Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Đánh giá thực trạng tăng trưởng, chất lượng tăng trưởng của kinh tế Việt Nam trong thời kỳ đổi mới 1986 đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (113.45 KB, 20 trang )

Đề bài :
Đánh giá thực trạng tăng trưởng, chất lượng
tăng trưởng của kinh tế Việt Nam trong thời kỳ
đổi mới 1986 đến nay .


Lời mở đầu
Từ sau công cuộc đổi mới tháng 12 năm 1986 cho đến nay nước ta đã
đạt được những thành tựu nhất định. Trải qua các kỳ đại hội, Đảng ta đã
tổng kết, đánh giá và đề ra những mục tiêu chiến lược cho từng thời kỳ,
từng giai đoạn. Nó vừa phản ánh thực trạng của nền kinh tế trong nước
đồng thời phù hợp với xu hướng chung của nền kinh tế thế giới thông
qua việc nắm bắt kịp thời những thnh tựu mới nhất kịp thời nhất của nền
kinh tế thế giới. Với đường lối chiến lược đó, trong thời gian qua nền
kinh tế nước ta đã có những chuyển biến với những mốc son chói lọi.


Chương I : Những nội dung cơ bản trong đổi mới kinh tế 1986:
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (họp
từ 15 đến 18-12-1986) đã đánh giá tình hình đất nước, kiểm điểm sự
lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý của Nhà nước trong thập niên đầu cả
nước đi lên chủ nghĩa xã hội, từ đó xác định nhiệm vụ, mục tiêu của
cách mạng trong thời kì đổi mới xây dựng đất nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa.
Đại hội đề ra nhiệm vụ chung cho cả chặng đường đầu của thời kì quá
độ lên chủ nghĩa xã hội là "Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đoàn
kết một lòng, quyết tâm đem hết tinh thần và lực lượng tiếp tục thực
hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng thành công chủ nghĩa
xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa" và
"Trong khi không ngừng chăm lo nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, Đảng và
nhân dân ta tiếp tục đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã


hội, xây dựng chế độ làm chủ tập thể, nền kinh tế mới, nền văn hóa mới
và con người mới xã hội chủ nghĩa".
Đại hội lần thứ VI của Đảng khẳng định tiếp tục đường lối chung của
cách mạng xã hội chủ nghĩa và đường lối xây dựng kinh tế xã hội chủ
nghĩa do các Đại hội lần thứ IV và lần thứ V của Đảng đề ra.
Tuy nhiên, đến Đại hội VI, đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội trong
thời kì quá độ tiếp tục được cụ thể hóa trên cơ sở nâng cao nhận thức về
đặc điểm thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là cả một thời
kì lịch sử lâu dài, khó khăn, trải qua nhiều chặng và hiện đang ở chặng
đường đấu tiên. Đại hội nêu rõ "chặng đường đầu tiên là một bước quá


độ nhỏ trong bước quá độ lớn" và "nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng
quát của những năm còn lại của chặng đường đầu tiên là ổn định mọi
mặt tình hình kinh tế - xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết
cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong chặng đường
tiếp theo".
Ổn định tình hình kinh tế - xã hội bao gồm ổn định sản xuất, ổn định
phân phối, lưu thông, ổn định đời sống vật chất và văn hóa, tăng cường
hiệu lực của tổ chức quản lí, lập lại trật tự, kỉ cương và thực hiện công
bằng xã hội.
Ổn định và phát triển gắn liền với nhau trong quá trình vận động tiến
lên, ổn định để phát triển và có phát triển mới ổn định được.
Những mục tiêu cụ thể là: sản xuất đủ tiêu dùng và có tích lũy, tạo ra
một cơ cấu kinh tế hợp lí nhằm phát triển sản xuất; xây dựng và hoàn
thiện một bước quan hệ sản xuất mới; tạo ra chuyển biến tốt vế mặt xã
hội; bảo đảm nhu cấu củng cố quốc phòng và an ninh. .
Muốn thực hiện những "nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát “của
chặng đường đầu tiên (phải trong nhiều kế hoạch 5 năm nữa) thì trong 5
năm trước mắt (1986-1990) cần tập trung sức người, sức của thực hiện

bằng được nhiệm vụ, mục tiêu của ba chương trình về lương thực - thực
phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu.
Những mục tiêu cụ thể là:
- Bảo đảm nhu cầu lương thực của xã hội và có dự trữ; đáp ứng một
cách ổn định nhu cầu thiết yếu về thực phẩm. Mức tiêu dùng lương thực,
thực phẩm đủ tái sản xuất sức lao động.
- đáp ứng nhu cầu của nhân dân về những mặt hàng tiêu dùng thiết yếu.


