Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

Bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Đăk nông (LV thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 105 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

……………../…………….

…………/………

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

NGUYỄN VĂN HỒNG

BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ
SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ – TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐẮK NÔNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ:
LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

ĐẮK LẮK - NĂM 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

……………../…………….

…………/………

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA


NGUYỄN VĂN HỒNG

BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ
SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ – TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐẮK NÔNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ:
LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
Mã số: 6038.0102

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. LÊ THỊ HƯƠNG

ĐẮK LẮK - NĂM 2017


LỜI CAM ĐOAN

Học viên xin cam đoan:
Đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Đề tài Luận văn
được nghiên cứu một cách độc lập dưới sự hướng dẫn của PGS.TS. Lê Thị
Hương.
Các số liệu, trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác và trung
thực, có nguồn gốc rõ ràng, những kết luận khoa học của Luận văn chưa từng
được công bố trong bất cứ công trình nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Văn Hồng



LỜI CẢM ƠN
Để có được kết quả học tập và nghiên cứu hoàn thành Luận văn như
ngày hôm nay, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến các thầy giáo, cô giáo
đã giảng dạy, truyền đạt cho tôi những kiến thức và phương pháp luận về luật
hiến pháp và luật hành chính trong suốt thời gian học cao học tại Học viện
Hành chính Quốc gia, Phân viện khu vực Tây Nguyên.
Học viên trân trọng cảm ơn PGS.TS. Lê Thị Hương đã tận tình hướng
dẫn, chỉ bảo trong suốt quá trình thực hiện nghiên cứu đề tài và hoàn thành
Luận văn.
Xin cảm ơn Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông, Tòa án nhân dân huyện
Đắk R’lấp cùng bạn bè, đồng nghiệp đã tạo điều kiện giúp đỡ cung cấp tài
liệu và đóng góp ý kiến giúp tôi hoàn thành Luận văn.
Cảm ơn gia đình là chỗ dựa vững chắc cho tôi trong suốt quá trình học
tập và nghiên cứu đề tài.
Mặc dù có cố gắng, nỗ lực nhưng vì còn hạn chế trong công tác nghiên
cứu và còn yếu về lý luận nên không thể tránh khỏi những thiếu sót, học viên
mong nhận được ý kiến đóng góp của các nhà khoa học, quí thầy cô, các anh
chị và các bạn bè, đồng nghiệp để Luận văn được hoàn thiện hơn.
Xin trân trọng cảm ơn./.
Học viên

Nguyễn Văn Hồng


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU................................................................................................1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CON
NGƯỜI TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ .. 7
1.1. Quan niệm về quyền con người trong hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự .................................................................................................... 7

1.2. Nội dung bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự .................................................................................................................20
1.3. Các điều kiện bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự ............................................................................................................37
Chương 2: THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI TRONG
HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA TÒA ÁN
NHÂN DÂN Ở TỈNH ĐẮK NÔNG .......................................................................43
2.2. Đặc điểm tình hình kinh tế - xã hội và tổ chức bộ máy của Tòa án nhân
dân ở tỉnh Đắk Nông ............................................................................... 43
2.2. Tình hình xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ năm 2012 – 2016 trên địa
bàn tỉnh Đắk Nông .................................................................................. 48
2.3. Đánh giá chung ................................................................................... 54
Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG BẢO ĐẢM
QUYỀN CON NGƯỜI TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ
ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐẮK NÔNG..................................... 68
3.1. Quan điểm tăng cường bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự .................................................................................... 68
3.2. Giải pháp tăng cường bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự .................................................................................... 73
KẾT LUẬN .................................................................................................. 93
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 95


MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
1. Xã hội chủ nghĩa

XHCN

2. Cơ quan tiến hành tố tụng


CQTHTT

3. Tố tụng hình sự

TTHS

4. Tòa án nhân dân

TAND

5. Viện kiểm sát nhân dân

VKSND

6. Hội thẩm nhân dân

HTND

7. Kiểm sát viên

KSV

8. Hội đồng xét xử

HĐXX

9. Trách nhiệm hình sự

TNHS



DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1. Bảng số vụ án hình sự được xét xử .............................. 48
Bảng 2.2. Bảng số bị cáo được xét xử .......................................... 49


