THỰC TRẠNG THU HÚT FDI VÀO CÁC KHU VỰC KINH TẾ VIỆT
NAM TRONG THỜI GIAN QUA
I. Thực trạng thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào các khu vực kinh tế của Việt
Nam
Hiện nay, thực trạng về thu hút vốn đầu tư nước ngoài được xem là vấn đề rất
quan trọng đối với nước ta, đặc biệt là lúc toàn thế giới đang lâm vào cuộc khủng hoảng
kinh tế trầm trọng mà xuất phát từ cuộc khủng hoảng nền kinh tế Mỹ. Vì vậy, địi hỏi
Đảng và nhà nước ta cần có những biện pháp để giữ được sức hút nguồn vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài. Để hiểu rõ hơn thực trạng thu hút vốn đầu tư của nước ta trong
những thời gian qua, chúng ta hãy xem qua bảng biểu tổng kết từ cục đầu tư nước ngoài
thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư thể hiện sức thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài của
nước ta trong giai đoạn từ năm 2000 đến nay.
Bảng 1: tình hình thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 2000 - 2008
Năm
số dự án được cấp phép
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
389
550
802
748
723
922
797
1445
1171
vốn đăng ký
(triệu USD)
2696
3230
2963
3146
4222
6339
7566
21312
64011
vốn thực hiện
(triệu USD)
2414
2451
2591
2650
2852
3289
4105
8028
10419
Từ bảng biểu trên ta có thể thấy đến năm 2008 vừa qua, số vốn đăng ký đầu tư
trực tiếp nước ngồi đã tăng đột biến. Từ đó thể hiện Việt Nam đã thực sự thu hút được
rất nhiều vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi, qua đó cũng thấy rằng nước ta là nước rất có
tiềm năng cho các nhà đầu tư nước ngồi. Điều đó cũng địi hỏi nước ta cũng phải có
những chính sách hợp lý, các doanh nghiệp phải biết sử dụng các nguồn vốn đó một
cách có hiệu quả. Sau đây là cụ thể tình hình thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài theo
nghành và theo vùng kinh tế trong nước ta trong thời gian gần đây.
1. Tình hình thu hút đầu tư nước ngồi theo nghành kinh tế.
- Lĩnh vực công nghiệp và xây dựng.
Từ khi ban hành Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987, Việt Nam đã chú trọng thu
hút ĐTNN vào lĩnh vực công nghiệp-xây dựng. Qua mỗi giai đoạn các lĩnh vực ưu tiên
thu hút đầu tư, các sản phẩm cụ thể được xác định tại Danh mục các lĩnh vực khuyến
khích và đặc biệt khuyến khích đầu tư. Trong những năm 90 thực hiện chủ trương thu
hút ĐTNN, Chính phủ ban hành chính sách ưu đãi, khuyến khích các dự án như sản
xuất sản phẩm thay thế hàng nhập khẩu, sản xuất hàng xuất khẩu (có tỷ lệ xuất khẩu
50% hoặc 80% trở lên), sử dụng nguồn nguyên liệu trong nước và có tỷ lệ nội địa hố
cao.
Sau khi gia nhập và thực hiện cam kết với WTO (năm 2006), Việt Nam đã bãi bỏ
các quy định về ưu đãi đối với dự án có tỷ lệ xuất khẩu cao, khơng yêu cầu bắt buộc
thực hiện tỷ lệ nội địa hoá và sử dụng nguyên liệu trong nước. Qua các thời kỳ, định
hướng thu hút ĐTNN lĩnh vực công nghiệp- xây dựng tuy có thay đổi về lĩnh vực, sản
phẩm cụ thể nhưng cơ bản vẫn theo định hướng khuyến khích sản xuất vật liệu mới, sản
phẩm công nghệ cao, công nghệ thơng tin, cơ khí chế tạo, thiết bị cơ khí chính xác, sản
xuất sản phẩm và linh kiện điện tử... Đây cũng chính là các dự án có khả năng tạo giá
trị gia tăng cao và Việt Nam có lợi thế so sánh khi thu hút ĐTNN. Nhờ vậy, cho đến
nay các dự án ĐTNN thuộc các lĩnh vực nêu trên (thăm dị và khai thác dầu khí, sản
xuất các sản phẩm công nghệ cao, sản phẩm điện và điện tử, sản xuất sắt thép, sản xuất
hàng dệt may...) vẫn giữ vai trị quan trọng đóng góp cho tăng trưởng kinh tế, xuất khẩu
và tạo nhiều việc làm và nguồn thu nhập ổn định cho hàng triệu lao động trực tiếp. Cơ
cấu đầu tư có chuyển biến tích cực theo hướng gia tăng tỷ trọng đầu tư vào lĩnh vực
công nghệ cao, lọc dầu và công nghệ thông tin với sự có mặt của các tập đồn đa quốc
gia nổi tiếng thế giới: Intel, Panasonic, Canon, Robotech.v.v. Hầu hết các dự án ĐTNN
này sử dụng thiết bị hiện đại xấp xỉ 100% và tự động hoá đạt 100% cho sản lượng,
năng suất, chất lượng cao, do đó có ảnh hưởng lớn đến các chỉ tiêu giá trị của tồn
ngành.
