng góp một phần nhỏ trong việc đề xuất những cơ sở lý luận, thực
tiễn và kiến nghị những giải pháp nâng cao việc thực hiện pháp luật về quốc
phòng trước yêu cầu thực tế hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Thực hiện pháp luật về quốc phòng của UBND cấp xã là một trong
những nội dung trọng tâm trong tổ chức thực hiện của nhà nước đối với lĩnh
vực quốc phòng, được sự quan tâm đặc biệt trong lý luận thực tiễn hiện nay.
Việc tổ chức nghiên cứu nội dung xây dựng củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ
quốc theo quan điểm của Đảng ta và vận dụng tư tưởng quân sự của Chủ tịch
Hồ Chí Minh vào nghệ thuật quân sự trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc được
thực hiện nghiêm túc trên những nét chung nhất gắn liền với việc phân tích,
luận giải thực thi hiệu quả những công trình nghiên cứu như:
- Quan điểm cơ bản bảo vệ Tổ quốc XHCN [20] của Đại tướng Đoàn
Khuê.
- Một số chuyên đề của Học viện Quốc phòng.
Tuy vậy, trong những công trình nghiên cứu đó, vấn đề quốc phòng chủ
yếu được xem xét từ góc độ chính trị xã hội, cũng chưa có tác phẩm riêng biệt
nghiên cứu xem xét một cách toàn diện vấn đề quản lý nhà nước nói chung,
về thực hiện pháp luật của UBND cấp xã nói riêng đối với quốc phòng, đặc
biệt từ góc độ Luật Hiến pháp và Luật hành chính. Trong quá trình hoạt động
thực tiễn lý luận và thực tiễn, nội dung, chủ thể hình thức, phương pháp, khái
niệm, vấn đề quản lý bằng pháp luật đối với quốc phòng…vẫn còn những vấn
đề được hiểu theo nghĩa rộng, nghĩa hẹp khác nhau và là vấn đề chưa thống
nhất, cần được nghiên cứu xem xét.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn hướng tới làm sáng tỏ cơ sở lý luận, thực trạng thực hiện
4
pháp luật về quốc phòng của UBND cấp xã và việc quản lý nhà nước đối với
quốc phòng ở cấp xã, trên cơ sở đó đưa ra những quan điểm, giải pháp thực
hiện có hiệu quả trong thực hiện pháp luật về quốc phòng đáp ứng được yêu
cầu nhiệm vụ mới của nước ta nói chung của thành phố Đà Nẵng nói riêng
trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nhằm thực hiện được mục đích nói trên, nội dung của luận văn cần giải
quyết các nhiệm vụ sau đây:
- Làm rõ những vấn đề về cơ sở lý luận về thực hiện pháp luật về quốc
phòng của UBND cấp xã;
- Phân tích, đánh giá thực trạng của UBND cấp xãtrong việc thực hiện
pháp luật về quốc phòng và việc quản lý nhà nước đối với quốc phòng ở
thành phố Đà Nẵng hiện nay;
- Kiến nghị một số quan điểm, giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả
trong thực hiện pháp luật về quốc phòng ở thành phố Đà Nẵng hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về thực hiện
pháp luật về quốc phòng của UBND cấp xã ở Đà Nẵng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Không gian nghiên cứu của luận văn là cấp xã của
thành phố Đà Nẵng.
- Về thời gian: Thời gian nghiên cứu, khảo sát là từ 2008 đến 2018.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Từ thực tiễn nghiên cứu hệ thống chính quyền cấp xã trong thực thi
Pháp luật về quốc phòng, trên cơ sở phương pháp luận biện chứng khoa học
5
của Chủ nghĩa Mác-Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm chính sách của
Đảng, Nhà nước về quốc phòng. Luận văn được xây dựng trên nền tảng hệ
thống lý luận khoa học và thực tiễn quản lý nhà nước về quốc phòng trong
giai đoạn hiện nay.