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quyền con người là giá trị mang tính phổ biến chung của nhân loại, là
kết quả của quá trình đấu tranh, phát triển lâu dài của tất cả các dân tộc, nhân
dân trên toàn thế giới. Được thúc đẩy từ năm 1945 kể từ khi thành lập Liên
Hợp Quốc, quyền con người thu hút sự quan tâm rộng rãi của dư luận và có
sự tác động mạnh mẽ tới các quan hệ chính trị, pháp lý, xã hội ở tất cả các cấp
độ quốc gia, khu vực và quốc tế. Nó không chỉ là nhận thức, là quan điểm mà
hữu hình bằng các quy phạm pháp lý được các quốc gia thừa nhận chung,
phản ánh quy luật và hướng tất yếu của xã hội loài người cũng như sự hình
thành các cơ chế bảo đảm để quyền con người được thực thi trên thực tế.
Tại Việt Nam, bảo đảm quyền con người là một trong những nội dung
và mục tiêu của xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của Đảng và Nhà
nước ta đã nêu trong các Nghị quyết, Văn kiện và được thể chế hóa tại Điều 14
Hiến pháp năm 2013: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các
quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội
được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật”.
Trên tinh thần đó, hệ thống pháp luật nước ta đã qui định việc bảo đảm quyền
con người trong tố tụng hình sự nói chung và trong hoạt động xét xử nói riêng
làm cơ sở cho hoạt động của tòa án và các CQTHTT khác khi tiến hành tố
tụng. Bên cạnh các hoạt động lập pháp, Nhà nước ta đã có nhiều chính sách,
biện pháp và hoạt động thực tế bảo đảm thực hiện quyền con người. Các cơ
quan bảo vệ pháp luật không ngừng được củng cố, phát triển, xã hội ngày

càng công bằng, văn minh, tạo cho mọi người có môi trường tự do, bình đẳng
để thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình, đồng thời bảo vệ con người khỏi các
1


hành vi xâm hại. Song, quyền con người luôn là lĩnh vực nhạy cảm, phức tạp
nên bảo đảm thực hiện nó không phải chỉ dừng lại ở việc ghi nhận quyền con
người mà còn phải thực thi nhiều biện pháp đồng bộ, được mọi cấp, mọi
ngành, mọi người tham gia. Trong đó, Toà án có vị trí, vai trò đặc biệt quan
trọng. Bởi vì, một trong những nhiệm vụ cơ bản trong xét xử của Toà án
chính là hoạt động trực tiếp bảo vệ quyền con người đối với bên bị hại và cả
bên bị cáo - là những người mà quyền con người của họ dễ có nguy cơ bị xâm
hại. Nhiều năm qua, theo quy định của pháp luật, Toà án đã tích cực tham gia
đấu tranh phòng, chống vi phạm pháp luật và tội phạm, bảo vệ chế độ xã hội
chủ nghĩa, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, thực tiễn quá trình giải
quyết vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Đắk Nông còn bộc lộ nhiều hạn chế
trong việc bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét xử như: Khi tiến
hành xét xử tòa án đã không tạo điều kiện để bị cáo thực hiện đầy đủ quyền
bào chữa, việc tiếp cận hồ sơ vụ án, gặp gỡ bị cáo của luật sư còn khó khăn;
Việc tranh tụng tại phiên tòa còn phiến diện, hình thức; bản án, quyết định
của tòa án chưa thực sự dựa trên kết qủa tranh tụng tại phiên tòa dẫn đến việc
làm oan người vô tội hoặc bỏ lọt tội phạm, hình phạt được tuyên không tương
xứng với tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo... Việc áp dụng các biện pháp
ngăn chặn, đặc biệt là biện pháp tạm giữ, tạm giam đối với người bị tình nghi
phạm tội, bị can, bị cáo còn thiếu căn cứ; trong quá trình tạm giam, bị can, bị
cáo chưa được đối xử theo qui định của pháp luật. Một trong những quyền
con người quan trọng trong giai đoạn xét xử là người bị buộc tội phải được
xét xử công bằng bởi một tòa án độc lập nhưng sự độc lập của thẩm phán và
hội thẩm khi xét xử còn phải chịu nhiều áp lực nên chưa thực sự đảm bảo...

2


Các quyền về an toàn thân thể, danh dự, nhân phẩm của bị can, bị cáo trong
hoạt động xét xử còn bị vi phạm.
Đó là lý do đề tài “Bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự - Từ thực tiễn tỉnh Đắk Nông” được tác giả lựa chọn
làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành chính.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong khoa học pháp lý nước ta, vấn đề bảo đảm quyền con người
được nhiều tác giả nghiên cứu trong các công trình với các góc độ khác nhau.
Từ góc độ nghiên cứu về quyền con người nói chung có công trình:
“Quyền con người và luật quốc tế về quyền con người” của PGS.TS. Chu
Hồng Thanh; “Quyền con người, quyền công dân trong Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam” của GS.TS. Trần Ngọc Đường; chuyên khảo
“Quyền lực Nhà nước và quyền con người” của PGS.TS. Đinh Văn Mậu.
Từ góc độ nghiên cứu quyền con người trong lĩnh vực Tư pháp có “Bảo
đảm quyền con người trong tư pháp hình sự Việt Nam” (Nhà xuất bản Đại học
Quốc Gia Thành phố Hồ Chí Minh, 2010); “Luật tố tụng hình sự Việt Nam
với việc bảo vệ quyền con người” (Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Đại học
Quốc Gia, 2011).
Ngoài ra có một số tác giả chọn vấn đề bảo vệ quyền con người trong
luật hình sự, trong TTHS làm đề tài Luận văn thạc sĩ, Luận án tiến sĩ luật học
như: “Hoàn thiện pháp luật đảm bảo quyền con người trong xét xử hình sự ở
nước ta” (Luận văn thạc sĩ luật học, 2000) cuả tác giả Hoàng Hải Hùng; “Bảo
vệ quyền con người trong tố tụng hình sự Việt Nam” (Luận án tiến sĩ) của tác
giả Nguyễn Quang Hiền.