Tính đến hết năm 2007, lĩnh vực công nghiệp và xây dựng có tỷ trọng lớn nhất
với 5.745 dự án cịn hiệu lực, tổng vốn đăng ký hơn 50 tỷ USD, chiếm 66,8% về số dự
án, 61% tổng vốn đăng ký và 68,5% vốn thực hiện.
Bảng 2: Thu hút vốn FDI ngành công nghiệp và xây dựng
Vốn đầu tư
Vốn thực hiện
STT Chuyên ngành
Số dự án (USD)
1
CN dầu khí
38
2
CN nhẹ
2,542
13,268,720,908 3,639,419,314
3
CN nặng
2,404
23,976,819,332 7,049,365,865
4
CN thực phẩm
310
3,621,835,550
2,058,406,260
5
Xây dựng
451
5,301,060,927
2,146,923,027
5,745
50,029,948,532 20,042,587,769
Tổng số
(USD)
3,861,511,8155,148,473,303
- ĐTNN trong lĩnh vực dịch vụ.
Nước ta đã có nhiều chủ trương chính sách, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt
động kinh doanh dịch vụ phát triển từ khi thi hành Luật Đầu tư nước ngoài (1987). Nhờ
vậy, khu vực dịch vụ đã có sự chuyển biến tích cực đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu
sản xuất, tiêu dùng và đời sống nhân dân, góp phần đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế. Một
số ngành dịch vụ (bưu chính viễn thơng, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, vận tải hàng
không, vận tải biển, du lịch, kinh doanh bất động sản) tăng trưởng nhanh, thu hút nhiều
lao động và thúc đẩy xuất khẩu. Cùng với việc thực hiện lộ trình cam kết thương mại
dịch vụ trong WTO, Việt Nam tiếp tục đẩy mạnh thu hút ĐTNN, phát triển các ngành
dịch vụ trực tiếp phục vụ sản xuất và xuất khẩu.
Trong khu vực dịch vụ ĐTNN tập trung chủ yếu vào kinh doanh bất động sản,
bao gồm: xây dựng căn hộ, văn phịng, phát triển khu đơ thị mới, kinh doanh hạ tầng
khu công nghiệp (42% tổng vốn ĐTNN trong khu vực dịch vụ), du lịch-khách sạn
(24%), giao thông vận tải-bưu điện (18%) (xem bảng).
bảng 3: Thu hút vốn FDI ngành du lịch
TT
Chuyên ngành
Số dự án
Vốn đầu tư
(triệu USD)
Đầu tư đã thực
hiện
(triệu USD)
1
Giao thông vận tải-Bưu
208
4.287
721
2
3
logicstics)
Du lịch - Khách sạn
223
Xây dựng văn phòng, căn 153
5.883
9.262
2.401
1.892
4
5
hộ để bán và cho thuê
Phát triển khu đơ thị mới 9
Kinh doanh hạ tầng KCN- 28
3.477
1.406
283
576
6
7
8
KCX
Tài chính – ngân hàng
66
Văn hoá - y tế – giáo dục 271
Dịch vụ khác (giám định, 954
897
1.248
2.145
714
367
445
28.609
7.399
điện ( bao gồm cả dịch vụ
tư vấn, trợ giúp pháp lý,
nghiên cứu thị trường...)
Tổng cộng
1.912
Trong năm 2007 tuy vốn đầu tư đăng ký tiếp tục tập trung vào lĩnh vực công
nghiệp (50,6%), nhưng đã có sự chuyển dịch cơ cấu đầu tư mạnh vào lĩnh vực dịch vụ,
chiếm 47,7% tổng vốn đăng ký của cả nước, tăng 16,5% so với năm 2006 (31,19%) với
nhiều dự án xây dựng cảng biển, kinh doanh bất động sản, xây dựng khu vui chơi, giải
trí.v.v.
- ĐTNN trong lĩnh vực Nông-Lâm-Ngư nghiệp.
Dành ưu đãi cho các dự án đầu tư vào lĩnh vực Nông Lâm ngư nghiệp đã được
chú trọng ngày từ khi có luật đầu tư nước ngồi 1987. Tuy nhiên đến nay do nhiều
nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân rủi ro đầu tư cao trong lĩnh vực này, nên kết quả
thu hút ĐTNN vào lĩnh vực Nông – Lâm ngư chưa được như mong muốn.
