Tải bản đầy đủ (.doc) (101 trang)

Cơ quan quốc gia về bảo vệ và thúc đẩy quyền con người thực trạng trên thế giới và phát triển ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (655.2 KB, 101 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
--------

NGUYỄN THU NGỌC

CƠ QUAN QUỐC GIA VỀ BẢO VỆ VÀ THÚC ĐẨY
QUYỀN CON NGƯỜI: THỰC TRẠNG TRÊN THẾ GIỚI
VÀ TRIỂN VỌNG Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành: Pháp luật về quyền con người
Mã số: Chuyên ngành đào tạo thí điểm

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. Vũ Công Giao

HÀ NỘI - 2013


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất
kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn
đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả
các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định
của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi
có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN


Nguyễn Thu Ngọc


MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các biểu
MỞ ĐẦU ..........................................................................................................1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CƠ QUAN
NHÂN QUYỀN QUỐC GIA .............................................................4
1.1.

Khái niệm và lịch sử phát triển của cơ quan nhân quyền
quốc gia trên thế giới ..........................................................................4

1.1.1. Khái niệm cơ quan quốc gia về nhân quyền .........................................4
1.1.2. Sự ra đời, phát triển của cơ quan nhân quyền quốc gia trên thế giới
...............................................................................................................5
1.1.3. Liên hợp quốc và các cơ quan nhân quyền quốc gia trên thế giới .............7
1.1.4. Lợi thế của cơ quan nhân quyền quốc gia trên thế giới ........................9
1.2.

Đặc điểm của cơ quan nhân quyền quốc gia ....................................9

1.2.1. Tính độc lập (Independent) ..................................................................9
1.2.2. Tính tiếp cận được (Accessibility) .....................................................10
1.3.


Cơ sở pháp lý của cơ quan nhân quyền quốc gia ..........................11

1.4.

Hình thức của cơ quan nhân quyền quốc gia .................................12

1.4.1. Cơ quan thanh tra Quốc hội (Ombudsman) ........................................12
1.4.2.

Ủy ban nhân quyền quốc gia (National Human Rights Commission/Committee)
.............................................................................................................14

1.4.3. Cơ quan chuyên trách về một vấn đề nhân quyền cụ thể
(Specialized Institutions) và Mô hình Trung tâm Nhân quyền
(Centre for Human rights) hay Viện Nhân quyền (Inntitute For
Human Rights) ....................................................................................16
1.5.

Vai trò của cơ quan nhân quyền quốc gia ......................................17


1.6.

Thành viên của cơ quan nhân quyền quốc gia ...............................20

1.7.

Phương pháp hoạt động của cơ quan nhân quyền quốc gia
.............................................................................................................21


4


Chương 2: THỰC TRẠNG CƠ QUAN NHÂN QUYỀN QUỐC
GIA TRÊN THẾ GIỚI ....................................................................23
2.1.

Thời gian thành lập ..........................................................................23

2.2.

Hình thức tổ chức ....................................................................24

2.3.

Thẩm quyền ......................................................................................24

2.4.

Thành viên .........................................................................................25

2.4.1. Thành phần .........................................................................................25
2.4.2. Việc đề cử thành viên các NHRIs .......................................................25
2.4.3. Nhiệm kỳ của các thành viên NHRIs .................................................26
2.4.4. Số lượng cán bộ giúp việc ..................................................................27
2.5.

Tự chủ và tính độc lập trong hoạt động và nguồn tài chính
.............................................................................................................27


2.6.

Khả năng tiếp cận của công chúng .................................................28

2.7.

Chức năng .........................................................................................30

2.7.1. Đưa ra những khuyến nghị..................................................................30
2.7.2. Thúc đẩy việc thực hiện nhân quyền tại quốc gia...............................31
2.7.3. Xử lý các khiếu nại, tố cáo vi phạm nhân quyền ................................32
2.7.4. Giáo dục nhân quyền ..........................................................................32
2.7.5. Vai trò trong việc xây dựng Báo cáo định kỳ toàn thể về quyền
con người của các quốc gia gửi Hội đồng Nhân quyền LHQ
(UPR- Universal Periodic Report) ......................................................33
2.8.

Xu hướng phát triển của cơ quan quốc gia về nhân quyền
trên thế giới ........................................................................................34

2.9.

Cơ quan nhân quyền ở một số quốc gia trên thế giới ...................36

2.9.1. Malaysia ..............................................................................................36
2.9.2

Hàn Quốc ............................................................................................38

2.9.3. Kenya ..................................................................................................41

2.9.4

Uganda ................................................................................................43

2.9.5

Guatemala ...........................................................................................44

2.9.6

Pháp ....................................................................................................48


2.9.7

Đức .....................................................................................................50

6


Chương 3: TRIỂN VỌNG VỀ CƠ QUAN NHÂN QUYỀN QUỐC
GIA TẠI VIỆT NAM .......................................................................53
3.1.

Khái quát về việc bảo vệ, thúc đẩy nhân quyền ở Việt Nam
.............................................................................................................53

3.1.1. Quan điểm, chính sách cơ bản của Đảng, nhà nước Việt Nam
về nhân quyền .....................................................................................53
3.1.2. Khuôn khổ pháp luật về quyền con người ở Việt Nam ......................55

3.1.3

Cơ chế bảo vệ, thúc đẩy nhân quyền ở Việt Nam ...............................57

3.2.

Sự cần thiết phải xây dựng một cơ quan nhân quyền quốc
gia tại Việt Nam ................................................................................60

3.2.1. Những hạn chế của cơ chế bảo vệ, thúc đẩy nhân quyền ở Việt Nam
.............................................................................................................60
3.2.2. Những điểm thuận lợi khi thành lập cơ quan nhân quyền quốc
gia tại Việt Nam ..................................................................................61
3.2.3

Những thách thức khi thành lập cơ quan nhân quyền quốc gia
tại Việt Nam ........................................................................................64

3.3.