3



Các công trình nghiên cứu nêu trên chủ yếu đề cập đến vấn đề bảo vệ
quyền con người nói chung và trong hoạt động tố tụng, xét xử hình sự nói
riêng. Tuy nhiên, chưa có công trình nào tiếp cận một cách toàn diện, hệ
thống, đồng bộ vấn đề bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Đắk Nông.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Mục đích của luận văn là đề xuất giải pháp tăng cường bảo đảm quyền
con người trong hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
- Làm rõ cơ sở lý luận và pháp lý về bảo đảm quyền con người trong
hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự;
- Phân tích, đánh giá thực trạng thực thi Hiến pháp và các quy định
pháp luật có liên quan đến bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự tại tỉnh Đắk Nông;
- Đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền con người
trong hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu các quy định về bảo đảm quyền con người trong
hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo Hiến pháp năm 2013 và các văn
bản pháp luật liên quan.
4.2. Phạm vi nghiên cứu đề tài
4


Phạm vi bảo đảm quyền con người của đề tài này chủ yếu là trong giai
đoạn xét xử vụ án hình sự sơ thẩm, bảo đảm cho bị cáo thực hiện quyền của
mình khi tham gia xét xử và được xét xử công bằng, cụ thể:

- Về không gian: nghiên cứu tại tỉnh Đắk Nông.
- Về thời gian: Từ năm 2012 đến nay.
- Về nội dung: Các quy định pháp luật liên quan đến bảo đảm quyền
con người trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự; Thực trạng bảo
đảm quyền của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của TAND hai cấp
tỉnh Đắk Nông; Các giải pháp nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền con người
trong hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác – LêNin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về Nhà nước
và pháp luật, về xây dựng Nhà nước Pháp quyền xã hội chủ nghĩa, về quyền
con người và bảo đảm quyền con người, về vấn đề cải cách tư pháp.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả đã sử dụng các phương pháp cụ
thể như: phương pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp so sánh, đối chiếu;
phương pháp thống kê; phương pháp khảo sát thực tiễn trong xét xử sơ thẩm
các vụ án hình sự…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn tổng hợp các quan điểm khoa học về bảo đảm quyền con
người trong hoạt động xét xử, để giải quyết khái niệm, đặc điểm, nội dung,
vai trò và điều kiện bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét xử sơ thẩm
5


vụ án hình sự; Nghiên cứu, đánh giá thực trạng về việc bảo đảm quyền con
người trong hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Đắk
Nông, những mặt đạt được, những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân. Trên cơ
sở đó, luận văn đề xuất các định hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả của
việc bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp hiện nay

ở Việt Nam.
Luận văn có thể là tài liệu tham khảo đối với các học viên cao học và
sinh viên tại các cơ sở đào tạo luật , các cán bộ thực tiễn đang công tác tại các
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án và cơ quan Thi hành án trong quá
trình giải quyết vụ án hình sự được khách quan, có căn cứ và đúng pháp luật.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về bảo đảm quyền con người trong
hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Chương 2: Thực trạng bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án nhân dân ở tỉnh Đắk Nông
Chương 3: Quan điểm và giải pháp tăng cường bảo đảm quyền con người
trong hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Đắk Nông.

6


Chương 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI
TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1. Quan niệm về bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét xử
vụ án hình sự
1.1.1. Khái niệm về quyền con người trong hoạt động xét xử
Quyền con người là một nội dung lớn của thế giới ngày nay. Đây là giá
trị cao quý, kết tinh từ nền văn hóa của tất cả các dân tộc trên thế giới; là tiếng
nói chung, sản phẩm chung, mục tiêu chung, phương tiện chung của mọi quốc
gia, dân tộc trên thế giới để bảo vệ và thúc đẩy nhân phẩm và hạnh phúc của
mọi con người. Nó không còn là nhận thức, là quan điểm mà hữu hình bằng
các quy phạm pháp lý được các quốc gia thừa nhận chung, phản ánh quy luật