Luận văn có kế thừa và phát triển những vấn đề lý luận về quốc phòng,
quản lý nhà nước bằng pháp luật về quốc phòng… của các công trình khoa
học có liên quan.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu bằng phương pháp luận duy vật lịch sử và
chủ nghĩa duy vật biện chứng cùng các phương pháp cụ thể khác như: phương
pháp xã hội học, phân tích, tổng hợp, hệ thống, so sánh pháp luật … để làm
sáng tỏ những vấn đề nghiên cứu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn làm sáng tỏ một cách có hệ thống, khoa học về thực hiện
pháp luật về quốc phòng của UBND cấp xã. Từ thực tiễn ở Đà Nẵng, đề xuất
một số giải pháp nâng cao thực hiện pháp luật về quốc phòng của UBND cấp
xã trong giai đoạn hiện nay.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong
nghiên cứu và giảng dạy tại các trung tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức…
Những kết luận và giải pháp rút ra từ luận văn có thể được làm tài liệu
tham khảo cho quá trình thực hiện pháp luật về quốc phòng của UBND cấp xã
ở thành phố Đà Nẵng hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Nội dung luận văn ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu
6
tham khảo thì gồm có 3 chương
Chương 1. Những vấn đề lý luận về việc thực hiện pháp luật về quốc
phòng của Uỷ ban nhân dân cấp xã
Chương 2. Thực trạng thực hiện pháp luật về quốc phòng của Uỷ ban
nhân dân cấp xã ở thành phố Đà Nẵng
Chương 3. Quan điểm và giải pháp tăng cường thực hiện pháp luật về
quốc phòng của Uỷ ban nhân dân cấp xã từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
7
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ
QUỐC PHÒNG CỦA ỦY BAN NHÂN DÂN CẤP XÃ
1.1. Khái niệm, đặc điểm của thực hiện pháp luật về quốc phòng
của Uỷ ban nhân dân cấp xã
1.1.1. Khái niệm về thực hiện pháp luật về quốc phòng
“Quốc phòng” là công cuộc giữ nước bằng sức mạnh tổng hợp của toàn
dân tộc, trong đó sức mạnh quân sự là đặc trưng, lực lượng vũ trang nhân dân
làm nòng cốt. Để làm sáng tỏ khái niệm trên, chúng ta xác định rõ đặt thù nền
quốc phòng của mỗi quốc gia. Thực tiễn hiện nay trên thế giới, mỗi quốc gia
đều có khái niệm cụ thể và những nội dung về quốc phòng để thực thi nhiệm
vụ khác nhau. Đối với Việt Nam nó bắt nguồn từ truyền thống dựng nước và
giữ nước của cha ông ta, truyền thống ấy được hun đúc bởi lòng yêu nước
nồng nàn, được đúc kết bởi tinh thần kiên cường, dũng cảm, tự lực tự cường,
đoàn kết một lòng. Do đó, nền quốc phòng của Việt Nam khác với nền quốc
phòng của các quốc gia khác. Đó là công cuộc dựng nước và giữ nước: gồm
những nội dung như đối nội, đối ngoại cả về quân sự, chính trị, kinh tế, văn
hóa, khoa học - công nghệ... Mục đích của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta là
xây dựng khu vực phòng thủ rộng khắp, tạo nên khối đại đoàn kết toàn dân
tộc, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh từ trung ương đến địa phương,
trong đó xây dựng quân đội chính quy tinh nhuệ, từng bước hiện đại là lực
lượng trung thành, phát huy sức mạnh tổng hợp đặt trưng của quân đội anh
hùng bảo vệ Đảng, Nhà nước, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ nhân dân
trong mọi tình huống.
Theo quan niệm của Cộng hòa liên Bang Nga, thuật ngữ “Quốc phòng”
nêu trong luật Quốc phòng 1992 được hiểu là hệ thống các biện pháp chính
8
trị, kinh tế, quân sự, xã hội hợp hiến, nhằm mục đích tạo ra mức độ sẵn sàng
của đất nước, để bảo vệ, chống cuộc tiến công vũ trang, cũng như bảo vệ tài
sản công dân, bảo vệ lãnh thổ và chủ quyền của liên Bang Nga xác định các
cơ sở và tổ chức quốc phòng của liên Bang Nga, các quyền và trách nhiệm
của các cơ quan quản lý và quyền Nhà nước, các cơ quan quản lý địa phương,
các tổ chức, các quan chức và công dân trong lĩnh vực phòng thủ; cấu trúc và
tổ chức của các lực lượng vũ trang liên Bang Nga, trách nhiệm đối với những
vi phạm pháp luật của liên Bang Nga về vấn đề quốc phòng [21].
