Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC GIAO TIẾP CHO HỌC SINH QUA DẠY HỌC VĂN BẢN THƯƠNG VỢ CỦA TRẦN TẾ XƯƠNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2 MB, 39 trang )

TÓM TẮT SÁNG KIẾN
1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến
Năng lực giao tiếp tiếng Việt đã được các nhà khoa học giáo dục Việt Nam
xác định là một năng lực chung cần hình thành tốt cho HS trong chương trình
giáo dục phổ thông. Một trong những mục tiêu của chương trình là giúp HS phát
triển năng lực giao tiếp ngôn ngữ ở tất cả các hình thức: đọc, viết, nói, nghe,
trình bày; giúp HS sử dụng tiếng Việt chính xác, mạch lạc, có hiệu quả và sáng
tạo trong ngữ cảnh đa dạng.
Mặt khác, môn Ngữ văn là một môn học công cụ, có vai trò quan trọng
trong việc hình thành và phát triển năng lực tổng quát và đặc thù cho người học,
đặc biệt là năng lực sử dụng tiếng Việt. Tuy nhiên, để hình thành năng lực giao
tiếp tiếng Việt qua môn Ngữ văn đòi hỏi giáo viên phải lựa chọn những phương
pháp dạy học tích cực phù hợp, phải định hướng cho học sinh, tổ chức các hoạt
động cụ thể để học sinh được trải nghiệm, khám phá, bộc lộ suy nghĩ của cá
nhân... từ đó nâng cao hiệu quả dạy học Ngữ văn và hình thành những năng lực
cần thiết cho người học, đáp ứng được yêu cầu phát triển của xã hội.
2. Điều kiện, thời gian, đối tượng áp dụng sáng kiến
Sáng kiến không chỉ áp dụng cho giờ đọc hiểu Thương vợ của Trần Tế
Xương mà còn có thể áp dụng trong tất cả các giờ đọc hiểu trong chương trình
Ngữ văn ở Trung học phổ thông. Tuy nhiên, trong quá trình dạy học giáo viên
cần lựa chọn những phương pháp tối ưu nhất, những con đường đúng đắn và
hợp lí nhất phù hợp với đặc trưng từng văn bản để hình thành và phát triển năng
lực giao tiếp ở học sinh.
3. Nội dung sáng kiến
Sáng kiến hướng tới khai thác ưu thế của các phương pháp dạy học tích
cực, tổ chức hoạt động học cho học sinh theo quan điểm dạy học "lấy học sinh
làm trung tâm", tạo không khí đối thoại dân chủ trong giờ Văn. Chính vì vậy,
trong các giờ đọc hiểu văn bản nói chung và đọc hiểu Thương vợ của Trần Tế
1



Xương nói riêng, người giáo viên sẽ giúp học sinh "sống" với tác phẩm văn
chương, đồng thời phát triển những năng lực cần thiết qua dạy học Ngữ văn, đặc
biệt là năng lực giao tiếp tiếng Việt.
Khả năng áp dụng sáng kiến (Tính khả thi) rất cao bởi phù hợp với đặc
trưng của môn Ngữ văn, phù hợp với mục tiêu của giáo dục. Mặt khác, khi tiếp
cận với văn bản Thương vợ (Trần Tế Xương) - một tác phẩm hay, sáng kiến sẽ
đem đến một hướng đi mới qua đó sẽ hình thành năng lực giao tiếp tiếng Việt
qua tác phẩm văn chương, qua đó đáp ứng được nhu cầu của thực tiễn.
Sáng kiến được áp dụng trong quá trình giảng dạy Thương vợ của Trần Tế
Xương trong sách Ngữ văn 11, ngoài ra có thể sử dụng vào giảng dạy một số tác
phẩm văn học trong chương trình Ngữ văn Trung học phổ thông. Mặt khác, sáng
kiến có ý nghĩa đặc biệt khi áp dụng cho học sinh tại các Trung tâm giáo dục
thường xuyên, khi phần lớn các em còn hạn chế về năng lực giao tiếp và một số
năng lực khác.
4. Khẳng định giá trị, kết quả đạt được của sáng kiến
Khi vận dụng sáng kiến vào thực tế dạy học, tôi thấy có những thay đổi tích
cực trong quá trình học tập của học sinh. Giờ học Văn hiệu quả hơn, sôi nổi hơn,
học sinh được bộc lộc những quan điểm, suy nghĩ của mình và tự tin giao tiếp
hơn. Có thể thấy, học sinh không chỉ được phát triển năng lực giao tiếp mà còn
được hình thành những năng lực cần thiết mà môn học Ngữ văn hướng tới.
5. Đề xuất kiến nghị để thực hiện áp dụng hoặc mở rộng sáng kiến.
Để đề tài được áp dụng phổ biến trong dạy học Ngữ văn ở Trung tâm Giáo
dục thường xuyên, vì vậy cần có sự giúp đỡ và tạo điều kiện của các cấp quản lí
giáo dục và cần sự nỗ lực, cố gắng hết mình của giáo viên giảng dạy. Trong quá
trình thực hiện đòi hỏi giáo viên cần phải nhiệt huyết với nghề, đầu tư nghiên
cứu tìm tòi, vận dụng và rút kinh nghiệm để nâng cao hiệu quả giờ dạy của
mình.

2



MÔ TẢ SÁNG KIẾN
1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến
1.1. Hình thành và phát triển năng lực cho học sinh đóng vai trò quan trọng,
nhằm đảm bảo chất lượng đầu ra của việc học, thực hiện mục tiêu phát triển toàn
diện các phẩm chất nhân cách, đáp ứng nhu cầu của xã hội. Trong bối cảnh xu
hướng toàn cầu hoá, quốc tế hoá và sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị
trường như hiện nay, việc hình thành và phát triển năng lực cho học sinh càng
trở nên quan trọng và cần thiết hơn lúc nào hết.
1.2. Môn Ngữ văn là môn thế mạnh trong việc hình thành và phát triển
năng lực giao tiếp. Các bài đọc hiểu văn bản tạo môi trường, bối cảnh để HS
được giao tiếp với tác giả và môi trường sống xung quanh, được hiểu và nâng
cao khả năng sử dụng tiếng Việt. Đây cũng là mục tiêu chi phối trong việc đổi
mới phương pháp dạy học Ngữ văn là dạy học theo quan điểm giao tiếp, coi
trọng khả năng thực hành, vận dụng những kiến thức tiếng Việt trong bối cảnh
giao tiếp đa dạng của cuộc sống.
1.3. Tuy nhiên, từ thực tế giảng dạy của bản thân cũng như đi dự giờ đồng
nghiệp tại Trung tâm, tôi thấy phần lớn giáo viên vẫn dạy học Ngữ văn theo lối
cung cấp cho học sinh những kiến thức lí thuyết một cách tách biệt, không đáp
ứng được nhu cầu học tập của giới trẻ hiện nay và không còn phù hợp với xu thế
của giáo dục hiện đại. Trong giờ học Ngữ văn, hầu hết học sinh mới chỉ lĩnh hội,
tiếp thu và ghi nhớ kiến thức một cách máy móc. Các em học khá thụ động,
phần lớn các em không được đặt vào trong tình huống cụ thể, không được bộc lộ
quan điểm, suy nghĩ của mình, không được nhập vai vào nhân vật, tác giả để
hiểu sâu hơn tác phẩm và vận dụng vào giải quyết các vấn đề thực tiễn. Cũng có
khi giáo viên đưa em vào tình huống cụ thể, đưa ra các vấn đề cần giải quyết thì
các em lại khá lúng túng, vụng về, thiếu tự tin trong cách sử dụng ngôn ngữ để
diễn đạt suy nghĩ của mình. Chính vì vậy, mỗi giờ dạy học Ngữ văn cần được
giáo viên đầu tư chuyên môn hơn, tích cực, mạnh dạn thay đổi phương pháp dạy
3



