Tải bản đầy đủ (.doc) (99 trang)

Bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét xử vụ án hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (355.73 KB, 99 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGÔ THỊ THANH

BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI
TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ

Chuyên ngành: Pháp luật về quyền con người
Mã số: Chuyên ngành đào tạo thí điểm

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC


Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS. TS TRẦN VĂN ĐỘ

HÀ NỘI - 2013

2



4


1.1

5


6




7


8


9


10


11


12


3.1.1

3.1.5

3.1.7

13


3.2


14


2.2.3

15


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo
tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn
học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của
Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có
thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

16


Ngô Thị Thanh

17


MỤC LỤC

Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt

LỜI CAM ĐOAN.........................................................................................


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLHS :

Bộ luật hình sự

BLTTHS :

Bộ luật tố tụng hình sự

TAND :

Tòa án nhân dân

TANDTC :

Tòa án nhân dân Tối cao

TTHS :

Tố tụng hình sự


VKS :

Viện kiểm sát

VKSND :

Viện kiểm sát nhân dân

VKSNDTC :

Viện kiểm sát nhân dân Tối cao

HĐXX :

Hội đồng xét xử

CQĐT :

Cơ quan điều tra


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quyền con người là giá trị mang tính phổ biến chung của nhân loại, là kết
quả của quá trình đấu tranh, phát triển lâu dài của tất cả các dân tộc, nhân dân trên
toàn thế giới. Được thúc đẩy từ năm 1945 kể từ khi thành lập Liên Hợp Quốc,
quyền con người thu hút sự quan tâm rộng rãi của dư luận và có sự tác động mạnh
mẽ tới các quan hệ chính trị, pháp lý, xã hội ở tất cả các cấp độ quốc gia, khu vực
và quốc tế. Nó không chỉ là nhận thức, là quan điểm mà hữu hình bằng các quy
phạm pháp lý được các quốc gia thừa nhận chung, phản ánh quy luật và hướng tất

yếu của xã hội loài người cũng như sự hình thành các cơ chế bảo đảm để quyền con
người được thực thi trên thực tế.
Tại Việt Nam, việc bảo vệ và thúc đẩy quyền con người là mục tiêu nhất
quán của Đảng và Nhà nước ta từ trước đến nay. Việt Nam luôn tích cực tham gia
các Điều ước và hoạt động về quyền con người của Liên Hợp Quốc. Chỉ thị 12/TW
của Ban Bí Thư, ngày 12/7/1992 khẳng định: “Quyền con người là thành quả của
cuộc đấu tranh lâu dài qua các thời đại của nhân dân lao động và các dân tộc bị áp
bức trên thế giới và cũng là cuộc đấu tranh của loài người làm chủ thiên nhiên, qua
đó quyền con người trở thành giá trị chung của nhân loại”.
Do đó chúng ta cần phải bảo vệ thành quả này trong mọi lĩnh vực, đặc biệt là
trong lĩnh vực TTHS. Việc bảo vệ quyền con người trong TTHS có một ý nghĩa đặc
biệt quan trọng vì trong lĩnh vực này, quyền con người dễ bị xâm phạm, dễ bị tổn
thương và có thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng về vật chất, thể chất lẫn tinh
thần. Trong các chủ thể của hoạt động TTHS thì Tòa án giữ vai trò quan trọng.
Đảng đã khẳng định khâu trọng tâm của chiến lược cải cách Tư pháp đến năm 2020
là cải cách hệ thống TAND: “Trung tâm là xây dựng, hoàn thiện tổ chức và hoạt
động của TAND” và ‘‘xét xử là trọng tâm” (Nghị quyết 49/NQ-TW ngày 02/6/2005
của Bộ Chính Trị). Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng lần thứ X (tháng 4/2006)
cũng đã chỉ rõ sự cần thiết phải xây dựng cơ chế tài phán đối với những vi phạm
nhằm tăng cường hiệu quả bảo vệ quyền con người bằng nhánh quyền Tư pháp. Đại
Hội Đảng lần thứ XI (tháng 01/2011) cũng đã khẳng định tính cấp thiết của việc xây
1


dựng cơ chế kiểm soát quyền lực Nhà nước, việc thực hiện các quyền lập pháp,
quyền hành pháp và quyền tư pháp. Quan điểm này của Đảng là hoàn toàn đúng đắn
vì trong bất kỳ một Nhà nước pháp quyền nào quyền tư pháp (mà đại diện là Tòa
án) phải được coi là trung tâm và là hệ thống cấu thành quan trọng của bộ máy
quyền lực Nhà nước để bảo vệ. Thực tiễn cho thấy, hàng năm Tòa án đã xét xử hàng
chục nghìn vụ án trong đó có nhiều vụ án lớn (Rusalka Khánh Hòa, Năm Cam, Lã