Đối với Nhà nước Trung Hoa, Luật Quốc phòng năm 1997 xác định
“Quốc phòng là bảo đảm an ninh cho việc sinh tồn và phát triển quốc gia”
(Điều 3). Trong luật Quốc phòng của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ngoài
chương nguyên tắc chung và chương nguyên tác phụ, có 10 chương đề cập
đến những vấn đề hết sức cơ bản như: Chức trách và quyền hạn quốc phòng
trong cơ cấu Nhà nước; lực lượng vũ trang; Phòng vệ biên giới, phòng thủ
biển và phòng không; Nghiên cứu sản xuất quốc phòng và đặt hàng quân sự;
Kinh phí quốc phòng và tài sản quốc phòng; Giáo dục quốc phòng; Động viên
Quốc phòng và trạng thái chiến tranh; Nghĩa vụ và quyền lợi của quân nhân;
Quan hệ đối ngoại quân sự. Có tài liệu của Trung Quốc chỉ ra khái niệm
“Quốc phòng là sự đảm bảo quan trọng cho an toàn sinh tồn và an toàn phát
triển của quốc gia”. Do đó, Luật quốc phòng có phạm vi điều chỉnh rất rộng,
nó đề cập tới các mặt chính trị, kinh tế, quân sự, ngoại giao, khoa học kỹ
thuật, văn hóa, giáo dục của quốc gia. Theo quy định của luật này, Nhà nước
phải sử dụng thích đáng Luật Quốc phòng để tiến hành các hoạt động quân
sự, các mặt hoạt động có liên quan đến quân sự như chính trị, kinh tế, ngoại
giao, khoa học kỹ thuật, giáo dục… để phòng thủ và chống xâm lược, ngăn
chặn lật đổ vũ trang, bảo vệ chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và an
ninh quốc gia [28, tr.12].
9
Như vậy khái niệm “quốc phòng” và “an ninh” được hiểu như thế nào?
An ninh quốc gia được hiểu theo nghĩa rộng đó chính là sự ổn định, phát triển
bền vững của một chế độ và nhà nước đó, sự bất khả xâm phạm độc lập chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Như vậy ở nước ta, lý
tưởng chính trị, quan điểm chính trị, các chuẩn mực chính trị và pháp quyền,
đạo đức… thể hiện ý chí nguyện vọng của giai cấp công nhân, được thể chế
hóa thành Hiến pháp và pháp luật.
Quân đội ta từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, vì nhân dân
phục vụ, sẵn sàng đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược đó là nhiệm vụ hàng đầu
của quân đội nhân dân Việt Nam; giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn
xã hội là nhiệm vụ của công an, do đó quân đội và công an phải dựa vào sức
mạnh của quần chúng nhân dân thì lực lượng vũ trang mới hoàn thành tốt
được nhiệm vụ được giao.
Trong thực tiễn hiện nay, vấn đề an ninh quốc gia và theo quan điểm
của Chủ tịch Hồ Chí Minh về an ninh quốc gia đã được nhận thức lại, nội
dung bao hàm cả an ninh chính trị, an ninh kinh tế, an ninh văn hóa tư tưởng
và an ninh xã hội, trong đó an ninh chính trị có ý nghĩa quan trọng hàng đầu
và xuyên suốt trong quá trình tực hiện. Như vậy, chúng ta khẳng định rằng
bảo vệ an ninh quốc gia ở đây là bảo vệ an ninh chính trị, an ninh kinh tế, an
ninh văn hóa tư tưởng và an ninh xã hội, mà thực tế chính là bảo vệ Đảng, bảo
vệ chế độ XHCN, gắn chặt với bảo vệ Tổ quốc vững chắc trong mọi tình
huống. Vậy “quốc phòng” và “an ninh” không đồng nhất nhưng có cùng mục
đích chung nhất và có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
Xuyên suốt hơn 4000 năm lịch sử, nước ta đã nhiều lần đứng lên chống
chiến tranh xâm lược từ phương Bắc và hai đế quốc hùng mạnh. Do vậy, khi
đề cặp đến nội dung quốc phòng có nhiều quan điểm nhận thức đơn giản về
quân sự, việc xây dựng khu vực phòng thủ để đề phòng chiến tranh xâm lược
10
của các thế lực thù địch là yêu cầu cần thiết nhưng nhận thức của một số
người chưa đúng về “quốc phòng” là “quân sự” hoặc quốc phòng và quân đội
chỉ là một [27].
Quốc phòng và quân sự không đồng nghĩa nhau nhưng có mối liên
quan đến khái niệm quân sự. Theo Từ điển Bách khoa quân sự Việt Nam định
nghĩa “Quân sự” hiểu theo 2 nghĩa: 1) “Quân sự” là lĩnh vực hoạt động đặc
biệt của xã hội liên quan đến đấu tranh vũ trang, chiến tranh và quân đội; 2)
“Quân sự” là một trong những mặt hoạt động cơ bản của quân đội, cùng các
mặt khác (chính trị, hậu cần, kỹ thuật…) tạo nên sức mạnh chiến đấu của
quân đội [22]. Theo cách định nghĩa trên, ta thấy khái niệm “quân sự” hiểu
theo nghĩa rộng đó là những mặt hoạt động của xã hội có liên quan đến đấu
tranh vũ trang và quân đội, bảo đảm cho đấu tranh vũ trang giành thắng lợi.