Đến hết năm 2007, lĩnh vực Nơng- Lâm- Ngư nghiệp có 933 dự án còn hiệu lực,
tổng vốn đăng ký hơn 4,4 tỷ USD, đã thực hiện khoảng 2,02 tỷ USD; chiếm 10,8% về
số dự án ; 5,37% tổng vốn đăng ký và 6,9% vốn thực hiện, (giảm từ 7,4% so với năm
2006). Trong đó, các dự án về chế biến nơng sản, thực phẩm chiếm tỷ trọng lớn nhất
53,71% tổng vốn đăng ký của ngành, trong đó, các dự án hoạt động có hiệu quả bao
gồm chế biến mía đường, gạo, xay xát bột mì, sắn, rau. Tiếp theo là các dự án trồng
rừng và chế biến lâm sản, chiếm 24,67% tổng vốn đăng ký của ngành. Rồi tới lĩnh vực
chăn nuôi và chế biến thức ăn gia súc chiếm 12,7%. Cuối cùng là lĩnh vực trồng trọt,
chỉ chiếm gần 9% tổng số dự án. Có 130 dự án thuỷ sản với vốn đăng ký là 450 triệu
USD,
Cho đến nay, đã có 50 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư trực tiếp vào ngành
nông-lâm-ngư nghiệp nước ta, trong đó, các nước châu Á ( Đài Loan, Nhật Bản, Trung
Quốc, Hồng Kông,..) chiếm 60% tổng vốn đăng ký vào ngành nông nghiệp (riêng Đài
Loan là 28%). Các nước thuộc EU đầu tư vào Việt Nam đáng kể nhất gồm có Pháp
(8%), quần đảo British Virgin Islands (11%). Một số nước có ngành nơng nghiệp phát
triển mạnh (Hoa Kỳ, Canada, Australi)a vẫn chưa thực sự đầu tư vào ngành nông
nghiệp nước ta.
Các dự án ĐTNN trong ngành nông-lâm-ngư nghiệp tập trung chủ yếu ở phía
Nam. Vùng Đơng Nam Bộ chiếm 54% tổng vốn đăng ký của ngành, đồng bằng sông
Cửu Long 13%, duyên hải Nam Trung Bộ 15%. Miền Bắc và khu vực miền Trung,
lượng vốn đầu tư cịn rất thấp, ngay như vùng đồng bằng sơng Hồng lượng vốn đăng ký
cũng chỉ đạt 5% so với tổng vốn đăng ký của cả nước.
Bảng 4: Thu hút vốn FDI ngành Nông – lâm – ngư nghiệp
STT Nông, lâm nghiệp
Số dự án
Vốn đăng ký
Vốn thực hiện
(USD)
(USD)
1
Nông-Lâm nghiệp
803 4,014,833,499
1,856,710,521
2
Thủy sản
130 450,187,779
169,822,132
Tổng số
933 4,465,021,278 2,026,532,653
Sau đây là bảng tổng hợp đầu tư trực tiếp nước ngoài theo lĩnh vực.
Bảng 5: Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo ngành kinh tế
5.745
Tỷ trọng
(%)
66,8
Tổng vốn đầu tư
(Tr.USD)
20.042,5
Tỷ trọng
(%)
68,5
933
10,8
7.399
6,9
Lĩnh vực
Số dự án
Công nghiệp và xây
dựng
Nông lâm ngư nghiệp
Các ngành dịch vụ
1.912
22,4
15.632
24,6
Sơ đồ số 1: Cơ cấu đầu tư trực tiếp nước ngoài theo lĩnh vực
Số dự án
Tổng vốn đầu tư
Như vậy, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài theo lĩnh vực công nghiệp và xây
dựng chiếm tỷ trọng lớn nhất trong 3 ngành và thấp nhất là nghành nông lâm- ngưnghiệp. Trong đó ngành cơng nghiệp và xây dựng, chiếm ưu thế là công nghiệp nặng
với 23.976 triệu USD. Ngành dịch vụ cũng có chuyển dịch theo hướng phát triển rất
mạnh với xây dựng văn phòng và mua bán căn hộ 9.262 triệu USD và du lich- khách
sạn là 5.883. Ngành nơng- lâm- ngư nghiệp thì chủ yếu vẫn là nơng nghiệp với 4.014
triệu USD.
2. Tình hình thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài theo vùng kinh tế
Qua 20 năm thu hút, ĐTNN đã trải rộng khắp cả nước, khơng cịn địa phương
“trắng” ĐTNN nhưng tập trung chủ yếu tại các địa bàn trọng điểm, có lợi thế, góp phần
chuyển dịch cơ cấu kinh tế của địa phương, làm cho các vùng này thực sự là vùng kinh
tế động lực, lôi kéo phát triển kinh tế-xã hội chung và các vùng phụ cận. Nhưng bên
cạnh đó, các vùng trung du và miên núi vẫn chưa có được nguồn đầu tư đáng kể. Sự
phân biệt gữa các vùng còn rất rõ. Cơ cấu FDI theo vùng còn bất hợp lý. Có thể thấy rõ
rằng FDI tập trung chủ yếu ở các vùng kinh tế trọng điểm. Vùng kinh tế trọng điểm
phía Nam, với ưu thế vượt trội về c sở hạ tầng, về sự thuận lợi cho giao thông thuỷ, bộ,
hàng không và năng động trong kinh doanh, là vùng thu hút được nhiều vốn đầu tư
nước ngoài nhất trong c nước đứng đầu là thành phố Hồ Chí Minh. Vùng kinh tế trọng
điểm Bắc Bộ mà đứng đầu là thành phố Hà Nội và vùng thu hút được nhiều vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài thứ hai trên c nước. Vùng miền núi và trung du Bắc Bộ và Tây
Nguyên là hai vùng thu hút được ít dự án FDI nhất.