và hướng đi tất yếu của xã hội loài người cũng như sự hình thành các cơ chế
bảo đảm để quyền con người được thực thi trên thực tế.
Trong bất kỳ một nền tư pháp nào, việc đưa ra quyết định một công dân
có tội hay không có tội là một việc làm hết sức quan trọng, nó không những
ảnh hưởng lớn đến danh dự, nhân phẩm, tài sản, tính mạng và các quyền, lợi
ích của chính công dân đó, mà còn quyết định đến vận mệnh, tương lai, cuộc
sống của mỗi con người. Ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, nhiệm vụ quan
trọng và nặng nề này thường được trao cho Tòa án, cơ quan duy nhất có thẩm
quyền đưa ra phán quyết đối với một cá nhân vi phạm pháp luật.
Trong hệ thống tư pháp, Tòa án giữ vai trò đặc biệt. Ở hầu hết các
nước, hệ thống Tòa án thường được trao nhiệm vụ bảo vệ các quyền con
người, quyền công dân. Bằng hoạt động xét xử của mình, Tòa án không
7


những khôi phục những thiệt hại do hành vi phạm tội xâm hại đến quyền con
người mà còn bảo đảm cho quyền con người trong quá trình tố tụng giải quyết
vụ án được tôn trọng và bảo đảm.
Quyền con người trong TTHS nói chung và trong hoạt động xét xử nói
riêng bao gồm hai nhóm quyền: Quyền an toàn thân thể, danh dự, nhân phẩm
của cá nhân trong tố tụng hình sự và quyền được xét xử công bằng bởi một
Tòa án độc lập. Những quyền con người này là tập hợp các quyền thuộc nhóm
quyền dân sự, chính trị nhằm mục đích khẳng định danh dự, nhân phẩm của
con người trong mọi hoản cảnh, bảo vệ các cá nhân khỏi sự tùy tiện và sự lạm
quyền của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng trong các
hoạt động tố tụng hình sự.
1.1.1.1. Quyền an toàn thân thể, danh dự, nhân phẩm của cá nhân trong xét
xử hình sự
Đây là quyền của người bị tình nghi phạm tội bị áp dụng những biện
pháp ngăn chặn như: bắt, tạm giữ, tạm giam; người bị kết án phải chấp hành

hình phạt tù trong các trại cải tạo và còn được mở rộng đến những đối tượng
bị tạm giữ hành chính. Mặc dù là những người này ít nhiều đã gây nguy hại
cho xã hội hoặc bị tình nghi có hành vi gây nguy hại cho xã hội và hạn chế tự
do nhưng quyền của họ vẫn được ghi nhận và bảo đảm thi hành bằng biện
pháp pháp luật. Quyền của những người này chiếm một vị trí quan trọng trong
luật nhân quyền quốc tế và luật nhân quyền quốc gia.
Các quyền cơ bản của người bị tước tự do được bảo vệ tại Tuyên ngôn
quốc tế nhân quyền (1948) - (UDHR), Công ước quốc tế về các quyền dân sự
và chính trị (1966) - (ICCPR) và nhiều văn kiện khác như “Tập hợp các
nguyên tắc bảo vệ tất cả những người bị giam hay cầm tù dưới bất kỳ hình
thức nào” được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua bằng Nghị quyết
8


43/173 ngày 9/12/1988; “Các quy tắc của Liên hợp quốc về bảo vệ người
chưa thành niên bị tước tự do” được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua
bằng Nghị quyết 45/113 ngày 14/12/1990...Về cơ bản, những người bị tước tự
do được bảo đảm các quyền như: Quyền được bảo vệ không bị tra tấn, đối xử
hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục; Quyền được bảo vệ để
khỏi bị bắt, giam giữ tùy tiện; Quyền được đối xử nhân đạo và tôn trọng nhân
phẩm của những người bị tước tự do; Quyền thông tin, liên lạc với bên ngoài;
Quyền có cơ chế khiếu nại, tố cáo hữu hiệu; Quyền đối với người chưa thành
niên.
Pháp luật Việt Nam quy định quyền này tại Điều 2l, 31 Hiến pháp năm
2013 và Điều 10, 11 Bộ luật TTHS năm 2015 có sự quy định rõ ràng về các
biện pháp ngăn chặn để hạn chế tới mức thấp nhất sự tùy tiện trong việc xâm
phạm an toàn thân thể, danh dự, nhân phẩm của cá nhân. Nội dung cụ thể đó là:
không được bắt giữ người không có căn cứ, không đúng thẩm quyền, không
đúng thủ tục; Nghiêm cấm tra tấn, bức cung, dùng nhục hình hay bất cứ hình
thức đối xử nào khác xâm phạm đến thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự,

nhân phẩm; Người bị bắt tạm giam, tạm giữ, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi
hành án trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và
phục hồi danh dự,…
Trong quá trình xét xử, tòa án có trách nhiệm bảo đảm những quyền
con người kể trên khi áp dụng các biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế
trong quá trình giải quyết vụ án cũng như trong việc ra bản án và quyết định
của Tòa án.
1.1.1.2. Quyền được xét xử công bằng