Theo nghĩa hẹp, khái niệm quân sự là một trong những mặt hoạt động của
quân đội như tác chiến, huấn luyện quân sự… Hoạt động quân sự là hoạt
động mang tính chính trị rõ rệt và cũng chính là hoạt động bảo vệ Tổ quốc.
Đây là nhiệm vụ thiêng liêng cao cả của quân đội ta.
Theo C.Mác và Ăng Ghen khẳng định, chiến tranh là một hiện tượng
chính trị, xã hội mang tính lịch sử. Chiến tranh là sự thử thách đối với các lực
lượng vũ trang và thử thách nghiêm khắc đối với một chế độ xã hội. Khi kẻ
thù xâm lược đất nước, muốn giành thắng lợi chúng ta phải huy động sức
mạnh toàn dân tộc, trong đó quân đội là lực lượng chính phát huy sức mạnh
tổng lực trong đó việc dùng vũ lực là thủ đoạn chính trị sau cùng.
Trong lời nói đầu của Hiến pháp 1946 khẳng định “nhiệm vụ của dân
tộc ta trong giai đoạn này là bảo toàn lãnh thổ”, giành độc lập hoàn toàn và
kiến thiết quốc gia trên nền tảng dân chủ. Hiến pháp 1959, khi đề cập đến
nhiệm vụ và quyền hạn của Hội đồng Chính phủ, đã quy định Chính phủ lãnh
đạo việc xây dựng lực lượng vũ trang của Nhà nước (Điều 74).
11
Về nội hàm của khái niệm “quốc phòng”, đã có sự kế thừa và phát triển
mới. Hiến pháp 1992 xác định “Nhà nước củng cố và tăng cường nền quốc
phòng toàn dân, nòng cốt là các lực lượng vũ trang nhân dân, phát huy sức
mạnh tổng hợp của đất nước để bảo vệ vững chắc Tổ quốc” (Điều 44). Đến
Hiến pháp 2013 xác định “Nhà nước củng cố và tăng cường nền quốc phòng
toàn dân và an ninh nhân dân mà nòng cốt là lực lượng vũ trang nhân dân;
phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước để bảo vệ vững chắc Tổ quốc, góp
phần bảo vệ hòa bình ở khu vực và trên thế giới.” (Điều 64).
Đối với nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các nhà hoạch
định chiến lược về luật đã làm rõ hơn khái niệm về “quốc phòng” đó là sự chủ
động phòng thủ, giữ gìn an ninh quốc gia ổn định trong mọi tình huống.
Quốc gia được cấu thành bởi bốn yếu tố cơ bản: Có lãnh thổ được xác
định; một cộng đồng dân cư ổn định; có chính phủ với tư cách là người dại
diện cho quốc gia trong quan hệ quốc tế; có khả năng độc lập tham gia vào
các quan hệ pháp luật quốc tế. Hiến pháp 2013 nước ta quy định “Nước Cộng
hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một nước độc lập, có chủ quyền, thống
nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm đất liền, hải đảo, vùng biển và vùng trời”
(Điều 1). Quốc gia là nước có chủ quyền và quyền tài phán, hoàn toàn được
độc lập, hoàn toàn được tự do và hạnh phúc, đời sống nhân dân được ấm no,
bảo đảm được lợi ích quốc gia trên cơ sở các lợi ích về chính trị, lợi ích kinh
tế và an ninh. Đó là lợi ích sinh tồn và lợi ích phát triển.
Nếu chúng ta mất cảnh giác và không có tiềm lực quốc phòng, quân sự
đủ mạnh để bảo vệ hòa bình thì nguy cơ bị thôn tính, xâm lược cũng khó
tránh khỏi [20, tr.13]. Từ đó, ngày nay bảo vệ Tổ quốc trước hết là phải đánh
thắng chiến lược phá hoại toàn diện, thủ đoạn diễn biến hòa bình của địch
hòng xóa bỏ CNXH, và như vậy, để bảo vệ Tổ quốc XHCN, chúng ta phải
gắn chặt bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước với bảo vệ nền
12
độc lập dân tộc và chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ Đảng Cộng sản; phải
chống cả thù trong, giặc ngoài [20, tr.14].
Trong gia đoạn cách mạng hiện nay, Đảng , Nhà nước, nhân dân quan
tâm chăm lo xây dựng nền quốc vững mạnh, đủ sức bảo vệ vững chắc Tổ
quốc Việt Nam nên “quốc phòng” được hiểu là tổng hòa các hoạt động của
quốc gia, lực lượng vũ trang làm nòng cốt để bảo đất nước đây là yêu cầu cấp
bách, nhằm duy trì cục diện ổn định, hòa bình, là điều kiện tiên quyết để xây
dựng đất nước, phát triển kinh tế - xã hội. Đây là “thượng sách” bảo vệ chế độ
và bảo vệ Tổ quốc – bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội mà
không phải tiến hành chiến tranh. Đẩy lùi nguy cơ xung đột vũ trang, nguy cơ
chiến tranh xâm lược, sẵn sàng đối phó thắng lợi với mọi tình huống.