học để phát huy vai trò của chủ thể học sinh, qua đó hình thành cho các em
những năng lực cần thiết để đáp ứng nhu cầu của cuộc sống.
1.4. Người thầy đóng vai trò chủ đạo trong việc phát triển năng lực của học
sinh. Để phát triển tốt năng lực giao tiếp, cần hướng vào người học là chủ yếu
chứ không phải hướng vào tác phẩm hay văn bản như cách dạy truyền thống
trước đây, từ đó mở ra cơ hội và tạo điều kiện thuận lợi để người học khám phá
và thưởng thức vẻ đẹp của tác phẩm văn chương.
Để phát triển tốt năng lực giao tiếp, bên cạnh việc bồi dưỡng cho người học
một vốn ngôn ngữ cần thiết để sử dụng, cần đặc biệt chú ý khâu thực hành bởi
chỉ qua thực hành thì năng lực mới phát triển được. Trong giờ đọc hiểu văn bản,
học sinh có nhiều cơ hội để thực hành, được trình bày quan điểm, ý kiến của
mình, qua đó rèn luyện thường xuyên cách sử dựng ngôn ngữ, giúp học sinh
giao tiếp mạnh dạn và tự tin hơn.
1.5. Trong chương trình Ngữ văn Trung học phổ thông, Thương vợ của
Trần Tế Xương là một bài thơ hay, gắn liền với thực tiễn đời sống, tích hợp khá
nhiều kiến thức văn hoá. Tuy nhiên, để học sinh khám phá được cái hay, cái đẹp,
và rèn luyện năng lực sử dụng ngôn ngữ và khả năng giao tiếp đòi hỏi giáo viên
phải lựa chọn những biện pháp dạy học tích cực phù hợp, phải định hướng cho
học sinh, tổ chức các hoạt động cụ thể để học sinh được trải nghiệm, khám phá,
bộc lộ suy nghĩ của cá nhân. Chỉ khi giáo viên làm được điều này, văn bản
Thương vợ mới phát huy hiệu quả trong việc hình thành, bồi dưỡng năng lực
giao tiếp tiếng Việt cho học sinh.
1.6. Xuất phát từ những lí do trên, bản thân là một giáo viên dạy Ngữ văn
giảng dạy trong Trung tâm Giáo dục thường xuyên, tôi luôn có tâm nguyện
muốn học sinh của mình có thể phát huy tối đa các năng lực chung và năng lực
chuyên biệt của môn Ngữ văn, đặc biệt là năng lực giao tiếp tiếng Việt. Bởi
những năng lực giao tiếp tiếng Việt khi được hình thành khi ngồi trên ghế nhà
trường sẽ là hành trang, là nền tảng vững chắc để các em bước vào cuộc sống,

để nâng cao chất lượng cuộc sống sau này.
4


2. Cơ sở lí luận của vấn đề
2.1. Khái niệm năng lực và một số năng lực cần phát triển qua môn
Ngữ văn
Từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên (NXB Đà Nẵng,1998) giải
thích: Năng lực là khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực
hiện một hoạt động nào đó. Phẩm chất tâm lí và sinh lí tạo cho con người khả
năng hoàn thành một loại hoạt động nào đó với chất lượng cao".
Trong Tài liệu tập huấn việc dạy học và kiểm tra, đánh giá theo định
hướng phát triển năng lực của học sinh do Bộ giáo dục và Đào tạo phát hành
năm 2014 thì: "Năng lực được quan niệm là sự kết hợp một cách linh hoạt và có
tổ chức kiến thức, kĩ năng với thái độ, tình cảm, giá trị, động cơ các nhân, ...
nhằm đáp ứng hiệu quả một yêu cầu phức hợp của hoạt động trong bối cảnh
nhất định. Năng lực thể hiện sự vận dụng tổng hợp nhiều yếu tố (phẩm chất của
người lao động, kiến thức và kĩ năng) được thể hiện thông qua các hoạt động
của cá nhân nhằm thực hiện một loại công việc nào đó. Năng lực bao gồm các
yếu tố cơ bản mà mọi người lao động, mọi công dân đều phải có, đó là các năng
lực chung, cốt lõi". Định hướng chương trình giáo dục phổ thông sau năm 2015
đã xác định một số năng lực mà học sinh cần phải có như:
- Năng lực làm chủ và phát triển bản thân, bao gồm:
~ Năng lực tự học
~ Năng lực giải quyết vấn đề
~ Năng lực sáng tạo
~ Năng lực quản lí bản thân
- Năng lực xã hội, bao gồm:
~ Năng lực giao tiếp
~ Năng lực hợp tác

- Năng lực công cụ, bao gồm:
5


~ Năng lực tính toán
~ Năng lực sử dụng ngôn ngữ
~ Năng lực ứng dụng công nghệ thông tin
Như vậy, có thể hiểu một cách ngắn gọn năng lực là khả năng vận dụng tất
cả những yếu tố chủ quan ( mà bản thân có sẵn hoặc được hình thành qua học
tập) để giải quyết những vấn đề trong học tập, công tác và cuộc sống.
2.2. Năng lực giao tiếp tiếng Việt
Giao tiếp là hoạt động trao đổi thông tin giữa người nói và người nghe
nhằm đạt được một mục đích nào đó. Việc trao đổi thông tin được thực hiện
bằng nhiều phương tiện, tuy nhiên phương tiện quan trong nhất được sử dụng
trong giao tiếp là ngôn ngữ. Năng lực giao tiếp do đó được hiểu là khả năng sử
dụng các quy tắc của hệ thống ngôn ngữ để chuyển tải, trao đổi thông tin về các
phương diện của đời sống xã hội, trong từng bối cảnh, ngữ cảnh cụ thể, nhằm
đạt đến một mục đích nhất định trong việc thiết lập mối quan hệ giữa những con
người với nhau trong xã hội. Năng lực giao tiếp bao gồm các thành tố: sự hiểu
biết và khả năng sử dụng ngôn ngữ, sự hiểu biết về các tri thức của đời sống xã
hội, sự vận dụng phù hợp những hiểu biết trên vào các tình huống phù hợp để
đạt được mục đích.
Năng lực giao tiếp được thể hiện ở một số khía cạnh sau:
- Xác định được mục đích giao tiếp và hiểu được vai trò quan trọng của
việc đặt mục tiêu trước khi giao tiếp;
- Nhận ra được bối cảnh giao tiếp, đặc điểm, thái độ của đối tượng giao tiếp
(người nghe) để có thái độ ứng xử phù hợp;
- Biết sử dụng hệ thống ngôn ngữ để diễn đạt ý tưởng của cá nhân một cách
tự tin trong từng bối cảnh và đối tượng; thể hiện được thái độ biểu cảm phù hợp
với đối tượng và bối cảnh giao tiếp.


