Tải bản đầy đủ (.doc) (147 trang)

Một số vấn đề pháp lý về vận chuyển hàng không quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (555.38 KB, 147 trang )

phần mở đầu
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài:
Ngày nay quá trình giao lu và hợp tác kinh tế, thơng mại
trong nớc và giữa các quốc gia ngày một phát triển. Vận
chuyển hàng không trở thành một công cụ quan trọng của sự
phát triển kinh tế, tạo điều kiện thúc đẩy các mối quan hệ
quốc tế. Tuy nhiên nếu so với những phơng tiện khác nh đờng sắt, đờng bộ và đờng biển thì hàng không là một loại
hình vận chuyển hình thành và phát triển muộn. Mặc dù ra
đời muộn nhng đây lại là ngành kinh tế có tốc độ phát triển
khá nhanh. Các qui định pháp luật điều chỉnh hoạt động
vận chuyển hàng không luôn trong quá trình cần phải đợc
bổ sung và hoàn thiện cho phù hợp. Khi điều kiện kinh tế, xã
hội của một quốc gia ngày một phát triển thì các yêu cầu
đòi hỏi đối với ngành hàng không ngày một khắt khe, do vậy
cần phải có những qui định pháp lý phù hợp để điều chỉnh.
So với những phơng tiện viện chuyển khác, vận chuyển
bằng đờng hàng không có u thế về mặt thời gian, độ an
toàn và chất lợng dịch vụ. Nhng vận chuyển hàng không là
một lĩnh vực chịu nhiêù rủi ro và tác động của các yếu tố
chính trị, kinh tế, pháp lý và các tác động nằm ngoài sự
kiểm soát của con ngời nh thiên tai, dịch bệnh... Do vậy
những qui định pháp luật điều chỉnh lĩnh vực này cũng
mang những đặc thù riêng.

1


So với các lĩnh vực hoạt động khác, vận chuyển hàng
không mang tính quốc tế khá cao. Tính quốc tế của hoạt
động vận chuyển bằng đờng hàng không không chỉ đợc
thể hiển trên các lĩnh vực khai thác quốc tế, lĩnh vực thơng


mại mà còn ở phạm vi hoạt động và không gian mà các hoạt
động này thực hiện. Các hãng hàng không đa phần có hoạt
động mang tính quốc tế. Rất ít hãng hàng không chỉ hoạt
động mang tính chất nội địa. Chính do đặc điểm này
nên hoạt động vận chuyển hàng không liên quan đến nhiều
quốc gia và phạm vi lãnh thổ vì vậy cần phải có những qui
định mang tính quốc tế chung điều chỉnh. Hiện nay các nớc đã cùng nhau ký kết các điều ớc quốc tế song phơng và
đa phơng để điều chỉnh hoạt động vận chuyển hàng
không quốc tế. Các điều ớc quốc tế này đã phần nào tạo
điều kiện thuận lợi cho hoạt động vận chuyển hàng không
của các quốc gia và tạo ra một hành lang pháp lý chung thống
nhất. Đồng thời, mỗi quốc gia đều ban hành những qui định
pháp lý riêng của mình, thể hiện tính chủ quyền quốc gia.
Những văn bản pháp lý đó là cơ sở giúp cho việc điều tiết
hoạt động vận chuyển hàng không quốc tế.
Hoạt động vận chuyển hàng không quốc tế không chỉ
liên quan đến lĩnh vực con ngời mà còn liên quan đến cả
vấn đề an ninh hàng không và sự an toàn của quốc gia. Với
vai trò quan trọng nh vậy, việc nghiên cứu một số vấn đề
pháp lý về hoạt động vận chuyển hàng không quốc tế có ý
nghĩa rất quan trọng, góp phần hoàn thiện thêm những qui

2


định có liên quan của Việt Nam về vận chuyển hàng không
quốc tế . Xuất phát từ lý do đó, tôi đã chọn đề tài:
Một số vấn đề pháp lý

về vận chuyển hàng


không quốc tế
làm đề tài luận văn thạc sỹ Luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu :
Đã có một số công trình nghiên cứu, bài viết về những
vấn đề liên quan đến nội dung pháp luật điều chỉnh hoạt
động hàng không dân dụng nói chung. Tuy nhiên, vận
chuyển hàng không chỉ là một bộ phận cấu thành trong hoạt
động hàng không rộng lớn này. Do vậy các vấn đề pháp lý
điều chỉnh lĩnh vực này cần phải đợc tìm hiểu, đi sâu
nghiên cứu và làm rõ.
Ngoài ra, trong quá trình tìm hiểu những qui định
quốc tế, luận văn cũng muốn đối chiếu vào qui định của
Việt Nam để đa ra một số ý kiến nhận xét và đánh giá về
thực trạng của hệ thống này nhằm phục những bất cập, hạn
chế đang tồn tại của hệ thống đó.
3. Mục đích nghiên cứu của luận văn:

Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về vận chuyển hàng
không quốc tế, những qui định cụ thể trong các điều ớc
quốc tế và pháp luật Việt Nam về vận chuyển hàng không
quốc tế để đánh giá thực trạng hiện có pháp luật của Việt
Nam trong việc điều chỉnh hoạt động vận chuyển hàng
không quốc tế, từ đó đa ra một số kiến nghị hoàn thiện
pháp luật trong lĩnh vực vận chuyển hàng không quốc tế.
4. Phạm vi nghiên cứu:

3



Pháp luật quốc tế điều chỉnh hoạt động vận chuyển
hàng không rất rộng và bao trùm lên nhiều lĩnh vực, liên quan
đến nhiều đối tợng do đó luận văn không tham vọng đề
cập tất cả các vấn đề liên quan đến vận chuyển hàng
không quốc tế mà chủ yếu đề cập đến một số vấn đề
pháp lý

chi phối đến hoạt động vận chuyển hàng không

quốc tế đợc qui định trong một số điều ớc quốc tế đa phơng. Trên cơ sở đó đa ra những nhận xét và đánh giá về
thực trạng của pháp luật Việt Nam về vấn đề này.
5. Cơ sở khoa học của đề tài:

Cơ sở lý luận: Luận văn dựa trên phơng pháp luận của
chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Cơ sở thực tiễn: Thực tiễn áp dụng Luật Hàng không
dân dụng Việt Nam và vai trò của hoạt động hàng không
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
6. Phơng pháp nghiên cứu:

Phơng pháp đợc sử dụng trong luận văn là phép biện
chứng khoa học kết hợp với các phơng pháp phân tích, tổng
hợp, đối chiếu so sánh, thống kê dựa trên các văn bản pháp
luật trong nớc và quốc tế cũng nh các nguồn t liệu sách báo,
bài viết, các giáo trình của các học giả trong và ngoài nớc liên
quan đến vận chuyển hàng không quốc tế.
7. Điểm mới của đề tài:

Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích các qui định pháp lý
quốc tế và Việt Nam về vận chuyển hàng không quốc tế

một cách có hệ thống để tìm ra những hạn chế và bất cập
của hệ thống pháp luật Việt Nam, đồng thời đa ra những

4


nhận xét đánh giá về mức độ tơng thích giữa pháp luật
Việt Nam và pháp luật quốc tế có liên quan, góp phần vào
việc hoàn thiện pháp luật hàng không dân dụng của Việt
Nam.
8. Kết cấu của luận văn:

Luận văn đợc bố cục gồm: Phần mở đầu, 3 chơng và
phần kết luận.
Chơng 1: Tổng quan chung về những vấn đề
pháp lý liên quan đến vận chuyển hàng không quốc
tế.
Chơng 2: Một số qui định điều chỉnh hoạt động
vận chuyển hàng không quốc tế trong pháp luật Việt
Nam.
Chơng 3: Đánh giá thực trạng của hệ thống pháp
luật Việt Nam điều chỉnh hoạt động vận chuyển
hàng không quốc tế.
Kết luận.
Danh mục tài liệu tham khảo.

Chơng I

5



Tổng quan chung về những vấn đề pháp lý liên quan đến vận
chuyển hàng không quốc tế

1.1 Khái niệm, đặc điểm của vận chuyển hàng không
quốc tế:
1.1.1 Khái niệm:
Vận chuyển hàng không là một trong các yếu tố cấu
thành nên hoạt động hàng không dân dụng. Với t cách là một
ngành kinh tế - kỹ thuật -dịch vụ vận chuyển hàng không có
đầy đủ các đặc điểm của một ngành dịch vụ, đồng thời
mang những yếu tố có tính chất đặc thù riêng.
Vận chuyển hàng không hiểu theo một nghĩa chung
nhất là quá trình sử dụng tầu bay để phục vụ cho vận
chuyển công cộng, trên cơ sở thờng lệ hay không thờng lệ.
Khái niệm vận chuyển hàng không quốc tế đợc qui định
trong một số điều ớc quốc tế song phơng và đa phơng về
hàng không dân dụng cũng nh trong các văn bản pháp luật
về hàng không dân dụng của Việt Nam. Theo điều 96 của
Công ớc Chi-ca-go về hàng không dân dụng năm 1944 (còn
đợc gọi là Công ớc Chi-ca-go), dịch vụ vận chuyển hàng
không quốc tế là dịch vụ hàng không mà thông qua vùng trời
trên lãnh thổ của hai quốc gia trở lên.
Tuy nhiên, mục đích của việc thiết lập giao lu hàng
không quốc tế không phải chỉ để thực hiện các chuyến bay
quốc tế mà nhằm mục đích vận chuyển hành khách, hàng
hoá, hành lý và bu kiện vì lý do thơng mại. Vận chuyển hàng
không quốc tế là việc thiết lập các chuyến bay thơng mại
vận chuyển hành khách, hành lý, hàng hoá và bu kiện bằng


6


tầu bay một cách thờng lệ giữa hai hay nhiều quốc gia. Theo
Điều 1 khoản 2 của Công ớc Vac-sa-va năm 1929, vận chuyển
quốc tế đợc qui định nh sau:
Vận chuyển quốc tế có nghĩa là bất kỳ việc vận
chuyển nào trong đó, theo hợp đồng ký kết giữa các bên,
nơi xuất phát và nơi đến, có hoặc không có gián đoạn hay
chuyển tải ở trong hoặc lãnh thổ của các bên ký kết hoặc
trong lãnh thổ của một bên ký kết, nếu có một nơi dừng thoả
thuận trong lãnh thổ thuộc chủ quyền, bá quyền, quyền uỷ
trị hoặc uỷ thác của một quốc gia khác....
Nh vậy Công ớc Vac-sa-va đã đa ra định nghĩa rõ ràng
về vận chuyển quốc tế là bất kỳ một việc vận chuyển nào
mà phụ thuộc vào hợp đồng của các bên, nơi khởi hành và
nơi đến có hoặc không có gián đoạn trong vận chuyển
hoặc chuyển tải đợc nằm trong hoặc lãnh thổ của hai quốc
gia ký kết. Định nghĩa này đợc đa ra không căn cứ vào các
bên tham gia hợp đồng vận chuyển hàng không quốc tế
mang quốc tịch của nớc nào, có nơi c trú hoặc có trụ sở kinh
doanh chính nằm ở đâu, tầu bay đợc đăng ký ở quốc gia
nào, hợp đồng đợc ký kết ở đâu mà chỉ chú trọng đến ý
định của các bên trong hợp đồng vận chuyển, và lu ý đến
nơi khởi hành, nơi đến hoặc nơi dừng thoả thuận theo hợp
đồng giữa các bên nằm trong lãnh thổ của các Quốc gia khác
nhau. Nh vậy tính chất quốc tế của vận chuyển hàng không
đợc xác định dựa trên:
- Nơi đi và nơi đến nằm trong lãnh thổ của hai quốc
gia khác nhau, hoặc