Xây dựng nền quốc phòng phải vững mạnh toàn diện, nhưng có lộ trình
như quan điểm của Đảng, Nhà nước ta đã triển khai thực hiện đó là: Xây dựng
quân đội chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại và tiến đến hiện đại một số
quân, binh chủng phục vụ cho phòng thủ đất nước. Củng cố quốc phòng theo
quan điểm sức mạnh tổng hợp, mạnh về “quốc lực” chứ không chỉ “quân
lực”. Sức mạnh quốc phòng được nhìn nhận thông qua tiềm lực quốc phòng,
thực lực quốc phòng, thế trận quốc phòng và hoạt động quốc phòng. Trong
đó:
Hoạt động quốc phòng bao gồm xây dựng tiềm lực thực lực, thế trận
quốc phòng và tổ chức đấu tranh chống lại các hoạt động của địch [3].
Tiềm lực thực lực quốc là lực lượng vật chất và tinh thần của quốc gia
(quân đội thường trực, dân quân tự vệ, vũ khí, trang bị kỹ thuật quân sự…)
đang được sử dụng trực tiếp phục vụ các yêu cầu nhiệm vụ quốc phòng.
Thế trận quốc phòng là tiềm lực, thực lực quốc phòng được tổ chức bố
trí căn cứ vào ý đồ chiến lược trong phòng thủ quốc gia và đặc điểm địa hình
địa thế của đất nước, tạo thành sức mạnh tổng hợp nhằm ngăn chặn mọi âm
13
mưu, ý đồ và đánh bại hành động của các thế lực thù địch.
Tổ chức đấu tranh chống lại các hoạt động của địch: Xây dựng quân
đội vững mạnh toàn diện, xây dựng các khu vực phòng thủ vững chắc, xây
dựng lực lượng vũ trang đủ biên chế, bảo dảm cho hoạt động bảo vệ Tổ quốc
trong mọi tình huống.
Những nội dung trên có mối quan hệ biện chứng, mục đích là nâng cao
sức mạnh chiến đấu của quân đội, khả năng phỏng thủ của toàn dân tộc Việt
Nam. Qua đó, khẳng định “quốc phòng” theo nghĩa hẹp là “công cuộc giữ
nước của toàn dân tộc, lấy lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt, đặc
trưng là sức mạnh quân sự”. Theo nghĩa rộng “quốc phòng” “là tổng thể của
các hoạt động đối nội và đối ngoại về quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa
khoa học của Nhà nước và nhân dân, tổng thể các nguồn lực để tạo ra mức
độ sẵn sàng phòng thủ đất nước”.
1.1.2. Đặc điểm của thực hiện pháp luật về quốc phòng
Một là, quốc phòng Việt Nam là nền quốc phòng của dân, vì dân và do
toàn thể nhân dân tiến hành. Hiến pháp 2013 đã quy định “Bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa là sự nghiệp của toàn dân. Nhà nước củng cố và
tăng cường nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân mà nòng cốt là lực
lượng vũ trang nhân dân; phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước để bảo vệ
vững chắc Tổ quốc, góp phần bảo vệ hòa bình ở khu vực và trên thế giới”
(Điều 64). Như vậy sức mạnh quốc phòng là tổng hòa lực lượng vũ trang và
sức mạnh tổng hợp của đất nước. Sức mạnh tổng hợp quốc gia để bảo vệ Tổ
quốc XHCN là khả năng của cả hệ thống chính trị, kinh tế, quân sự, ngoại
giao, văn hóa tư tưởng tác động tới các thế lực thù địch.
Hai là, quốc phòng có sức mạnh tổng hợp do nhiều yếu tố tạo thành,
được huy động từ nội lực, kết hợp giữa truyền thống với hiện tại
Sức mạnh tổng hợp của quốc phòng được tạo thành bởi rất nhiều yếu tố
14
như chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, tư tưởng, tâm lý khoa học… cả trong
nước và ngoài nước, của dân tộc và của thời đại, trong đó những yếu tố bân
trong của dân tộc bao giờ cũng giữ vai trò quyết định. Muốn xây dựng đất
nước vững mạnh về quốc phòng phải có định hướng tầm chiến lược và đề
xuất những nội dung, giải pháp phù hợp với đặc điểm tình hình đất nước, trên
cơ sở đó lựa chọn nội dung và giải pháp phù hợp. Mặt khác, để đất nước ổn
định tập trung mọi nguồn lực để phát triển kinh tế bền vững thì nhiệm vụ bảo
vệ Tổ quốc phải đặt lên hàng đầu cho công cuộc xây dựng đất nước, mục tiêu
quan trọng vẫn là bảo vệ Tổ quốc trong mọi tình huống nhằm tạo điều kiện
cho đất nước đề ra những chiến lược phù hợp với tình hình đất nước trong
từng giai đoạn lịch sử.