- Tạo được một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực; tăng nhanh kim ngạch
xuất khẩu để đáp ứng được phần lớn nhu cầu nhập khẩu vật tư, máy
móc, phụ tùng và những hàng hóa cần thiết.
Muốn thực hiện những mục tiêu của Ba chương trình kinh tế, thì nông
nghiệp, kể cả lâm nghiệp, ngư nghiệp phải được đặt đúng vị trí là mặt
trận hàng đầu và được ưu tiên đáp ứng nhu cẩu về vốn đấu tư, về năng
lực, vật tư, lao động, kĩ thuật v.v.. .
Nội dung Ba chương trình kinh tế là sự cụ thể hóa nội dung chính của
công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong chặng đường đầu tiên.
Chương II : Đánh giá kết quả đạt được của kinh tế Việt Nam trong thời
kỳ đổi mới
1.

Tốc độ tăng trưởng từ năm 1986 đến nay

Việt Nam chính thức khởi xướng công cuộc đổi mới nền kinh tế từ năm
1986. Kể từ đó, Việt Nam đã có nhiều thay đổi to lớn, trước hết là sự đổi
mới về tư duy kinh tế, chuyển đổi từ cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập
trung, bao cấp, sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đa dạng hóa và đa
phương hóa các quan hệ kinh tế đối ngoại, thực hiện mở cửa, hội nhập

quốc tế. Con đường đổi mới đó đã giúp Việt Nam giảm nhanh được tình
trạng nghèo đói, bước đầu xây dựng nền kinh tế công nghiệp hóa, đạt
được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao đi đôi với sự công bằng tương đối
trong xã hội.
Luật đầu tư nước ngoài năm 1987 là văn bản luật đầu tiên góp phần tạo
ra khung pháp lý cho việc hình thành nền kinh tế thị trường tại Việt
Nam. Năm 1991 Luật doanh nghiệp tư nhân và Luật công ty ra đời. Hiến
pháp sửa đổi năm 1992 đã khẳng định đảm bảo sự tồn tại và phát triển
của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị


trường và khu vực đầu tư nước ngoài. Tiếp theo đó là hàng loạt các đạo
luật quan trọng của nền kinh tế thị trường đã được hình thành tại Việt
Nam như Luật đất đai, Luật thuế, Luật phá sản, Luật môi trường, Luật
lao động và hàng trăm các văn bản pháp lệnh, nghị định của chính phủ
đã được ban hành nhằm cụ thể hóa việc thực hiện luật phục vụ phát triển
kinh tế - xã hội.
Cùng với việc xây dựng luật, các thể chế thị trường ở Việt Nam cũng
từng bước được hình thành. Chính phủ đã chủ trương xóa bỏ cơ chế tập
trung, bao cấp, nhấn mạnh quan hệ hàng hóa - tiền tệ, tập trung vào các
biện pháp quản lý kinh tế, thành lập hàng loạt các tổ chức tài chính, ngân
hàng, hình thành các thị trường cơ bản như thị trường tiền tệ, thị trường
lao động, thị trường hàng hóa, thị trường đất đai… Cải cách hành chính
được thúc đẩy nhằm nâng cao tính cạnh tranh của nền kinh tế, tạo môi
trường thuận lợi và đầy đủ hơn cho hoạt động kinh doanh, phát huy mọi
nguồn lực cho tăng trưởng kinh tế. Chiến lược cải cách hành chính giai
đoạn 2001-2010 là một quyết tâm của Chính phủ Việt Nam, trong đó
nhấn mạnh việc sửa đổi các thủ tục hành chính, luật pháp, cơ chế quản
lý kinh tế… để tạo ra một thể chế năng động, đáp ứng nhu cầu phát triển
của đất nước trong giai đoạn mới.

Nhìn chung, những cải cách kinh tế mạnh mẽ trong gần hai thập kỷ đổi
mới vừa qua đã mang lại cho Việt Nam những thành quả bước đầu rất
đáng phấn khởi. Việt Nam đã tạo ra được một môi trường kinh tế thị
trường có tính cạnh tranh và năng động hơn bao giờ hết. Nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần được khuyến khích phát triển, tạo nên tính
hiệu quả trong việc huy động các nguồn lực xã hội phục vụ cho tăng
trưởng kinh tế. Các quan hệ kinh tế đối ngoại đã trở nên thông thoáng
hơn, thu hút được ngày càng nhiều các nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài, mở rộng thị trường cho hàng hóa xuất khẩu và phát triển thêm


một số lĩnh vực hoạt động tạo ra nguồn thu ngoại tệ ngày càng lớn như
du lịch, xuất khẩu lao động, tiếp nhận kiều hối...
2.

