Tải bản đầy đủ (.pdf) (159 trang)

(Luận án tiến sĩ) Phát huy vai trò nhân tố chủ quan của lực lượng CAND trong đảm bảo an ninh quốc gia ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.69 MB, 159 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐỖ THỊ BÍCH THẢO

PHÁT HUY VAI TRÒ NHÂN TỐ CHỦ QUAN
CỦA LỰC LƢỢNG CÔNG AN NHÂN DÂN TRONG ĐẢM BẢO
AN NINH QUỐC GIA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI - 2019


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐỖ THỊ BÍCH THẢO

PHÁT HUY VAI TRÒ NHÂN TỐ CHỦ QUAN
CỦA LỰC LƢỢNG CÔNG AN NHÂN DÂN TRONG ĐẢM BẢO
AN NINH QUỐC GIA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Ngành: CNDVBC&DVLS
Mã số: 9 22 90 02

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. PHẠM XUÂN PHÚC



HÀ NỘI - 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các
tư liệu được sử dụng trong luận án là trung thực, có nguồn trích dẫn rõ ràng. Các
kết quả nghiên cứu của luận án chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào.

Tác giả

ĐỖ THỊ BÍCH THẢO


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ......................................................................... 6
1.1. Những công trình nghiên cứu về nhân tố chủ quan và phát huy vai trò
nhân tố chủ quan ................................................................................................ 6
1.2. Những công trình nghiên cứu lý luận cơ bản về an ninh quốc gia và
nhân tố chủ quan của lực lượng công an trong đảm bảo an ninh quốc gia...... 16
Liên quan đến vấn đề này, có thể kể đến một số công trình sau: .................... 16
1.3. Những công trình nghiên cứu về giải pháp phát huy vai trò nhân tố
chủ quan của lực lượng công an trong đảm bảo an ninh quốc gia................... 19
1.4. Khái quát kết quả nghiên cứu và những vấn đề đặt ra cho đề tài luận
án tiếp tục giải quyết ........................................................................................ 23
Chƣơng 2: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁT HUY VAI TRÒ
NHÂN TỐ CHỦ QUAN CỦA LỰC LƢỢNG CÔNG AN NHÂN DÂN
TRONG ĐẢM BẢO AN NINH QUỐC GIA Ở VIỆT NAM ......................... 27

2.1. Nhân tố chủ quan và vai trò nhân tố chủ quan của lực lượng công an
trong đảm bảo an ninh quốc gia ....................................................................... 27
2.2. Phát huy vai trò nhân tố chủ quan của lực lượng công an trong đảm
bảo an ninh quốc gia: khái niệm và đặc điểm .................................................. 58
Chƣơng 3: PHÁT HUY VAI TRÒ NHÂN TỐ CHỦ QUAN CỦA LỰC
LƢỢNG CÔNG AN NHÂN DÂN TRONG ĐẢM BẢO AN NINH
QUỐC GIA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY: THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN
NHÂN .................................................................................................................. 72
3.1. Thực trạng phát huy vai trò nhân tố chủ quan của lực lượng công an
trong đảm bảo an ninh quốc gia ....................................................................... 72
3.2. Đánh giá thực trạng phát huy vai trò nhân tố chủ quan của lực lượng
công an trong đảm bảo an ninh quốc gia ....................................................... 104


Chƣơng 4: YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM PHÁT HUY
VAI TRÒ NHÂN TỐ CHỦ QUAN CỦA LỰC LƢỢNG CÔNG AN
NHÂN DÂN TRONG ĐẢM BẢO AN NINH QUỐC GIA Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY ........................................................................................................ 114
4.1. Một số yêu cầu phát huy vai trò nhân tố chủ quan của lực lượng công
an trong đảm bảo an ninh quốc gia ở Việt Nam hiện nay ............................. 114
4.2. Một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò nhân tố chủ quan của
lực lượng công an trong đảm bảo an ninh quốc gia ở Việt Nam hiện nay .... 117
KẾT LUẬN ....................................................................................................... 141
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ ........................... 143
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 144


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN

ANND


:

An ninh nhân dân

ANPTT

:

ANQG

:

An ninh quốc gia

ANTT

:

An ninh, trật tự

CAND

:

Công an nhân dân

CNXH

:


Chủ nghĩa xã hội

ĐKKQ

:

Điều kiện khách quan

NTCQ

:

Nhân tố chủ quan

XHCN

:

Xã hội chủ nghĩa

n ninh phi tru ền thống


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
An ninh quốc gia là vấn đề cơ bản, hệ trọng của quốc gia, là điều kiện
hàng đầu để quốc gia phát triển. Bảo vệ an ninh quốc gia có vị trí đặc biệt quan
trọng, là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân. Ý thức được điều đó,
Đảng và nhà nước ta luôn xác định: “Tăng cường quốc phòng, an ninh là nhiệm

vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước và của toàn dân, trong đó Quân
đội nhân dân, Công an nhân dân là lực lượng nòng cốt” [41, tr.45].
Mỗi quốc gia, dân tộc trong quá trình phát triển của mình luôn có những
phương thức, cách thức, biện pháp khác nhau để đảm bảo an ninh quốc gia một
cách hiệu quả trên bình diện tổng thể, cũng như trong từng lĩnh vực. Nhận thức
nhiệm vụ đảm bảo an ninh quốc gia là trọng trách vô cùng khó khăn, đồng thời
là niềm vinh dự mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao cho lực lượng công an thực hiện vai trò nòng cốt đảm bảo an ninh quốc gia. Đội ngũ lãnh đạo, chỉ huy
và cán bộ, chiến sĩ toàn lực lượng luôn quán triệt tinh thần, “Công an nhân dân
vì nước quên thân, vì nhân dân phục vụ”, khắc phục mọi khó khăn, hoàn thành
xuất sắc nhiệm vụ.
Trong bối cảnh tình hình trong nước, khu vực và thế giới đang có nhiều
tha đổi, biến động phức tạp, tác động nhiều chiều đến công tác đảm bảo an ninh
quốc gia của lực lượng công an. Sự nghiệp đổi mới ở nước ta, tu đã đạt được

những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, vẫn đứng trước những khó khăn,
thách thức lớn. Nền kinh tế phát triển chưa bền vững; tốc độ tăng trưởng GDP
chưa cao, cơ cấu kinh tế có mặt chưa hợp lý, các ngu cơ chệch hướng, tụt
hậu xa hơn về kinh tế chưa bị đẩy lùi. Tình hình an ninh các vùng chiến lược
còn tiềm ẩn ngu cơ mất ổn định. Các thế lực thù địch gia tăng hoạt động
“diễn biến hòa bình”, bạo loạn, lật đổ hòng xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng,
tha đổi chế độ XHCN ở nước ta. Xu thế toàn cầu hóa và cách mạng khoa học
- công nghệ phát triển nhanh, ngày càng trở thành lực lượng sản xuất trực
1