Ba là, quốc phòng được xây dựng toàn diện và từng bước hiện đại
Trong quá trình xây dựng nền quốc phòng, Đảng Nhà nước ta đã khẳng
định xây dựng quân đội ta vững mạnh toàn diện, từng bước hiện đại, một số
quân, binh, chủng tiến lên thẳng hiện đại. Nhiệm vụ phòng thủ quốc gia
không chỉ phòng thủ về mặt quân sự mà phải “phòng thủ” cả về chính trị,
kinh tế, văn hóa, xã hội, ngoại giao... Việc tạo ra sức mạnh quốc phòng không
chỉ ở sức mạnh quân sự mà còn phải huy động được sức mạnh của về mọi mặt
như: kinh tế, văn hóa, khoa học, chính trị, quân sự …; phải kết hợp chặt chẽ
giữa quốc phòng với ngoại giao và các mặt hoạt động xây dựng đất nước.
Việc xây dựng quốc phòng toàn diện và mang tính hiện đại phải luôn đi
đôi với nhau. Đó cũng là một tất yếu khách quan. Như chúng ta đã biết các
thế lực thù địch đã sử dụng các loại vũ khí công nghệ cao, tính chính xác cao,
các phương tiện vũ khí, khí tài đều rất hiện đại mà thực tiễn đã chứng minh
trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ của quân và dân Việt
Nam anh hùng. Cùng với sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa
học 4.0,. Chủ nghĩa đế quốc đứng đầu là Mỹ và các thế lực thù địch đã tận
15
dụng triệt để và phát huy tối đa vũ khí công nghệ cao trong các cuộc chiến
tranh xâm lược IRAQ, AFGHANISTAN... Việc hiện đại hóa đất nước là một
tất yếu, nhưng không phải bằng mọi giá để phát triển khoa học theo hướng
phục vụ cho quân sự mà kế thừa, phát huy những thành tựu khoa học ứng
dụng vào để xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội đạt hiệu quả cao nhất. Tùy
thuộc vào điều kiện thực tế của đất nước mà vận dụng sáng tạo để phát triển
kinh tế và khoa học – công nghệ xây dựng dất nước giàu mạnh. Đồng thời
hướng đến việc áp dụng các thành tựu khoa học vào xây dựng lực lượng vũ
trang theo yêu cẩu của một cuộc chiến tranh bằng vũ khí công nghệ cao.
1.2. Các nội dung của thực hiện pháp luật về quốc phòng của Uỷ
ban nhân dân cấp xã
1.2.1. UBND xã trong bộ máy hành chính nhà nước Việt Nam
Chính quyền địa phương ở nước ta theo Hiến pháp 2013 và Luật Tổ
chức chính quyền địa phương 2015 được tổ chức thành 4 cấp tương ứng với
các đơn vị hành chính gồm cấp tỉnh (bao gồm tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương), cấp huyện (gồm huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh, thành
phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương), cấp xã (gồm xã, xã, thị trấn) và
đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt. Đối với cấp xã bộ máy thực thi quyền lực
nhà nước là HĐND và UBND... ở các khu vực đô thị có chính quyền phường,
tại khu vực nông thôn có chính quyền xã, thị trấn. Cơ quan quyền lực nhà
nước ở địa phương là HĐND do nhân dân trên địa bàn xã, phường, thị trấn
trực tiếp bầu cử theo đúng Hiến Pháp và Pháp luật nhà nước. UBND do các
đại biểu HĐND bầu ra, để quản lý các lĩnh vực của đời sống xã hội. Từ đó có
thể khẳng định “chính quyền xã” là một bộ phận hợp thành của chính quyền
địa phương ở nông thôn.
Vị trí, tính chất pháp lý của UBND xã được Điều 8 của Luật Tổ chức
chính quyền địa phương năm 2015 qui định là cơ quan chấp hành của HĐND
16
do HĐND bầu ra, là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách
nhiệm trước Nhân dân địa phương, Hội đồng nhân dân cùng cấp và cơ quan
hành chính nhà nước cấp trên. Chính quyền xã có những vai trò cơ bản như:
Triển khai các chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà
nước đi vào cuộc sống của nhân dân ở xã, phải được thực hiện ở cấp xã thành
phong trào hành động của nhân dân, thông qua những sáng kiến và nổ lực của
nhân dân.