Vùng trọng điểm phía Bắc có 2.220 dự án cịn hiệu lực với vốn đầu tư trên 24 tỷ
USD, chiếm 26% về số dự án, 27% tổng vốn đăng ký cả nước và 24% tổng vốn thực
hiện của cả nước, trong đó Hà Nội đứng đầu (987 dự án với tổng vốn đăng ký 12,4 tỷ
USD) chiếm 51% vốn đăng ký và 50% vốn thực hiện cả vùng. Tiếp theo thứ tự là Hải
Phòng (268 dự án với tổng vốn đăng ký 2,6 tỷ USD), Vĩnh Phúc (140 dự án với tổng
vốn đăng ký 1,8 tỷ USD), Hải Dương (271 dự án với tổng vốn đăng ký 1,7 tỷ USD), Hà
Tây (74 dự án với tổng vốn đăng ký 1,5 tỷ USD), Bắc Ninh (106 dự án với tổng vốn
đăng ký 0,93 tỷ USD) và Quảng Ninh (94 dự án với tổng vốn đăng ký 0,77 tỷ USD).
Trong đó, vùng miền núi và trung du phía Bắc và Tây Nguyên là những vùng kinh tế xã
hội khó khăn, thu hút vốn đầu tư trực tiếp của vùng chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng số dự
án FDI của cả nước. Đóng góp của khu vực này cũng chiếm tỷ trọng khơng đáng kể
trong tổng số FDI của cả nước. Đầu tư nước ngồi tại vùng kinh tế trọng điểm phía
Bắc vẫn luôn tăng lên không ngừng, thể hiện qua bảng chỉ tiêu đầu tư và thương mại
sau:
Vùng KTTĐ phía Bắc, đứng đầu vẫn là thủ đô Hà Nội, và hiện nay thủ đơ Hà
Nội đang là nơi có nguồn vốn đầu tư cao nhất cả nước với từ đầu năm đến nay, trên địa
bàn thành phố đã có 65 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) được cấp giấy phép với
tổng vốn đăng ký hơn 1 tỷ USD trong tổng số 2,7 tỷ USD FDI của cả nước. Các dự án
đầu tư vào Hà Nội tập trung vào những lĩnh vực: công nghiệp, công nghệ cao, viễn
thông và bất động sản. Trong đó có các dự án lớn như: hợp tác kinh doanh mạng điện
thoại CDMA có vốn đầu tư 656 triệu USD và xây dựng tòa nhà 65 tầng của Cơng ty
TNHH Coralis Việt Nam có vốn đầu tư 114,6 triệu USD. Ngoài những yếu tố hấp dẫn
về thị trường, nhân lực, hạ tầng thì trong thời gian gần đây Hà Nội đã thu hút sự chú ý
của các doanh nghiệp nhờ sự cải tiến mạnh mẽ về thủ tục đầu tư, nhất là về đất đai, kết
nối hạ tầng với các tỉnh miền Bắc đang được hoàn chỉnh, sự cải thiện đáng kể của các
ngành công nghiệp và dịch vụ phụ trợ...và nguồn vốn đầu tư vào Hà Nội dự kiến sẽ tiếp
tục tăng lên, hiện đang có rất nhiều nhà đầu tư lớn trình dự án đầu tư tại Hà Nội.
Trong các khu kinh tế trọng điểm của miền Bắc,Sau Hà Nội về thu hút vốn FDI
là Hải Phòng, Trong những năm qua, được sự hỗ trợ và giúp đỡ của chính phủ Việt
Nam, Hải Phịng đã tạo ra một môi trường đầu tư thuận lợi, cởi mở và lành mạnh bằng
chính sách áp dụng cơ chế “một cửa” nhằm đơn giản các thủ tục hành chính cho việc
xuất nhập khẩu, cho việc cấp phát bằng kinh doanh đồng thời áp dụng các chính sách
khuyến khích của chính phủ tạo điều kiện thuận lơị cho các nhà đầu tư nước ngồi. Do
đó, Hải Phịng đã đạt được những thành công nhất định trong việc thu hút đầu tư trực
tiếp nước ngồi. Trong năm 2008, Hải Phịng đã đạt mức thu hút nguồn vốn FDI kỷ lục
là 1,3 tỷ USD, cao gấp 5 lần những năm trước đó và bên cạnh sự phát triển về tổng vốn
đăng ký đầu tư vào thành phố Hải Phịng thì số vốn FDI đưa vào thực hiện cũng tăng
cao và luôn đạt ở mức trên 50% (cao hơn mức trung bình của cả nước 2,5 lần).
Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam thu hút 5.293 dự án với tổng vốn đầu tư
44,87 tỷ USD, chiếm 54% tổng vốn đăng ký, trong đó, tp Hồ Chí Minh dẫn đầu cả nước
(2.398 dự án với tổng vốn đăng ký 16,5 tỷ USD) chiếm 36,9% tổng vốn đăng ký của
Vùng. Tiếp theo thứ tự là Đồng Nai (918 dự án với tổng vốn đăng ký 11,6 tỷ USD)
chiếm 25,9% vốn đăng ký của Vùng, Bình Dương (1.570 dự án với tổng vốn đăng ký
8,4 tỷ USD) chiếm 18,8% vốn đăng ký của Vùng; Bà Rịa-Vũng Tàu (159 dự án với
tổng vốn đăng ký 6,1 tỷ USD) chiếm 13,6% vốn đăng ký của Vùng; Long An (188 dự
án với tổng vốn đăng ký 1,8 tỷ USD) chiếm 4,1% vốn đăng ký của Vùng. Trong 9 tháng
đầu năm 2008, cả nước thu hút được 57,1 tỷ USD vốn đăng ký đầu tư FDI, trong đó
khu vực miền Trung và phía Nam thu hút được 43 tỷ USD, chiếm 71% so với cả nước.
Chính vì vậy, ngồi một số địa phương vốn có ưu thế trong thu hút vốn ĐTNN
(Hà Nội, tp Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa-Vũng Tàu, Hải Phòng,
Quảng Ninh) một số địa phương khác (Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Phú Yên, Hà Tây..) do
yếu tố tích cực của chính quyền địa phương nên việc thu hút vốn ĐTNN đã chuyển biến
mạnh, tác động tới cơ cấu kinh tế trên địa bàn. Năm 2007 công nghiệp có vốn ĐTNN
chiếm 86% giá trị sản xuất cơng nghiệp của tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, 81% của tỉnh Vĩnh
Phúc, 70% của tỉnh Đồng Nai, 65% của tỉnh Bình Dương, 46% của Thành phố Hải
Phòng, 35% của Thành phố Hà Nội và 27% của thành phố Hồ Chí Minh. Đối với Hà
Nội và thành phố Hồ Chí Minh đang chuyển dần sang trở thành trung tâm dịch vụ cao
cấp của cả vùng (bưu chính, viễn thơng, tài chính, ngân hàng..) cũng như hướng thu hút
vốn ĐTNN vào các ngành công nghệ cao thông qua một số khu công nghệ cao (Quang
Trung, Hịa Lạc).
Nhắc đến vùng kinh tế trọng điểm phí Nam thì khơng thể khơng nhắc đến Thành
Phố Hồ Chí Minh, thành phố luôn dẫn đầu cả nước về số vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài. Trong 4 tháng đầu năm 2006, Thành phố Hồ Chí Minh có 80 dự án đầu tư trực
tiếp nước ngoài đã được cấp phép, với tổng vốn đầu tư 670,2 triệu USD; tăng 9 dự án,
và tổng vốn đầu tư tăng 6,3 lần so với cùng kỳ năm 2005. Trong đó có 67 dự án 100%
vốn nước ngồi, với tổng vốn đầu tư 663,9 triệu USD, và 13 dự án liên doanh với tổng
vốn đầu tư 6,3 triệu USD. rong các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài, có 32 dự án đầu
tư vào ngành cơng nghiệp chế biến, vốn đầu tư 649 triệu USD; 28 dự án đầu tư vào
ngành kinh doanh tài sản và dịch vụ tư vấn, vốn đầu tư 6,8 triệu USD; 2 dự án đầu tư
vào ngành y tế với vốn đầu tư 4,6 triệu USD. Các quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào
Thành phố, gồm: Hàn Quốc có 12 dự án với tổng vốn đầu tư 24 triệu USD; Đài Loan có
6 dự án, tổng vốn 1,9 triệu USD; Nhật Bản có 12 dự án, tổng vốn 22,6 triệu USD;
Singapore có 7 dự án, tổng vốn đầu tư 2 triệu USD; pitish Virgin Islands có 4 dự án,
tổng vốn đầu tư 4,8 triệu USD. Hongkong chỉ có 2 dự án, nhưng tổng vốn đầu tư lên
đến 605 triệu USD.
Vùng trọng điểm miền Trung thu hút được 491 dự án với tổng vốn đăng ký 8,6
tỷ USD qua 20 năm thực hiện Luật Đầu tư, chiếm 6% tổng vốn đăng ký của cả nước,
trong đó: Phú Yên (39 dự án với tổng vốn đăng ký 1,9 tỷ USD) hiện đứng đầu các tỉnh
miền Trung với dự án xây dựng nhà máy lọc dầu Vũng Rơ có vốn đăng ký 1,7 tỷ USD.