Tốc độ tăng trưởng chung của các nhóm ngành

Biểu đồ tăng trưởng kinh tế 1986 - 2005

Cùng với tốc độ tăng cao của GDP, cơ cấu kinh tế trong nước đã có sự
thay đổi đáng kể. Từ năm 1990 đến 2005, tỷ trọng của khu vực nông
nghiệp đã giảm từ 38,7% xuống 20,89% GDP, nhường chỗ cho sự tăng
lên về tỷ trọng của khu vực công nghiệp và xây dựng từ 22,7% lên
41,03%, còn khu vực dịch vụ được duy trì ở mức gần như không thay
đổi: 38,6% năm 1990 và 38,10% năm 2005. Trong từng nhóm ngành, cơ
cấu cũng có sự thay đổi tích cực. Trong khu vực nông nghiệp, tỷ trọng
của ngành nông và lâm nghiệp đã giảm từ 84,4% năm 1990 xuống
77,7% năm 2003, phần còn lại là tỷ trọng ngày càng tăng của ngành thủy
sản. Trong cơ cấu công nghiệp, tỷ trọng của ngành công nghiệp chế biến
tăng từ 12,3% năm 1990 lên 20,8% năm 2003, chất lượng sản phẩm



ngày càng được nâng cao. Cơ cấu của khu vực dịch vụ thay đổi theo
hướng tăng nhanh tỷ trọng của các ngành dịch vụ có chất lượng cao như
tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, du lịch…
Cơ cấu các thành phần kinh tế ngày càng được chuyển dịch theo hướng
phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế
thị trường có sự quản lý của nhà nước, trong đó kinh tế tư nhân được
phát triển không hạn chế về quy mô và địa bàn hoạt động trong những
ngành nghề mà pháp luật không cấm. Từ những định hướng đó, khung
pháp lý ngày càng được đổi mới, tạo thuận lợi cho việc chuyển dần từ
nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp, sang nền kinh tế
thị trường, nhằm giải phóng sức sản xuất, huy động và sử dụng các
nguồn lực có hiệu quả, tạo đà cho tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Khi sửa đổi Luật doanh nghiệp (năm 2000), các doanh nghiệp tư nhân đã
có điều kiện thuận lợi để phát triển. Bộ luật này đã thể chế hóa quyền tự
do kinh doanh của các cá nhân trong tất cả các ngành nghề mà pháp luật
không cấm, dỡ bỏ những rào cản về hành chính đang làm trở ngại đến
hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp như cấp giấy phép, thủ tục,
các loại phí… Tính trong giai đoạn 2000-2004, đã có 73.000 doanh
nghiệp tư nhân đăng ký mới, tăng 3,75 lần so với giai đoạn 1991-1999.
Cho đến năm 2004, đã có 150.000 doanh nghiệp tư nhân đang hoạt động
theo Luật doanh nghiệp, với tổng số vốn điều lệ là 182.000 tỷ đồng. Từ
năm 1991 đến năm 2003, tỷ trọng của khu vực kinh tế tư nhân trong
GDP đã tăng từ 3,1% lên 4,1%, kinh tế ngoài quốc doanh khác từ 4,4%
lên 4,5%, kinh tế cá thể giảm từ 35,9% xuống 31,2%, và kinh tế có vốn
đầu tư nước ngoài tăng từ 6,4% lên 14%. Từ 1/7/2006, Luật Doanh
nghiệp 2005 (áp dụng chung cho cả doanh nghiệp trong nước và đầu tư
nước ngoài) đã có hiệu lực, hứa hẹn sự lớn mạnh của các doanh nghiệp
bởi sự bình đẳng trong quyền và nghĩa vụ của các doanh nghiệp, không

phân biệt hình thức sở hữu.


Trong khu vực doanh nghiệp nhà nước, những chính sách và biện pháp
điều chỉnh, sắp xếp lại doanh nghiệp, đặc biệt là những biện pháp về
quản lý tài chính của công ty nhà nước, quản lý các nguồn vốn nhà nước
đầu tư vào doanh nghiệp, hay việc chuyển các công ty nhà nước thành
công ty cổ phần theo tinh thần cải cách mạnh mẽ hơn nữa các doanh
nghiệp nhà nước, ngày càng được coi trọng nhằm nâng cao tính hiệu quả
cho khu vực kinh tế quốc doanh. Với chính sách xây dựng nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần, tỷ trọng của khu vực kinh tế nhà nước có xu
hướng giảm đi, từ 40,1% GDP năm 1991 xuống còn 38,3% năm 2003,
kinh tế tập thể giảm từ 10,2% xuống 7,9% trong thời gian tương ứng.
Trong các năm 2002-2003, có 1.655 doanh nghiệp nhà nước được đưa
vào chương trình sắp xếp và đổi mới, năm 2004 là 882 doanh nghiệp và
năm 2005 dự kiến sẽ là 413 doanh nghiệp.
Việt Nam đã sử dụng một cách hiệu quả các thành tựu kinh tế vào mục
tiêu phát triển xã hội như phân chia một cách tương đối đồng đều các lợi
ích của đổi mới cho đại đa số dân chúng; gắn kết tăng trưởng kinh tế với
nâng cao chất lượng cuộc sống, phát triển y tế, giáo dục; nâng chỉ số
phát triển con người (HDI) của Việt Nam từ vị trí thứ 120/174 nước năm
1994, lên vị trí thứ 108/177 nước trên thế giới năm 2005; tăng tuổi thọ
trung bình của người dân từ 50 tuổi trong những năm 1960 lên 72 tuổi
năm 2005, giảm tỷ lệ số hộ đói nghèo từ trên 70% đầu những năm 1980
xuống dưới 7% năm 2005
3.