Chính quyền cấp xã là cấp trực tiếp tổ chức quản lý điều hành các công
việc hành chính ở xã và trực tiếp thi hành pháp luật, Đây cũng là hệ thống
chính trị giải quyết trực tiếp các ý kiến với nhân dân, là cấp sát dân, gần gủi
nhân dân. Đây cũng là cấp chính quyền có khả năng phát hiện và ngăn chặn
sớm nhất các hành vi vi phạm pháp luật, bảo đảm an ninh trật tự, trật tự an
toàn xã hội, vệ sinh môi trường.
Chính quyền xã có vai trò quyết định trong việc bảo đảm thực hiện việc
phát huy dân chủ. Để đảm bảo nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân, vì
dân, thì chính quyền xã liên hệ trực tiếp với dân, lắng nghe ý kiến, nguyện
vọng của nhân dân, tiếp thu giải quyết đúng luật, có tình, có lý đáp ứng đúng
nguyện vọng của nhân dân. Đồng thời, nhân dân thực hiện quyền tham gia
vào quản lý nhà nước, quản lý xã hội và giám sát hoạt động của các cơ quan
nhà nước.
UBND cấp xã do HĐND cấp xã bầu gồm có Chủ tịch UBND, các Phó
Chủ tịch UBND và các Ủy viên ủy ban nhân dân và phải được Chủ tịch
UBND cấp trên trực tiếp phê chuẩn. UBND làm việc theo nguyên tắc tập
trung dân chủ, tập thể lãnh đạo cá nhân phụ trách và chịu trách nhiệm. Trong
quá trình tổ chức thực hiện quản lý nhà nước ở cấp xã UBND có bộ phận
chuyên môn tham mưu, giúp và chịu sự chỉ đạo của cơ quan chuyên môn cấp
trên. Từ những nội dung trên khẳng định nguyên tắc kết hợp giữa quản lý theo
17
ngành và theo lãnh thổ trong quản lý nhà nước là phù hợp với luật tổ chức
chính quyền của nhà nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Theo Luật dân quân tự vệ có hiệu lực ngày 01/7/2009. Quy định rõ
chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn trong thực hiện nhiệm vụ quân sự quốc
phòng địa phương, Ban chỉ huy quân xã đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của
cấp ủy và sự điều hành của UBND; sự chỉ đạo chuyên môn của Ban chỉ huy
quân sự huyện, thực hiện theo cơ chế Chính trị viên do đồng chí Bí thư Đảng
ủy kiêm nhiệm; Chính trị viên phó do đồng chí Bí thư Đoàn phường kiêm
nhiệm, Chỉ huy trưởng là thành viên Ủy ban nhân dân và 02 Chỉ huy phó.
Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, quân sự có tính chất đặc thù riêng
so với các cơ quan chuyên môn thuộc UBND. Tất cả các ngành thuộc UBND
là cơ quan tham mưu giúp việc cho UBND trong triển khai thực hiện thắng lợi
những nội dung, chủ trương mà cấp ủy Đảng đã ban hành. Đây không phải là
cơ quan Hiến định nhưng nó được tổ chức theo luật tổ chức chính quyền địa
phương ngày 19/6/2015. Trong quá trình thực hiện chức năng quản lý nhà
nước và điều hành ở địa phương cần bảo đảm sự thống nhất của ngành hoặc
lĩnh vực công tác từ trung ương đến cơ sở đều tuân thủ theo Hiến Pháp và
Pháp Luật. Để UBND thực hiện đúng chức năng quản lý nhà nước đối với các
ngành và lĩnh vực ở địa phương cần thông qua các cơ quan chuyên môn của
mình; Đồng thời trực tiếp chỉ đạo và quản lý về tổ chức, biên chế đối với các
ngành. UBND nghe Trưởng đầu ngành báo cáo công việc và chịu trách nhiệm
trước UBND và cơ quan chuyên môn cấp trên về những nhiệm vụ mình được
giao. Ban chỉ huy quân sự xã là cơ quan tham mưu giúp cho Đảng ủy, UBND
lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện thắng lợi nhiệm vụ quân sự, quốc phòng địa
phương trên cơ sở Chỉ thị,Nghị quyết của Huyện ủy, kế hoạch của UBND
huyện, Mệnh lệnh của Chỉ huy trưởng Ban chỉ huy quân sự huyện, đồng thời
chỉ huy lực lượng vũ trang xã sẵn sàng thực hiện các nhiệm vụ đột xuất khác
18
như (phòng chống: bão lụt, thiên tai, cháy nổ...) do UBND xã; Ban chỉ huy
quân sự huyện triệu tập và thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn như các cơ quan
chuyên môn thuộc UBND xã.