tiếp, thúc đẩy sự phát triển của kinh tế tri thức, làm chuyển biến mạnh mẽ, sâu
sắc các mối quan hệ chính trị - xã hội, đem lại những lợi ích to lớn cho nhân
loại, nhưng cũng bị các thế lực thù địch, phản động và các loại tội phạm sử
dụng đe dọa hòa bình và ổn định chung. Các ngu cơ an ninh phi tru ền thống
diễn biến phức tạp. Để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, thực tiễn đòi hỏi lực

lượng công an phải luôn luôn cảnh giác, có những biện pháp hữu hiệu đấu tranh
với những những luận điệu sai trái, phá hoại chính trị tư tưởng cũng như những
hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia, hòng gây áp lực đòi xóa bỏ vai trò lãnh
đạo của Đảng Cộng sản, đòi đa đảng, đòi tha đổi chế độ.
Vận dụng quan điểm triết học Mác - Lênin trong giải quyết mối quan hệ
giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan của lực lượng công an trong đảm
bảo an ninh quốc gia, trước hết đòi hỏi cán bộ, chiến sĩ công an phải là người
giác ngộ chính trị cao, có lập trường, bản lĩnh chính trị vững vàng, am hiểu về
pháp luật, khoa học tự nhiên, khoa học xã hội nhân văn, khoa học công nghệ
hiện đại; có chuyên môn nghiệp vụ vững vàng, có sức dẻo dai về tâm lý, cường
tráng về thể chất…Thực chất, những đòi hỏi này chính là yêu cầu phát phát huy
vai trò nhân tố chủ quan của lực lượng công an trong đảm bảo an ninh quốc gia.
Trong nhận thức cũng như trong nghiên cứu hiện đang tồn tại một số quan điểm
khác nhau khi đưa ra quan niệm về nhân tố khách quan, nhân tố chủ quan; mối
quan hệ biện chứng giữa nhân tố chủ quan và nhân tố khách quan cũng như vai
trò và cơ chế hoạt động của nhân tố chủ quan trong sự vận động của quy luật xã
hội. Ở góc độ an ninh quốc gia, hầu hết các công trình nghiên cứu chỉ đề cập đến
khía cạnh nhiệm vụ, trách nhiệm, quyền hạn… trong đảm bảo an ninh quốc gia
trên từng lĩnh vực cụ thể và chủ yếu liên quan đến công tác nghiệp vụ công an.
Việc khai thác vấn đề thực hiện nhiệm vụ đảm bảo an ninh quốc gia từ góc độ
nhân tố chủ quan trong bối cảnh hiện nay của đất nước chưa thấy có công trình
nghiên cứu nào đề cập.

2


Do đó, việc nghiên cứu một cách toàn diện, hệ thống, chuyên sâu về vấn
đề phát huy vai trò nhân tố chủ quan của lực lượng công an trong đảm bảo an
ninh quốc gia ở Việt Nam hiện nay là rất cấp thiết.
Xuất phát từ những phân tích trên, chúng tôi chọn đề tài “Phát huy vai trò

nhân tố chủ quan của Lực lượng Công an nhân dân trong đảm bảo an ninh
quốc gia ở Việt Nam hiện nay” làm Luận án Tiến sĩ, chu ên ngành CNDVBC và
DVLS.

2. Mục đích, nhiệm vụ của nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở làm rõ một số vấn đề lý luận và thực trạng về phát huy vai trò
của nhân tố chủ quan của lực lượng Công an Nhân dân, luận án đề xuất một số
yêu cầu và giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò nhân tố chủ quan của lực
lượng công an trong đảm bảo ANQG ở Việt Nam hiện nay.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
Một là, tổng quan những công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án;
Hai là, làm rõ một số vấn đề lý luận về phát huy vai trò của nhân tố chủ
quan của lực lượng công an trong đảm bảo ANQG ở Việt Nam hiện nay;
Ba là, phân tích thực trạng phát huy vai trò nhân tố chủ quan của lực
lượng công an trong đảm bảo ANQG ở Việt Nam hiện nay; Chỉ rõ những ưu
điểm và hạn chế cùng với nguyên nhân của ưu điểm, hạn chế trong phát huy vai
trò NTCQ của lực lượng công an.
Bốn là, đề xuất yêu cầu và một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy hiệu
quả vai trò nhân tố chủ quan của lực lượng công an trong đảm bảo ANQG ở Việt
Nam hiện nay.

3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Phát huy vai trò của nhân tố chủ quan của lực
lượng công an nhân dân trong đảm bảo an ninh quốc gia ở Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận án tập trung nghiên cứu, khảo sát vấn đề phát
huy vai trò của nhân tố chủ quan của lực lượng công an nhân dân trong đảm bảo

3



an ninh quốc gia trên toàn lãnh thổ nước CHXHCN Việt Nam từ năm 2013 đến
nay (Nghị quyết số 28-NQ/TW, ngày 25/10/2013 của Ban chấp hành Trung
ương đảng khóa XI về chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới).

4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan
điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhân tố chủ quan và phát huy vai trò nhân
tố chủ quan của lực lượng công an trong đảm bảo an ninh quốc gia.
Phương pháp nghiên cứu là dựa trên các nguyên tắc, quan điểm của chủ
nghĩa du vật biện chứng và chủ nghĩa du vật lịch sử: phương pháp phân tích
tổng hợp, phương pháp qu nạp, diễn dịch, phương pháp kết hợp lịch sử - logic,
phương pháp so sánh, phương pháp sử dụng chu ên gia và các phương pháp
chung của khoa học xã hội.

5. Cái mới của luận án
Về lý luận: Luận án góp phần bổ sung, hoàn thiện lý luận về phát huy vai
trò nhân tố chủ quan của lực lượng công an trong đảm bảo ANQG ở Việt Nam;
luận án cũng làm nổi bật những ưu điểm và hạn chế trong việc phát huy vai trò
nhân tố chủ quan của lực lượng công an hiện nay.
Về thực tiễn: Luận án là công trình góp phần tổng kết thực tiễn phát huy
vai trò nhân tố chủ quan của lực lượng công an trong đảm bảo ANQG, chỉ rõ
những kết quả đạt được, những hạn chế, thiếu sót và ngu ên nhân, làm cơ sở đề
xuất giải pháp nâng cao hiệu quả phát huy vai trò nhân tố chủ quan của lực
lượng công an trong đảm bảo ANQG ở Việt Nam hiện nay.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Ý nghĩa lý luận: Luận án góp phần hệ thống hóa quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lênin và những nhà nghiên cứu mácxít về vấn đề NTCQ và vai trò NTCQ.
Trên cơ sở làm rõ vai trò NTCQ của lực lượng công an trong đảm bảo ANQG,

luận án đã đưa ra êu cầu và một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả phát
huy vai trò nhân tố chủ quan của lực lượng công an trong đảm bảo ANQG.