6


Trong môn học Ngữ văn, việc hình thành và phát triển cho HS năng lực
giao tiếp ngôn ngữ là một mục tiêu quan trọng, cũng là mục tiêu thế mạnh mang
tính đặc thù của môn học. Thông qua các bài đọc hiểu văn bản, HS sẽ được tạo
môi trường, bối cảnh để được giao tiếp cùng tác giả và môi trường sống xung
quanh, được hiểu và nâng cao khả năng sử dụng tiếng Việt, văn hoá, văn học.
Đây cũng là mục tiêu chi phối trong việc đổi mới PPDH Ngữ văn là dạy hoc
theo quan điểm giao tiếp, coi trọng khả năng thực hành, vận dụng những kiến
thức tiếng Việt trong những bối cảnh giao tiếp đa dạng của cuộc sống.
3. Thực trạng của vấn đề
3.1. Thuận lợi
Việc hình thành và phát triển các năng lực cho học sinh đóng vai trò đặc
biệt quan trọng. Ý thức được điều này, các thầy cô giảng dạy trong bộ môn Ngữ
văn đã luôn có sự tìm tòi, đổi mới, vận dụng những phương pháp dạy học tích
cực để phát huy chủ thể học sinh, tạo điều kiện môi trường để HS được tự tin và
tự do trình bày quan điểm, suy nghĩ, tình cảm,... Qua đó, học sinh được tự do
sáng tạo, được khích lệ những suy nghĩ độc đáo, mới lạ và tích cực.
Đặc trưng của môn Ngữ văn là gì? Ngữ văn là môn học được tích hợp từ ba
phân môn Văn, Tiếng Việt và Làm văn, gồm hai phần ngữ và văn gắn bó với
nhau, bởi "ngôn ngữ là chất liệu làm nên văn học và văn học chính là nghệ thuật
của ngôn ngữ". Là môn học tích hợp, nhưng về cơ bản nó vẫn là môn học nghệ
thuật, đồng thời là môn học thực hành. Trên đại thể, có thể xem Ngữ văn là môn
học về cái đẹp với hai khâu liên hoàn: cảm thụ cái đẹp trong văn chương, ngôn
ngữ để tạo lập ra cái đẹp trong văn bản nói và viết. Như vậy với những đặc trưng
trên, môn Ngữ văn sẽ hình thành và phát triển năng lực quan trọng: năng lực
giao tiếp tiếng Việt.
3.2. Khó khăn

Tuy nhiên, hiện nay trong xu thế chung của xã hội, môn Văn đang mất dần
vị thế của nó, thậm chí trở thành "gánh nặng" đối với học sinh. Thay vào đó, học
7


sinh chỉ chú trọng đến các môn học khoa học tự nhiên mà "bỏ quên" môn Văn.
Học văn nhưng phần lớn học sinh không ý thức được vai trò quan trọng của môn
Văn trong việc rèn luyện ngôn ngữ, hình thành kĩ năng, năng lực sử dụng ngôn
ngữ, vận dụng vào các tình huống trong thực tiễn.Tình trạng trên đã gây ảnh
hưởng không nhỏ đến việc dạy Văn. Để trả lại bản chất nghệ thuật kì diệu cho
các giờ học văn, vừa giúp học sinh phát huy khả năng giao tiếp, qua đó sử dụng
hiệu quả ngôn ngữ và hình thành cách ứng xử có văn hoá trong các tình huống
đa dạng của cuộc sống trong một khoảng thời gian có hạn không phải là việc
đơn giản, cần sự kiên trì, nỗ lực không ngừng của người giáo viên dạy Văn.
Học sinh học tập tại Trung tâm giáo dục thường xuyên phần lớn còn yếu
trong việc sử dụng ngôn ngữ, hạn chế trong việc bộc lộ suy nghĩ bản thân, gặp
khó khăn khi vận dụng kiến thức vào các tình huống của cuộc sống còn nhiều
phức tạp. Để hạn chế được điều này, giáo viên phải là người định hướng, giúp
đỡ các em trong việc khai thác sử dụng ngôn ngữ hiệu quả, phát triển năng lực
giao tiếp qua môn Ngữ văn.
4. Các giải pháp thực hiện
Để hình thành và phát triển năng lực giao tiếp ở học sinh, GV cần phải khai
thác hiệu quả các hình thức và phương pháp dạy học tích cực. Nhiệm vụ của GV
là tổ chức các hoạt động học tập cho HS theo các hình thức khác nhau (cá nhân,
theo cặp, theo nhóm); hướng dẫn, giám sát và hỗ trợ HS để các em tự hình thành
và phát triển năng lực giao tiếp. Năng lực giao tiếp được phát triển thông qua
các hoạt động vừa có chủ đích vừa mang tính chất tích hợp. Người GV cần phải
tạo ra các tình huống được lựa chọn kĩ lưỡng nhưng tự nhiên, gần với đời sống
thực tiễn, phối hợp đồng bộ với các phương pháp khác như nêu vấn đề, gợi mở,
giảng bình... để học sinh bộc lộ những rung động, cảm xúc, tình cảm và suy nghĩ

của mình về hình tượng, nhân vật, nội dung tác phẩm, tôn trọng tính chủ quan
của người đọc, phát huy được những kiến giải sáng tạo, những suy nghĩ đôi khi
rất thông minh và độc đáo của học sinh, trên cơ sở đó tạo ra ở mỗi học sinh sự
đối thoại mang tính chất tự ý thức, tự khám phá chứ không phải là khái quát, kết
8


luận hộ các em những điều kiện tiếp nhận được về tác phẩm. Làm được những
điều này, giờ học không chỉ sôi động hơn, học sinh không chỉ chiếm lĩnh trọn
vẹn tác phẩm mà các em còn được rèn luyện, gọt rũa ngôn ngữ, trải nghiệm
những tình huống khác nhau để phát huy năng lực cá nhân sau khi học môn Văn.
4.1. Tạo không khí dân chủ trong giờ dạy học văn
Trong giờ dạy học, tác phẩm văn học như một đối tượng nhận thức thẩm
mĩ, một phương tiện giáo dục và phát triển toàn diện cho học sinh cần phải được
hiểu trong quá trình giao tiếp. Có như thế, bạn đọc - học sinh - mới tiếp thu được
những giá trị tinh thàn mà người nghệ sĩ đã sáng tạp nên. Tác phẩm chỉ có thể
trở thành tài sản của các em trong mối liên hệ trực tiếp với tiếng nói trữ tình hay
quan điểm, thái độ, tư tưởng của nhà văn thông qua các hình tượng nghệ thuật
dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Tức giáo viên phải là người bắc cầu nối giữa
văn bản và học sinh. Người giáo viên trong giờ dạy học phải xây dựng được mối
quan hệ giữa chủ thể nhà văn, giáo viên và học sinh thông qua văn bản văn
chương, phải thực hiện được sự đối thoại tay bà giữa ba chủ thể.
Người giáo viên phải tạo ra sự hoà đồng giữa hai quá trình tác động của
văn bản và sự tiếp nhận các tác động thẩm mĩ của văn bản ở học sinh. Chính vì
vậy, thực chất của giờ dạy tác phẩm văn chương là phải nhằm tổ chức được hoạt
động giao tiếp nghệ thuật giữa các chủ thể trong môi trường sư phạm theo quy
luật của quá trình tiếp nhận văn chương.
Tạo không khí dân chủ trong giờ học văn chính là xác lập một mối quan hệ
bình đẳng, cởi mở, tự do, sáng tạo trong quan hệ giao tiếp với tác phẩm của chủ
thể học sinh, là xác lập ở các em tư cách bạn đọc sáng tạo đối thoại với tác