Thị Kim Oanh, PMU 18, Thiên Lợi Hòa, Phương Ninh Hột, VinaShin...). Các vụ án
đó được xét xử nghiêm minh, công bằng, đúng người, đúng tội, tạo cho nhân dân
niềm tin vào hệ thống pháp luật. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn tồn tại một số hạn chế,
đặc biệt là tình trạng xét xử oan (vụ án Vườn Điều ở Bình Thuận, vụ Nguyễn Minh
Hùng hai lần bị tuyên án tử hình, vụ án con trâu ở Yên Bái...). Qua các vụ án oan,
một đặc điểm chung rất dễ nhận thấy là luôn có những vi phạm tố tụng nghiêm
trọng trong quá trình tiến hành tố tụng, kết luận vụ án luôn là kết quả của sự truy xét
qua áp đặt chủ quan của người tiến hành tố tụng, có dấu hiệu mớm cung, bức cung
trong quá trình điều tra (song hầu như không chứng minh được hoặc không được
Hội đồng xét xử xem xét). Hậu quả để lại của những vụ án đó, theo tác giả là không
bao giờ khắc phục được. Tuy rằng Nghị quyết 388 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội
về bồi thường oan sai trong hoạt động TTHS và Luật Trách nhiệm bồi thường của
Nhà nước (2009) đã phần nào khắc phục được những sai lầm do những người tiến
hành tố tụng gây ra nhưng nó không giải quyết được mọi chuyện. Thực tế số người
bị làm oan, bị làm sai trong quá trình TTHS được bồi thường theo Luật cũng chưa
đáng là bao. Và việc bồi thường đó, không bao giờ tương xứng với những gì mà
những người bị oan, bị sai đã phải gánh chịu. Do đó, tác giả nghĩ rằng, để tránh oan
sai trong TTHS, Tòa án cần phải có hoạt động xét xử đúng người, đúng tội, đúng
pháp luật. Có như vậy thì quyền con người mới được đảm bảo.
Xét xử vụ án hình sự là chức năng quan trọng nhất của Tòa án, là giai đoạn
quyết định của toàn bộ quá trình TTHS. Trong giai đoạn này, Tòa án áp dụng các
biện pháp cần thiết do luật định để kiểm tra lại tính hợp pháp và có căn cứ của toàn
bộ các quyết định mà CQĐT và VKS đã thông qua trước khi chuyển vụ án sang Tòa
án, nhằm loại trừ các hậu quả tiêu cực do sơ suất, sai lầm... Đồng thời trên cơ sở kết
quả tranh luận công khai và dân chủ tại phiên tòa để ra bản án, quyết định một cách
2


công minh và đúng pháp luật, có căn cứ và đảm bảo sức thuyết phục. Giai đoạn này
được bắt đầu từ khi Tòa án nhận được hồ sơ vụ án hình sự và kết thúc bằng một bản