4


Ý nghĩa thực tiễn: Luận án có giá trị tham khảo cho việc nghiên cứu,
giảng dạy, học tập về những vấn đề liên quan đến nhân tố chủ quan, nhân tố chủ
quan của lực lượng công an nhân dân trong đảm bảo an ninh quốc gia ở Việt
Nam hiện nay. Các kết quả nghiên cứu của đề tài cũng có ý nghĩa khu ến nghị
trong việc nâng cao hiệu quả việc phát huy vai trò của nhân tố chủ quan của lực
lượng công an trong đảm bảo an ninh quốc gia ở Việt Nam hiện nay.

7. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận án được
cấu trúc thành 4 chương, 10 tiết.

5


Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Những công trình nghiên cứu về nhân tố chủ quan và phát huy
vai trò nhân tố chủ quan
1.1.1. Những công trình nghiên cứu về nhân tố chủ quan và vai trò của
nhân tố chủ quan
Nhân tố chủ quan và vai trò của nhân tố chủ quan là đối tượng nghiên cứu
của nhiều tác giả, với nhiều công trình khoa học. Các công trình nghiên cứu này
đề cập đến các khía cạnh khác nhau của vấn đề nhân tố chủ quan và vai trò nhân

tố chủ quan, tiêu biểu là các công trình của các tác giả sau đâ .
Trong các nghiên cứu của tác giả Liên Xô (cũ), có thể kể đến các công
trình “Phép biện chứng về điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan trong việc
xây dựng chủ nghĩa cộng sản” của G.E.Gleserman, Tạp chí “Những vấn đề triết
học” [47]; tác phẩm “Cái khách quan và chủ quan” của V.Ph.Cudơmin [108]; tác
phẩm “Biện chứng của cái khách quan và cái chủ quan trong sự biểu hiện của
các quy luật xã hội” của A.Ph.Iaxkevich, Minxcơ; tác phẩm “Biện chứng của cái
khách quan và cái chủ quan trong CNXH phát triển” của tập thể tác giả, Kiep, 1980;
bài “Cái chủ quan và cái khách quan trong các quá trình xã hội” của B.A.Vôrônôvích,
Tạp chí “Các khoa học triết học”, số 3/1984… Các công trình của các nhà triết học
Liên Xô (cũ) kể trên có điểm giống nhau chủ yếu là đề cập đến vấn đề khách quan,
chủ quan liên quan đến việc vận dụng các quy luật xã hội trong quá trình xây dựng
CNXH. Các tác giả đã xuất phát từ quan điểm duy vật biện chứng để xem xét cái
khách quan, cái chủ quan, nhân tố chủ quan và điều kiện khách quan, cũng như quan
hệ biện chứng giữa cái khách quan và cái chủ quan và vấn đề phát huy vai trò của
nhân tố chủ quan trong quá trình xây dựng CNXH và Chủ nghĩa Cộng sản. Những
nghiên cứu này mới chỉ dừng lại ở những nghiên cứu lý luận cơ bản và sự vân dụng
đối với công cuộc xây dựng CNXH ở Liên Xô. Vấn đề vận dụng vào thực tiễn cách
mạng Việt Nam thì không được đề cập.

6


Ở Việt Nam, liên quan đến các vấn đề này, có các công trình như bài viết
của tác giả Hồ Văn Thông - “Một số vấn đề về mối quan hệ giữa nhân tố chủ
quan và nhân tố khách quan trong thực tiễn” [96, tr.195-221]. Trong công trình này,
tác giả đã bàn về mối quan hệ khách quan - chủ quan liên hệ với phạm trù vật
chất, ý thức; từ đó, chỉ ra sự giống và khác nhau giữa 2 cặp phạm trù này. Viện
dẫn quan điểm của V.I.Lênin và qua sự phân tích của mình, tác giả đi đến kết
luận: Khách quan là tất cả những gì không phụ thuộc vào chủ thể hoạt động và

chủ quan là tất cả những gì phụ thuộc vào chủ thể hoạt động. Chủ quan và khách
quan có mối quan hệ hữu cơ, tác động qua lại với nhau; nhưng ếu tố khách
quan bao giờ cũng giữ vai trò cơ sở qu định nhân tố chủ quan và là nguyên tắc
cơ bản về thế giới quan - vật chất quyết định ý thức. Trong công trình này, tác
giả còn đặt vấn đề cần phải phân biệt rõ đâu là bản chất, khả năng khách quan
sẵn có trong thực tế và đâu là trách nhiệm, nỗ lực chủ quan của con người làm
chuyển biến những khả năng khách quan đó thành hiện thực. Đề cao vai trò nhân
tố chủ quan nhưng tác giả khẳng định rằng, đâ là quan điểm dựa trên cơ sở duy
vật khoa học và khác biệt hoàn toàn với chủ nghĩa chủ quan; đồng thời khẳng
định rằng, sức mạnh chủ quan chính là ở chỗ biết sử dụng sức mạnh của thế giới
khách quan.
Mác- Ăngghen- Lênin- Stalin bàn về mối quan hệ giữa nhân tố chủ quan
và khách quan [30]. Đâ là tài liệu dùng cho các lớp quản lý, trình bày các quy
luật xã hội, các hoạt động của con người trong lịch sử, tính khách quan của quy
luật xã hội, vai trò của nhân tố chủ quan trong sự phát triển xã hội, mối quan hệ
giữa điều kiện khách quan, nhân tố chủ quan trong xã hội xã hội chủ nghĩa. Vai
trò của Đảng, Nhà nước chuyên chính vô sản, và của quần chúng trong việc phát
huy nhân tố chủ quan. Công trình chưa đề cập và phân tích cấu trúc của NTCQ
mà chủ yếu đi vào trình bày nội dung vai trò của quy luật khách quan.
Trong bài viết “Nhân tố chủ quan trong cơ chế vận dụng và trong hoạt
động của các quy luật xã hội” [48], tác giả Lương Việt Hải đã đề cập tới những
quan niệm khác nhau về vấn đề phép biện chứng giữa cái khách quan và cái chủ