phẩm. Bầu không khí dân chủ là tiền đề kích thích sự hăng hái, sáng tạo ở các
em để cùng trao đổi, thảo luận với giáo viên, với bạn bè cách nhìn, cách nghĩ,
cách cảm, xây dựng hình tượng nghệ thuật trong tác phẩm, bộc lộ những đánh
giá, nhận thức, quan điểm, xúc cảm về tư tưởng, chủ đề tác phẩm. Thông qua
đối thoại dân chủ, giáo viên hướng dẫn, điều chỉnh, bổ sung sự cảm thụ của các
em; tác động, hình thành nên những trí tuệ mới, phẩm chất mới ở học sinh, để
9


các em là một chủ thể tiếp nhận chủ động chứ không phải là một thực thể thụ
động. Các em không những phát triển về mặt văn học mà còn được phát triển về
nhiều mặt như bộc lộ nhân cách, trau đồi khả năng giao tiếp nghệ thuật.
Không khí dân chủ trong giờ học văn phải được xác lập trên cơ sở ý thức
sâu về tính sư phạm của giáo viên trong tổ chức tiến hành phải phù hợp với yêu
càu nội tại của tác phẩm và sự vân động của trí tuệ, tình cảm, vốn kinh nghiệm
của học sinh. Đó phải là không khí cởi mở thực sự chứ không phải là không khí
giả tạo. Ở đó năng lực tiếp nhận của từng em có điều kiện bộc lộ, cọ xát trao đổi
để tự điều chỉnh bản thân cho phù hợp với hệ thuống chuẩn giá trị mang ý nghĩa
xã hội.
Giờ dạy phải có sức hấp dẫn, thuyết phục cao từ chính cái đẹp trong văn
bản, hấp dẫn và say mê người học. Tức người thầy phải biết gợi, biết mở những
bí ẩn sau câu chữ, hình ảnh nằm chết cứng trên trang giấy để chúng lên tiếng đối
thoại với từng học sinh. Đây là quá trình giáo viên hoá thân vào văn bản, sáng
tạo văn bản thành tác phẩm sinh động, có hồn.
Tạo không khí dân chủ trong giờ học Văn đòi hỏi giáo viên phải xử lí nhiều
mối quan hệ phức tạp. Không thể chỉ hiểu sâu sắc tác phẩm là đủ mà phải dự
kiến những tình huống tiếp nhận nảy sinh trong cách bộc lộ đối thoại giao tiếp
với tác phẩm của học sinh nhằm định hướng trong việc sử dụng các phương
pháp, biện pháp tổ chức hoạt động tiếp nhận cho các em một cách linh hoạt,
phối hợp có hiệu quả các phương pháp, biện pháp tác động như đọc, tái tạo gợi

mở,...sao cho có trật tự lô-gic tạo điều kiện cho các em tham gia vào các tình
huống đầy sáng tạo với tác giả, tự trải nghiệm, đồng cảm, tự thanh lọc về tâm
hồn trong từng bước tiếp nhận.
4.2. Vận dụng hiệu quả các phương pháp dạy học
Các phương pháp dạy học tích cực không chấp nhận việc tổ chức những
giờ học một cách khuôn sáo, đơn điệu mà hướng đến việc xây dựng quá trình
dạy học hiện đại, ở đó giáo viên và học sinh có mối quan hệ tương tác với nhau
10


một cách tích cực để tăng cường hoạt động nhận thức - dạy học. Ở đây không
phải là ghi nhớ kiến thức một cách máy móc mà là sự thấu hiểu sâu sắc kiến
thức đó, là sự vận động từ lời giảng độc thoại của giáo viên đến sự đối thoại với
học sinh để học sinh thể hiện được "cái tôi" của mình, mở rộng phạm vi vấn đề
trao đổi, xác lập tình cảm hiểu biết lẫn nhau... Việc thiết kế những sân chơi, phân
tích những hoàn cảnh cụ thể, sáng tạo những tình huống có vấn đề,...tất cả
những hình thức đó đều được coi là những thể hiện của phương pháp dạy học
tích cực. Các phương pháp dạy học tích cực tạo ra nỗ lực tích cực hoá bản thân
của mỗi cá nhân, phát triển khả năng hiểu biết lẫn nhau và thiết lập mối quan hệ
giữa các cá nhân với nhau. Điều quan trọng, giáo viên phải sử dụng hiệu quả và
kết hợp nhuần nhuyễn các phương pháp dạy học tích cực giờ học văn đạt hiệu
quả cao nhất.
4.2.1. Phương pháp trò chơi
Trò chơi là phương pháp tổ chức cho học sinh tìm hiểu một vấn đề hay thực
hiện những hành động, những thái độ, những việc làm thông qua một trò chơi
nào đó.
Lí luận và thực tiễn đã chứng tỏ rằng: nếu biết tổ chức cho thanh thiếu niên
vui chơi một cách hợp lí, lành mạnh thì sẽ mang lại hiệu quả giáo dục. Qua trò
chơi, lớp trẻ không những được phát triển về các mặt trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ
mà còn được hình thành nhiều phẩm chất và hành vi tích cực. Chính vì vậy, trò

chơi được sử dụng như một phương pháp dạy học quan trọng.
Qua trò chơi, học sinh có cơ hội để thể hiện những thái độ, hành vi. Chính
nhờ sự thể nghiệm này, sẽ hình thành được ở các em niềm tin và những thái độ
và hành vi tích cực, tạo ra động lực bên trong cho những hành vi ứng xử trong
cuộc sống. Mặt khác, qua trò chơi học sinh sẽ được rèn luyện khả năng quyết
định lựa chọn cho mình cách ứng xử đúng đắn, phù hợp trong mọi tình huống,
hình thành năng lực quan sát, được rèn luyện kĩ năng nhận xét, đánh giá hành vi.