Những yêu cầu hoàn thiện cơ chế bảo vệ và thúc đẩy quyền
con người ở Việt Nam .......................................................................67

3.3.1. Những yêu cầu từ hội nhập quốc tế ....................................................67
3.3.2. Những yêu cầu từ việc xây dựng nhà nước pháp quyền, dân
chủ hóa, hiện đại hóa đất nước ...........................................................68
3.4. Đề xuất mô hình cơ quan nhân quyền quốc gia
tại Việt Nam .................................................................................69
3.4.1. Khôi phục, cải tổ một số cơ quan, uỷ ban trực thuộc Quốc hội
và Chính phủ theo hướng trở thành cơ quan nhân quyền quốc

gia thực sự ..........................................................................................69
3.4.2. Cơ quan Thanh tra Quốc hội ..............................................................72
3.4.3. Uỷ ban nhân quyền .............................................................................73
KẾT LUẬN ...................................................................................................78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................80


PHỤ LỤC

8


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Tên viết tắt
APFNHRIs

Tên đầy đủ
Diễn đàn châu Á – Thái Bình Dương của các cơ quan nhân quyền
quốc gia
Bộ LĐ-TB-XH Bộ Lao động – Thương binh – xã hội
CAT
Convention against Torture and Other Cruel, Inhuman or
Degrading Treatment or Punishment (Công ước Chống tra tấn và
các hình thức trừng phạt và đối xử tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ
nhục khác
CHXHCN
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
ECOSOC
The United Nations Economic and Social Council (Hội đồng kinh
tế - xã hội của Liên Hợp Quốc)

HRC
United Nations Human Rights Council (Hội đồng nhân quyền của
Liên hợp quốc)
HĐND
Hội đồng nhân dân
ICC
The International Coordinating of National Institutions for the
Promotion and Protection of Human Rights (Ủy ban điều phối
quốc tế các cơ quan thúc đẩy và bảo vệ nhân quyền quốc gia)
ICCPR
International Convenant on Civil and Political Rights (Công ước
về quyền dân sự - chính trị)
ICESCR
International Convenant on Economic, Social and Cultural Rights
(Công ước về quyền kinh tế - văn hóa – xã hội)
ICRPD
Convention on the Rights of Persons with Disabilities (Công ước
về Quyền của những người khuyết tật)
LHQ
Liên hợp quốc
NHRIs
National Institution on the Protection and Promotion of Human
Rights (Các cơ quan quốc gia về bảo vệ và thúc đẩy nhân
quyền)
NGO
Tổ chức phi chính phủ
OHCHR
Office of the High Commissioner for Human Rights (Văn phòng
Cao ủy Liên hợp quốc về quyền con người)
UPR

Universal Periodic Review (Cơ chế đánh giá định kỳ chung)
UBTVQH
Uỷ ban thường vụ Quốc hội
VKSND
Viện kiểm sát nhân dân
TAND
Tòa án nhân dân
SEANF
Southeast Asian National Human Rights Institution Forum (Diễn
đàn của các cơ quan nhân quyền quốc gia khu vực Đông Nam
Á)


DANH MỤC CÁC BIỂU
Biểu 2.1: Việc thành lập các cơ quan quốc gia về nhân quyền trên thế
giới (từ 1970-2009) .......................................................................23
Biểu 2.2: Tỷ lệ các dạng cơ quan nhân quyền quốc gia trên thế giới ...........24
Biểu 2.3: Thành phần của cơ quan nhân quyền quốc gia trên thế giới .........25
Biểu 2.4: Việc đề cử thành viên của cơ quan nhân quyền quốc gia trên thế giới
........................................................................................................26
Biểu 2.5: Nhiệm kỳ của các thành viên cơ quan nhân quyền quốc gia
trên thế giới....................................................................................26
Biểu 2.6: Số lượng cán bộ giúp việc của cơ quan nhân quyền quốc gia
trên thế giới....................................................................................27
Biểu 2.7: Việc tiếp cận với cơ quan nhân quyền quốc gia trên thế giới ..........29
Biểu 2.8: Chức năng tiếp nhận và giải quyết khiếu tố vi phạm nhân
quyền của các cơ quan nhân quyền quốc gia trên thế giới ............32
Biểu 2.9: Chức năng giáo dục nhân quyền của các cơ quan nhân quyền
quốc gia trên thế giới ....................................................................33
Biểu 2.10: Sự tham gia của các cơ quan nhân quyền quốc gia vào việc

xây dựng UPR................................................................................34


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Theo định nghĩa của Liên hiệp quốc (LHQ), cơ quan nhân quyền quốc gia
(National Human Rights Institutions – NHRIs hay National Institutions for
Protection and Promotion of Human Rights) là “một cơ quan (body) được giao
những chức năng cụ thể trong việc thúc đẩy và bảo vệ nhân quyền”.
Ngay từ năm 1946, ECOSOC đã đề nghị các quốc gia thành viên “xem xét
khả năng thành lập các nhóm thông tin hoặc ủy ban quyền con người quốc gia để
hợp tác trong các hoạt động trên lĩnh vực này với Ủy ban Quyền con người Liên
hợp quốc” (Nghị quyết 2/9 ngày 21-6-1946, mục 5). Đến năm 1991, Ủy ban Quyền
con người Liên hợp quốc tổ chức một hội thảo về cơ quan quyền con người quốc
gia ở Pari (từ ngày 7 đến 9-10-1991). Kết luận của Hội thảo được phê chuẩn bởi Ủy
ban quyền con người trong Nghị quyết 1992/54 như là Các nguyên tắc liên quan
đến địa vị của các cơ quan nhân quyền quốc gia (các nguyên tắc Pari). Văn kiện này
sau đó được phê chuẩn bởi Đại hội đồng Liên hợp quốc trong Nghị quyết số 48/134
(ngày 20-12-1993) và hiện được coi là nền tảng cho tổ chức và hoạt động của các
cơ quan quốc gia về thúc đẩy và bảo vệ quyền con người. Năm 1993, tại Hội nghị
quốc tế tổ chức tại Tunis do Liên hợp quốc bảo trợ, các cơ quan quyền con người
quốc gia đã thành lập Ủy ban Điều phối quốc tế các cơ quan quyền con người quốc
gia (International Coordinating Committee of NHRIs - ICC), có chức năng phối hợp
hoạt động của mạng lưới các cơ quan nhân quyền này.
Nếu xét đúng theo các tiêu chuẩn thành lập cơ quan nhân quyền quốc gia của
quốc tế, Việt Nam hiện chưa có cơ quan nào có thể coi là NHRIs. Đối với tình hình
thực tiễn trong nước, khu vực và quốc tế, có thể thấy, việc thành lập một hoặc một
số cơ quan có chức năng của NHRIs hiện là cần thiết ở nước ta. Tuy nhiên, NHRIs
ở Việt Nam còn là một vấn đề mới mẻ, chưa có các nghiên cứu, đánh giá một cách
có hệ thống, toàn diện và sâu sắc. Vì vậy, việc nghiên cứu về triển vọng mô hình cơ

quan nhân quyền quốc gia tại Việt Nam ngày càng trở nên cấp thiết.