án (quyết định). Đây là giai đoạn TTHS trung tâm và quan trọng để tăng cường
pháp chế, bảo vệ các quyền và tự do của công dân, góp phần có hiệu quả vào cuộc
đấu tranh phòng và chống tội phạm.
Với những lí do trên, tác giả đã chọn đề tài “Bảo đảm quyền con người
trong hoạt động xét xử vụ án hình sự” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình, với
mục đích góp phần nhỏ trong nghiên cứu khoa học về bảo đảm quyền con người
trong TTHS trước yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong khoa học pháp lý nước ta, vấn đề bảo đảm quyền con người được nhiều
tác giả nghiên cứu trong các công trình với các góc độ khác nhau. Từ góc độ nghiên
cứu về quyền con người nói chung có công trình “Quyền con người trong thế giới
hiện đại” (Viện Thông tin khoa học xã hội, 1995) của GS.TS Hoàng Văn Hảo và
Phạm Khiêm Ích; “Quyền con người và luật quốc tế về quyền con người”(NXB
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1997) của PGS.TS Chu Hồng Thanh. Từ góc độ nghiên
cứu quyền con người trong lĩnh vực Tư pháp có “Bảo đảm quyền con người trong tư
pháp hình sự Việt Nam” (Nhà xuất bản Đại học Quốc Gia Thành phố Hồ Chí Minh,
2010); “Luật tố tụng hình sự Việt Nam với việc bảo vệ quyền con người” (Đề tài
nghiên cứu khoa học cấp Đại học Quốc Gia, 2011). Các tác giả Nguyễn Thái Phúc,
Trần Quang Tiệp cũng có những công trình nghiên cứu về đề tài này. Ngoài ra có một
số tác giả chọn vấn đề bảo vệ quyền con người trong luật hình sự, trong TTHS làm đề
tài Luận án tiến sĩ luật học (TS Nguyễn Quang Hiền, Nguyễn Huy Hoàng, Lại Văn
Trình). Trong các công trình này, các tác giả có phân tích đến Tòa án với vai trò là đại
diện quan trọng nhất của nhánh quyền lực Tư Pháp theo nghĩa rộng. Bên cạnh đó,
cũng có rất nhiều tác giả nghiên cứu về vai trò, vị trí của Tòa án trong cơ chế phân
chia quyền lực như (GS.TS Nguyễn Đăng Dung...). Tuy nhiên các công trình nghiên
cứu đó chủ yếu tập trung vào các vai trò chung của Tòa án, chưa đi sâu cụ thể vào
vấn đề bảo vệ quyền con người của Tòa án trong giai đoạn xét xử.
3. Mục đích, nhiệm vụ của Luận văn
3



3.1. Mục đích
Trên cơ sở phân tích các quy định liên quan đến bảo đảm quyền con người
trong hoạt động xét xử của pháp luật Việt Nam, liên hệ với thực tiễn và so sánh với
pháp luật quốc tế, tác giả làm sáng tỏ những bất cập, hạn chế để đưa ra những giải
pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật TTHS. Đồng thời, qua
đây, tác giả muốn nhấn mạnh vai trò của Tòa án trong việc bảo đảm quyền con
người để chúng ta có cái nhìn đúng đắn hơn về vai trò, vị trí của cơ quan này.
3.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện được mục đích nói trên, tác giả đã đưa ra và giải quyết các
nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu ý nghĩa của việc đảm bảo quyền con người trong TTHS (đặc
biệt là trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự)
- Phân tích các quy định pháp luật TTHS Việt Nam liên quan đến bảo đảm
quyền con người, so sánh với các tiêu chuẩn quốc tế có liên quan.
- Nghiên cứu thực tiễn xét xử Tòa án: đánh giá hiệu quả cũng như làm sáng
tỏ những hạn chế trong việc bảo đảm quyền con người.
- Đưa ra những kiến nghị, giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật
TTHS và nâng cao hiệu quả hoạt động TTHS liên quan đến việc bảo vệ quyền tự do
dân chủ của công dân.
4. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
- Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác –
LêNin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về Nhà
nước và pháp luật, về Nhà nước Pháp quyền xã hội chủ nghĩa, về quyền con người
và bảo đảm quyền con người.
- Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng là phân tích, tổng hợp,
lịch sử, so sánh, hệ thống, thống kê…
Luận văn cũng khai thác thông tin tư liệu của các công trình nghiên cứu đã
công bố để chứng minh cho các luận điểm.

5. Những nét mới của Luận văn
- Phân tích một cách cụ thể các quy định cơ bản về quyền con người được
chuyển tải trong Hiến pháp và BLTTHS. Từ đó tạo ra được cái nhìn thân thiện và
gần gũi hơn đối với những nhân quyền cơ bản.
4