9


“Quyền được xét xử công bằng” (right to a fair trial) là một nhân quyền
cơ bản và có tính phổ quát cao, tồn tại trong tất cả các vụ án hình sự và phi
hình sự. Pháp luật nhiều quốc gia quy định quyền này với quan niệm rằng nó
là quyền thiết yếu (essential) trong mọi quốc gia pháp trị. Việc đối xử với một
người khi họ bị buộc tội phản ánh rõ nhà nước tôn trọng nhân quyền đến mức
nào, bởi vậy, quyền được xét xử công bằng đã được coi là một hòn đá tảng (a
cornerstone) của các xã hội dân chủ.Giống như đặc tính của mọi nhân quyền
là phụ thuộc lẫn nhau, quyền được xét xử công bằng với các quyền khác có
mối quan hệ hai chiều. Một phiên toà công bằng là yếu tố thiết yếu để bảo
đảm các quyền cơ bản khác của con người như quyền sống, quyền được an
toàn về thân thể, quyền tự do ngôn luận... Ngược lại, trong một xã hội không
dân chủ, các quyền cơ bản của con người không được tôn trọng thì khó có thể
có chuyện mọi người đều được xét xử công bằng. Quan hệ chặt chẽ giữa
quyền được xét xử công bằng với pháp trị và dân chủ cũng đã được khẳng
định chính thức trong Tuyên ngôn Dakar về quyền được xét xử công bằng tại
châu Phi.
Từ các văn bản pháp luật thì quyền được xét xử công bằng được hiểu
là: quyền cơ bản của người bị buộc tội trong vụ án hình sự và của các bên

trong vụ việc phi hình sự trước cơ quan tư pháp (công an, công tố và toà án),
được pháp luật quốc gia và quốc tế ghi nhận và bảo vệ, bao gồm nhiều quyền
cụ thể (như được bảo đảm quyền bào chữa, được xét xử nhanh chóng, công
khai bởi toà án độc lập, không thiên vị...) nhằm bảo đảm cho việc xét xử được
công bằng, cũng như các quyền và lợi ích hợp pháp của mọi cá nhân. [31]
Đây thực chất là một tập hợp các đảm bảo tố tụng nhằm bảo đảm quá
trình xét xử được công bằng, gồm: Bình đẳng trước Tòa án; Được xét xử bởi

10


một Tòa án độc lập, không thiên vị, công khai; Được suy đoán vô tội; Không
bị áp dụng hồi tố; Không hình sự hóa vụ án dân sự.
Quyền này được đề cập tại Điều 10 UDHR (quyền được xét xử công
bằng và công khai) và Điều 11 UDHR (quyền được suy đoán vô tội, không
hình sự hóa vụ án dân sự, không bị áp dụng hồi tố). Hai Điều này được tái
quy định trong ICCPR tại các Điều 11 (không hình sự hóa vụ án dân sự);
Điều 14 (quyền được xét xử công bằng; quyền được suy đoán vô tội; quyền
được xét xử bởi một Tòa án độc lập, không thiên vị); Điều 15 (không bị áp
dụng hồi tố).
Trong Pháp luật Việt Nam, quyền này được thể hiện bằng nhiều quy
định trong Hiến pháp và Bộ luật TTHS, cụ thể như: khoản 1 Điều 16 Hiến
pháp năm 2013 quy định: “1. Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật”;
Khoản 2 Điều 31: “2. Người bị buộc tội phải được Tòa án xét xử kịp thời
trong thời hạn luật định, công bằng, công khai. Trường hợp xét xử kín theo
quy định của luật thì việc tuyên án phạt được công khai”. Hay Điều 9. Bảo
đảm quyền bình đẳng trước pháp luật; Điều 13. Suy đoán vô tội; Điều 25. Tòa
án xét xử kịp thời, công bằng, công khai;... của Bộ luật TTHS.
Có thể nhận thấy, pháp luật Quốc tế và Pháp luật Việt Nam đều ghi
nhận quyền xét xử công bằng là quyền cơ bản của người bị buộc tội trước cơ

quan tiến hành tố tụng. Đây là một nhân quyền cơ bản và có tính phổ quát
cao. Một phiên tòa công bằng là yếu tố thiết yếu để bảo đảm các quyền cơ bản
khác của con người như quyền sống, quyền tự do thân thể, quyền tự do ngôn
luận…Tuy nhiên, để có một phiên tòa công bằng thì cũng cần phải đảm bảo
bởi rất nhiều yếu tố. Và do đó, trong thực tế, quyền này dễ bị vi phạm dưới
nhiều hình thức khác nhau.