1


2. Tình hình nghiên cứu
NHRIs là vấn đề mới ở Việt Nam, vì vậy chưa có một công trình khoa học
nghiên cứu một cách có hệ thống, sâu sắc về cơ quan này ở nước ta. Tuy vậy, đã
xuất hiện một số bài báo khoa học, hội thảo nghiên cứu về thành lập cơ quan nhân
quyền quốc gia tại Việt Nam. Tiêu biểu có một số bài viết, nghiên cứu sau:
- Cơ quan nhân quyền quốc gia, vị trí của nó trong Hiến pháp trên thế giới và
gợi ý cho Việt Nam. Tác giả: TS. Vũ Công Giao;
- Mô hình bộ máy quốc gia về nhân quyền ở một số nước và suy nghĩ về cơ
chế bảo đảm quyền con người ở nước ta. Tác giả: PGS.TS Tường Duy Kiên;
- Vài suy nghĩ về cơ chế bảo đảm nhân quyền. Tác giả: TS. Cao Đức Thái;
- Cơ quan nhân quyền quốc gia – Mô hình, chương trình, thách thức và giải
pháp. Tác giả: Phó Giám đốc Viện Nhân quyền Đức. Frauke Lisa Seidensticker và
TS. Anna Wuerth;
- Khóa luận tốt nghiệp: Cơ quan quốc gia về nhân quyền trên thế giới và
triển vọng thiết lập ở Việt Nam. Tác giả: Bùi Bích Phương.
Những công trình kể trên chứa đựng một lượng kiến thức, thông tin khá lớn
về vấn đề, tuy nhiên, trong các nghiên cứu này, mô hình cơ quan nhân quyền quốc
gia tại Việt Nam mới chỉ dừng lại ở những ý tưởng ban đầu chứ không không có sự
phân tích sâu về tình hình thế giới, khu vực, cũng như trong nước để đưa ra một giải
pháp hiệu quả cho vấn đề thành lập một cơ quan chuyên trách về thúc đẩy và bảo vệ
nhân quyền tại Việt Nam. Vì vậy, cần thiết phải có thêm các công trình nghiên cứu
khác để làm rõ triển vọng và đề xuất mô hình cơ quan nhân quyền quốc gia thích
hợp cho Việt Nam trong tương lai. Luận văn này góp phần vào việc đó.
3. Mục đích, phạm vi nghiên cứu
Mục đích của luận văn là đưa ra được một cái nhìn có tính hệ thống, khoa

học và toàn diện về thực trạng, những vấn đề lí luận và thực tiễn về cơ quan nhân
quyền quốc gia trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Trên cơ sở đó, đưa ra những
khuyến nghị về mô hình cơ quan nhân quyền quốc gia phù hợp cho Việt Nam
trong tương lai.

2


Về phạm vi, luận văn chỉ đề cập đến thực trạng, những vấn đề lí luận và thực
tiễn về cơ quan nhân quyền quốc gia trên thế giới nói chung, không tập trung phân
tích sâu một mô hình của quốc gia nào.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lí luận dùng để nghiên cứu đề tài này là chủ nghĩa Mác-Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, các tư tưởng, quan điểm mang tính
nguyên tắc của Đảng về đổi mới và thúc đẩy và bảo vệ nhân quyền, các tư tưởng,
quan điểm về luật học tiến bộ và hiện đại trên thế giới.
Phương pháp luận được sử dụng để giải quyết những vấn đề đặt ra trong luận
văn là: phương pháp biện chứng, phương pháp lịch sử, phương pháp phân tích,
phương pháp so sánh, phương pháp thống kê.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn kết
cấu gồm 3 chương như sau:
- Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về cơ quan nhân quyền quốc gia
Chương này tác giả trình bày khái niệm, đặc điểm, cơ sở pháp lý, hình thức,
thẩm quyền, thành viên, phương pháp hoạt động của cơ quan nhân quyền quốc gia.
- Chương 2: Thực trạng cơ quan nhân quyền quốc gia trên thế giới
Chương này tác giả nêu ra thực trạng cơ quan nhân quyền quốc gia trên thế
giới, cụ thể về: thời gian thành lập, hình thức, thẩm quyền, thành viên, tự chủ và
tính độc lập trong hoạt động và nguồn tài chính, khả năng tiếp cận của công chúng,
chức năng, một số mô hình cơ quan nhân quyền quốc gia trên thế giới.

- Chương 3: Triển vọng về cơ quan nhân quyền quốc gia tại Việt Nam
Chương này tác giả phân tích triển vọng về việc xây dựng cơ quan nhân
quyền quốc gia tại Việt Nam, trong đó bao gồm các nội dung: sự cần thiết phải xây
dựng một cơ quan nhân quyền quốc gia tại Việt Nam; những điểm thuận lợi, thách
thức khi thành lập cơ quan nhân quyền quốc gia tại Việt Nam; cơ sở pháp lý; mô
hình thích hợp, chức năng, thành viên, nguồn tài chính, phương pháp hoạt động của
cơ quan nhân quyền quốc gia tại Việt Nam.

3


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
VỀ CƠ QUAN NHÂN QUYỀN QUỐC GIA
1.1. Khái niệm và lịch sử phát triển của cơ quan nhân quyền quốc gia
trên thế giới
1.1.1. Khái niệm cơ quan quốc gia về nhân quyền
Thuật ngữ cơ quan quốc gia về nhân quyền (hay còn gọi là “cơ quan nhân
quyền quốc gia”) xuất phát từ tiếng Anh là National Human Rights Institutions
(NHRIs, hay còn được viết là National Institutions for Protection and Promotion of
Human Rights) là “một cơ quan (body) được giao những chức năng cụ thể trong
việc thúc đẩy và bảo vệ nhân quyền”.
Các cơ quan nhân quyền quốc gia được thành lập và hoạt động theo Các
nguyên tắc Pa – ri (Paris Principles) – đây là văn kiện nền tảng của các hoạt động
bảo vệ nhân quyền quốc gia.
Cho đến nay, nhiều người vẫn nhầm lẫn NHRIs với các tổ chức phi chính
phủ (NGO), thậm chí với các tổ chức đối lập với nhà nước về nhân quyền. Thực
chất, các cơ quan nhân quyền quốc gia là một thiết chế có tính chất của cơ quan nhà
nước (quasi-governmental agency), có chức năng tư vấn, hỗ trợ các nhà nước trong
việc bảo vệ, thúc đẩy nhân quyền. Nó có một vị thế rất đặc biệt, không giống với