11


Phương pháp trò chơi có thể tổ chức đầu tiết dạy để tạo tâm thế hứng thú
cho học sinh đi vào tìm hiểu bài học hoặc để kiểm tra những kiến thức đã học
qua, hoặc sử dụng ở cuối giờ để củng cố nội dung bài học. Nhưng giáo viên
cũng có thể thực hiện phương pháp trò chơi này ở giữa tiết học để nối kết các
hoạt động của bài học, tạo sự chuyển ngoặt sôi nổi, hợp lí. Đặc biệt, giáo viên có
thể tổ chức các trò chơi trong các bài ôn tập nhằm củng cố, khắc sâu và hệ thống
các kiến thức đã học theo những đơn vị nhất định.
Việc tổ chức trò chơi rất đa dạng, học sinh có thể tham gia chơi dưới nhiều
hình thức. Luật chơi phụ thuộc vào nội dung và mục đích, bởi cùng một nội
dung nhưng có thể chơi với nhiều cách khác nhau như: Ghép đáp án đúng, ghép
tranh đoán nội dung, giải ô chữ...
Người tổ chức chơi thông thường là giáo viên, nhưng trong một số trường
hợp giáo viên có thể gợi ý, khuyến khích các em xây dựng trò chơi.
Tuy nhiên, để học sinh làm tốt vai trò của mình, giáo viên phải có những
chỉ dẫn cụ thể như đưa ra hình thức chơi mà học sinh có thể áp dụng và hình
dung ra phải làm như thế nào, cách thiết kế câu hỏi,... Bên cạnh đó, giáo viên
cũng phải kiểm tra trước hệ thống câu hỏi học sinh các nhóm đã xây dựng để
giúp học sinh có những điều chỉnh đúng hướng, đáp ứng yêu cầu của bài học. Dĩ
nhiên là giáo viên cũng chỉ dẫn dắt, góp ý chứ không nên áp đặt hay cầm tay chỉ

việc để học sinh được phát huy khả năng sáng tạo của mình. Giáo viên có thể
cho học sinh các nhóm lần lượt triển khai trò chơi của mình rồi chốt lại cuối
cùng nhưng vẫn có thế xen kẽ phần thực hiện của học sinh với phần củng cố của
giáo viên.
Với phương pháp trò chơi này, không những việc học trở nên hứng thú hơn
mà học sinh còn được rèn luyện, nâng cao các kĩ năng như hợp tác, tổ chức, dẫn
dắt vấn đề, xử lí tình huống,...từ đó hình thành năng lực giải quyết vấn đề cho
học sinh. Nhưng khi tổ chức hình thức dạy học bằng phương pháp trò chơi, giáo
viên phải nghĩ ra các hình thức chế tài nhất định để học sinh chơi trong luật, có
ổn định trật tự bởi với mô hình lớp học trong trường phổ thông của chúng ta
12


hiện nay rất khó cho giáo viên tổ chức phương pháp này mà không ảnh hưởng
đến các lớp học xung quanh. Đây cũng là điều mà người viết gặp khó khăn nhất
khi tổ chức phương pháp dạy học bằng phương pháp trò chơi, bởi khi đã chơi là
có thắng - thua vì vậy học sinh dễ phấn khích và ồn ào hơn các giờ học thông
thường, ngoài ra cũng không ngoại trừ trường hợp học sinh cố tình gây rối. Dù
có những khó khăn nhất định nhưng phương pháp dạy học này đã khắc phục
phần nào nhược điểm học tập thụ động ở học sinh, là một trong những phương
pháp hiệu quả trong việc tạo hứng thú cho học sinh trong giờ học môn Văn .
Với văn bản Thương vợ của Trần Tế Xương, phương pháp trò chơi có thể
áp dụng ngay từ đầu tiết học dưới sự hướng dẫn của giáo viên. GV có thể tổ
chức trò chơi "Hộp quà may mắn". Cụ thể:
GV đưa ra 3 hộp quà, trong mỗi hộp quà chứa đựng một câu hỏi HS cần trả
lời. Mỗi học sinh được tham gia trò chơi được quyền mở một hộp quà. Nếu trả
lời đúng sẽ nhận được một phần quà, trả lời sai nhường quyền trả lời cho HS
khác.
Hộp quà số 1: Đọc 3 bài ca dao mở đầu bằng môtip "Thân em..."
Hộp quà số 2: Kể tên một số tác phẩm văn học trung đại mà em đã học

(hoặc đã đọc) viết về hình tượng người phụ nữ Việt Nam?
Hộp quà số 3: Cảm nhận của em về hình tượng người phụ nữ Việt Nam qua
những tác phẩm văn học đã học (hoặc đã đọc)?
GV nhận xét, đánh giá câu trả lời của HS, sau đó dẫn vào bài.
Khi tham gia trò chơi tức là các em làm chủ được cảm xúc của bản thân,
đánh giá được khả năng của bản thân và điều chỉnh được hành động của mình;
biết học tập độc lập, biết suy nghĩ và hành động hướng vào mục tiêu của mình
phù hợp với hoàn cảnh. Mặt khác, khi học sinh thực hiện trả lời những cua hỏi
trong hộp quà, GV không chỉ kiểm tra được kiến thức của người học mà qua đó,
học sinh còn được bộc lộ những quan điểm, suy nghĩ của mình về hình tượng
văn học, từ đó hình thành và phát triển năng lực giao tiếp tiếng Việt cho học
13


sinh. Khi phát triển năng lực giao tiếp, học sinh sẽ nhận biết được những tác
động của ngoại cảnh đến việc tiếp thu kiến thức và rèn luyện kĩ năng của cá
nhân để khai thác, phát huy những yếu tố tích cực, hạn chế những yếu tố tiêu
cực, từ đó xác định được các hành vi đúng đắn, cần thiết trong những tình huống
của cuộc sống. Như vậy, với phương pháp trò chơi, GV vừa tạo một sân chơi bổ
ích cho HS, vừa tác động đến cách ứng xử của học sinh trong quá trình hình
thành và phát triển năng lực giao tiếp.
4.2.2. Phương pháp đóng vai
Phương pháp đóng vai là một trong những điều kiện để giúp học sinh gần
hơn, hiểu hơn về tác giả, vừa cảm nhận giọng điệu riêng của tác giả qua tác
phẩm, vừa tạo được hiệu quả giao cảm với tác giả ở từng học sinh. Xác định
được học sinh là chủ thể cảm thụ, nhận thức tác phẩm tức là học sinh phải được
trực tiếp đối diện với tác phẩm và từ đó có nhu cầu và niềm say mê thưởng thức
một cách sáng tạo tác phẩm. Như vậy, học sinh không chỉ đọc, sáng tạo lại hình
tượng tác phẩm thành hình tượng của mình mà qua đó, các em còn có thể nghe
được tiếng nói, giọng điệu, cảm nhận được cái nhìn của nhà văn về cuộc sống