7


- Nơi đi và nơi đến nằm trong lãnh thổ của một quốc
gia, nhng có một nơi dừng thoả thuận nằm trong lãnh
thổ của quốc gia khác.
Khi đa ra khái niệm vận chuyển hàng không quốc tế,
Luật hàng không Việt Nam ban hành năm 1991 cũng có
điểm tơng đồng nh trên. Điều 82 của Luật này (đợc sửa đổi
năm 1995) có qui định rằng:
Vận chuyển quốc tế là bất kỳ việc vận chuyển nào
bằng tầu bay mà theo thoả thuận của các bên trong hợp đồng
vận chuyển, nơi khởi hành và nơi đến trên lãnh thổ của hai
quốc gia hoặc trên lãnh thổ của một quốc gia nhng có nơi
dừng thoả thuận trên lãnh thổ của một quốc gia khác, không
kể có gián đoạn trong vận chuyển hoặc chuyển tải.
Để làm rõ thêm định nghĩa vận chuyển quốc tế, trớc
đây Luật hàng không năm 1991 đã có sự phân biệt giữa
vận chuyển quốc tế và chuyến bay quốc tế. Điều 23 của Luật
hàng không dân dụng Việt Nam năm 1991 có qui định rằng:
chuyến bay quốc tế là chuyến bay đợc thực hiện trên lãnh
thổ của hai hoặc nhiều quốc gia. Nh vậy theo qui định
này nếu tầu bay vận chuyển từ lãnh thổ của quốc gia này
sang lãnh thổ của quốc gia khác thì đó đợc gọi là chuyến
bay quốc tế nhng đây có phải là vận chuyển quốc tế không
thì phải dựa vào sự thoả thuận giữa hành khách với ngời vận
chuyển là tầu bay có dừng lại tại lãnh thổ của quốc gia bay
qua hay không. Nếu theo thoả thuận có một nơi dừng tại lãnh
thổ của quốc gia bay qua thì việc vận chuyển này mới đợc

coi là vận chuyển quốc tế.

8


Xuất phát từ bản chất của hoạt động vận chuyển hàng
không quốc tế là hoạt động đợc thực hiện trên lãnh thổ của
các quốc gia có liên quan. Luật hàng không dân dụng Việt
Nam vừa đợc Quốc hội thông qua ngày 29/6/2006, bắt đầu
có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2007 đã đa ra một định
nghĩa rất tổng quát về vận chuyển hàng không quốc tế.
Theo Điều 114 thì : Vận chuyển hàng không quốc tế là việc
vận chuyển bằng đờng hàng không qua lãnh thổ của hơn
một quốc gia..
Cũng giống nh trong Luật hàng không năm 1991, khái
niệm chuyến bay quốc tế trong Luật hàng không năm 2006
đợc qui định là chuyến bay đợc thực hiện trên lãnh thổ của
hơn một quốc gia [3, Điều 80 khoản 2]. Nh vậy trong Luật
hàng không vừa mới đợc Quốc hội ban hành, khái niệm
chuyến bay quốc tế và vận chuyển quốc tế không có sự
khác nhau.
Tóm lại, từ các nội dung đã trình bầy ở trên chúng ta có
thể hiểu một cách khái quát rằng vận chuyển hàng không
quốc tế là hoạt động vận chuyển hành khách, hàng
hoá, bu kiện bằng tầu bay từ lãnh thổ của quốc gia này
đến lãnh thổ của quốc gia khác và ngợc lại.
1.1.2. Đặc điểm của vận chuyển hàng không quốc tế:
Là một trong các loại hình vận tải nói chung, vận
chuyển hàng không đã tách riêng ra, đứng độc lập nh một
ngành kinh tế riêng biệt với những đặc trng sau:


9


- Vận chuyển hàng không cung cấp dịch vụ có tính
chất đặc biệt. Sản phẩm vận chuyển hàng không là vô
hình, không có hình dáng, kích thớc, trọng lợng nhng vẫn có
tính vật chất, nó cũng mang hai thuộc tính của hàng hóa
thông thờng. Sản phẩm vận chuyển hàng không có thuộc
tính giá trị, thể hiện ở sức lao động kết tinh trong đó và
trên thị trờng nó cũng biểu hiện bằng giá cả(giá cớc hàng
không). Thuộc tính giá trị sử dụng của sản phẩm vận chuyển
hàng không thể hiện ở chỗ nó đáp ứng nhu cầu nào đó của
con ngời nh nhu cầu đi lại, du lịch, công tác... Sản phẩm vận
chuyển hàng không của các hãng hàng không khác nhau thì
hầu nh không khác nhau. Đối với một hành khách đi trên máy
bay thì cùng một thời gian bay nh nhau, ghế ngồi, tiện nghi ,
máy bay A340 hay B747 cũng chẳng khác nhau là mấy. Đối với
việc vận chuyển hàng hóa thì gần nh chắc chắn không có
sự khác biệt này, bởi vì phần không gian để chở hàng hóa
trên máy bay của các hãng là giống nhau. Với việc chuẩn hóa
các sản phẩm vận chuyển hàng không và chất lợng dịch vụ
hàng không sự khác biệt nhỏ cuối cùng cũng đợc san bằng. Do
vậy, tính chất cạnh tranh trong lĩnh vực này rất cao. Trong
một thị trờng mà các hãng hàng không đều kinh doanh một
sản phẩm gần nh giống nhau tuyệt đối, mỗi một hãng phải
tìm mọi cách để định vị sản phẩm của mình, làm cho nó
khác biệt so với các hãng khác. Sử dụng máy bay hiện đại
nhất, an toàn nhất, tăng tần suất bay, cải thiện chất lợng suất
ăn trên máy bay, đa ra những dịch vụ giải trí, thông tin liên

lạc trên máy bay, thủ tục nhanh gọn.... là những cách thông

10


thờng mà họ thực hiện để nâng cao tính cạnh tranh của sản
phẩm. Cùng một sản phẩm cung cấp là sự di chuyển trong
không trung của hành khách và hàng hóa, hãng nào phục vụ
tốt hơn, làm cho khách hàng gắn bó với mình, tin tởng vào
chất lợng của dịch vụ của mình cung cấp, sự an toàn, hiệu
quả của hãng thì hãng đó có sức cạnh tranh cao, giành đợc
thị trờng. Chừng nào mà có hãng khác có thể cung cấp dịch
vụ tốt hơn, tiện nghi hơn, an toàn hơn thì hãng đó sẽ gặp
phải nguy cơ mất tính cạnh tranh và do đó mất thị trờng,
chịu phá sản.
- Dịch vụ vận chuyển hàng không có một số tính chất
đặc biệt nh khách hàng không thể tách rời khỏi dịch vụ, anh
ta tác động qua lại với hãng hàng không và trở thành một
phần của sản phẩm, việc đổi máy bay, đổi chặng, thiếu
đồ ăn, ngồi sai hạng có nghĩa là quá trình dịch vụ đã không
hoàn hảo; dịch vụ có thể thay đổi đợc, hôm nay dịch vụ có
thể đợc coi là hoàn hảo nhng ngày mai có thể ngợc lại, do các
hãng luôn không ngừng nâng cao chất lợng dịch vụ của mình
nên tính chất, mức độ thỏa mãn của dịch vụ thay đổi liên
tục và nhanh chóng; dịch vụ hàng không không thể dự trữ
đợc, chuyến bay cần phải khởi hành đúng giờ nh đã thông
báo nhng chỗ trống trên máy bay thì không thể để dành để
bán sau đợc khi máy bay đã cất cánh.
- Đặc điểm thứ ba của hoạt động vận chuyển hàng
không là tốc độ đổi mới công nghệ rất cao, ứng dụng tất cả

những thành tựu khoa học, công nghệ mới nhất trên thế giới.
Máy bay- phơng tiện chuyên chở hành khách và hàng hóa

11


luôn đợc nghiên cứu cải tiến, liên tiếp xuất hiện nhiều loại
máy bay mới có tốc độ cao, thân rộng hơn, tính năng kỹ
thuật và độ an toàn cao hơn. Điều đó khiến cho năng suất
khai thác đợc tăng lên đáng kể. Yêu cầu liên tục thay đổi, bổ
sung trang thiết bị hiện đại, công nghệ mới gây ra áp lực lớn
về mặt tài chính đối với các hãng hàng không.
- Đặc điểm thứ t của hoạt động vận chuyển quốc tế là
nó có tính chất quốc tế rất cao, nên do vậy đòi hỏi một cơ
chế quản lý đặc biệt. Tính chất quốc tế thể hiện rất rõ
ngay từ khi mới xuất hiện ngành vận tải hàng không. Vận
chuyển hàng không liên quan đến các vấn đề nh chủ quyền
quốc gia, hành khách và hàng hóa trong quá trình chuyên
chở. Ngày này vận chuyển hàng không quốc tế đang ngày
càng chiếm vị trí quan trọng. Hoạt động vận chuyển hàng
không không chỉ biểu hiện qua lợng hành khách và hàng
hóa, th tín đợc vận chuyển giữa các quốc gia mà còn thông
qua những hoạt động khác có liên quan và phục vụ cho lĩnh
vực này nh hoạt động quản lý và điều hành bay, khai thác
cảng hàng không, chế tạo máy bay, các tiêu chuẩn, quy tắc
về an toàn, an ninh hàng không... Hoạt động vận chuyển
hàng không liên quan đến sinh mạng của nhiều ngời, gắn với
các vấn đề nh an ninh, chủ quyền, lợi ích kinh tế của mỗi
quốc gia nên nó chịu sự quản lý, điều tiết chặt chẽ trong
phạm vi của từng quốc gia cũng nh cộng đồng quốc tế. Các

quốc gia tùy thuộc cơ cấu tổ chức chính phủ, chế độ chính
trị, chính sách kinh tế, trình độ phát triển kinh tế, văn hóa,