Tăng trưởng kinh tế nhìn từ yếu tố đầu vào

Kể từ khi thực hiện cơ chế kinh tế thị trường mở cửa, hội nhập, Việt

Nam (VN) đã đạt được những thành tựu lớn lao về kinh tế. Giai đoạn
1991-95 tốc độ TTKT đạt trung bình 8,2%/năm; 1996-2000: 6,7%;
2001-05: 7,5%; năm 2006: 8,17%; 2007: 8,48%; 2008: 6,23%; dự kiến
2009 là 6,5%. Đây là những tốc độ tăng thuộc loại cao so với các nước
trong khu vực và thế giới trong cùng khoảng thời gian. Năm 2008, tốc


độ TTKT của VN thấp hơn so với các năm trước, nhưng trong bối cảnh
nền kinh tế thế giới đang chịu ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế-tài
chính thì đây lại là mức tăng trưởng cao. Theo đánh giá của Ngân hàng
Thế giới (WB), năm 2009 VN có đủ cơ sở để đạt tốc độ tăng trưởng
6,5% trong bối cảnh tốc độ chung của thế giới là 0,5%. Nhờ tốc độ
TTKT cao, quy mô GDP của VN tăng lên nhanh chóng, năm 2005 đã
gấp 3 lần năm 1990. Thu nhập bình quân đầu người tăng từ 195 USD
năm 1990 lên 729 USD năm 2006, năm 2007 đạt 820 USD. TTKT tác
động tích cực đến nhiều mặt của đời sống kinh tế xã hội. Tỷ lệ dân sống
dưới mức 1 USD/ngày và 2 USD/ngày (tính theo PPP) lần lượt giảm từ
50,8% và 87,0% vào năm 1990 xuống còn 10,6% và 53,4% vào năm
2004. WB đã khẳng định tỷ lệ TTKT tăng thêm 1% kéo theo giảm 1,3%
số hộ nghèo của VN là rất ấn tượng. Ngoài ra, các vấn đề xã hội khác
như giáo dục, y tế, bảo vệ môi trường cũng đạt được nhiều thành tựu mà
các nước có cùng trình độ phát triển kinh tế như VN khó có thể đạt
được.
Có được tốc độ tăng tưởng kinh tế cao như vậy là nhờ VN đã huy động
được lượng vốn đầu tư khá lớn. Tỷ trọng vốn đầu tư trên GDP liên tục
gia tăng, năm 1990 đạt 17,3%, hiện nay khoảng 40-45%. Trong 10 năm
1996-06 tổng vốn đầu tư xã hội tăng trung bình 12,7%/năm, trong đó
giai đoạn 1996-2000 tăng 12,4%, giai đoạn 2001-05 tăng 13%. So với
các nước trong khu vực và các nước đang phát triển trên thế giới VN
được xếp vào loại nước có tỷ trọng vốn đầu tư trên GDP cao. Đóng góp

của vốn vào tăng trưởng GDP tuy giảm trong những năm gần đây nhưng
vẫn ở vị trí chủ đạo. Nếu tính theo tỷ lệ, giai đoạn 2003 đến nay nhân tố
vốn đóng góp trung bình khoảng 52,73% vào tăng trưởng GDP. Cùng
với nhân tố vốn, lao động cũng có những đóng góp không nhỏ vào việc
thúc đẩy TTKT của VN. Với kết cấu dân số trẻ, lực lượng lao động dồi
dào (khoảng 45 triệu người trong độ tuổi lao động), hàng năm bổ sung


thêm 1,2-1,5 triệu người, lao động đã đóng góp 19,07% vào tăng trưởng
của VN.
Đóng góp của các yếu tố vào GDP (%)
1993 - 1997 1998 – 2002

2003 – nay

Đóng góp của L

16,02

20,00

19,07

Đóng góp của K

68,98

57,42

52,73


Đóng góp của TFP

15,00

22,58

28,20

100

100

100

Tỷ lệ GDP
(Viettinbank.vn)
4.