con người. Các em buồn nỗi buồn, vui niềm vui của nhà văn; bị nhà văn thuyết
phục hoặc tranh luận với nhà văn, qua đó được nói tiếng nói riêng của mình,
tranh luận về một vấn đề nào đó dưới góc nhìn của nhân vật, vận dụng và trau
dồi được vốn ngôn ngữ để giao tiếp có hiệu quả.
Đặt mình vào vai tác giả, học sinh trao đổi, tranh luận với bạn đọc (các học
sinh khác) về những sự kiện, tình huống được xây dựng trong tác phẩm hoặc
được bộc lộ thái độ, tình cảm đối với nhân vật, phát biểu quan điểm của mình
(vai trò tác giả) trước các hiện tượng đời sống được miêu tả. Đóng vai tác giả là
một trong những biện pháp đối thoại giúp học sinh gần gũi và cảm nhận quan
điểm của tác giả một cách đồng cảm, bình đẳng hơn; học sinh vừa được nghe
tiếng nói của tác giả, vừa đối thoại với tác giả bằng nhận thức của mình. Đặt
mình vào vai trò tác giả, học sinh sẽ trình bày, và sau đó, trao đổi, tranh luận với
bạn đọc về ý đồ sáng tác, kết cấu và những sự kiện, tình huống, nhân vật trong
14


tác phẩm, về quan điểm của mình trước hiện thực được miêu tả, phản ánh trong
tác phẩm...Trong vai trò tác giả, học sinh có thể biểu lộ tiếng nói đồng tình,
thuyết minh cho tác giả khi đối thoại với người đọc.
Ngoài đóng vai tác giả thì đóng vai nhân vật cũng góp phần giúp học sinh
thấu hiểu, thông cảm với cảnh ngộ, tâm trạng, thái độ, hành động,... của nhân vật
khi mang tiếng nói của nhân vật đến với bạn đọc, đồng thời bộc lộ được xu
hướng đánh giá nhân vật (đồng tình hay phản đối) của học sinh. Mức độ đơn
giản của hình thức này là học sinh được phân vai, giáo chọn một đoạn tiêu biểu
trong tác phẩm có nhiều đối thoại giữa các nhân vật, phân công mỗi học sinh thể
hiện một lời thoại của nhân vật sao cho phù hợp với tính cách của nhân vật đó
và hoàn cảnh xuất hiện trong văn bản của nhân vật đó. Biện pháp dạy học này sẽ
tạo ấn tượng mạnh, tạo cảm xúc cho người nghe, đem lại hiệu quả cho việc tiếp
thu bài học.
Ở mức độ cao hơn, giáo viên có thể tổ chức cho học sinh nhập vai nhân vật

nhưng không lặp lại đối thoại ở trong tác phẩm mà để học sinh phát biểu suy
nghĩ về con người, hoàn cảnh, sự kiện, tình huống,...trong tác phẩm theo quan
niệm chủ quan của mình.
Nhập vai nhân vật giúp học sinh hiểu, thông cảm cho cảnh ngộ nhân vật, ý
nghĩa, tâm trạng, tình cảm, thái độ nhân vật... Việc học sinh đồng tình hay phản
đối hành động của nhân vật sẽ biểu hiện trong quá trình nhập cuộc này, theo đó,
học sinh đang mang tiếng nói của nhân vật đến giao tiếp với bạn đọc.
Trong phần củng cố, GV có thể yêu cầu HS đặt mình vào vị trí của một
nhân vật nào đó (Ông Tú - Bà Tú - Bạn đọc) nhắn nhủ với những người còn lại
sau khi học xong tác phẩm. Lời nhắn nhủ đó có thể là những bộc lộ tình cảm,
cảm xúc; có thể là một đôi điều trăn trở; có thể là một thông điệp quan trọng
hướng tới bạn đọc hoặc gắn với thực tiễn cuộc sống,... Điều quan trọng, khi nói
được ý kiến của mình tức là HS đã chiếm lĩnh được văn bản, đi sâu vào hình
tượng nhân vật, và có cơ hội để bộc lộ những suy nghĩ của mình về các vấn đề
đặt ra trong văn bản cũng như ngoài cuộc sống. Cũng bằng phương pháp đóng
15


vai, giáo viên có cơ hội để sửa chữa, uốn nắn việc sử dụng ngôn ngữ cho học
sinh, đồng thời hướng các em đến các giá trị thẩm mĩ và giáo dục của văn học.
Có thể thấy, khi sử dụng phương pháp đóng vai, GV đã tạo những cơ hội đắt cho
HS trong việc hình thành và phát triển năng lực giao tiếp.
4.2.3. Phương pháp giảng bình
Giảng bình là phương pháp quan trọng trong dạy học tác phẩm văn chương.
Những lời giảng bình của giáo viên trong giờ dạy học tác phẩm văn chương sẽ
truyền cho học sinh thấy được cái hay, cái đẹp để các em cảm thụ được toàn vẹn
hình tượng nghệ thuật; sẽ mang đến cho giờ văn những dư vị ngọt ngào; khơi
gợi ở trái tim non trẻ của học sinh tình yêu đời, yêu người để các em biết hướng
tới cái Chân - Thiện - Mĩ. Mặt khác, phương pháp này cho phép giáo viên phát
huy phẩm chất nghệ sĩ của mình, cũng kích thích hứng thú học văn ở học sinh,

tạo nên sự giao lưu cộng hưởng về tình cảm trong giờ văn.
Không phải là phương pháp độc tôn trong dạy học tác phẩm văn chương
giảng bình có một vị trí đặc biệt quan trọng, có thể coi giảng bình là một "mắt
xích", "đinh ốc" trong "sợi dây xích" - phương pháp dạy học Ngữ văn. Nó móc
nối, liên hệ với các "mắt xích" khác tạo thành "dây xích" đồng bộ, hoàn chỉnh.
Mục đích cuối cùng của phương pháp giảng bình là phối hợp với các phương
pháp dạy học khác góp phần đưa tác phẩm văn học tới bạn đọc học sinh một
cách thuận lợi, có hiệu quả cao để giáo dục tư tưởng, tình cảm, thẩm mĩ, hình
thành và phát triển nhân cách cho học sinh, giúp các em tự hoàn thiện các phẩm
chất ấy.
Chính vì vậy, khi dạy Thương vợ của Tú Xương, tôi đã chú ý sử dụng
phương pháp giảng bình để các em được "sống" cùng tác phẩm. Mặt khác,
Thương vợ là một bài thơ hay nên có rất nhiều điểm để bình. Giáo viên có thể sử
dụng nhiều kĩ thuật khác nhau khi sử dụng phương pháp giảng bình.
Chẳng hạn, khi hướng dẫn các em tìm hiểu hai câu thơ: "Một duyên hai nợ
âu đành phận - Năm nắng mười mưa dám quản công", tôi sẽ chốt kiến thức
bằng một lời bình: "Ấy là giọng điệu kể lể đầy thương cảm. Lối tạo thành ngữ
và dùng thành ngữ, nhất là những thành ngữ số từ ở đây đã có một hiệu quả
16


nghệ thuật quan trọng. Không chỉ làm cho lời thơ cô đúc hơn. Không chỉ nối
hình tượng bà Tú hôm nay với những gì sâu xa trong truyền thống, lối nói này
còn làm cho lời kể công, kể khổ của Tú Xương dành cho vợ trở nên nặng hơn,
day dứt hơn. Trên kia đã "năm con với một chồng", đến đây lại "Một duyên hai
nợ" với "Năm nắng mười mưa". Nghe cứ thấy giọng đay đả, chì chích bản thân.
Bởi "năm con", "một chồng", "một duyên hai nợ" đâu còn là lời lẽ ước lệ quen
mòn, nó là oái oăm, ngang trái thật của cái gia cảnh ấy. Nó là những khống khổ
hoàn toàn thật mà vợ mình đang phải chịu đựng gánh vác kia thôi. Có thể nói,
tình thương đang quặn đau lên trong lòng người chồng đã làm sống dậy cả