12


tập quán, mức độ phát triển để đa ra những qui định pháp
lý phù hợp để điều tiết hoạt động vận chuyển hàng không.
Những đặc điểm trên đây của hoạt động vận
chuyển hàng không đã cho chúng ta thấy rằng đây là một
lĩnh vực kinh tế khá phức tạp, sôi động và có tính cạnh tranh
rất cao nên do vậy đòi hỏi một sự điều tiết chặt chẽ hơn bất
cứ ngành nào khác của chính phủ mỗi nớc cũng nh của cộng
đồng quốc tế. Điều này đặt ra yêu cầu đối với mỗi quốc gia
cũng nh cả cộng đồng quốc tế phải cùng nhau tìm ra những
biện pháp để phối hợp trong việc điều tiết hoạt động vận
chuyển hàng không quốc tế, giải quyết những xung đột về
lợi ích giữa các quốc gia để vận tải hàng không thể hiện hết
tính chất quốc tế của nó. Tạo điều kiện bình đẳng cho tất
cả những ai tham gia thị trờng này. Đó là yêu cầu đặt ra
hiện nay cho các quốc gia trong tiến trình quốc tế hóa đời
sống kinh tế, văn hóa, xã hội thế giới, tiến tới một thế giới hòa
đồng, hội nhập, một bầu trời tự do cho tất cả các quốc gia.
1.2. Sự cần thiết phải có những qui định pháp lý điều
chỉnh hoạt động vận chuyển hàng không quốc tế:
Luật hàng không (Air law), có thể đợc hiểu một cách
chung nhất là tập hợp các qui tắc điều chỉnh việc sử dụng
bầu trời và các lợi ích của nó cho ngành hàng không dân
dụng, cho cộng đồng nói chung và cho các quốc gia trên thế
giới. Điều 1 của Luật hàng không dân dụng Việt Nam ban

hành năm 1991 cũng đã từng qui định rằng: "Hoạt động
hàng không bao gồm những hoạt động nhằm sử dụng tầu

13


bay vào mục đích vận chuyển hành khách, hành lý, hàng
hoá, bu kiện, bu phẩm..."
Các hoạt động của con ngời nhằm sử dụng bầu trời, sử
dụng tầu bay ra đời từ rất sớm. Qua quá trình phát triển, các
hoạt động ngày càng đa dạng. Tuy nhiên, sự đa dạng này
không làm lu mờ thực tế là hoạt động cơ bản của hàng
không dân dụng là cung cấp dịch vụ vận chuyển bằng tầu
bay. Thế kỷ XX với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ
thuật đã biến ngành hàng không dân dụng trở thành một phơng tiện vận tải tin cậy và công cụ đắc lực trong việc phát
triển kinh tế quốc gia và các quan hệ quốc tế. Các hoạt động
trong lĩnh vực hàng không dân dụng đã làm phát sinh và
phát triển nhóm quan hệ xã hội giữa các quốc gia với nhau,
giữa các pháp nhân và thể nhân do việc sử dụng vùng trời
và các hoạt động liên quan đến việc khai thác tàu bay. Hoạt
động vận chuyển bằng đờng hàng không sử dụng phơng
tiện là tầu bay, môi trờng hoạt động là bầu trời. Vốn đầu t
và chi phí cho hoạt động cao, phạm vi hoạt động rộng lớn (cả
trong nớc và ngoài nớc). Hoạt động hàng không dân dụng có
sự tham gia với mức độ lớn của các yếu tố quốc tế thể hiện
giữa các quốc gia trong việc sử dụng vùng trời, sử dụng tầu
bay để thực hiện các hoạt động giao lu hàng không quốc tế.
Việc thực hiện các chuyến bay vợt qua biên giới mỗi quốc gia
cùng với sự phát triển của kỹ thuật hàng không đã làm cho
từng quốc gia phải quan tâm đến điều chỉnh pháp luật

đối với hoạt động vận chuyển hàng không dân dụng. Trên
thực tế, hoạt động vận tải hàng không ngoài ý nghĩa là một

14


dịch vụ vận chuyển bằng tầu bay thì luôn tiềm tàng khả
năng gây nguy hiểm cho sinh mạng con ngời và môi trờng
sống. Hoạt động giao lu càng tăng thì hoạt động vận
chuyển hàng không càng đặt ra nhiều điều kiện khắt khe
hơn cho mỗi quốc gia trong việc bảo đảm hạn chế đến mức
tối đa các khả năng xảy ra rủi ro khi nó tham gia vào giao lu
hàng không quốc tế. Hoạt động vận chuyển hàng không luôn
đòi hỏi việc tuân thủ một cách nghiêm túc hệ thống các qui
tắc, tiêu chuẩn kỹ thuật đặt ra nhằm bảo đảm cả về an
ninh và an toàn cho hoạt động bay. Mặt khác, khi các quan
hệ kinh tế quốc tế ngày càng gia tăng vai trò cầu nối của
hoạt động hàng không cũng ngày càng thể hiện rõ nét.
Chính điều này đã đặt ra những vấn đề đòi hỏi sự điều
chỉnh các hoạt động đó bằng các qui phạm pháp luật riêng
biệt mang tính đặc thù. Theo thời gian, tất cả những qui
định điều chỉnh hoạt động hàng không quốc tế ngày càng
mang tính thống nhất cao trên phạm vi toàn thế giới.
Vận chuyển hàng không đòi hỏi phải an toàn tuyệt đối,
cả kỹ thuật chế tạo và ngời điều khiển cho nên các qui định
pháp luật cũng phải chặt chẽ, đáp ứng yêu cầu trên. Luật
hàng không có tính chất kỹ thuật vì quá trình hình thành
và phát triển của nó phải theo kịp và gắn bó với quá trình
phát triển kỹ thuật của ngành hàng không, nên do vậy luật
điều chỉnh phải có các qui tắc phù hợp.