Thực trạng doanh nghiệp và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế
Việt Nam nói chung và doanh nghiệp nói riêng

Các doanh nghiệp Việt Nam hoạt động chủ yếu trong các ngành nghề
truyền thống. Tỷ lệ doanh nghiệp hoạt động trong các ngành, lĩnh vực
hiện đại chưa nhiều. Chẳng hạn, doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực
dịch vụ tài chính tín dụng chỉ chiếm 1,46%, kinh doanh tài sản và tư vấn
chỉ chiếm 5,73%, khoa hoc và công nghệ chiếm 0,02%. Cơ cấu này đã
phản ánh lĩnh vực kinh doanh ngành của các doanh nghiệp Việt Nam
còn lạc hậu.
Tuy nhiên theo thời gian, cùng với việc chuyển sang kinh tế thị trường

định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, các doanh nghiệp thuộc mọi
thành phần kinh tế phát triển rất mạnh, góp phần to lớn vào việc thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm, tăng thu nhập cho toàn dân, thúc
đẩy nền kinh tế phát triển năng động và hiệu quả hơn. Đồng thời do hoạt
động trong cơ chế thị trường nên năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
được nâng cao, nhiều doanh nghiệp đứng vững trên thị trường trong
nước và vươn ra cả thị trường quốc tế. Thị phần hàng hóa của các doanh


nghiệp Việt Nam được mở rộng và ngày càng được khẳng định trên thị
trường quốc tế.
Thị phần và năng lực chiếm lĩnh thị tường của doanh nghiệp Việt Nam
tuy đã được cải thiện nhưng vấn còn hạn chế. Điều đó phản ánh khả
năng cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam còn thấp. Nguyên nhân của
tình trạng này có nhiều, bao gồm cả từ phía các doanh nghiệp, do môi
trường kinh doanh và từ phía Nhà nước các cấp.
Thời kỳ 1986-1990, Việt Nam tập trung triển khai Ba Chương trình kinh
tế lớn: lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu. Các
hình thức ngăn sông cấm chợ, chia cắt thị trường được xóa bỏ dần, kế
hoạch kinh tế của nhà nước được thực hiện trên cơ sở hạch toán. Đặc
biệt, các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh và tập thể được thừa nhận
và bắt đầu được tạo điều kiện hoạt động. Nền kinh tế dần dần được thị
trường hóa. Song Đảng chủ trương và thực hiện kinh tế quốc doanh là
chủ đạo, chi phối các thành phần kinh tế khác. Cơ chế quản lý nền kinh
tế bằng mệnh lệnh hành chính dần dần giảm đi.
Kinh tế Việt Nam bắt đầu có những chuyển biến tốt. Từ chỗ phải nhập
khẩu lương thực, Việt Nam đã sản xuất đủ tự cung cấp, có dự trữ và còn
xuất khẩu gạo. Khoán 10 được triển khai từ năm 1988 trên quy mô toàn
quốc càng khuyến khích nông dân sản xuất lúa gạo. Hàng hóa, nhất là
hàng tiêu dùng, nhiều hơn và đa dạng hơn. Xuất khẩu tăng mạnh, thâm

hụt thương mại giảm. Từ năm 1989, Việt Nam bắt đầu xuất khẩu dầu
thô, đem lại nguồn thu xuất khẩu lớn. Lạm phát được kiềm chế dần dần.
[
Tháng 6 năm 1991, Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VII, tại đây một văn kiện quan trọng đã ra đời, đó là
"Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội". Cương lĩnh này sau đó liên tục được bổ sung và điều chỉnh trong


các kỳ họp của Ban Chấp hành trung ương Đảng và Đại hội Đại biểu
toàn quốc tiếp theo. Cương lĩnh này và các văn kiện có tính chất sửa đổi
nó tuyên bố rằng nhiệm vụ trung tâm của xây dựng cơ sở vật chất của
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là: “đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa “gắn liền với phát triển một nền nông nghiệp toàn diện” Các văn
kiện này nêu phương hướng: "thiết lập quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu. Phát triển nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước" và "phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa"
Thời kỳ 1993-1997 là thời kỳ kinh tế Việt Nam kiềm chế thành công lạm
phát đồng thời lại tăng trưởng nhanh chóng. Sau đó, kinh tế tăng trưởng
chậm lại trong 2 năm 1998-1999. Tuy bắt đầu tăng tốc dần từ năm 2000,
nhưng nền kinh tế có lúc rơi vào tình trạng giảm phát và thiểu phát. Các
năm 2007-2008, lạm phát tăng tốc và hàng năm đều ở mức 2 chữ số.[
Thập niên 1990 và 2000 là thời kỳ mà Việt Nam tích cực hội nhập kinh
tế mà đỉnh cao là việc ký hiệp định gia nhập Tổ chức Thương mại Thế
giới và hiệp định đối tác kinh tế song phương với Nhật Bản.
5.