- Ban chỉ huy quân sự xã là cơ quan Tham mưu giúp cho Đảng ủy,
UBND cấp xã lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành thực hiện toàn diện nhiệm vụ quân
sự, quốc phòng địa phương trên các lĩnh vực công tác như: Huấn luyện, sẵn
sàng chiến đấu, xây dựng lực lượng lực lượng Dân quân, Lực lượng dự bị
động viên, tuyển chọn công dân nhập ngũ theo đúng Pháp luật của nhà nước.
Công tác Đảng công tác chính trị, Hậu cần, kỹ thuật và các nhiệm vụ khác.
- Trên cơ sở Chỉ thị, Nghị quyết của cấp trên, Ban chỉ huy quân sự
phường tham mưu cho UBND xây dựng hệ thống kế hoạch như: kế hoạch
công tác quân sự, quốc phòng địa phương; kế hoạch chiến đấu phòng thủ xã,
kế hoạch phòng thủ dân sự... Trên cơ sở đó Ban chỉ huy quân sự tiến hành xây
dựng kế hoạch xây dựng lực lượng, huấn luyện và hoạt động của dân quân; và
các kế hoạch thực hiện nhiệm vụ khác.
- Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ quân sự, quốc phòng địa phương thì
Ban chỉ huy quân sự xã làm tốt công tác tham mưu cho cấp ủy, chính quyền
địa phương đồng thời phối hợp với ban, ngành, đoàn thể tổ chức thực hiện
nghiêm chỉ thị, mệnh lệnh, kế hoạch, hướng dẫn của Đảng ủy, UBND cùng
cấp và những nội dung chuyên môn do Ban chỉ huy quân sự huyện ban hành.
- Thường xuyên làm tốt công tác giáo dục quốc phòng, an ninh cho lực
lượng vũ trang và nhân dân; tổ chức xây dựng lực lượng dân quân, dự bị động
viên tham gia xây dựng cơ sở vững mạnh toàn diện, thực hiện chính sách hậu
phương quân đội; công tác tuyển quân...
- Xây dựng kế hoạch trình Ban chỉ huy quân sự cấp trên phê duyệt, tiến
hành tổ chức huấn luyện theo đúng tiến trình biểu đã được phê duyệt, giáo
dục chính trị, pháp luật cho dân quân; chỉ huy dân quân thực hiện nhiệm vụ
19
quy định tại Điều 8 của Luật này;
- Tiến hành tổ chức đăng ký, quản lý, bảo quản và sử dụng vũ khí,
trang bị của các đơn vị dân quân thuộc quyền theo quy định của pháp luật;
quy định của quân đội.
- Chủ động tổ chức thực hiện kế hoạch bảo đảm hậu cần, kỹ thuật tại
chổ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ quốc phòng, quân sự địa phương;
- Tham mưu cho UBND kiểm tra, sơ kết, tổng kết công tác quốc phòng,
quân sự địa phương, công tác tổ chức và hoạt động của dân quân thuộc quyền.
Thực hiện pháp luật thể hiện dưới các hình thức sau:
- Tuân thủ pháp luật: không thực hiện những gì pháp luật cấm;
- Chấp hành pháp luật: thực hiện các nghĩa vụ pháp lý một cách tích
cực;
- Sử dụng pháp luật: thực hiện các hành vi pháp luật cho phép;
- Áp dụng pháp luật: Thông qua các quyết định của mình các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền tổ chức cho các chủ thể pháp luật thực hiện các
quyết định của mình.
1.2.2. Thực hiện pháp luật về quốc phòng của UBND cấp xã
Trong tiếng Việt, thực hiện pháp luật, trong khoa học pháp lý được hiểu
hành vi (bao gồm hành động hoặc không hành động) của chủ thể pháp luật
nhất định phù hợp với các quy định của pháp luật. Dưới góc độ pháp lý thực
hiện pháp luật là các hành vi hợp pháp, không trái, không vượt quá phạm vi
cho phép của pháp luật. Thực tiễn chứng minh việc chấp hành pháp luật
nghiêm túc và đúng đắn sẽ giúp nhận thức con người sẽ tốt hơn và thực hiện
có mục đích, ý nghĩa đồng thời đưa các quy định của pháp luật đi vào thực
tiễn cuộc sống, tạo nên hành vi đúng đắn hợp pháp của các chủ thể pháp luật.
UBND vận dụng linh hoạt việc áp dụng pháp luật sao cho phù hợp với
điều kiện thực tiễn của địa phương. Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của
20