Quan hệ xã hội hình thành và phát triển do việc khai
thác, sử dụng tầu bay là một nhóm quan hệ xã hội có những
nét đặc thù riêng. Một chuyến bay đợc thừa nhận là chuyến

15


bay quốc tế khi chuyến bay đó ra ngoài biên giới quốc gia.
Hoạt động vận chuyển quốc tế ngày càng mở rộng, tầu bay
phải bay qua nhiều vùng trời của các quốc gia khác nhau vì
vậy các Chính phủ đã phải cùng nhau mở hội nghị quốc tế
để đa ra các qui chế pháp lý cho phù hợp. Các điều ớc quốc
tế điều chỉnh hoạt động vận chuyển hàng không quốc tế
ra đời. Với bản chất quốc tế của mình, việc thống nhất một
tiếng nói chung là việc làm cần thiết nhằm nhất thể hoá các
qui định có liên quan.
Tóm lại, vận chuyển hàng không quốc tế là quá trình
vận chuyển hành khách, hàng hoá và bu kiện qua lãnh thổ
của hơn một quốc gia. Giao lu hàng không quốc tế liên quan
chặt đến nguyên tắc chủ quyền quốc gia. Mỗi quốc gia
đều thực hiện điều chỉnh pháp luật đối với hoạt động vận
chuyển hàng không ở trong nớc mình bao hàm cả hoạt động
vận chuyển của các hãng nớc ngoài trong phạm vi lãnh thổ của
quốc gia mình. Để thực hiện hoạt động vận chuyển hàng
không trên lãnh thổ của một quốc gia khác cần phải đợc sự
đồng ý của quốc gia có liên quan đó. Nh vậy cần phải có
những qui định thống nhất về mặt quốc tế để không gây
ra những rào cản đến hoạt động này. Ngoài ra, hoạt động
vận chuyển hàng không về bản chất là hoạt động thơng mại.
Với xu hớng toàn cầu hoá và tự do hoá ngày càng tăng thì vai

trò cầu nối của hoạt động vận chuyển hàng không cũng ngày
càng thể hiện rõ nét. Chính do các đặc điểm nh vậy đã
cho thấy vận chuyển hàng không quốc tế một lĩnh vực khá
sôi động, có tính cạnh tranh cao và đòi hỏi một sự điều tiết

16


chặt chẽ bằng các qui định pháp lý của từng quốc gia và cả
cộng đồng quốc tế.
1.3. Các giai đoạn phát triển của pháp luật quốc tế về
vận chuyển hàng không:
Đối với mỗi quốc gia, việc giao lu và hợp tác quốc tế là
điều không thể thiếu đợc và trở nên cực kỳ quan trọng. Vận
tải hàng không quốc tế ngày càng đóng một vai trò thiết
yếu. Vai trò quan trọng của vận chuyển hàng không quốc tế
đã dẫn tới sự phát triển của luật hàng không quốc tế. Hoạt
động vận chuyển hàng không đợc điều chỉnh bởi một qui
chế riêng biệt so với các hoạt động hàng không khác, nhng
thực chất qui chế đó chỉ là sự phát triển đặc biệt của các
qui tắc điều chỉnh các hoạt động hàng không nói chung.
Ngời ta đã chia quá trình hình thành và phát triển của pháp
luật quốc tế về vận chuyển hàng không thành 3 thời kỳ : thời
kỳ trớc năm 1919; thời kỳ từ năm 1919 đến năm 1944 và thời
kỳ từ năm 1945 đến nay.
- Thời kỳ trớc năm 1919:
Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật đã kéo theo
sự phát triển của kỹ thuật tầu bay. Việc tầu bay thực hiện
thành công các chuyến bay đã làm cho khả năng thâm nhập
vào vùng trời của các quốc gia khác trở thành hiện thực. Vì

vậy, các quốc gia đã bắt đầu chú ý đến việc bảo vệ vùng
trời của mình và sự an toàn trớc các hoạt động hàng không.
Mặt khác trớc các nhu cầu phát triển kinh tế, các quốc gia
cũng nhận thấy sự cần thiết phát triển giao lu hàng không

17


quốc tế nhng vẫn coi trọng đến các yếu tố an ninh và chủ
quyền quốc gia.
Trong thời kỳ này, các nhà khoa học và các luật gia tập
trung vào nghiên cứu các vấn đề nh chủ quyền quốc gia đối
với vùng trời, khái niệm vùng trời quốc gia, bản chất pháp lý của
chuyến bay v.v... Năm 1910 tại Paris đã triệu tập Hội nghị
ngoại giao với sự tham gia của 19 nớc để xem xét dự thảo
Công ớc quốc tế về không vận. Tuy nhiên, hội nghị này đã
không giải quyết đợc vấn đề về qui chế pháp lý của vùng
trời.
Tiếp theo hội nghị trên, một sự kiện mang tính lịch sử
của thời kỳ này là Hội nghị quốc tế tại Paris năm 1919 đã
thông qua Công ớc về không vận hay còn đợc gọi tên là Công ớc về qui tắc không lu (Convention Relating to the Regulation
of Aerial Navigation) và đợc 32 nớc ký kết. Đây là điều ớc
quốc tế đa phơng đầu tiên trong lĩnh vực hàng không dân
dụng công nhận quyền của các nớc thành viên đợc bay qua
lãnh thổ của nhau trong thời bình. Các quốc gia chỉ đợc cấm
bay qua một số vùng lãnh thổ vì lý do quốc phòng. Công ớc
cũng qui định các nguyên tắc để tạo điều kiện cho việc
giao thông nhanh chóng của các tầu bay giữa các lãnh thổ
của các quốc gia ký kết về các vấn đề nh quốc tịch, chứng
chỉ bay, cấm chuyên chở một số hàng hoá,thủ tục xuất nhập

cảnh, y tế, hải quan.... Nhằm bổ sung cho Công ớc một số
phụ lục kỹ thuật đi kèm để qui định những vấn đề nh tiêu
chuẩn khả phi, chứng nhận bắt buộc của phi hành đoàn...
Những nguyên tắc pháp lý của Công ớc này đã ảnh hởng