Hiệu quả của nền kinh tế Việt Nam kể từ 1986


Sau 25 năm đổi mới kể từ Đại hội Đảng VI năm 1986, nền Việt Nam đã
ra khỏi khủng hoảng kinh tế, đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh, tăng
cường cơ sở vật chất và tạo tiền đề cho giai đoạn phát triển mới công
nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng
kém phát triển, phấn đấu đến năm 2020 cơ bản trở thành một nước công
nghiệp theo hướng hiện đại. Đó là hai trong số năm thành tự mà Việt
Nam đạt được qua 25 năm đổi mới (1986 - 2011).
Thực hiện đường lối đổi mới, với mô hình kinh tế tổng quát là xây dựng
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa


1986 – 1990: GDP tăng 4,4%/năm. Đây là giai đoạn chuyển đổi cơ bản
cơ chế quản lý cũ sang cơ chế quản lý mới, thực hiện một bước quá trình
đổi mới đời sống KTXH và giải phóng sức sản xuất.
1991 – 1995: Nền kinh tế khắc phục được tình trạng trình trệ, suy thoái,
đạt được tốc độ tăng trưởng tương đối cao liên tục và toàn diện. GDP
bình quân năm tăng 8,2%. Đất nước ra khỏi thời kỳ khủng hoảng kinh
tế, bắt đầu đẩy mạnh CNH – HĐH đất nước
Từ năm 1996 - 2000, là bước phát triển quan trọng của thời kỳ mới, đẩy
mạnh CNH, HĐH đất nước. Chịu tác động của khủng hoảng tài chính kinh tế khu vực cùng thiên tai nghiêm trọng xảy ra liên tiếp đặt nền kinh
tế nước ta trước những thử thách. Tuy nhiên, giai đoạn này, Việt Nam
duy trì được tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước 7%/năm
Năm 2000 - 2005, nền kinh tế đạt được tốc độ tăng trưởng cao, liên tục,
GDP bình quân mỗi năm đạt 7,5%. Năm 2005, tốc độ tăng trưởng đạt
8,4%, GDP theo giá hiện hành, đạt 838 nghìn tỷ đồng, bình quân đầu
người đạt trên 10 triệu đồng, tương đương với 640 USD. Từ một nước
thiếu ăn, mỗi năm phải nhập khẩu 50 vạn - 1 triệu tấn lương thực, Việt
Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo lớn trên thế giới. Năm 2005, nước
ta đứng thứ 2 trên thế giới về xuất khẩu gạo, thứ 2 về cà phê, thứ 4 về

cao su, thứ 2 về hạt điều, thứ nhất về hạt tiêu.
Về cơ cấu ngành, tỷ trọng nông nghiệp trong GDP giảm dần, năm 1988
là 46,3%, năm 2005 còn 20,9%. Trong nội bộ ngành nông nghiệp cơ cấu
trồng trọt và chăn nuôi đã chuyển dịch theo hướng tiến bộ, tăng tỷ trọng
các sản phẩm có năng suất và hiệu quả kinh tế cao, các sản phẩm có giá
trị xuất khẩu.
Giá trị tạo ra trên một đơn vị diện tích ngày một tăng lên. Trong kế
hoạch 5 năm 2001 - 2005, giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp tăng
5,5%/năm, giá trị tăng thêm bằng khoảng 3,89%/năm.


Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng tăng nhanh và liên tục. Năm 1988 là
21,6%, năm 2005 lên 41%. Từ chỗ chưa khai thác dầu mỏ, đến nay, mỗi
năm đã khai thác được khoảng gần 20 triệu tấn quy ra dầu. Ngành công
nghiệp chế tác chiếm 80% giá trị sản lượng công nghiệp. Công nghiệp
xây dựng phát triển mạnh với thiết bị công nghệ ngày càng hiện đại.
Sản phẩm công nghiệp xuất khẩu ngày càng tăng, có chỗ đứng trong
những thị trường lớn. Trong kế hoạch 5 năm 2001 - 2005, giá trị sản
xuất công nghiệp và xây dựng tăng 15,9%/năm, giá trị tăng thêm đạt
10,2%/năm.
Tỷ trọng khu vực dịch vụ trong GDP đã tăng từ 33,1% năm 1988 lên
38,1% năm 2005. Các ngành dịch vụ đã phát triển đa dạng hơn, đáp ứng
ngày càng tốt hơn nhu cầu của sản xuất và đời sống. Ngành du lịch, bưu
chính viễn thông phát triển với tốc độ nhanh. Các ngành dịch vụ tài
chính, ngân hàng, tư vấn pháp lý... có bước phát triển theo hướng tiến
bộ, hiệu quả.
6.