Tiếp theo là Đà Nẵng (113 dự án với tổng vốn đăng ký 1,8 tỷ USD), Quảng Nam (15 dự
án với tổng vốn đăng ký 1,1 tỷ USD) đã có nhiều tiến bộ trong thu hút vốn ĐTNN, nhất
là đầu tư vào xây dựng các khu du lịch, trung tâm nghỉ dưỡng, vui chơi đạt tiêu chuẩn
quốc tế, bước đầu đã góp phần giảm tình trạng “cháy” buồng, phịng cho khách du lịch,
nhưng nhìn chung vẫn cịn dưới mức nhu cầu và tiềm năng của vùng. Tây Nguyên cũng
ở trạng thái thu hút vốn ĐTNN còn khiêm tốn như vùng Đơng Bắc và Tây Bắc, trong
đó, tuy Lâm Đồng (93 dự án với tổng vốn đăng ký 318,4 triệu USD) đứng đầu các tỉnh
khu vực Tây Nguyên nhưng chỉ chiếm tỷ trọng 1% về số dự án. Đồng bằng sông Cửu
Long thu hút vốn ĐTNN còn thấp so với các vùng khác, chiếm 3,6% về số dự án và
4,4% về vốn đăng ký và 3,2% vốn thực hiện của cả nước.
Tuy Nhà nước đã có chính sách ưu đãi đặc biệt cho những vùng có điều kiện địa
lý-kinh tế khó khăn nhưng việc thu hút ĐTNN phục vụ phát triển kinh tế tại các địa bàn
này còn rất thấp. Vốn đầu tư nước ngoài vẫn tập trung chủ yếu vào các khu vực trọng
điểm, các thành phố lớn.
- TP. Hồ Chí Minh chiếm 30,8% về số dự án; 24,5% tổng vốn đăng ký và
22,8%tổng vốn thực hiện.
- Hà Nội chiếm 10,6% về số dự án; 18,26% tổng vốn đăng ký và 12,1% tổng vốn
thực hiện.
- Đồng Nai chiếm 11,8% về số dự án; 17,1% tổng vốn đăng ký và 13,2% tổng
vốn thực hiện.
- Bình Dương chiếm 18% về số dự án; 9,86% tổng vốn đăng ký và 6,9% tổng
vốn thực hiện.
Trong năm 2007, cả nước có 56 địa phương thu hút được dự án ĐTNN, trong đó
10 địa phương dẫn đầu. Đó là: Hà Nội đứng đầu với số vốn đăng ký 2,5 tỷ USD, chiếm
11,8% tổng vốn đầu tư đăng ký; Đồng Nai đứng thứ 2, chiếm 11,3%; TP Hồ Chí Minh
đứng thứ 3, chiếm 10,6% ; Bình Dương đứng thứ 4, chiếm 10,5% về tổng vốn đầu tư
đăng ký; Phú Yên đứng thứ 5, chiếm 7,9%; Bà Rịa-Vũng Tàu đứng thứ 6, chiếm 5,2%;
Vĩnh phúc đứng thứ 7, chiếm 4,9%; Đà Nẵng đứng thứ 8, chiếm 4,4%; Long An đứng
thứ 9 chiếm 3,8% và Hậu Giang đứng thứ 10, chiếm 2,9%.
Qua những số liệu thống kê trên, ta thấy cơ cấu FDI theo vùng còn bất hợp lý. Có
thể thấy rõ rằng FDI tập trung chủ yếu ở các vùng kinh tế trọng điểm và thấy rõ được
sự chênh lệch về rất nhiều giữa vùng kinh tế trọng điểm và các vùng trung du, miền núi.
Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, với ưu thế vượt trội về cơ sở hạ tầng, về sự thuận
lợi cho giao thông thuỷ, bộ, hàng không và năng động trong kinh doanh, là vùng thu hút
được nhiều vốn đầu tư nước ngoài nhất trong cả nước đứng đầu là thành phố Hồ Chí
Minh. Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ mà đứng đầu là thành phố Hà Nội và vùng thu
hút được nhiều vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thứ hai trên cả nước. Vùng miền núi và
trung du Bắc Bộ và Tây Nguyên là hai vùng thu hút được ít dự án FDI nhất.
Sơ đồ số 2: Tỷ trọng vốn đầu tư đăng ký trực tiếp nước ngoài theo vùng đến hết năm
2008
Bảng biểu trên thể hiện tỷ trọng thu hút vốn FDI của các vùng kinh tế đối với cả
nước. Như vậy, FDI khơng đồng đều giữa các vùng. Ta có thê thấy rõ rằng vùng nào có
điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội thì vùng đó thu hút được nhiều.
Ngược lại, những vùng khó khăn như vùng núi và trung du phía Bắc và vùng Tây
Ngun thì thu hút được rất ít.
II. Nhận xét và đánh giá chung.
1. Ưu điểm
Việt Nam đã cơng nhận một cách chính thức và rộng rãi rằng FDI đang ngày
càng đóng vai trị quan trọng trong sự phát triển của Việt Nam trên nhiều phương diện:
vốn, cơng nghệ, nâng cao khả năng thanh tốn quốc tế, phát triển xuất khẩu, tham gia
vào các thị trường quốc tế,…
Có thể nói, nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi trong hơn 20 năm qua đã
đóng góp một phần rất lớn vào sự phát triển nền kinh tế nước ta, nó giải quyết tình
trạng thiếu vốn đầu tư phát triển ở nước ta trong giai đoạn những thập kỷ 90. Chuyển
sang có chế thị trường, FDI vẫn là nguồn cung ứng vốn rất quan trọng đối với nước ta.
Tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thời gian qua đóng góp hơn 60 tỷ USD và ngày
càng có xu hướng tăng mạnh. Trước hết, FDI góp phần làm tăng tổng vốn đầu tư, tăng
kim ngạch xuất khẩu, tạo thêm cơng ăn việc làm cho người lao động, góp phần thu ngân
sách nhà nước và ổn định kinh tế vĩ mụ.
2 Tn ti.
Bên cạnh những mặt tích cực của FDI đóng góp vào nền kinh tế thì còn có
những hạn chế và tồn tại trong công tác thu hút vốn đầu t nớc ngoài tại Việt Nam nh
sau.
- S mt cân đối về ngành nghề, vùng lãnh thổ:
Mục đích cao nhất của các nhà đầu tư là lợi nhuận. Do đó những lĩnh vực,
ngành, dự án có tỷ suất lợi nhuận cao đều được các nhà đầu tư quan tâm, còn những dự
án, lĩnh vực mặc dù rất cần thiết cho dân sinh, nhưng không đưa lại lợi nhuận thỏa đáng
thì khơng thu hút được đầu tư nước ngồi.
Các nhà ĐTNN trong khi lựa chọn địa điểm để triển khai dự án đầu tư thường
tập trung vào những nơi có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội thuận lợi, do đó các thành
phố lớn, những địa phương có cảng biển, cảng hàng không, các tỉnh đồng bằng là nơi
tập trung nhiều dự án ĐTNN nhất. Trong khi đó, các tỉnh miềm núi, vùng sâu, vùng xa,
những địa phương cần được đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, mặc dù chính phủ và
chính quyền địa phương có những ưu đãi cao hơn nhưng không được các nhà đầu tư
quan tâm.
Tình trạng đó đã dẫn đến một nghịch lý, những địa phương có trình độ phát triển
cao thì thu hút được ĐTNN nhiều, do đó tốc độ tăng trưởng kinh tế vượt quá tốc độ
tăng trưởng trung bình của cả nước. Trong khi đó, những vùng có trình độ kém phát
triển thì có ít dự án ĐTNN, tốc độ tăng trưởng kinh tế vẫn thấp.
Đối với các ngành nghề cũng xảy ra tình trạng tương tự, các nhà ĐTNN chỉ đầu
tư vào các ngành có khả năng sinh lợi cao, rủi ro thấp, cịn các ngành, lĩnh vực có khả
năng sinh lời thấp, rủi ro cao không được sự quan tâm của các nhà ĐTNN.
- Tranh chấp lao động trong khu vực có vốn đầu tư nước ngồi chưa được giải
quyết kịp thời.
Các tranh chấp lao động là khó tránh, đặc biệt trong những thời điểm doanh
nghiệp mới bắt đầu hoạt động, hoặc khi doanh nghiệp gặp khó khăn về sản xuất kinh
doanh. Nhìn chung người chủ thường trả cơng cho người lao động thấp hơn cái mà họ
đáng được hưởng, không thỏa đánh với nhu cầu của người lao động. Điều đó dẫn đến
mâu thuẫn giữa chủ sử dụng lao động và người lao động, dẫn đến tình trạng đình cơng
bãi cơng làm thiệt hại cho doanh nghiệp.
ĐTNN ở nước ta đã thu hút được hàng nghìn doanh nghiệp của các nước và
vũng lãnh thổ khắp thế giới. Điều đó cho thấy tính hấp dẫn của mơi trường đầu tư ở
Việt Nam, đồng thời cũng thể hiện tính đa dạng của các nền văn hóa trong quan hệ giữa
người sử dụng lao động và người lao động trong các doanh nghiệp ĐTNN.
- Sự yếu kém trong chuyển giao công nghệ
Nhìn chung cơng nghệ được sử dụng trong các doanh nghiệp ĐTNN thường cao
hơn mặt bằng công nghệ cùng ngành và cùng loại sản phẩm tại nước ta.
Tuy vậy, một số trường hợp các nhà ĐTNN đã lợi dụng sơ hở của pháp luật Việt
Nam, cũng như sự yếu kém trong kiểm tra giám sát tại các cửa khẩu nên đã nhập vào
Việt Nam một số máy móc thiết bị có cơng nghệ lạc hậu thậm chí là những phế thải của
các nước khác. Tính phổ biến của việc nhập máy móc thiết bị là giá cả đươc ghi trong
hóa đơn thường cao hơn giá trung bình của thị trường thế giới. Nhờ vậy một số nhà
ĐTNN có thể lợi dụng để khai tăng tỷ lệ góp vốn trong các liên doanh với Việt Nam.