7


quan trong cơ chế tác động và trong sự vận dụng các quy luật xã hội, từ đó chỉ ra
những quan niệm chưa hợp lý về vai trò nhân tố chủ quan. Ví dụ như khi coi
nhân tố chủ quan chỉ là hoạt động tự giác của chủ thể hoặc nhân tố chủ quan là
lao động sống…Từ đó, tác giả đưa ra cách hiểu khác về nhân tố chủ quan để trên

cơ sở đó vận dụng, xác định vai trò của nó trong sự hoạt động động của các quy
luật xã hội. Nhân tố chủ quan, theo tác giả, là loại hoạt động mang tính tích cực,
năng động và sáng tạo của chủ thể phù hợp với yêu cầu, điều kiện, nội dung, bản
chất của các quy luật, bao gồm hai dạng hoạt động: Dạng thứ nhất là hoạt động
phù hợp với yêu cầu, quy luật khách quan do chủ thể chủ động thực hiện nên đã
nhận thức được nội dung, bản chất của sự vật- đó chính là hoạt động tri giác.
Dạng thứ hai chính là hoạt động của chủ thể phù hợp với yêu cầu quy luật khách
quan nhưng chủ thể chưa nhận thức được tính tất yếu, nội dung của quy luật
chưa nhận thức được bản chất của sự vật. Ở dạng hoạt động này, chủ thể chưa
thấ rõ được tiến trình phát triển của sự vật, chưa chủ động điều khiển hành
động của mình và tiến trình phát triển của sự vật cho phù hợp với quy luật song
chủ thể có thể dần dần điều chỉnh hoạt động của mình để phù hợp với tiến trình
phát triển của sự vật. Dạng hoạt động này được tác giả đánh giá là hoạt động
mang tính chất khám phá rõ nét và dựa trên cơ sở chưa có đầ đủ sự nhận thức
đúng đắn về sự vật.
Để đưa ra quan niệm này, theo tác giả, hoạt động con người do ý thức điều
khiển nhưng có loại hoạt động được điều khiển bởi ý thức phản ánh đúng, phù hợp
điều kiện khách quan, thể hiện tính tích cực, năng động, sáng tạo của chủ thể (nhân
tố chủ quan); có loại hoạt động điều khiển bởi ý thức phản ánh sai, không phù hợp
với quy luật khách quan. Khi ý thức phản ánh không phù hợp với hiện thực khách
quan thì chủ thể không thể nhận thức được quy luật khách quan, không thấ được
bản chất của sự vật. Hoạt động này của chủ thể chính là hoạt động tự phát và không
thuộc về nhân tố chủ quan.
Xem xét vấn đề nhân tố chủ quan, phát huy vai trò nhân tố chủ quan, tác
giả cũng lưu ý phải quán triệt quan điểm lịch sử cụ thể. Khi những điều kiện
khách quan đã chín muồi thì nhân tố chủ quan có điều kiện để phát huy sức

8



mạnh tối đa của mình. Có thể thấy rằng, những quan điểm nghiên cứu trên của
tác giả là nguồn tài liệu rất quý cho chúng tôi học tập, nghiên cứu và vận dụng
trong nghiên cứu của mình.
Tác giả Phạm Văn Đức, trong bài viết “Vị trí và vai trò của nhân tố chủ quan
trong cơ chế hoạt động của quy luật xã hội” [44] đã cho rằng, trước hết phải hiểu
đúng khái niệm nhân tố để đưa ra êu cầu phải hiểu nhân tố chủ quan là những
ngu ên nhân và điều kiện xuyên suốt, là một trong những cái quyết định cơ bản
và bền vững của quá trình lịch sử.
Chỉ ra những thiếu sót trong các quan niệm khác nhau về nhân tố chủ
quan, tác giả khẳng định, nhân tố khách quan và nhân tố chủ quan là những mặt
đối lập, tác động lẫn nhau trong bất kì hoạt động nào (hoạt động sản xuất vật
chất, hoạt động chính trị tư tưởng, hoạt động tự giác, hoạt động tự phát). Nhân tố
khách quan là toàn bộ những yếu tố tự nhiên và xã hội có quan hệ với chủ thể
nhất định; là những yếu tố không phụ thuộc vào ý thức của chủ thể và quyết định
ý thức hoạt động của chủ thể. Nhân tố chủ quan của quá trình lịch sử là cái đối
lập với nhân tố khách quan, là cái duy trì hoặc biến đổi nhân tố đó, là cái được
đối tượng hóa trong những nhân tố khách quan của hoạt động tiếp theo. Từ phân
tích trên, tác giả đưa ra quan niệm về nội dung của nhân tố chủ quan gồm hai
thành phần cơ bản là hoạt động sống trực tiếp và ý thức định hướng hoạt động
đó, cũng như những chất lượng xác định của chủ thể hành động (như tính qu ết
đoán, tính tổ chức…). Tác giả nhấn mạnh rằng, nhân tố chủ quan là một bộ phận
không thể thiếu trong cơ chế hoạt động của quản lý xã hội. Nó vừa là phương
tiện điều chỉnh, vừa là nguyên nhân hoạt động và một trong những đặc điểm
quan trọng của nhân tố chủ quan là sự tác động của chúng gắn liền với sự thúc
đẩy. Từ đó, tác giả kết luận, nhân tố khách quan ảnh hưởng hết sức to lớn, giữ
vai trò quyết định những đặc điểm của cơ chế hoạt động của quản lý xã hội. Tuy
nhiên, nhân tố chủ quan đóng vai trò không nhỏ, nhân tố khách quan chỉ có thể
thể hiện vai trò quyết định của mình khi chúng tìm thấy sự khúc xạ của mình
trong lĩnh vực chủ quan. Đặc biệt, khi đã được hình thành, nhân tố chủ quan