18


nhiều đến việc xây dựng luật lệ về sau, đa hoạt động
hàng không đi vào nề nếp, không ngừng phát triển.
- Thời kỳ từ 1920 đến 1944
Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, phơng tiện bay chiến
đấu của các nớc thắng trận, chủ yếu là Anh, Pháp, Mỹ đợc
chuyển sang mục đích vận tải dân sự, thúc đẩy một bớc
phát triển của hàng không dân dụng mà lúc bấy giờ chủ yếu
là vận chuyển quốc tế. Vào giai đoạn này hàng không dân
dụng đã trở thành một ngành vận tải đặc biệt. Tầu bay đã
đợc sử dụng phổ biến để vận chuyển hành khách, hàng
hoá, bu phẩm và bu kiện từ quốc gia này đến quốc gia kia và
ngợc lại. Mạng đờng bay quốc tế có ý nghĩa sống còn đối với
sự phát triển thơng mại quốc tế của mỗi quốc gia. Đây là thời
kỳ đặc trng bởi các hoạt động mang tính thơng mại của
hàng không dân dụng. Giao lu hàng không thờng lệ đã đợc
thiết lập giữa các quốc gia. Tiếp sau Công ớc Paris 1919, Công
ớc thứ hai là công ớc về hàng không thơng mại Convention on
Commercial Aviation đợc ký tại Ha-va-na năm 1928 có 12 nớc
phê chuẩn. Công ớc này qui định về vận tải hành khách,
hàng hoá hàng không thơng mại giữa các quốc gia thành viên
của Công ớc.
Vận tải hàng không thơng mại phát triển nhanh chóng

trong những năm 20 của thế kỷ trớc đã làm phát sinh một loạt
vấn đề cần phải điều chỉnh pháp luật. Đó là việc qui định
trách nhiệm của nhà vận chuyển, ngời khai thác tàu bay đối
với hành khách và chủ hàng khi xảy ra thiệt hại trong quá
trình vận chuyển hàng không; trách nhiệm của ngời khai

19


thác tàu bay khi tàu bay gây thiệt hại cho ngời thứ ba ở dới
mặt đất v.v...Tất cả những mối quan hệ mới phát sinh này
đòi hỏi phải có những nguyên tắc điều chỉnh thống nhất.
Một loạt điều ớc quốc tế đa phơng đã đợc ký kết trong giai
đoạn này nh Công ớc thống nhất một số qui tắc vận chuyển
hàng không quốc tế ký tại Vac-sa-va năm 1929 Convention for
the Unification of Certain Rules relating to International
Carriage by air; Đây là điều ớc quốc tế đa phơng đầu tiên
khi đề cập đến giới hạn trách nhiệm của nhà vận chuyển;
Công ớc Ro-ma năm 1933 (Convention for the Unification of
Certain Rules relating to Dâmge caused by Aircraft to Third
on the Surface) thống nhất một số qui tắc về bồi thờng thiệt
hại do tầu bay gây ra cho những ngời thứ ba ở mặt đất.
Trong những năm 20 và 30 của thế kỷ trớc nhiều quốc
gia đã ban hành các đạo luật qui định chế độ pháp lý của
vùng trời trên lãnh thổ quốc gia. Các hiệp định hàng không
song phơng đã đợc ký kết và sau này trở thành phơng thức
chủ yếu để trao đổi quyền vận chuyển hàng không thờng
lệ giữa các quốc gia. Tuy vậy, vào thời điểm này trong các
hiệp định hàng không song phơng còn cha có sự phân biệt
rõ ràng quyền bay và quyền thực hiện vận chuyển hàng

không.
Trong những năm cuối cùng của chiến tranh thế giới lần
thứ hai, các nớc đã nhìn thấy tiềm năng phát triển của ngành
hàng không dân dụng, sự đóng góp của nó trong việc tạo ra,
giữ gìn tình hữu nghị, hoà bình, ổn định và phát triển
giữa các quốc gia trên thế giới. Nhằm tạo cơ sở pháp lý điều

20


chỉnh mối quan hệ giữa các nớc trong lĩnh vực này, ngày
07/12/1944 tại Chicago của nớc Mỹ, Công ớc về hàng không
dân dụng hay còn gọi là Công ớc Chi-ca-go (Convention on
International Civil Aviation) đã đợc ký kết. Công ớc bao gồm
phần thể chế hoá luật pháp quốc tế về hoạt động hàng
không dân dụng quốc tế đồng thời thiết lập ra Tổ chức
hàng không dân dụng quốc tế với tên viết tắt là ICAO.
Có thể nói đây là bớc tiến vợt bậc về mặt lập pháp
quốc tế trong lĩnh vực hàng không dân dụng. Lần đầu tiên
một văn bản pháp lý mang tính toàn cầu với các qui định
đầy đủ và chặt chẽ đã ra đơì. Nó thực sự là nền tảng pháp
lý cho hoạt động hàng không dân dụng quốc tế cũng nh các
văn bản pháp lý quốc tế khác trong lĩnh vực này. Công ớc đã
ảnh hởng lớn đến sự phát triển của luật hàng không quốc tế
và luật hàng không quốc gia của tất cả các nớc ở thời kỳ sau
chiến tranh thế giới thứ hai.
- Thời kỳ từ năm 1945 đến nay:
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, vận tải hàng không thơng mại ngày càng phát triển. Thực tiễn ký các hiệp định
vận chuyển hàng không song phơng ngày càng phổ biến.
Các hiệp định nh vậy đợc ký kết dựa trên mẫu Hiệp định