Kết quả sự kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công
bằng xã hội


Tăng trưởng kinh tế ở nước ta trong giai đoạn vừa qua đã góp phần tạo
cơ sở để bước đầu giải quyết vấn đề công bằng và tiến bộ xã hội. Công
bằng xã hội là công bằng về các quyền của con người (các quyền sống
của con người) và về điều kiện thực hiện các quyền đó (điều kiện sống)
của các cá nhân (hay rộng hơn là của cả chủ thể xã hội. Tuy nhiên, trong
các xã hội phát triển hiện đại, trong tư duy phát triển hiện đại, nội hàm
của công bằng xã hội được
bổ sung, mở rộng và phát triển đáng kể. Điều này thể hiện ở nội dung
quan trọng nhất của công bằng xã hội không phải là công bằng về phân
phối thu nhập mà là công bằng về cơ hội phát triển. Từ đó dẫn tới một
nhận thức mới về công bằng xã hội là quy vấn đề công bằng xã hội về cơ


hội phát triển và năng lực thực hiện cơ hội, nội hàm của công bằng xã
hội sẽ phải bao hàm cả công bằng sự công bằng trong việc phân phối các
cơ hội và điều kiện thực hiện cơ hội. Trong xã hội, khi một chủ thể có cơ
hội phát triển bình đẳng với các chủ thể khác thì có nghĩa là chủ thể ấy
có cơ sở bền vững để đạt được và duy trì một cách vững chắc sự công
bằng trong thu nhập.
Tác động của tăng trưởng kinh tế với việc giải quyết vấn đề công bằng
và tiến bộ xã hội ở nước ta có thể xem xét trên các mặt sau:
* Tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, giáo dục, y tế
Năm 2006 cả nước có khoảng 93000 lớp mẫu giáo với 112,8 ngàn giáo
viên, hơn 16 triệu học sinh với hơn 789 nghìn giáo viên, có 299 trường
Đại học và Cao đẳng với 53,4 nghìn giảng viên, 1666,2 nghìn sinh viên,
có 269 trường trung cấp với 14,5 nghìn giáo viên, 468,8 nghìn học sinh,
số sinh viên tốt nghiệp Đại học và Cao đẳng là 230 nghìn người, tốt
nghiệp các trường trung cấp là 149,3 nghìn người.
Tổng số người đi học lên tới 23,2 triệu người, bình quân 1 vạn dân có

2841 người đi học, tỷ lệ trẻ em đi học mẩu giáo khoảng 50%, tỷ lệ người
lớn biết chữ tăng từ 88% năm 1993 lên 90,3% năm 2003 và 94 % năm
2006. Bên cạnh hệ công lập, hệ ngoài công lập cũng có những bước phát
triển mạnh để khai thác nguồn lực xã hội, chia sẻ với nhà nước nhằm
đáp ứng nhu cầu học tập của nhân dân. Chi ngân sách nhà nước cho giáo
dục đạt khoảng 18,25%
tổng chi ngân sách giai đoạn 2001-2006. Tỷ lệ chi phí cho giáo dục/GDP
là 8,3% nhưng do tổng GDP của nước ta rất thấp nên chi phí cho một
học sinh ở Việt Nam vẫn thấp xa so với các nước. Tuy nhiên xét về mặt
nào đó thì đó là một cố gắng lớn của Đảng và nhà nước trong sự nghiệp
phát triển giáo dục đào tạo.


Trong gần 20 năm đổi mới, mối quan hệ giữa tăng trưởng và phát triển,
giữa tăng
trưởng và tiến bộ xã hội được quan tâm đúng mức nhờ đó chỉ số HDI
của Việt Nam đã tăng từ 0,539 năm 1994 (xếp hạng 120/174 nước) lên
0,733 năm 2007 (105/177). Thứ bậc HDI cao hơn đáng kể so với thứ bậc
phát triển kinh tế (hơn 10 bậc) cho thấy sự phát triển kinh tế của Việt
nam có xu hướng phục vụ con người và đảm bảo công bằng xã hội. Việt
nam xếp hạng 105 về HDI và xếp hạng 123 về chỉ số GDP/đầu người
(chênh lệch 18 bậc). Nhận định này càng được khẳng định vững chắc
khi chúng ta qua sát thực tế rằng tỷ lệ số người sống dưới mức nghèo
khổ của Việt Nam thấp hơn đáng kể so với các nước có mức GDP/ đầu
người vượt trội.
Trong những năm qua, tuy nước ta đã đạt được những thành quả quan
trọng như đánh giá trên đây, song vẫn còn không ít yếu kém và khuyết
điểm về tăng trưởng kinh tế, công bằng và tiến bộ xã hội cũng như việc
kết hợp tăng trưởng kinh tế với công bằng và tiến bộ xã hội ở Việt Nam.
- Tăng trưởng kinh tế tuy đạt cao và tương đối ổn định song chưa bền