những thành ngữ vốn bị ép khô trong xác chữ quen mòn".
Như vậy, với phương pháp giảng bình học sinh không chỉ được hình thành
năng lực thưởng thức văn học/ cảm thụ thẩm mĩ mà năng lực giao tiếp cũng
được phát triển. Những lời bình giống như chất xúc tác, chất men say để học
sinh cảm nhận được vẻ đẹp của ngôn ngữ văn học, biết rung động trước những
hình ảnh, hình tượng được khơi gợi trong tác phẩm. Mặt khác, bằng phương
pháp giảng bình, cái hay của từng lời văn ý thơ sẽ được bộc lộ, học sinh sẽ được
trau dồi ngôn ngữ, sử dụng hiệu quả ngôn ngữ tiếng Việt, từ đó phát huy năng
lực giao tiếp tiếng Việt cho học sinh.

17


4.3. Giáo án thực nghiệm
Tuần: 4
Tiết: 10
Đọc văn:
THƯƠNG VỢ
( Trần Tế Xương)
I/ Mục tiêu bài học
1. Kiến thức:
+ Cảm nhận được hình ảnh bà Tú: vất vả, đảm đang, yêu thương và lặng lẽ
hi sinh vì chồng con
+ Thấy được thành công về nghệ thuật của bài thơ: từ ngữ, giản dị, giàu sức
biểu cảm, vận dụng hình ảnh, ngôn ngữ văn hóa giáo dục, sự kết hợp trong
giọng văn trữ tình và tự trào.
2. Kĩ năng:
- Đọc - hiểu thơ trữ tình theo đặc trưng thể loại.
- Phân tích, bình giảng bài thơ.
3. Thái độ:

Tình cảm chân thành và lòng yêu thương con người.
4. Năng lực
- Năng lực thu thập thông tin liên quan đến văn bản
- Năng lực đọc – hiểu thơ trữ tình theo đặc trưng thể loại
- Năng lực trình bày suy nghĩ, cảm nhận của cá nhân về ý nghĩa văn bản
II. Chuẩn bị
1. Giáo viên
18


- Phương tiện: SGK, SGV, sách tham khảo,...
- Phương pháp: phát vấn, thảo luận, nêu vấn đề, đàm thoại…
2. Học sinh
Chuẩn bị bài ở nhà.
III. Tiến trình dạy học
1. Ổn định lớp - Kiểm tra sĩ số
2. Kiểm tra bài cũ
3. Bài mới
* Tạo tâm thế tiếp nhận:
GV tổ chức trò chơi: Hộp quà may mắn.
Luật chơi: GV đưa ra 3 hộp quà, trong mỗi hộp quà là một câu hỏi HS cần
trả lời. Mỗi HS tham gia trò chơi được quyền chọn 01 hộp quà, nếu trả lời đúng
câu hỏi có trong hộp sẽ nhận được một phần quà, trả lời sai nhường quyền trả lời
cho HS khác.
Hộp quà số 1: Đọc 3 bài ca dao mở đầu bằng môtip "Thân em..."
Hộp quà số 2: Kể tên một số tác phẩm văn học trung đại mà em đã học
(hoặc đã đọc) viết về hình tượng người phụ nữ Việt Nam?
Hộp quà số 3: Cảm nhận của em về hình tượng người phụ nữ Việt Nam qua
những tác phẩm văn học đã học (hoặc đã đọc)?
- GV nhận xét, đánh giá câu trả lời của HS, sau đó dẫn vào bài.

* Bài mới
Hoạt động của giáo viên và học sinh
Hoạt động 1: Tìm hiểu chung

Nội dung cơ bản cần đạt
I. Tìm hiểu chung

Mục tiêu: HS nắm được những thông 1. Tác giả
tin chính về tác giả; vận dụng những - Trần Tế Xương (1870-1907), thường
19


kiến thức đó vào đọc hiểu văn bản.
- GV cho HS xem video tư liệu về
Trần Tế Xương.

được gọi là Tú Xương
- Quê hương: làng Vị Xuyên, Mĩ Lộc,
Nam Định (nay là phường Vị Hoàng,

- GV: Yêu cầu HS khai thác thông tin thành phố Nam Định).
trong video, kết hợp với phần Tiểu - Thời đại: thực dân nửa phong kiến
dẫn và chuẩn bị bài ở nhà, hoàn thành - Gia đình: nhà Nho lớp dưới, đông con,
sơ sồ tư duy. (Phụ lục 1)
nhà nghèo.
- Hs trả lời

- Bản thân: Một đời tài hoa, một đời lận

- GV có thể bổ sung kiến thức về tác đận.

giả.

- Sự nghiệp văn học:
+ Số lượng: khoảng trên 100 bài.
+ Thể loại: thơ, văn tế, câu đối, phú,...
+ Sáng tác ở hai mảng: trào phúng và
trữ tình.
+ Nội dung: tâm huyết của nhà thơ với
dân với nước.
-> Được suy tôn là ông tổ của phong
trào thơ trào phúng.
(Sơ đồ tư duy )
2. Văn bản

- GV: Đề tài bài thơ có gì đặc biệt? - Đề tài: viết về người vợ.
Xác định thể loại của văn bản?

-> "Thương vợ" là một trong những bài

- HS phát hiện, xác định.

thơ hay nhất, cảm động nhất viết về vợ.
- Thể loại: Thất ngôn bát cú Đường luật.

- GV yêu cầu HS đọc bài thơ.

- Bài thơ thể hiện sự thấu hiểu, cảm
thông của Tú Xương trước những vất
20



- GV hỏi: Cảm nhận chung của em vả, gian truân của bà Tú. Qua đó ta thấy
khi đọc bài thơ?

được những đức tính tốt đẹp của bà Tú

- HS nêu cảm nhận

và vẻ đẹp nhân cách của ông Tú.

Hoạt động 2
* Mục tiêu: HS thấy được nỗi vất vả

II. Đọc hiểu văn bản
1. Hình ảnh bà Tú qua nỗi lòng

cũng như vẻ đẹp của bà Tú; cảm thương vợ của ông Tú.
nhận được tấm lòng của Tú Xương
đối với vợ; đánh giá đuợc đặc sắc
nghệ thuật trong thơ Tú Xương.
GV yêu cầu HS đọc 6 câu thơ đầu và

* Hai câu đề:
- Không gian: mom sông
-> Nhỏ nhoi, chênh vênh, nguy hiểm

xác định:

- Thời gian: quanh năm


~ Đây là lời của ai?

-> Triền miên, dai dẳng, gợi sự mòn

~ Ông Tú nói về ai?
~ Đọc đoạn thơ, em cảm nhận gì về
bà Tú?
- HS đọc và cảm nhận.
- GV định hướng tìm hiểu nội dung.

mỏi, quẩn quanh của cuộc đời.
- Công việc: buôn bán
-> Gợi lên sự vất vả, nhọc nhằn bươn
trải ngược xuôi.
=> Hoàn cảnh làm ăn vất vả, lam lũ, tất
bật của bà Tú.