các NGOs, đồng thời cũng không giống các cơ quan nhà nước thông thường. Cụ
thể, các NHRIs:
(i) Không phải là một NGOs vì không hoàn toàn độc lập với chính phủ. Các
cơ quan nhân quyền quốc gia có một cơ sở pháp lý theo luật định và trách nhiệm
pháp lý cụ thể như một phần thuộc bộ máy nhà nước. Sự khác biệt rõ rệt nhất giữa
cơ quan nhân quyền quốc gia và NGOs có lẽ nằm ở việc tiếp nhận những bản điều
tra, khiếu nại có liên quan tới quyền con người. Cơ quan nhân quyền quốc gia có
thẩm quyền điều tra về những vi phạm nhân quyền và đưa ra khuyến nghị để khắc
phục tình trạng vi phạm đó. Trong phạm vi của mình, cơ quan nhân quyền quốc gia

4


chỉ hoạt động theo một khuôn khổ pháp lý, thực hiện các nguyên tắc chung của
công lý và các quy định của pháp luật.
(ii) Không phải là một cơ quan lập pháp (vì không có chức năng đại diện,
không có quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật…);
(iii) Không phải là một cơ quan tư pháp (vì không có chức năng tài phán);
(iv) Cũng không hẳn là một cơ quan hành chính (trong một số trường hợp,
cơ quan nhân quyền quốc gia được đặt trong/dưới một cơ quan hành pháp, nhưng
nó được hưởng mức độ độc lập nhất định về cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ
và hoạt động).
Như vậy, một cơ quan nhân quyền quốc gia được thành lập trước nhất vì mục
đích nhân quyền, không ủng hộ hay thiên lệch về bất cứ bên nào, vì thế nó nên được
nhìn nhận một cách độc lập với các chính phủ và tổ chức phi chính phủ (nongovernmental organization – NGOs). Tuy nhiên, cơ quan quốc gia là yếu tố trung tâm
của một cơ chế nhân quyền quốc gia mạnh mẽ, là cầu nối giữa các tổ chức xã hội dân
sự hoạt động trên lĩnh vực nhân quyền với các chính phủ. Nó thể hiện sự liên kết về
mặt trách nhiệm của nhà nước đối với các quyền con người, quyền công dân và kết
nối giữa hệ thống luật pháp quốc gia với hệ thống nhân quyền quốc tế. [7]
1.1.2. Sự ra đời, phát triển của cơ quan nhân quyền quốc gia trên thế giới

Trong thực tế, cơ chế bảo vệ và thúc đẩy quyền con người ở cấp độ quốc tế
và khu vực hoạt động khá hiệu quả tuy nhiên hoạt động của các cơ chế này vẫn bị
giới hạn bởi các nguồn lực và sự hạn chế về tính hành động trực tiếp, đặc biệt
trong các vụ việc liên quan đến cá nhân. Các cơ chế bảo vệ nhân quyền trên không
thể kiểm soát được toàn bộ tình hình nhân quyền ở từng quốc gia bởi vì các cơ
quan này không thể điều tra được tất cả các cáo buộc về vi phạm quyền con người
cũng như không thể giảm nhẹ đau khổ cho tất cả nạn nhân. Trong khi đó, vai trò
của các chính phủ quốc gia trong việc thực hiện các quyền con người là đặc biệt
quan trọng. Quyền con người trước hết liên quan đến quan hệ giữa các cá nhân với
nhau và giữa cá nhân với nhà nước. Do đó, nhiệm vụ bảo vệ và thúc đẩy quyền
con người trước hết thuộc về Nhà nước. Các quốc gia phê chuẩn một văn kiện

5


quốc tế về quyền con người và nội luật hóa các văn kiện đó vào trong hệ thống
pháp luật quốc gia. Tuy nhiên, pháp luật không đủ để bảo vệ các quyền cụ thể nếu
như các văn bản pháp luật không đảm bảo tính chất pháp lý và thẩm quyền cho
các cơ quan nhà nước để thực thi các quyền đó hiệu quả. Do đó để đảm bảo các
quyền con người yêu cầu việc thiết lập các cơ sở hạ tầng quốc gia cho việc bảo vệ
và thúc đẩy các quyền con người.
Trong khi cho đến tận gần đây thế giới mới quan tâm đến việc thành lập các
cơ quan nhân quyền quốc gia thì Liên hợp quốc đã lưu tâm đến vấn đề này từ sau
năm 1946. Đến năm 1960, ECOSOC tiếp tục đề nghị các quốc gia thành viên thúc
đẩy sự hình thành và mở rộng của các cơ quan nhân quyền quốc gia để phối hợp
hoạt động với Ủy ban về quyền con người của Liên hợp quốc (Hội đồng nhân quyền
Liên hợp quốc). Đây là một tiến trình luôn tiếp diễn và các báo cáo về thông tin
nhận được thường xuyên được Tổng Thư ký gửi tới Ủy ban Quyền con người, Đại
hội đồng và các quốc gia thành viên.
Trong những năm 1960 – 1970, đã có nhiều cuộc thảo luận về cách thức để

thực hiện có hiệu quả những chuẩn mực quốc tế về quyền con người diễn ra trên
diễn đàn Liên hợp quốc. Vào những năm 1978, Ủy ban về quyền con người đã tổ
chức một hội thảo về các cơ quan nhân quyền quốc gia nhằm soạn thảo hướng dẫn
về tổ chức và chức năng của những cơ quan này. Các hướng dẫn như vậy sau đó đã
được thông qua trong một hội thảo khác, được tổ chức tại Geneva, Thụy Sỹ từ ngày
18 đến ngày 29/09/1987. Nhờ có những hướng dẫn đó, trong những năm 1980, đã
có một số lượng đáng kể các cơ quan quốc gia về nhân quyền được thiết lập với sự
trợ giúp của Chương trình dịch vụ tư vấn của Trung tâm quyền con người. Đến năm
1990, Ủy ban về quyền con người đã kêu gọi tổ chức một hội nghị với thành viên là
các cơ quan nhân quyền quốc gia. Hội nghị này sau đó đã được tổ chức tại Paris vào
tháng 10/1991 và đã thảo luận về hình thức hợp tác giữa các cơ quan nhân quyền
quốc gia và tổ chức nhân quyền quốc tế nhằm tìm ra phương thức hợp tác hiệu quả
giữa những cơ quan đó. Sau hội nghị này, nhiều tổ chức hợp tác mang tầm khu vực
và thế giới về quyền con người đã ra đời. [2, tr339-341]