vững và chất
lượng tăng trưởng thấp. Năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, của các
doanh nghiệp và của sản phẩm còn thấp. Theo đánh giá của WEF,
nguyên nhân chủ yếu dẫn đến thứ hạng GCI của Việt Nam thấp là nạn
tham nhũng, bộ máy hành chính kém hiệu quả, kết cấu hạ tầng chưa
thích hợp, lực lượng lao động chưa được đào tạo tương xứng, quy định
về thuế bất hợp lý, khả năng tiếp cận các nguồn tài chính yếu..
- Về khía cạnh công bằng xã hội cũng bộc lộ một số yếu kém. Khoảng
cách giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư, giữa thành thị và nông thôn,
giữa miền xuôi và miền núi đang có xu hướng dãn ra. Hệ số GINI của


Việt Nam vẫn ở mức cao và có xu hướng tăng, việc xoá đói giảm nghèo
có xu hướng chậm lại, số hộ tái nghèo tăng lên.
- Mô hình tăng trưởng và phân bổ nguồn lực là yếu tố ảnh hưởng trực
tiếp mạnh nhất là lâu dài đến việc tạo lập công bằng và tiến bộ xã hội.
Mô hình " thị trường- hướng về xuất khẩu" được triển khai trên thực tế
lại chệch sang xu hướng" thị trường- thay thế nhập khẩu". Tăng trưởng
cao nhưng không mở rộng cơ hội việc làm tương ứng.
- Phân phối thu nhập không được thực hiện một cách đồng đều. Một
phần lớn thu nhập được chuyển sang những người sở hữu các nguồn lực
khác ngoài lao động thay vì chuyển một phần thoả đáng cho những
người sở hữu sức lao động mà thiếu các nguồn lực khác. Vì vậy, khoảng
cách giữa nhóm người giàu và nhóm người nghèo ngày càng dãn ra.
- Có một nhóm người giàu nhanh nhờ đặc quyền tiếp cận với các nguồn
lực phát triển. Cơ chế xin-cho, bao cấp, bảo hộ nhà nước, cộng thêm vào
đó là môi trường kinh doanh không bình đẳng, cơ hội phát triển của tư
nhân bị hạn chế, hình thành các nhóm lợi ích mạnh, làm méo mó quy
hoạch và định hướng phát triển. Nhìn ở một khía cạnh khác, tình trạng
chênh lệch thu nhập và phân hoá giàu nghèo cung như bất bình đẳng có

phần gia tăng trong thời gian qua ở nước ta phản ánh một xu hướng của
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.


KẾT LUẬN
Có thể nói trong giai đoạn 1986 tới nay mặc dù con gặp nhiều khó khă,
thử thách nhưng nền kinh tế nước ta vẫn đang hòa nhập và đạt được
nhiều thành tựu rực rỡ. Từ đó tạo ra những chuyển biến lớn, tiền đề cho
sự phát triển lâu dài. Đồng thời góp phần nâng cao tiềm lực cho nền kinh
tế, chất lượng cuộc sống cho nhân dân và khẳng định vị thế của nước ta
trên trường quốc tế. Điều đó cho thấy sự lãnh đạo sáng suốt và kịp thời
của Đảng và nhà nước.Và chắc chắn rằng trong gới hạn của đề tài chúng
em vẫn chưa nêu được một cách đầy đủ nhất, cụ thể nhất nên vẫn còn
nhiều thiếu sót và hạn chế.
Bài học kinh nghiệm
Từ thực tiễn những năm đổi mới vừa qua, chung ta có thể rút ra một số
bài học kinh nghiệm sau:
- Giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong quá trình
đổi mới, nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ tổ quốc,
kiên trì chủ nghĩa Mác – Lênin, tu tưởng Hồ Chí Minh, kết hợp sự kiên
định về nguyên tắc và chiến lược cách mạng với sự linh hoạt sáng tạo
trong sách lược, nhạu cảm nắm bắt cái mới
- Đổi mới toàn diện đồng bộ và triệt để nhưng phải có bước đi, hình thức
và cách làm phù hợp, xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa đổi mới hệ thống
chính trị với đổi mới kinh tế kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh


tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời
từng bước đổi mới chính trị.
- Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo các cơ

chế thị trường phải đi đôi với việc tăng cường vai trò quản lý của nhà
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tăng trưởng kinh tế phải đi đôi
với tiến bộ và công bằng xã hội, giử gìn và phát huy bản sắc dân tộc, bảo
vệ môi trường sinh thái.
- Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng trong công cuộc đổi mới, coi
xây dựng đảng là nhiệm vụ then chốt.



×