9


đóng vai trò trong quyết định đối với sự tồn tại và biến đổi các nhân tố khách
quan ở giai đoạn sau. Những nghiên cứu của tác giả giúp chúng tôi nắm rõ cơ
chế hoạt động của các quy luật xã hội và thấy nó không chỉ phụ thuộc vào nhân
tố khách quan, mà phụ thuộc cả những yếu tố của nhân tố chủ quan, để từ đó có
cơ sở lý giải vị trí, vai trò của nhân tố chủ quan.
Tác giả Phạm Văn Nhuận, trong bài “Một cách tiếp cận về cặp phạm trù
điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan” [85], có cách nhìn nhận khác về vấn
đề điều kiện khách quan, điều kiện chủ quan. Tác giả xem điều kiện khách quan
là tổng thể các mặt, các yếu tố, các mối quan hệ tồn tại ở bên ngoài chủ thể, độc
lập với chủ thể, hợp thành một hoàn cảnh hiện thực, thường xu ên tác động, quy
định hoạt động của chủ thể trong mỗi hoạt động xác định. Từ quan niệm này, tác
giả xem phạm trù điều kiện khách quan luôn gắn liền với một quá trình, một hoạt
động cụ thể. Do đó, theo tác giả, cần phải phân biệt phạm trù khách quan với
điều kiện khách quan, chủ quan với nhân tố chủ quan. Tiếp tục phân tích và chỉ
ra những thiếu sót trong các quan niệm khác nhau về điều kiện khách quan, nhân
tố chủ quan, tác giả kết luận rằng, nhân tố chủ quan là tất cả những nhân tố, đặc
trưng hợp thành phẩm chất và năng lực nhận thức, năng lực tổ chức hoạt động thực
tiễn của chủ thể, được hu động vào những hoạt động cụ thể dưới sự chi phối, thúc
đẩy của nguồn gốc - động lực nội tại, tạo nên tính năng động sáng tạo của chủ thể
nhằm cải biến điều kiện khách quan trong quá trình thực hiện mục tiêu xác định do
chủ thể đặt ra.
Trong bài “Tìm hiểu về khái niệm nhân tố chủ quan của đời sống xã hội”
[100] tác giả Nguyễn Thị Bích Thủ đặt vấn đề, để nghiên cứu, nhận thức, giải
thích và cải tạo xã hội, triết học mácxít sử dụng hệ thống phạm trù: lực lượng sản
xuất - quan hệ sản xuất, cơ sở hạ tầng - kiến trúc thượng tầng, tồn tại xã hội - ý
thức xã hội,… phản ánh cấu trúc của đời sống xã hội. Việc sử dụng phạm trù:
chủ thể - khách thể, chủ quan - khách quan, nhân tố chủ quan - nhân tố khách

quan là để phản ánh quá trình vận động, biến đổi, phát triển của đời sống xã hội.
Tác giả nhấn mạnh rằng, tự mình chủ quan và khách quan không là nhân tố, chỉ

10


trong hoạt động (tác động giữa chủ thể và khách thể) đặt trong những điều kiện
nhất định chúng mới trở thành động lực thúc đẩy sự cải biến xã hội. Từ đó tác
giả khẳng định, nhân tố chủ quan là tổng hợp tất cả những phẩm chất khoa học, lý
luận, tư tưởng, niềm tin, ý chí quyết tâm, tính tổ chức, … của chủ thể, được bộc lộ
trong hoạt động và trở thành động lực của sự phát triển xã hội. Nó bao gồm những
phẩm chất cơ bản của chủ thể, như tri thức khoa học, lý luận, tư tưởng, mục đích,
tình cảm, niềm tin, đạo đức, ý chí quyết tâm hoạt động; kế hoạch, nội dung, phương
pháp hoạt động. Những phẩm chất nà được thể hiện trong hoạt động của chủ thể
và trở thành lực lượng vật chất có sức mạnh cải tạo hiện thực.
Với những điều đã trình bà trên, có thể thấy rằng, nhìn chung, vấn đề
NTCQ và vai trò NTCQ đã được các tác giả đề cập dưới nhiều góc độ khác
nhau. Hầu hết các tác giả đều thống nhất quan điểm rằng, NTCQ bị chi phối bởi
điều kiện khách quan, do điều kiện khách quan qu đinh. Nhưng NTCQ có tính
độc lập tương đối, có thể tác động trở lại và làm biến đổi điều kiện khách quan.
1.1.2. Những công trình nghiên cứu về vấn đề phát huy vai trò nhân tố
chủ quan
Liên quan đến nội dung này, có thể kể đến bài viết của tác giả Sergeev Những đặc điểm của phép biện chứng giữa các điều kiện khách quan và nhân tố
chủ quan trong việc quản lý xã hội, xã hội chủ nghĩa trong cuốn “Quản lý xã hội
một cách khoa học” của V.G Afanasev chủ biên [117, tr.46-90]. Trong nội dung
này, tác giả đã đề cập đến mối tương quan giữa điều kiện khách quan và nhân tố
chủ quan và chúng là điều kiện vô cùng quan trọng của việc quản lý xã hội một
cách khoa học. Tác giả cho rằng, nhân tố chủ quan lớn lên từ những điều kiện
lịch sử và những quan hệ xã hội nhất định, mà những điều kiện và quan hệ này
quyết định nội dung, nhịp độ và phương hướng phát triển của nó. Nhân tố chủ quan

được quyết định thực sự bằng những điều kiện khách quan nhưng nó hoàn toàn
không phải là kết quả máy móc, là sự phản ánh thụ động, vô vị những điều kiện ấy.
Trong bài viết này, tác giả còn chỉ ra những nguyên nhân của chủ nghĩa chủ quan
cũng như nhấn mạnh việc nghiên cứu mối quan hệ giữa điều kiện khách quan và
nhân tố chủ quan phải có quan điểm lịch sử.

11


Trong bài viết Nhân tố chủ quan và các điều kiện khách quan trong quản lý
xã hội chủ nghĩa [58], tác giả Vũ Hu đã đặt vấn đề sự tác động qua lại giữa các
hệ thống quản lý và các hệ thống bị quản lý trong xã hội có liên quan mật thiết đến
vấn đề chủ thể - khách thể, nhân tố chủ quan và điều kiện khách quan, trên cơ sở
đó, tác giả đưa ra quan điểm về điều kiện khách quan, nhân tố chủ quan gắn liền
với sự phát triển xã hội. Theo tác giả, những điều kiện khách quan không phụ
thuộc vào ý chí của các tập đoàn, đảng phái, giai cấp. Đó là tiêu chuẩn làm cho
phạm trù “điều kiện khách quan” khác với phạm trù “nhân tố chủ quan”. Nhân tố
chủ quan của sự phát triển xã hội là hoạt động có ý thức, có tổ chức của mọi người
nhằm giải quyết những nhiệm vụ lịch sử nhất định và đạt tới những mục tiêu nhất
định. Do đó, nhân tố chủ quan của quản lý có một cơ cấu tổ chức phức tạp gồm
các chính đảng, Nhà nước và hệ thống cơ quan chu ên ngành của Nhà nước, các
tổ chức xã hội, những người hoạt động trong tổ chức chính trị, Nhà nước, xã hội
để đề xuất và thông qua cùng tổ chức thi hành các nghị quyết quản lý. Hạt nhân
của nhân tố nà là Đảng. Đảng chịu trách nhiệm cơ bản trong việc lãnh đạo toàn
bộ hệ thống xã hội cũng như từng khâu của hệ thống này.
Trong bài viết Vai trò của nhân tố chủ quan trong sự thống nhất ba lợi ích
[79], tác giả Nguyễn Chí Mỳ đã chứng minh rằng, loài người bao giờ cũng hoạt
động theo những lợi ích nhất định. Trong quá trình hoạt động đó, con người tạo ra
hàng chuỗi những sự kiện tất yếu khách quan làm tha đổi tồn tại xã hội. Chính vì
vậy, họ tạo ra những điều kiện thuận lợi, cơ sở để xây dựng thành công CNXH.