- GV yêu cầu HS đọc lại hai câu thơ
và hoàn thành bảng thông tin (chiếu
trên máy chiếu). (Phụ lục 2)
- HS điền các thông tin còn thiếu vào
chỗ trống.
- GV hướng dẫn HS phân tích, giảng
bình:
-> Giới thiệu một người, thông
thường sẽ đi từ tên, tuổi, dòng
21


dõi...Thế nhưng Tú Xương lại bắt đầu

bằng công việc buôn bán. Công việc
ấy gợi cho em suy nghĩ gì?
- HS trình bày suy nghĩ, cảm nhận
của cá nhân.
-> Thế nhưng, công việc buôn bán ấy
còn được cụ thể hoá bằng sự kết hợp
với từ chỉ thời gian và không gian.
Em hãy đưa ra cách hiểu về hai từ
"quanh năm" và "mom sông", từ đó
đưa ra ý kiến về cuộc sống mưu sinh
của bà Tú?
- HS lí giải, cảm nhận.
-> GV: Từ những thông tin trên, em
suy nghĩ gì về hoàn cảnh làm ăn của
bà Tú?
- HS suy nghĩ, trả lời, đưa ra nhận
xét, đánh giá của cá nhân.
- GV: yêu cầu HS đọc câu thơ "Nuôi
đủ năm con với một chồng". Hình
thức câu thơ có gợi cho các em nghĩ
tới hình ảnh, sự vật nào gần gũi
không?
- HS tưởng tượng.
- GV gợi mở: Nếu trong một gia đình,
gánh nặng gia đình thường đặt lên vai
ai? Vì sao?
22


- HS phát hiện.


- "Nuôi đủ năm con với một chồng"

- GV: Thế nhưng ở đây, gánh nặng ấy Nuôi đủ: - đủ số lượng, thành phần: năm
lại đặt lên vai bà Tú. Và đặc biệt hơn, con với một chồng.
bà Tú vẫn "nuôi đủ". Vậy em hiểu - vừa đủ nhu cầu sinh hoạt.
"nuôi đủ" là như thế nào?
- đầy đủ: đáp ứng về cả vật chất lẫn tinh
- HS trả lời.
thần.
- GV mở rộng kiến thức.

-> Vai trò trụ cột của gia đình: vất vả

- GV: Suy nghĩ của em về vai trò của nhọc nhằn; đảm đang, tháo vát.
bà Tú?
- HS đánh giá.
GV liên hệ: Câu thơ đặt ra vấn đề
thuộc phạm trù gia đình. Thông
thường, chồng nuôi vợ, nhưng ở đây
bà Tú lại "nuôi chồng". Quan điểm
của em như thế nào về sự "nuôi" ấy
trong xã hội hiện nay: (Nuôi: giữ gìn,
chăm sóc để duy trì, tồn tại và phát
triển)
- HS tự do phát biểu, GV định hướng.
(Phụ lục 3)
GV: Đọc hai câu thực:
Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông

Trong hai câu thơ trên, hình ảnh nào

* Hai câu thực
- Nghệ thuật:
+ Hình ảnh "thân cò":
-> Cụ thể hoá nỗi vất vả, gian

ấn tượng với em nhất? Vì sao?

truân.

- HS trình bày ý kiến.
23


- GV định hướng về hình ảnh "Thân

-> Xoáy sâu vào nỗi cực khổ, vào

cò".

nỗi đau về thân phận con người.

Con cò xuất hiện với tần suất khá lớn + Sử dụng từ ngữ gợi hình ảnh, âm
trong văn học....

thanh:

GV yêu cầu HS đọc những câu ca


▪ Khi quãng vắng: nói lên được cả

dao, câu thơ có hình ảnh con cò...

thời gian, không gian heo hút, rợn ngợp,

HS đọc.

chứa chất đầy lo âu, nguy hiểm.
-> nỗi vất vả, đơn chiếc.

GV hướng dẫn HS phân tích giá trị
nghệ thuật của từ "Thân cò".

▪ Eo sèo: gợi không gian chợ búa,

- GV: Phân tích hiệu quả nghệ thuật cãi cọ, kì kèo mặc cả, cái nhốn nháo,
bon chen, của “buổi đò đông”, cái hiểm
được sử dụng trong hai câu thực.
- HS phân tích.
- GV chốt kiến thức.

họa rình rập nơi mặt nước.
▪ Buổi đò đông: chen chúc, quá
tải, chòng chành, khó khăn, nguy hiểm
-> Sự vật lộn, bươn chải trong
cuộc sống.
+ Đảo ngữ: lặn lội, eo sèo -> nhấn mạnh
sự tất bật, ngược xuôi, bươn chải.
+ Đối từ ngữ: khi quãng vắng - buổi đò

đông nhưng lại thừa tiếp nhau về ý ->
làm nổi bật lên sự vất vả, gian truân,
đơn chiếc.
=> Hai câu thơ đã cụ thể hóa nỗi vất vả
gian truân của bà Tú:
- Vất vả, cô đơn -> Nhọc nhằn
- Vật lộn, chen chúc -> Nhục nhằn
24


* Hai câu luận
GV: Theo em, nhà thơ đã sử dụng

Một duyên hai nợ

những thành ngữ nào ở đây? Hiệu quả

->

nghệ thuật cuả những thành ngữ đó?

ngang trái.

- HS: phát hiện, lí giải.

Oái

âu đành phận

oăm,


Năm nắng mười
mưa

dám quản
công

- GV nhận xét, giảng bình.

-> Nhọc nhằn,

- GV: Tuy vậy, nhưng bà Tú đã phản

cay đắng

ứng như thế nào? Qua cách phản ứng

=> Những cực => Chấp nhận,

ấy, em suy nghĩ gì về bà Tú?

nhọc, cay đắng bao dung, nhẫn

- GV vận dụng kiến thực, trả lời.

chồng chất trong nhịn, vị tha, đức

- GV nêu vấn đề: Nếu em là bà Tú,
trong hoàn cảnh này (vất vả, nhọc
nhằn), em sẽ lựa chọn cách ứng xử

thế nào?

cuộc đời.

hi sinh.

=> Hai câu luận vừa cực tả cái oái oăm,
ngang trái, nhọc nhằn, cay đắng vừa thể
hiện vẻ đẹp tâm hồn của bà Tú.

A. Ở bên ông Tú, chăm lo, vun vén
cuộc sống gia đình.
B. Ở bên ông Tú nhưng thân ai người
ấy lo.
C. Rời xa ông Tú, lựa chọn cuộc sống
khác.
- HS lựa chọn và lí giải cho sự lựa
chọn của bản thân.

* Tiểu kết: (Phụ lục 4)

- GV yêu cầu HS khái quát vẻ đẹp
của bà Tú qua sáu câu thơ đầu.
- HS khái quát.
- GV nếu vấn đề: Như vậy, bà Tú
25


×