6


1.1.3. Liên hợp quốc và các cơ quan nhân quyền quốc gia trên thế giới
Nhiều cơ quan quan trọng trong bộ máy nhân quyền Liên hợp quốc có liên
hệ trực tiếp và hỗ trợ các NHRIs, cụ thể như Hội đồng nhân quyền của Liên hợp
quốc (United Nations Human Rights Council - HRC) và Văn phòng cao uỷ nhân
quyền Liên hợp quốc về nhân quyền (Office of the High Commissioner for Human
Rights - OHCHR); Uỷ ban điều phối quốc tế các cơ quan thúc đẩy và bảo vệ nhân
quyền quốc gia (The International Coordinating of National Institutions for the
Promotion and Protection of Human Rights - ICC).
OHCHR là một phần của Ban Thư ký Liên hợp quốc, chuyên trách về
chương trình nhân quyền. Cơ quan này nằm dưới quyền điều hành trực tiếp của Cao
uỷ Liên hợp quốc về nhân quyền (High Commissioner for Human Rights), có nhiệm
vụ chủ yếu là hỗ trợ thực hiện những công việc về chuyên môn và hành chính, đồng

thời triển khai các hoạt động về nhân quyền được giao bởi Cao uỷ. OHCHR cung
cấp các chương trình hợp tác kỹ thuật và tư vấn liên quan đến việc thành lập và hoạt
động của NHRIs cho các quốc gia, phù hợp với khuôn khổ hiến pháp hay luật pháp
của mỗi nước. Cụ thể, cơ quan này có thể giúp các quốc gia:
 Nhận xét, góp ý dự thảo luật của quốc gia về thiết lập NHRIs;
 Cố vấn cho quốc gia về việc tuân thủ các nguyên tắc Paris;
 Xây dựng các hướng dẫn cho quốc gia về những vấn đề có liên quan tới
hoạt động của NHRIs;
 Tạo điều kiện xây dựng quan hệ đối tác giữa các NHRIs của các quốc gia
tham gia OHCHR;
 Hỗ trợ các NHRIs trong mối quan hệ với các cơ quan tư pháp, quốc hội và
các NGO của các quốc gia;
 Chia sẻ thông tin với các NHRIs về những chủ đề cụ thể như: chính
quyền, quy định pháp luật, công tác phòng chống tra tấn...;
 Cung cấp những tài liệu nghiên cứu đánh giá, phân tích so sánh, hợp tác
kỹ thuật để xây dựng các dự án, hoạt động của các NHRIs.

7


Hội đồng nhân quyền Liên hợp quốc (HRC) được thành lập để thay thế Uỷ
ban nhân quyền Liên hợp quốc (CHR) trước đây, nhằm khắc phục những yếu kém
trong hoạt động của CHR, đó là thất bại trong việc cải thiện tình hình và xử lý vi
phạm về nhân quyền diễn ra ở nhiều khu vực và quốc gia trên thế giới. Đây là một
trong những cơ quan chuyên môn đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong bộ máy
quyền con người của Liên hợp quốc. Chức năng của nó rất rộng, trong đó bao gồm
việc nghiên cứu, đề xuất ý kiến, thảo ra các chương trình hành động, soạn thảo văn
kiện về quyền con người, giám sát thực hiện các văn kiện đó. Kể từ khi được thành
lập, HRC rất quan tâm hỗ trợ các hoạt động của NHRIs.
ICC được xem là một cơ quan quốc tế độc lập thúc đẩy việc thành lập và

tăng cường NHRIs sao cho phù hợp với các Nguyên tắc Paris. ICC được hình thành
vào những năm đầu của thập niên 1990. Ban đầu, cơ quan này chỉ được xem là một
mối liên kết lỏng lẻo giữa các quốc gia thành viên đã thành lập NHRIs, sau đó nó đã
phát triển thành một tổ chức quốc tế ngày càng có vai trò quan trọng về nhân quyền,
đóng trụ sở tại Geneva.
Theo quy chế thành lập, ICC có một đoàn chủ tịch gồm 16 cơ quan quốc gia
về nhân quyền. Họ tổ chức hội nghị quốc tế 2 năm/ lần cho các thành viên của mình
để trao đổi kinh nghiệm, thảo luận về những vấn đề còn chưa rõ trong hoạt động
của các NHRIs ở các quốc gia. Chức năng chủ yếu của ICC là:
 Xây dựng mối tương tác và hợp tác giữa các NHRIs với hệ thống Liên
hợp quốc;
 Tổ chức hợp tác và phối hợp giữa các NHRIs, bao gồm truyền thông giữa
các thành viên với các bên liên quan;
 Hỗ trợ những NHRIs đang gặp khó khăn và cung cấp các hỗ trợ kỹ
thuật, chẳng hạn như giáo dục và đào tạo, để phát triển và củng cố năng lực của
các NHRIs;
 Kiểm tra thường xuyên tư cách thành viên của các NHRIs thông qua hoạt
động nhân quyền tại địa phương;
Trong số các chức năng trên, hai chức năng chính của ICC là phối hợp và