Qua đó, tác giả đưa ra êu cầu phải có sự thống nhất ba lợi ích (Cá nhân - Tập thể
- Xã hội) và để thực hiện được điều đó phải phát huy vai trò nhân tố chủ quan
trong việc thống nhất ba lợi ích thành động lực mạnh mẽ để phát triển XHCN.
Tác giả Trần Bảo trong bài viết Về những điều kiện khách quan và nhân
tố chủ quan trong xây dựng chủ nghĩa xã hội; những yếu tố cơ bản làm tăng
cường chất lượng của nhân tố chủ quan trong xây dựng CNXH [18] đã đưa ra
những nghiên cứu về phương pháp và tiêu chuẩn để phân biệt những điều kiện
khách quan và nhân tố chủ quan trong đời sống xã hội, phân cấp độ, trình độ

12


khác nhau của điều kiện khách quan đến hoạt động của chủ thể để từ đó chủ thể
chủ động tiến hành hoạt động đạt kết quả để tránh những sai lầm và trên cơ sở đó
phát hu cao độ nhất sức mạnh của nhân tố chủ quan. Trong công trình này, tác
giả cũng chỉ ra nhân tố chủ quan và xây dựng chủ nghĩa xã hội là toàn bộ hoạt
động của chủ thể xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chủ thể xây dựng chủ nghĩa xã hội
là Đảng Cộng sản, nhà nước và quần chúng nhân dân lao động. Vì vậy, nhân tố
chủ quan ở đâ là toàn bộ hoạt động của Đảng Cộng sản, nhà nước và quần
chúng nhân dân lao động. Toàn bộ những hoạt động nà đều nhằm thực hiện một
mục đích thống nhất là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Theo tác giả,
những hoạt động này có những chức năng và tính chất khác nhau tương ứng với
mỗi bộ phận cụ thể của chủ thể. Để phát huy cao nhất tính tích cực sáng tạo của
nhân tố chủ quan trong xây dụng chủ nghĩa xã hội, tác giả chỉ ra những vấn đề
phức tạp cần tập trung giải quyết, đó là, thứ nhất, tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng trong việc nâng cao năng lực nhận thức và vận dụng các quy luật khách
quan để phát huy tích cực sáng tạo của nhân tố chủ quan; thứ hai, lợi ích vật chất
bộ phận quan trọng nhất trong cơ chế tác động của các quy luật khách quan, yếu
tố cơ bản kích thích hoạt động sáng tạo của nhân tố chủ quan.
Tác giả Trần Thành trong bài viết Vai trò của nhân tố chủ quan trong việc

định hướng xã hội chủ nghĩa sự phát triển nền kinh tế ở nước ta hiện nay [96] đã
đề cập tới vấn đề phải tiếp tục phát huy vai trò nhân tố chủ quan, trước hết là vai
trò lãnh đạo của Đảng và sự điều hành của Nhà nước để tạo ra sự đồng thuận xã
hội và có những căn cứ, việc làm, bước đi cụ thể nhằm xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội. Và để làm đúng điều đó, tác giả chỉ ra rằng, cần phải có niềm tin
vững chắc trên tinh thần thật sự khoa học về mô hình kinh tế nà ; nâng cao năng
lực lãnh đạo kinh tế của các tổ chức Đảng; tiếp tục đổi mới, nâng cao vai trò và
hiện thực quản lý kinh tế của Nhà nước, bảo đảm thúc đẩy nền kinh tế phát triển
theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

13


Ngoài các công trình trên, đã có một số luận án tiến sĩ đề cập đến vấn đề
nhân tố chủ quan nói chung.
Tác giả Lê Hữu Xanh, trong Luận án tiến sĩ Nâng cao vai trò nhân tố chủ
quan trong việc xây dụng đội ngũ cán bộ Đảng viên ở nông thôn nước ta hiện
nay [113], đã khẳng định, vấn đề vai trò nhân tố chủ quan liên quan trực tiếp đến
yếu tố con người. Trong công trình này, tác giả đi sâu vào phân tích và đưa ra
những nguyên tắc và giải pháp phát huy vai trò NTCQ trong xây dựng đội ngũ
cán bộ Đảng viên ở nông thôn [113, Tr. 57- 132]. Trong đó, tác giả tập trung vào
các giải pháp, như: (a) làm sáng tỏ quan điểm lý luận về đổi mới và phát triển kinh
tế-xã hội nông thôn theo định hướng XHCN; trên cơ sở đó, tác giả cho rằng, cần
quán triệt trong đội ngũ cán bộ đảng viên các quan điểm, chủ trương lớn của Đảng
và Nhà nước về đổi mới kinh tế nông thôn. (b) Tiếp tục đổi mới hệ thống chính trị,
đổi mới phương thức lãnh đạo, nâng cao chất lượng của các tổ chức Đảng cơ sở
nông thôn. (c) Đổi mới cơ chế, chính sách phát triển kinh tế - xã hội nông thôn và
nâng cao trình độ dân trí chung của nông dân. (d) Tạo điều kiện khai thác và phát
huy mặt tích cực trong các quan hệ xã hội nông thôn [113, Tr. 93-152].
Luận án Tiến sĩ Tác động của các điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan

đối với quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở Việt
Nam của tác giả Dương Thị Liễu [64] đã đưa ra định nghĩa về nhân tố chủ quan:
“Nhân tố chủ quan là toàn bộ hoạt động của chủ thể (hoạt động nhận thức và hoạt
động thực tiễn) nhằm thực hiện mục đích của mình và những thuộc tính, phẩm chất,
trạng thái của chủ thể được biểu hiện (định hướng) trong hoạt động đó” [68, tr. 20].
Tuy nhiên, khi phân tích nội dung phát huy vai trò NTCQ trong quá trình xây
dựng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, tác giả lại chưa làm rõ khái niệm phát
huy vai trò NTCQ trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường là như thế nào
[68, tr. 75-100].
Trong Luận án tiến sĩ Mối quan hệ giữa điều kiện khách quan và nhân tố
chủ quan trong phát triển lý tưởng XHCN ở thanh niên quân đội Nhân dân Việt
Nam hiện nay [102] tác giả Nguyễn Đức Tiến cho rằng, NTCQ là trình độ về