11


1.1.2. Khái niệm và đặc điểm bảo đảm quyền con người trong hoạt động
xét sơ thẩm xử vụ án hình sự
1.1.2.1. Khái niệm bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét sơ thẩm
xử vụ án hình sự
Có tác giả cho rằng bảo đảm là sự tôn trọng, bảo vệ và thực hiện
quyền của chủ thể.Quan niệm này hợp lý khi khẳng định nội hàm của khái
niệm “bảo đảm” là thực hiện quyền của chủ thể. Tuy nhiên, cho rằng “bảo
đảm” gồm tôn trọng, bảo vệ, thực hiện quyền thì chưa hoàn toàn đầy đủ vì
Hiến pháp năm 2013 khẳng định bảo đảm là nhiệm vụ độc lập với tôn
trọng, bảo vệ. Điều 3 Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Nhà nước bảo
đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo
vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân”. Tiếp đó, Điều 14 Hiến
pháp khẳng định các quyền con người… được công nhận, tôn trọng, bảo
vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật.
Quan niệm chung được thừa nhận hiện nay, bảo đảm được hiểu là “là
làm cho chắc chắn, thực hiện được, giữ gìn được hoặc có đầy đủ những gì
cần thiết” [7, tr 9]. Đặt trong một ngữ cảnh để hiểu rõ nội hàm khái niệm
bảo đảm, Từ điển Luật học diễn giải: Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm
cho các quyền công dân đã được ghi trong các đạo luật phải được thực thi,
phải tạo điều kiện cho công dân hưởng các quyền đó. Trường hợp có sự vi

phạm đến các quyền của công dân thì phải áp dụng các biện pháp để loại
trừ. Cán bộ, công chức nhà nước phải chịu trách nhiệm trước pháp luật
trong trường hợp họ không hành động để bảo vệ quyền lợi ích của công
dân. Cũng có ý kiến cho rằng, bảo đảm quyền con người là những hoạt
động, những công việc tạo ra các điều kiện, tiền đề cần thiết làm cho quyền
của chủ thể được thực hiện đầy đủ…
12


Từ những phân tích trên đây có thể hiểu: bảo đảm cũng là trách nhiệm
của một chủ thể (cá nhân, tổ chức) phải làm cho quyền và lợi ích của chủ thể
bên kia chắc chắn thực hiện được, được giữ gìn, nếu xảy ra thiệt hại thì phải
bồi thường.
Bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét sơ thẩm xử vụ án hình
sự là trách nhiệm của Nhà nước, thông qua các cơ quan nhà nước như Quốc
hội, Chính phủ, Tòa án, Viện kiểm sát và các cơ quan nhà nước khác trong
đó Tòa án có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng. Điều 102, Hiến pháp năm
2013 khẳng định:
“1. TAND là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà XHCN Việt Nam,
thực hiện quyền tư pháp.
2. TAND ở nước ta hiện nay gồm TAND tối cao và các Tòa án khác do
luật định.
3. TAND có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền
công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền là lợi
ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.” [21]
Việc quy định Tòa án là cơ quan duy nhất có quyền xét xử các vụ án
trong đó có án hình sự là nhằm đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân, tránh những việc làm tùy tiện, bởi vì không phải bất cứ ai hay bất
cứ tổ chức nào cũng có quyền kết tội một công dân. Chỉ có Tòa án là cơ quan
được pháp luật của nhà nước quy định có quyền thay mặt nhà nước ra phán

quyết một người là có tội hay không và áp dụng hình phạt đối với người phạm
tội. Để thực hiện được nhiệm vụ trên thì Thẩm phán - người trực tiếp giải
quyết các vụ án và đưa ra phán quyết giữ một vị trí và vai trò đặc biệt quan
trọng. Thẩm phán được giao nhiệm vụ quyết định tối cao về sinh mạng, tự do,
các quyền, trách nhiệm và tài sản của công dân. Trong bản các nguyên tắc cơ
13


bản của Liên hợp quốc về tính độc lập của tư pháp được Đại hội liên hợp
quốc lần thứ 7 về ngăn chặn tội ác và đối xử với bị can được tổ chức tại Milan
từ ngày 26/8 đến ngày 06/9/1985 và được Đại hội đồng ghi nhận trong Nghị
quyết số 40/32 ngày 29/11/1985 và Nghị quyết số 40/146 ngày 13/12/1985
quy định: Xét thấy, các Thẩm phán có trách nhiệm đưa ra quyết định cuối
cùng về cuộc sống, sự tự do, nghĩa vụ và tài sản của công dân.
Như vậy, hoạt động xét xử là việc phán xét tính đúng đắn, tính hợp
pháp các hành vi của chủ thể pháp luật. Một phán quyết của Thẩm phán
liên quan trực tiếp đến sức khỏe, tính mạng, tài sản, danh dự, nhân phẩm
của công dân. Nó ảnh hưởng tới những lợi ích của nhà nước, của các tổ
chức và những giá trị được thừa nhận chung trong xã hội. Do đó, nảy sinh
nhu cầu hoạt động xét xử cần phải đảm bảo tính cẩn trọng, kỹ lưỡng, tỉ mỉ.
Đây chính là cơ sở của việc Thẩm phán phải chịu trách nhiệm về những
phán quyết của mình. Khi Thẩm phán phải chịu trách nhiệm về những
quyết định của mình thì những quyết định của Thẩm phán sẽ cẩn trọng hơn,
kỹ lưỡng hơn.Từ đó việc xét xử sẽ đúng người, đúng tội, đảm bảo công lý,
bất bình đẳng không xảy ra.
Từ những phân tích trên có thể đưa ra khái niệm về bảo đảm quyền con
người trong hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là sự vận hành của các
yếu tố khách quan nhằm mục đích công bố, ghi nhận về mặt pháp lý các
quyền con người trong trong hoạt động xét xử, bảo vệ và thực thi các quyền
đó trong quá trình xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.