8


kiểm tra tư cách thành viên. Chức năng phối hợp nhằm mục tiêu thúc đẩy mối quan
hệ tương tác giữa các quốc gia và hợp tác với bộ máy Liên hợp quốc, còn chức năng
thúc đẩy là tạo điều kiện để các quốc gia có sự trao đổi thông tin trực tiếp với nhau
hoặc giữa các nhóm trong cùng khu vực. Những hội nghị của ICC và sự kiện khác
đều được tổ chức với sự hợp tác chặt chẽ với OHCHR.[16, tr14-17]
1.1.4. Lợi thế của cơ quan nhân quyền quốc gia trên thế giới
Ở một góc độ nhất định, có thể nói NHRIs chính là bộ mặt về tính đảm bảo

nhân quyền của một quốc gia. Thông qua NHRIs, các quốc gia thể hiện mức độ bảo
đảm trách nhiệm quốc tế của họ trên lĩnh vực quyền con người trước cộng đồng
quốc tế và các quốc gia khác. Chính vì vậy, không chỉ được chính phủ tài trợ về mặt
kinh phí hoạt động, mà NHRIs còn được các chính phủ giao cho rất nhiều thẩm
quyền trong lĩnh vực này. Nhiều NHRIs có quyền tham gia vào các vấn đề của
chính phủ, hoạch định chính sách và đề xuất ý kiến nếu các vấn đề đó có ảnh hưởng
trực tiếp hay gián tiếp đến quyền con người. Ý kiến của họ thường được các chính
phủ tôn trọng, lắng nghe. Tại một số quốc gia, NHRIs còn được miễn trừ giám sát
bởi toà án và hệ thống luật sư, thẩm phán.
Kinh nghiệm cho thấy ở các quốc gia, không phải lúc nào giữa chính phủ và
nhân dân cũng có tiếng nói chung trong các vấn đề xã hội. Trong thực tế, đa số các
quốc gia xảy ra những mâu thuẫn và tranh luận giữa chính phủ và công chúng liên
quan đến những chính sách mà tác động đến quyền và lợi ích của một hoặc một số
nhóm người nhất định. Khi đó, NHRIs chính là cơ quan trung gian để giải quyết
mâu thuẫn. NHRIs đóng vai trò là cơ quan hoà giải trung lập của hai bên, tạo ra sự
cân bằng để tìm ra giải pháp cho hai luồng quan điểm trái ngược đó. Ở một số quốc
gia, NHRIs có quyền xem xét các khiếu nại liên quan tới những trường hợp cá nhân
bị vi phạm nhân quyền bằng cách hoà giải.
1.2. Đặc điểm của cơ quan nhân quyền quốc gia
1.2.1. Tính độc lập (Independent)
Một nhân tố quan trọng trong việc xác định tính hiệu quả của một cơ quan
nhân quyền quốc gia là khả năng hoạt động độc lập trong khi thực hiện nhiệm vụ

9


của mình. Tính độc lập của cơ quan nhân quyền quốc gia theo nguyên tắc Pari được
hiểu là vai trò và sự độc lập của cơ quan này phải được quy định trong Hiến pháp.
Những vấn đề còn lại như thẩm quyền, thành viên, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn,
ngân sách của cơ quan nhân quyền quốc gia nên được quy định trong luật. Tuy độc

lập với các cơ quan nhà nước khác nhưng sự độc lập này là tương đối bởi vì các cơ
quan nhân quyền quốc gia vẫn phải báo cáo hoạt động với cơ quan chủ quản (thông
thường là nghị viện (Quốc hội)).
Có nhiều yếu tố bảo đảm cho tính độc lập của cơ quan nhân quyền quốc gia,
trong đó bao gồm:
 Các cơ quan nhân quyền quốc gia nên được cung cấp đủ kinh phí để thực

hiện nhiệm vụ của mình;
 Hoạt động của cơ quan nhân quyền quốc gia không bị trừng phạt bởi bất

kỳ cơ quan nhà nước nào;
 Cơ quan nhân quyền quốc gia được tự chủ trong việc thiết lập các quy tắc

nội bộ về nhân sự, tài chính, chương trình, kế hoạch hành động;
 Thành viên của cơ quan nhân quyền quốc gia không bị chính phủ bãi

nhiệm khi thực hiện nhiệm vụ của mình;
 Cơ quan nhân quyền quốc gia cũng cần có thẩm quyền tài phán đối với

những vụ việc vi phạm nhân quyền. Nếu không có thẩm quyền này, cơ quan này có
thể chuyển khiếu nại tới cơ quan có thẩm quyền giải quyết. [17, p43]
1.2.2. Tính tiếp cận được (Accessibility)
Theo Nguyên tắc Pari, trụ sở của cơ quan nhân quyền quốc gia nên ở vị trí
gần với các tuyến đường giao thông lớn và có quy mô thích hợp. Bên cạnh đó, văn
phòng của cơ quan nhân quyền quốc gia nên có thiết kế đảm bảo cho những người
khuyết tật có thể tiếp cận được dễ dàng.
Ngoài ra, tính dễ tiếp cận của các cơ quan nhân quyền quốc gia còn phụ
thuộc vào tính đa dạng của thành viên cơ quan này. Chính vì vậy, ngoài năng lực
của những thành viên này là điều kiện tiên quyết cho hiệu quả hoạt động thì các tiêu
chí như ngôn ngữ, dân tộc, tôn giáo, văn hoá cũng như cân bằng giới cần phải được


10


kết hợp một cách hợp lý khi lựa chọn bổ nhiệm thành viên.
Các cơ quan nhân quyền quốc gia nên thành lập các thư viện hoặc các trung
tâm dữ liệu cho các tổ chức phi chính phủ và người dân tiếp cận. Các cơ quan này
cũng cần xem xét loại bỏ sự bảo mật vốn là yếu tố ngăn cản sự truy cập vào cơ sở
dữ liệu của họ đồng thời thiết lập trang thông tin trực tuyến để những cá nhân, tổ
chức quan tâm có thể truy cập.
Một trong những yếu tố quan trọng trong việc đảm bảo khả năng tiếp cận đến
các cơ quan nhân quyền quốc gia là người dân phải nhận thức được sự tồn tại, vị trí,
nhiệm vụ của cơ quan này. Cơ quan này phải phân phát các tài liệu giải thích một
cách cơ bản nhiệm vụ của mình, nơi tiếp nhận các khiếu nại vi phạm nhân quyền
bằng nhiều ngôn ngữ. Một số chiến lược đã được các cơ quan nhân quyền quốc gia
áp dụng trong khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, ví dụ như: quảng cáo trên báo
chí, đài phát thanh, truyền hình, phương tiện truyền thông điện tử, tổ chức những
chương trình tiếp xúc trực tiếp với người dân trên đất nước.
Các báo cáo về tình hình nhân quyền của cơ quan nhân quyền quốc gia cần
toàn diện nếu chúng được dùng để phục vụ cho việc cải cách pháp luật. Tuy nhiên,
cơ quan này cũng cần chuẩn bị những bản tóm tắt của các báo cáo trên cho các tổ
chức, cá nhân khác tham khảo.
Cuối cùng, các cơ quan nhân quyền quốc gia nên cung cấp dịch vụ của họ
miễn phí. Các chi phí trong quá trình kiện tụng là một trong những yếu tố chính
hạn chế những nhóm dễ bị tổn thương tiếp cận toà án để bảo vệ quyền của họ,
điều này sẽ được khắc phục bởi những dịch vụ miễn phí của các cơ quan nhân
quyền quốc gia. [17, p44]
1.3. Cơ sở pháp lý của cơ quan nhân quyền quốc gia
Theo các Nguyên tắc Paris, một trong những tiêu chí quan trọng nhất cho
việc thiết lập các cơ quan nhân quyền quốc gia là “một cơ quan quốc gia sẽ được

trao quyền nhiều nhất có thể và những quyền này sẽ được ghi cụ thể trong bản Hiến
chương hoặc một văn bản pháp luật, cụ thể hóa cơ cấu cũng như lĩnh vực thẩm
quyền của nó”. Trong thực tế, vị trí, nhiệm vụ của cơ quan nhân quyền quốc gia