14


mọi mặt của thanh niên quân đội, tác giả nhận định sự phát triển lý tưởng XHCN
là kết quả của tác động biện chứng giữa điều kiện khách quan (môi trường sống
và hoạt động của thanh niên quân đội) và NTCQ [102, tr.12-72]. Trên cơ sở làm
rõ một số vấn đề lý luận và thực trạng mối quan hệ giữa điều kiện khách quan và
nhân tố chủ quan trong phát triển lý tưởng xã hội chủ nghĩa ở thanh niên quân
đội Nhân dân Việt Nam, tác giả đưa ra giải pháp nâng cao hiệu quả phát triển lý
tưởng XHCN ở thanh niên quân đội: (1) Xây dựng môi trường lành mạnh, ngăn
chặn các hiện tượng tiêu cực ảnh hưởng đến thanh niên quân đội. (2) Nâng cao
chất lượng giáo dục và tự giáo dục chính trị, tư tưởng. (3) Kết hợp chặt chẽ giữa
xây dựng hệ thống giá trị với giáo dục định hướng giá trị cho thanh niên quân
đội [102, tr.119-157].
Tác giả Phạm Ngọc Minh trong công trình Về nhân tố chủ quan và nhân
tố khách quan, một số vấn đề lý luận và thực tiễn ở nước ta hiện nay [83] đã tập
trung nghiên cứu mối quan hệ biện chứng giữa nhân tố chủ quan và nhân tố khách

quan trong thời kỳ cả nước tiến lên CNXH [83, tr. 43-76] và đưa ra một số giải
pháp nhằm nâng cao vai trò của nhân tố chủ quan ở nước ta như nâng cao vai trò
lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước, vai trò của nhân dân [83, tr. 7688]. Cũng ở nghiên cứu này, khi trình bày kết luận về mối quan hệ biện chứng giữa
điều kiện khách quan và NTCQ, tác giả đã đưa ra sơ đồ thể hiện mối quan hệ này
trong khuôn khổ hoạt động của con người. Sơ đồ đó giúp chúng ta thấy mối quan hệ
phụ thuộc qua lại lẫn nhau giữa chủ thể - khách thể, cái chủ quan – cái khách quan,
nhân tố chủ quan – nhân tố khách quan, cũng như tác động giữa tất cả các yếu tố
này trong vòng tuần hoàn hoạt động của con người [83, tr. 42].
Tác giả Nguyễn Tiến Thủ trong Luận án tiến sĩ Biện chứng giữa chủ thể
và Khách thể nhận thức với việc phát huy vai trò chủ thể nhận thức trong học
tập của sinh viên Việt Nam hiện nay [98]. Cho rằng, giải quyết mối quan hệ giữa
chủ thể và khách thể thực chất là giải quyết mặt thứ hai của vấn đề cơ bản của
triết học; là để trả lời cho câu hỏi con người có khả năng nhận thức được thế giới
hay không? [98, tr.11- 54]. Trên cơ sở lý luận của triết học Mác-Lênin về mối

15


quan hệ chủ thể, khách thể, luận án bàn về vai trò, vị trí chủ thể của sinh viên
trong học tập, nghiên cứu khoa học [98, tr. 69- 149]. Tuy luận án không đề cập
trực tiếp đến NTCQ và vai trò NTCQ, nhưng những nghiên cứu của tác giả là
nguồn tài liệu quý báu để chúng tôi tham khảo trong nghiên cứu quan điểm triết
học Mác-Lênin về lý luận nhận thức và vận dụng nó trong nghiên cứu của mình.
Tác giả Phạm Văn Nhuận trong Luận án tiến sĩ Mối quan hệ giữa điều kiện
khách quan và nhân tố chủ quan trong phát triển bản chất giai cấp công nhân của
quân đội nhân dân Việt Nam [85] đã có những nghiên cứu khái quát cặp phạm trù
ĐKKQ và NTCQ, trên cơ sở đó, theo tác giả, thì mới có cơ sở để nhận thức đúng đắn
mối quan hệ giữa ĐKKQ và NTCQ trong phát triển bản chất giai cấp công nhân của
Quân đội nhân dân việt Nam.
Trong Luận án tiến sĩ Phát huy nhân tố con người đội ngũ cán bộ bộ đội

biên phòng trong bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới quốc gia hiện nay [56]. Tác
giả Nguyễn Đình Hùng cho rằng, nhân tố con người là tổng hòa các đặc trưng về
phẩm chất, năng lực của con người được hình thành và phát triển gắn liền với hoạt
động của con người. Nhân tố con người đội ngũ cán bộ bộ đội biên phòng là tổng hòa
các đặc trưng về phẩm chất, năng lực của họ, gắn liền với hoạt đông tích cực, sáng
tạo trong việc bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới quốc gia [56, tr.14-74]. Trong công
trình này, tác giả đưa ra những định hướng và giải pháp cơ bản phát huy nhân tố con
người trong bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới quốc gia, như: Nâng cao chất lượng
công tác cán bộ, chất lượng công tác giáo dục, đào tạo, hoàn thiện chính sách xã hội,
hậu phương quân đội, đẩy mạnh xây dựng môi trường lành mạnh trong đơn vị và nơi
đóng quân và cuối cùng là tăng cường sự lãnh đạo của các tổ chức Đảng, tổ chức chỉ
huy các cấp. Những biện pháp này của tác giả là nguồn tài liệu giúp chúng tôi trong
việc định hướng nghiên cứu về những giải pháp trong nghiên cứu của mình.
1.2. Những công trình nghiên cứu lý luận cơ bản về an ninh quốc gia
và nhân tố chủ quan của lực lƣợng công an trong đảm bảo an ninh quốc gia
Liên quan đến vấn đề này, có thể kể đến một số công trình sau:
Công trình Bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới một số vấn đề lý luận và
thực tiễn [110]: Các tác giả đã nêu quan điểm tư du mới về bảo vệ Tổ quốc,

16


thực hiện xây dựng nền quốc phòng toàn dân và xây dựng quân đội nhân dân
vững mạnh về chính trị. Theo đó, trong công trình này, các tác giả khẳng định, tư
duy mới nhiệm vụ quốc phòng ngày nay không chỉ nhằm chống chiến tranh xâm
lược, bảo vệ chủ quyền quốc gia, mà còn gắn chặt với yêu cầu bảo vệ an ninh
trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, đối ngoại, khoa học, công nghệ, văn hóa, xã
hội. Ở đâ , các tác giả chủ yếu đặt ra yêu cầu xây dựng quân đội vững mạnh trên
cơ sở xây dựng bản lĩnh chính trị, chú trọng công tác giáo dục tư tưởng, đạo đức
cho cán bộ, chiến sĩ.