1.1.2.2. Đặc điểm bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét sơ thẩm
xử vụ án hình sự

14


Trong quá trình xét xử, tòa án có trách nhiệm bảo đảm quyền con
người bên cạnh những chức năng, nhiệm vụ khác của mình. Bảo đảm quyền
con người trong hoạt động xét xử có những đặc điểm sau:
- Bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét xử là một trong những
hợp phần có tính chất đặc thù của bảo đảm quyền con người trong TTHS. Ở
mức độ khái quát nhất, bảo đảm quyền con người trong trong hoạt động xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự là những yếu tố để quyền con người được ghi nhận,
thực thi trong quá trình giải quyết vụ án nhằm tôn trọng phẩm giá con người
trong mọi hoàn cảnh và được xét xử công bằng. Thực hiện tốt bảo đảm quyền
con người trong hoạt động xét xử là đóng góp tích cực có hiệu quả trong việc
bảo đảm quyền con người nói chung trong TTHS.
- Bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự là chức năng của nhà nước với cơ chế phù hợp trong điều kiện kinh tế - xã
hội, pháp lý của mình.
- Bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự có vai trò quan trọng trong việc biến những nỗ lực, những ý tưởng tiến bộ
của nhân loại ở các điều luật trở thành hiện thực trong thực tiễn giải quyết vụ
án. Nói cách khác, bản thân các qui phạm pháp luật về quyền con người trong
hoạt động xét xử đã là một thành tố quan trọng trong việc bảo đảm quyền con
người nhưng chỉ dừng lại ở đó quyền con người trong tố tụng hình sự sẽ
không có trong thực tế và những qui phạm pháp luật sẽ trở thành vô nghĩa. Vì
vậy, hình thành cơ chế bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự là đòi
hỏi khách quan mang tính chất quyết định mà nhà nước nào cũng cần quan
tâm.

- Bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự mang tính chất đặc thù xuất phát từ những đặc điểm của tố tụng hình sự là
15


một lĩnh vực hoạt động thực hiện quyền lực nhà nước mà ở đó việc hạn chế
các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân là không thể tránh khỏi và các
quyền và lợi ích đó có thể bị xâm phạm một cách nghiêm trọng bởi những
người đại diện cho công quyền.
1.1.3. Vai trò của bảo đảm quyền con người trong xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự
Thứ nhất, góp phần bảo đảm quyền con người
Người bị cáo buộc phạm tội trong giai đoạn xét xử là thành viên của xã
hội nên bảo đảm quyền cho họ cũng chính là bảo đảm quyền con người nói
chung. Việc thừa nhận các quyền của người bị cáo buộc phạm tội trong giai
đoạn xét xử và cơ chế bảo đảm thực thi các quyền đó sẽ là công cụ pháp lý
trừng trị những chủ thể có hành vi xâm hại quyền của người bị cáo buộc phạm
tội trong giai đoạn xét xử. Quyền con người không được sử dụng để vi phạm
quyền của người khác (Điều 15 của Hiến pháp). Do vậy, tất cả các xung đột
phải được giải quyết mà vẫn phải tôn trọng quyền con người kể cả vào những
lúc khẩn cấp và trong trường hợp cần áp đặt một vài hạn chế. Người bị cáo
buộc phạm tội trong giai đoạn xét xử cũng có nhân phẩm và họ cần phải được
tôn trọng với phẩm giá vốn có. Không thể vì họ là người bị tước tự do mà
nhân phẩm của họ bị giảm sút hay mất đi. Ngược lại, họ cần được bảo vệ hơn
bởi vị thế dễ bị tổn thương của mình.
Luật nhân quyền quốc tế đã thừa nhận quyền của người bị cáo buộc
phạm tội trong giai đoạn xét xử bằng một hệ thống các quy định trong các văn
kiện pháp lý.Bên cạnh đó các cơ chế bảo đảm quyền của người bị cáo buộc
phạm tội trong giai đoạn xét xử cũng được thiết lập. Điều đó sẽ góp phần làm
hạn chế các hành vi xâm hại đến quyền của người bị cáo buộc phạm tội trong