- Làm rõ được vai trò của Tòa án trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự.
- Có sự đánh giá, so sánh vai trò bảo đảm quyền con người của Tòa án được
quy định trong pháp luật Việt Nam và Luật nhân quyền quốc tế.
- Góp phần làm rõ thực trạng bảo đảm quyền con người ở Việt Nam hiện nay,
tính tương thích của pháp luật hình sự Việt Nam và Luật nhân quyền quốc tế.
- Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu, phân tích, đánh giá, luận văn cũng đưa ra
những giải pháp, kiến nghị để Tòa án thực hiện tốt vai trò bảo đảm quyền con người.
6. Ý nghĩa của việc nghiên cứu
Tác giả hy vọng việc nghiên cứu thành công Đề tài sẽ đóng góp một phần
khiêm tốn trong việc giải quyết về mặt khoa học một trong những nội dung cấp thiết
hiện nay ở nước ta là “Tòa án với vấn đề bảo vệ quyền con người trong hoạt động
xét xử vụ án hình sự”.
Luận văn có thể là tài liệu tham khảo trong hoạt động lập pháp TTHS, trong
thực tiễn điều tra truy tố, xét xử cũng như trong nghiên cứu về TTHS.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn kết
cấu gồm 3 chương như sau:
- Chương 1: Một số vấn đề về bảo đảm quyền con người trong
tố tụng hình sự
- Chương 2: Bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét xử vụ án hình sự
theo Pháp luật Việt Nam và Luật nhân quyền quốc tế
- Chương 3: Một số tồn tại và kiến nghị bảo đảm quyền con người trong giai
đoạn xét xử ở Việt Nam hiện nay.


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.2 . Yêu cầu bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự
Quyền con người là một nội dung lớn của thế giới ngày nay. Đây là giá trị
cao quý, kết tinh từ nền văn hóa của tất cả các dân tộc trên thế giới; là tiếng nói
chung, sản phẩm chung, mục tiêu chung, phương tiện chung của mọi quốc gia, dân

5


tộc trên thế giới để bảo vệ và thúc đẩy nhân phẩm và hạnh phúc của mọi con người.
Nó không còn là nhận thức, là quan điểm mà hữu hình bằng các quy phạm pháp lý
được các quốc gia thừa nhận chung, phản ánh quy luật và hướng đi tất yếu của xã
hội loài người cũng như sự hình thành các cơ chế bảo đảm để quyền con người
được thực thi trên thực tế [22]
Là thành viên của các Công ước Quốc Tế về quyền con người, Nhà nước
Việt Nam luôn nỗ lực thực hiện các cam kết của mình đồng thời chủ động hợp tác
với các quốc gia và các tổ chức quốc tế trong nhiều hoạt động trên lĩnh vực quyền
con người. Báo cáo quốc gia kiểm điểm định kỳ việc thực hiện quyền con người ở
Việt Nam trình bày tại Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc ở Geneva, Thụy Sỹ
ngày 08/5/2009 cũng khẳng định: “Nhà nước Việt Nam coi con người là mục tiêu
và động lực của mọi chính sách phát triển kinh tế, xã hội và luôn nhất quán trong
việc đảm bảo và thúc đẩy các quyền con người”. Do đó, chúng ta cần phải bảo vệ
thành quả này trong mọi lĩnh vực, đặc biệt là trong lĩnh vực TTHS. TTHS là quá
trình giải quyết vụ án hình sự theo quy định của pháp luật gồm khởi tố, điều tra,
truy tố, xét xử và thi hành án hình sự.
Trong đó giai đoạn khởi tố là giai đoạn đầu tiên của TTHS. Tại giai đoạn này
sau khi tiếp nhận tin báo và tố giác tội phạm, cơ quan có thẩm quyền sẽ tiến hành

kiểm tra, xác minh sự việc xảy ra có dấu hiệu của tội phạm hay không để quyết định
khởi tố hay không khởi tố vụ án hình sự.
Giai đoạn điều tra là giai đoạn cơ quan có thẩm quyền điều tra vụ án có trách
nhiệm và nghĩa vụ áp dụng mọi biện pháp theo luật định để thu thập chứng cứ nhằm
xác định tội phạm, người phạm tội và các vấn đề khác của vụ án
Giai đoạn truy tố là giai đoạn VKS ra quyết định truy tố bằng bản Cáo trạng
hay không truy tố bị can ra xét xử trước Tòa án;
Giai đoạn xét xử sơ thẩm là giai đoạn Tòa án thụ lý, nghiên cứu hồ sơ để tiến
hành giải quyết vụ án bằng việc ra bản án hoặc các quyết định.
Giai đoạn xét xử phúc thẩm là giai đoạn Tòa án cấp trên trực tiếp sẽ xét xử
lại bản án hoặc quyết định sơ thẩm của Tòa án cấp dưới chưa có hiệu lực pháp luật
bị kháng cáo;
Giai đoạn thi hành án là giai đoạn cuối cùng của TTHS. Trong giai đoạn này
6


×