Việc chuyển giao công nghệ từ nước ngồi vào Việt Nam được thực hiện thơng
qua các hợp đồng và được cơ quan quản lý nhà nước về khoa học công nghệ chuẩn y.
Tuy vậy, đây là một hoạt đơng cực kỳ khó khăn đối với các nước tiếp nhận đầu tư nói
chung, kể cả Việt Nam, bởi khó có thể đánh giá chính xác giá trị thực của từng loại
cơng nghệ trong những ngành khác nhau, đặc biệt trong những ngành công nghệ cao.
Do vậy, thường phải thông qua thương lượng theo hình thức mặc cả đến khi hai bên có
thể chấp nhận được, thì ký kết hợp đồng chuyển giao công nghệ.
3. Nguyên nhân
- Tư duy kinh tế chậm đổi mới. Chưa tạo lập đồng bộ các loại thị trường theo
nguyên tắc thị trường. Nhận thức về chung về ĐTNN đều thống nhất như các chủ
trương, pháp luật của Đảng và Nhà nước là coi ĐTNN là một bộ phận cấu thành hữu cơ
của nền kinh tế, được khuyến khích phát triển lâu dài, bình đẳng với các thành phần
kinh tế khác. Tuy nhiên, thực tế xử lý các vấn đề cụ thể ở nhiều Bộ, ngành và địa
phương vẫn còn phân biệt rất khác nhau giữa đầu tư trong nước và ĐTNN, chưa thực
sự coi ĐTNN là thành phần kinh tế của Việt Nam. Điều đó thể hiện ngay từ khâu quy
hoạch sản phẩm, phân bổ các nguồn lực phát triển kinh tế (lao động, đất đai, vốn…)
cũng chưa thực sự cho phép ĐTNN tham gia. Việc xử lý tranh chấp kinh tế giữa các bên
cũng thiên về bảo vệ quyền lợi cho phía Việt Nam. Trong những thời điểm khó khăn, ta
tranh thủ vốn ĐTNN nhưng khi điều kiện thuận lợi lại có xu hướng khơng khuyến
khích ĐTNN mà để trong nước tự làm; những biểu hiện này có tác động làm nản lịng
nhà ĐTNN.
- Hệ thống luật pháp, chính sách về đầu tư tuy đã được sửa đổi, bổ sung nhưng
vẫn chưa đồng bộ, thiếu nhất quán. Một số Bộ, ngành chậm ban hành các thông tư
hướng dẫn các nghị định của Chính phủ.
- Mơi trường đầu tư-kinh doanh nước ta tuy được cải thiện nhưng tiến bộ đạt
được còn chậm hơn so với các nước trong khu vực, trong khi cạnh tranh thu hút vốn
ĐTNN tiếp tục diễn ra ngày càng gay gắt.
- Định hướng chiến lược thu hút vốn ĐTNN hướng chủ yếu vào lĩnh vực công
nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu nhưng sự liên kết, phối hợp giữa các doanh nghiệp
ĐTNN với doanh nghiệp trong nước còn yếu nên giá trị gia tăng trong một số sản phẩm
xuất khẩu (hàng điện tử dân dụng, dệt may) cịn thấp. Nhiều tập đồn cơng nghiệp định
hướng xuất khẩu đầu tư tại Việt Nam buộc phải nhập khẩu phần lớn nguyên liệu đầu
vào vì thiếu nguồn cung cấp ngay tại Việt Nam.
- Cơng tác quy hoạch cịn có những bất hợp lý, nhất là quy hoạch ngành còn
nặng về xu hướng bảo hộ sả n xuất trong nước, chưa kịp thời điều chỉnh để phù hợp với
các cam kết quốc tế.
-Nước ta có xuất phát điểm của nền kinh tế thấp, quy mô nền kinh tế nhỏ bé; kết
cấu hạ tầng kinh tế, xã hội yếu kém; các ngành công nghiệp bổ trợ chưa phát triển; trình
độ cơng nghệ và năng suất lao động thấp, chi phí sản xuất cao. Chính sách, biện pháp
để khuyến khích huy động tốt nguồn lực trong nước và ngoài nước vào phát triển kinh
tế, xã hội còn nhiều hạn chế.
- Sự phối hợp trong quản lý hoạt động ĐTNN giữa các Bộ, ngành, địa phương
chưa chặt chẽ. Đánh giá tình hình ĐTNN vẫn nặng về số lượng, chưa coi trọng về chất
lượng, còn bệnh thành tích trong cơ quan quản lý các cấp.
- Tổ chức bộ máy, công tác cán bộ và cải cách hành chính chưa đáp ứng u cầu
phát triển trong tình hình mới. Năng lực của một bộ phận cán bộ, công chức làm cơng
tác kinh tế đối ngoại cịn hạn chế về chuyên môn, ngoại ngữ, không loại trừ một số yếu
kém về phẩm chất, đạo đức, gây phiền hà cho doanh nghiệp, làm ảnh hưởng xấu đến
môI trường đầu tư-kinh doanh.