11


được quy định trong Hiến pháp, Luật hoặc theo Lệnh của người đứng đầu nhà nước.
Trong đó, việc quy định trong Hiến pháp thường được khuyến khích bởi các thủ tục
sửa đổi Hiến pháp thường chặt chẽ hơn so với Luật. Ngoài ra, việc quy định trong
Hiến pháp, Luật hoặc theo Lệnh của người đứng đầu nhà nước phụ thuộc vào thể
chế chính trị, kinh tế - xã hội của từng quốc gia.
1.4. Hình thức của cơ quan nhân quyền quốc gia
Đa số các cơ quan quốc gia có thể được thành lập theo hai dạng chính là
các “Ủy ban Quyền con người” và các “Cơ quan thanh tra Quốc hội”. Một số
khác, ít phổ biến hơn, nhưng không kém phần quan trọng, là các cơ quan quốc gia
“đặc biệt”, có chức năng bảo vệ quyền của những nhóm dễ bị tổn thương cụ thể,
chẳng hạn như các dân tộc thiểu số, các dân tộc bản địa, trẻ em, người tỵ nạn hoặc
phụ nữ. Dưới đây khái quát một số dạng chính mà đã được thành lập ở nhiều nước
trên thế giới:
1.4.1. Cơ quan thanh tra Quốc hội (Ombudsman)
Cơ chế Ombudsman xuất hiện đầu tiên tại Nghị viện Thụy Điển vào năm
1809. Thuật ngữ “Ombudsman” có nguồn gốc từ tiếng Thụy Điển, có nghĩa là người
đại diện. Tại một số quốc gia, Ombudsman tương đương với thanh tra Nhà nước.
Ombudsman thường có một bộ máy giúp việc, gọi là Văn phòng Ombudsman.
Cơ quan Thanh tra Quốc hội thông thường thuộc nhánh lập pháp, có thể là cá
nhân hay nhóm người, thường được nghị viện chỉ định dựa trên thẩm quyền hoặc
thông qua một nghị quyết. Cơ quan này hoạt động với tư cách trung gian trung gian
hòa giải giữa cá nhân có quyền bị xâm phạm với chính quyền. Thanh tra Quốc hội
có chức năng chủ yếu là giám sát sự công bằng và hợp pháp của bộ máy hành chính

công. Cụ thể, văn phòng Thanh tra Quốc hội có trách nhiệm bảo vệ quyền của
những người là nạn nhân của những hành vi, quyết định của cơ quan hành pháp.
Để đảm bảo hoạt động của cơ quan Thanh tra Quốc Hội có hiệu lực và hiệu
quả, khẳng định tính trung thực, khách quan và minh bạch trong việc giải quyết vụ
việc, pháp luật của đa số các nước quy định tính chất phi đảng phái chính trị trong
hoạt động thanh tra. Tổ chức của Thanh tra Quốc Hội có cơ cấu gọn nhẹ khoảng từ

12


4 - 6 thanh tra viên, gồm có Chủ tịch Thanh tra Quốc hội và các thanh tra viên do
Quốc hội bầu theo nhiệm kỳ nhất định, dài hay ngắn tuỳ thuộc vào mỗi nước, nhưng
thông thường khoảng 4 năm. Thanh tra viên Quốc hội phải là người có trình độ,
năng lực và phẩm chất đạo đức và nghiệp vụ cao, có kiến thức pháp luật, am hiểu
thực tiễn, có thâm niên công tác trong hoạt động pháp luật như đã là thẩm phán Toà
án tối cao, đã là luật sư hoặc đã công tác ở một số cơ quan hành chính nhà nước.
Quy trình hoạt động của Thanh tra Quốc hội ở các quốc gia tương đối giống
nhau. Thủ tục hoạt động của họ là tiếp nhận đơn khiếu tố và tiến hành điều tra trong
phạm vi thẩm quyền. Thông thường trong quá trình điều tra, Thanh tra Quốc hội
được tiếp cận hồ sơ của các cơ quan công quyền có liên quan, sau đó, Thanh tra
Quốc hội sẽ đưa ra một tuyên bố có tính chất khuyến nghị về vấn đề. Tuyên bố này
được chuyển cho những người khiếu tố cũng như cho cơ quan công quyền bị khiếu
tố. Nếu không được tiếp thu thì Thanh tra Quốc hội có thể đệ trình lên cơ quan lập
pháp một báo cáo cụ thể. Đây sẽ là phần bổ sung cho bản báo cáo hàng năm lên cơ
quan lập pháp, trong đó bao gồm thông tin về vấn đề đã được xác định và những đề
nghị sửa đổi về lập pháp và hành pháp.
Khi một công dân cho là mình bị vi phạm các quyền thì có thể gửi khiếu tố
lên Thanh tra Quốc hội. Việc tiếp cận với Thanh tra Quốc hội ở mỗi quốc gia là
khác nhau. Tại nhiều quốc gia, các cá nhân có thể gửi khiếu tố trực tiếp đến văn
phòng Thanh tra Quốc hội. Tại nhiều nước khác, đơn khiếu tố được trình thông qua

cơ quan trung gian, ví dụ như qua các đại biểu Quốc hội. Các đơn khiếu tố thường
được giữ bí mật danh tính, chỉ công khai khi có sự đồng ý của người khiếu tố.
Nhiều quốc gia yêu cầu trước khi gửi đơn lên Thanh tra Quốc hội, người khiếu tố
phải sử dụng tất cả những biện pháp pháp lý có thể để giải quyết vấn đề nhưng chưa
được thỏa mãn. Thủ tục này cũng có thể làm giới hạn thời gian giải quyết khiếu tố
và thông thường khi thẩm quyền của Thanh tra Quốc hội được mở rộng tới tất cả
các vấn đề của hành chính công thì họ vẫn chưa được trao quyền xem xét các khiếu
tố liên quan đến tổng thống, các bộ trưởng hoặc các thẩm phán. Không chỉ giải
quyết các vụ việc khi được yêu cầu, giống như các ủy ban quyền con người quốc