Giáo trình Những vấn đề cơ bản về bảo vệ an ninh quốc gia (Học viện An
ninh nhân dân, Hà Nội, 2004): Đâ là cuốn sách giáo khoa sử dụng trong nội bộ;
bao gồm những vấn đề cơ bản về ANQG, bảo vệ ANQG và những quan điểm tư
tưởng chỉ đạo đảm bảo ANQG.
Xây dựng lực lượng CAND trong tình hình mới (Viện Chiến lược và Khoa
học Công an, Nxb Công an Nhân dân, Hà Nội, 2006): Đâ là cuốn sách lưu hành
nội bộ, trình bày những vấn đề về xây dựng lực lượng, những yếu tố tác động
đến công tác xây dựng lực lượng cũng như những giải pháp cơ bản nhằm xây
dựng lực lượng trong tình hình mới.
Bảo vệ ANQG, an ninh kinh tế và các ểu
biết, những tri thức thông qua quá trình trừu tượng hóa, khái quát hóa của tư du .
Tư du biện chứng, tư du lý tính chỉ có ở con người. Nhận thức của con người

130


là cả một quá trình từ trực quan sinh động đến tư du trừu tượng, từ tư du trừu
tượng đến hoạt động thực tiễn. Quá trình đó xuất phát từ cảm giác (trực quan)
đến tri giác, biểu tượng qua phán đoán, su lý rồi tiến đến khái niệm, phạm trù và
rút ra quy luật. Thông qua các khái niệm, phạm trù, quy luật với tư cách là công cụ
của nhận thức mà con người ngày càng tiến sâu vào bản chất của sự vật, của các
quá trình và của thế giới nói chung. Đó chính là con đường mà con người đi tìm
hiểu, khám phá, phát hiện những tri thức mới; quá trình này không bao giờ dừng lại,
nó luôn được bổ sung phát triển từ đời nà sang đời khác làm phong phú thêm gia
tài tri thức khổng lồ của nhân loại, đáp ứng yêu cầu thực tiễn.
Như vậ , tư du nói chung và tư du lý luận nói riêng không phải là bất
biến mà nó phụ thuộc vào hiện thực khách quan (thực tiễn cuộc sống) mà nó
phản ánh. Như vậy, sự vận động, biến đổi của thực tiễn, của hiện thực xã hội quy
định sự vận động, biến đổi của tư du .Tu nhiên sự vận động, biến đổi này còn
phụ thuộc vào một yếu tố nữa là năng lực của chủ thể nhận thức.

Trong từ điển tiếng Việt ghi rõ: “Năng lực là khả năng, điều kiện chủ
quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực hiện một hoạt động nào đó”, là “phẩm chất
tâm lý và sinh lý tạo cho con người khả năng hình thành một loại hoạt động nào
đó với chất lượng cao” [88, tr.836]. Như vậ năng lực tư du với tính cách là
một “khả năng”, một “phẩm chất” tâm sinh lý của bộ óc con người thì nó sẽ bộc
lộ được sức mạnh khi được rèn luyện, giáo dục, bồi dưỡng và phát triển trong
thực tiễn cuộc sống. Trong thực tế, năng lực tư du được thể hiện thông qua khả
năng ghi nhớ, tái hiện, trình độ tưởng tượng, khái quát, khả năng su luận sáng
tạo, khả năng trực giác khoa học… của chủ thể. Nhờ khả năng đó của tư du mà
chúng ta có những phát sinh, sáng tạo, những sáng kiến… phục vụ cuộc sống.
Tu nhiên, năng lực tư du không phải ai cũng có và không phải là cái có
sẵn chỉ việc khai thác. Nếu không có quá trình rèn luyện, trau dồi, bổ sung, tích
lũ thì khả năng tư du đó sẽ dần mất đi.
Năng lực tư du của người cán bộ lãnh đạo chỉ huy trong Công an thể
hiện ở năng lực đúc rút kinh nghiệm, thu thập, phân tích, xử lý thông tin để từ đó

131


đưa ra kế hoạch, biện pháp cụ thể thực hiện nhiệm vụ. Đối với người cán bộ lãnh
đạo chỉ huy không thể dựa vào tư du cảm tính khi phân tích thông tin ha đưa
ra qu định trong xử lý công việc, đặc biệt những công việc mang tính chiến
lược. Tu nhiên trong công tác Công an, đôi khi “linh cảm nghề nghiệp”, “trực
giác” của người lãnh đạo chỉ huy có kinh nghiệm lâu năm, giỏi về nghiệp vụ,
vững về pháp luật lại có giá trị quyết định trong thực hiện nhiệm vụ cụ thể. Nói
như vậ không có nghĩa chúng ta đề cao nhận thức cảm tính, xem nhẹ nhận thức
lý tính ha đồng nhất nhận thức cảm tính với linh cảm.
Đâ là hai cấp độ khác nhau của nhận thức. Nhận thức cảm tính không
đồng nghĩa với linh cảm, trực giác và không phải ai và bao giờ cũng có được thứ
linh cảm, trực giác trí tuệ này.

Vì vậ , để đi sâu, nắm được bản chất của sự vật, chủ động trong mọi tình
huống nghiệp vụ đòi hỏi người cán bộ chỉ huy trong Công an nhân dân phải
thường xuyên rèn luyện nâng cao và phát triển năng lực tư du để vươn tới trình
độ tư du lý luận, tư du biện chứng và để có được những linh cảm trực giác trí
tuệ. Có được tư du lý luận, tư du biện chứng và để có được những linh cảm
trực giác trí tuệ. Có được tư du lý luận, tư du biện chứng còn giúp cán bộ lãnh
đạo chỉ hu tránh được tư du má móc, siêu hình, sao chép, cóp nhặt, những
kinh nghiệm của người khác mà không tính đến tính đặc thù, khả năng, điều kiện
công việc của mình. Nói tóm lại, chỉ có tư du lý luận, tư du biện chứng mới
khắc phục được khu nh hướng coi thường thực tiễn và xa rời thực tiễn.
Để phát huy vai trò nhân tố chủ quan trong đảm bảo ANQG chúng ta cần
quan tâm tới một yếu tố rất quan trọng nữa là vai trò của ý chí. Không chỉ nâng
cao năng lực tư du , năng lực hoạt động thực tiễn của cán bộ lãnh đạo chỉ huy
mà còn phải chú ý đến việc nâng cao ý chí của họ. Chúng ta hiểu ý chí là khả
năng tự xác định mục đích cho hoạt động và quyết tâm đạt mục đích đó; khi bất
cứ làm việc gì cũng cần có ý chí, thiếu ý chí hoặc kém ý chí thì không thể thành
công. Tuy nhiên nếu ý chí không được đặt trên một cơ sở thực tế, một nền tảng
tri thức khoa học, không dựa vào nền tảng đạo đức trong sáng, lành mạnh thì hậu

132


×