giai đoạn xét xử. Do đó, việc quy định quyền và cơ chế thực thi quyền cho
16


người cáo buộc phạm tội trong giai đoạn xét xử có ý nghĩa quan trọng trong
việc bảo đảm quyền cho họ, chống lại các hành vi xâm hại tới quyền của họ
do các chủ thể khác thực hiện.
Thứ hai, góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền
Nhà nước pháp quyền là một hiện tượng chính trị - pháp lý phức tạp,
được hiểu và nhìn nhận ở nhiều góc độ khác nhau, song chúng ta có thể hiểu
nhà nước pháp quyền theo cách đơn giản, đó là một nhà nước quản lý kinh tế
- xã hội bằng pháp luật và nhà nước được tổ chức, hoạt động theo pháp luật.
Pháp luật đó được các chủ thể thực hiện một cách tự giác chứ không ép buộc.
Bởi lẽ đó là pháp luật vì quyền con người, phục vụ con người, là pháp luật
của dân chủ, bình đẳng và văn minh. Đó là nhà nước bảo đảm quyền con
người tốt nhất trong lịch sử loài người.
Trong một nền dân chủ hiện đại, không thể thiếu vắng vai trò của việc
đề cao pháp luật, xem pháp luật là nguyên tắc tối thượng; đồng thời, có những
cơ chế để kiềm chế xu hướng tha hóa, lạm dụng quyền lực nhà nước của bất
cứ nhánh quyền lực nào cũng như của từng cá nhân – công chức và quan chức
nhà nước – là những người đại diện cho nhân dân. Hơn thế nữa pháp luật đó
phải được xây dựng theo một quy trình dân chủ, minh bạch và công khai.
Hiến pháp và pháp luật luôn giữ vai trò điều chỉnh cơ bản đối với toàn bộ hoạt
động Nhà nước và hoạt động xã hội, quyết định tính hợp hiến và hợp pháp
của mọi tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Tuy nhiên không phải
mọi chế độ lập Hiến, mọi hệ thống pháp luật đều có thể đưa lại khả năng xây
dựng nhà nước pháp quyền, mà chỉ có Hiến pháp và hệ thống pháp luật dân
chủ, công bằng mới có thể làm cơ sở cho chế độ pháp quyền trong nhà nước
và xã hội.
17



Quyền con người là tiêu chí đánh giá tính pháp quyền của chế độ nhà
nước. Mọi hoạt động của Nhà nước đều phải xuất phát từ sự tôn trọng và đảm
bảo quyền con người, tạo mọi điều kiện cho công dân thực hiện quyền của
mình theo đúng các quy định của luật pháp. Nền tảng của nhà nước pháp
quyền là Hiến pháp và một hệ thống pháp luật dân chủ và công bằng. Do vậy,
một cơ chế bảo vệ Hiến pháp và pháp luật luôn là một yêu cầu, một điều kiện
cần thiết nhằm đảm bảo cho Hiến pháp, pháp luật luôn được tôn trọng, đề cao
và tuân thủ nghiêm minh. Hình thức và phương thức bảo vệ Hiến pháp và
pháp luật ở các quốc gia có thể đa dạng và khác nhau, nhưng đều hướng tới
mục tiêu là bảo đảm địa vị tối cao, bất khả xâm phạm của Hiến pháp, loại bỏ
hành vi trái với tinh thần và quy định của Hiến pháp, không phụ thuộc và chủ
thể của các hành vi này. Đồng thời với bảo vệ Hiến pháp, nhà nước pháp
quyền luôn đòi hỏi phải xây dựng và thực thi một chế độ tư pháp thật sự dân
chủ, minh bạch và trong sạch để duy trì và bảo vệ pháp chế trong mọi lĩnh
vực hoạt động của Nhà nước và xã hội.
Bản chất của nhà nước pháp quyền là nhà nước tôn trọng giá trị nhân
quyền và bảo đảm cho các giá trị đó được thực thi trong thực tế. Khi quyền
của những người bị cáo buộc phạm tội trong giai đoạn xét xử được bảo vệ tức
là đã góp phần xây dựng một Nhà nước pháp quyền và đó cũng là một tiêu chí
để xác định nhà nước đó có phải là Nhà nước pháp quyền hay không?
Thứ ba, góp phần bảo vệ công lý và văn minh nhân loại
Quyền con người là thành quả đấu tranh lâu dài qua các thời đại của
nhân loại, của các dân tộc bị áp bức trên thế giới nhằm xác lập quyền bình
đẳng, tự do trong các quan hệ giữa người và người, cũng như giữa các dân
tộc; và đó cũng là thành quả đấu tranh của loài người nhằm hướng tới làm chủ
thiên nhiên, làm chủ xã hội, làm chủ bản thân mình. Ở thời kỳ nô lệ, có tầng
18



×