13


gia, ở nhiều nước, Thanh tra Quốc hội còn có thẩm quyền chủ động tiến hành điều
tra những vi phạm quyền con người trên phạm vi rộng hoặc thu hút sự quan tâm lớn
của công chúng hoặc các vấn đề liên quan đến quyền của nhóm mà thường không
có cá nhân nào đứng ra khiếu tố.
1.4.2. Ủy ban nhân quyền quốc gia (National Human Rights Commission/Committee)
Là tổ chức so với mô hình Thanh tra Quốc hội ra đời muộn hơn, vào khoảng
giữa thập kỷ 80 trở lại đây. Tại nhiều quốc gia, các Ủy ban đặc biệt được thiết lập để
bảo đảm rằng các đạo luật và quy định có liên quan đến bảo vệ quyền con người
được thực thi một cách có hiệu quả. Ủy ban nhân quyền quốc gia thông thường
thuộc nhánh hành pháp, có chức năng độc lập với các cơ quan khác thuộc chính
phủ, mặc dù chúng có thể được yêu cầu thường xuyên báo cáo lên cơ quan lập pháp.
Thông thường, cơ quan này bao gồm nhiều thành viên với chuyên môn khác nhau
và đại diện cho các nhóm xã hội nghề nghiệp khác nhau nhưng mỗi thành viên đều
có mối quan tâm và kinh nghiệm hoạt động trên lĩnh vực quyền con người. Mỗi
quốc gia có thể có những yêu cầu hoặc giới hạn cụ thể cho việc tuyển lựa các thành
viên, chẳng hạn như định mức về số lượng đại biểu hoặc ứng cử viên cho các
chuyên ngành khác nhau, cho các đảng chính trị hoặc các địa phương. Tên gọi của

thiết chế này có thể khác nhau giữa các nước, ví dụ như Ủy ban/Trung tâm quyền
con người quốc gia, Ủy ban quyền con người và bình đẳng….Cơ sở pháp lý cho
việc thành lập và hoạt động của thiết chế này cũng khác nhau giữa các nước ví dụ
như có thể được quy định trong Hiến pháp, bằng một đạo luật cụ thể, bởi một nghị
quyết của Nghị viện, hoặc theo một quyết định của Tổng thống.
Ủy ban chủ yếu quan tâm tới việc bảo vệ công dân chống lại sự phân biệt đối
xử, bảo vệ các quyền dân sự và các quyền con người cơ bản khác đặc biệt là quyền
của các nhóm xã hội dễ bị xâm hại hoặc phân biệt đối xử như phụ nữ, trẻ em, người
thiểu số, người bản địa… Có những ủy ban được giao thẩm quyền xử lý tất cả vi
phạm các quyền được nêu lên trong Hiến pháp, trong khi một số khác chỉ có thẩm
quyền xử lý những vi phạm về chủng tộc, tôn giáo, giới, quan điểm chính trị… Bên
cạnh đó, cơ quan này có quyền tiếp nhận và điều tra về những khiếu tố mang tính

14


chất cá nhân (và đôi khi là của các nhóm) về những hành vi vi phạm các quyền con
người đã được ghi nhận trong pháp luật quốc gia. Dù ít khi được sử dụng, những
quyền này có ý nghĩa quan trọng, nó bảo đảm khả năng chống lại việc bất hợp tác
của một cá nhân hoặc cơ quan bị cáo buộc. Trong khi giữa các Ủy ban về Quyền
con người có sự khác nhau đáng kể về thủ tục điều tra và giải quyết những khiếu tố,
thì nhiều Ủy ban cùng áp dụng hai thủ tục là hòa giải và trọng tài. Trong quá trình
hòa giải, các Ủy ban cố gắng đưa hai bên lại gần nhau để tìm ra giải pháp làm hài
lòng cả hai bên. Nếu như việc hòa giải thất bại, các Ủy ban có thể sử dụng thủ tục
trọng tài, với thủ tục này, sau khi nghiên cứu tình huống, trọng tài sẽ ra quyết định
về vụ việc. Cũng không phải lúc nào các Ủy ban cũng có thể đạt được một kết quả
có giá trị pháp lý ràng buộc cả hai bên trong vụ khiếu tố, tuy nhiên, điều đó không
có nghĩa là việc giải quyết hoặc các bước giải quyết thích hợp do Ủy ban đề ra có
thể bị phớt lờ. Trong một số trường hợp, các tòa án đặc biệt sẽ xét xử và quyết định
vấn đề tồn tại của những vụ khiếu tố mà Ủy ban chưa giải quyết được. Nếu không

có tòa án đặc biệt nào như vậy được thiết lập, Ủy ban có thể chuyển vụ việc đó tới
một tòa án bình thường để có được quyết định pháp lý cuối cùng.
Một chức năng khác cũng quan trọng không kém đó là việc xem xét, hệ
thống hóa và giám sát những chính sách về quyền con người của chính phủ, từ đó
tìm ra hạn chế và đề xuất cách thức sửa đổi, từ đó thúc đẩy sự tiến bộ trong việc bảo
vệ quyền con người.
Các ủy ban cũng có thể được giao quyền giám sát hoạt động của các cơ quan
nhà nước trong việc tuân thủ pháp luật quốc gia và quốc tế về quyền con người.
Khả năng của Ủy ban được nhân danh mình đưa ra những yêu cầu là một biện pháp
quan trọng thể hiện sự lớn mạnh và tính hiệu quả của nó. Điều này đặc biệt đúng
trong tình huống liên quan đến những cá nhân và nhóm không có nguồn lực tài
chính hoặc xã hội để theo đuổi các vụ khiếu tố cá nhân.
Việc thực hiện các quyền con người không thể chỉ đạt được bằng con đường
duy nhất là thông qua hoạt động lập pháp và hành pháp. Thực tế cho thấy rằng, các
Ủy ban thường được tin tưởng trao trách nhiệm quan trọng là thúc đẩy nhận thức của

15


×