trao các đờng bay (mẫu Chi-ca-go) hoặc theo mẫu Hiệp
định Bermuda 1 năm 1946 ký giữa Anh và Hoa Kỳ.
Nhằm đảm bảo quyền lợi cho ngời sở hữu và ngời thuê
tàu bay năm 1948 tại Giơ-ne-vơ đã ký Công ớc về công nhận
quốc tế các quyền đối với tàu bay (Convention for the
International Recognition of Rights in Aircraft). Công ớc qui

21


định các quyền của các quốc gia, thể nhân và pháp nhân
liên quan đến vấn đề sở hữu tầu bay, đăng ký tầu bay,
thuê, tổ chức bắt giữ với t cách bảo đảm thanh toán nợ, thực
hiện quyết định của tòa án.
Sự tăng trởng của vận chuyển hàng không quốc tế đã
đặt vấn đề xem xét lại công ớc Vác-sa-va năm 1929. Việc
xem xét lại công ớc tập trung chủ yếu vào các vấn đề sau
đây: tăng mức giới hạn trách nhiệm của ngời vận chuyển;
nguyên tắc và chế độ trách nhiệm đối với hành khách, hàng
hóa; đơn giản hóa các chứng từ vận chuyển. Năm 1955 tại
La-hay các quốc gia đã ký nghị định thu sửa đổi công ớc
Vac-sa-va năm 1929. Nghị định th La-hay đã tăng mức giới
hạn trách nhiệm của ngời vận chuyển lên hai lần khi hành
khách bị chết hoặc bị thơng. Đồng thời làm chính xác hơn
khái niệm vận chuyển hàng không quốc tế, qui định thủ
tục khiếu nại và đơn giản hóa việc làm thủ tục chứng từ vận
chuyển v.v... Quá trình này tiếp tục bằng việc ký kết các
điều ớc sửa đổi, bổ sung công ớc Vác-sa-va, nghị định th
La-hay. Cụ thể là năm 1961 tại Gua-da-la-ja-ra nghị định th
bổ sung Công ớc Vác-sa-va (qui định áp dụng các Công ớc

Vac-sa-va, Vác-sa-va-La-hay trong trờng hợp vận chuyển đợc
thực hiện bởi ngời vận chuyển không phải là ngời vận
chuyển theo hợp đồng) đã ra đời; năm 1971 tại Gua-te-ma-la
đã ký Nghị định th tăng giới hạn trách nhiệm đối với hành
khách lên 12 lần so với mức giới hạn qui định trong Công ớc
Vac-sa-va trong trờng hợp hành khách bị chết hoặc bị thơng; năm 1975 Hội nghị Môn-rê-an đã thông qua 4 Nghị

22


định th, trong đó quan trọng nhất là Nghị định th số 4 qui
định chế độ trách nhiệm khách quan đối với thiệt hại xảy ra
khi vận chuyển hàng hóa, cho phép sử dụng các thiết bị
điện tử xử lý chứng từ vận chuyển. Nhìn chung, các điều ớc
quốc tế bổ sung sau này đợc soạn thảo và thông qua theo
quan điểm nâng mức giới hạn trách nhiệm và đa nguyên tắc
trách nhiệm khách quan của ngời vận chuyển vào nội dung
các điều khoản của mình. Hệ thống Công ớc Vac-sa-va là cơ
sở pháp lý quan trọng điều chỉnh việc giải quyết và thực
hiện trách nhiệm dân sự trong vận chuyển hàng không quốc
tế.
Một vấn đề quan trọng khác của luật hàng không trong
thời kỳ này là vấn đề bồi thờng thiệt hại do tầu bay gây ra
cho những ngời thứ ba ở mặt đất. Năm 1952 tại Rome đã ký
Công ớc về vấn đề bồi thờng thiệt hại do tầu bay gây ra cho
những ngời thứ ba ở mặt đất (Convention on Damage
Caused by Foreign Aircraft to Third parties on the surface) để
thay thế cho Công ớc Rome năm 1933 và nghị định th bổ
sung Bruxen năm 1938. Năm 1978 trong khuôn khổ ICAO đã
ký Nghị định th Môn-rê-an bổ sung Công ớc Rome năm 1972.

Trong thời gian cuối những năm 60, đầu năm 70 hành vi
can thiệp bất hợp pháp vào hoạt động hàng không dân dụng
tăng lên rất nhanh. Các quốc gia thành viên của ICAO và cộng
đồng hàng không dân dụng quốc tế tập trung nỗ lực vào
việc tìm kiếm các biện pháp hữu hiệu trên qui mô toàn cầu
để ngăn chặn các hành vi bất hợp pháp ngày càng gia tăng.
Một số điều ớc quốc tế đa phơng về an ninh hàng không đã

23


đợc ký kết trong thời gian từ năm 1963 đến 1991 bao gồm:
Công ớc về sự phạm tội và một số hành vi khác thực hiện trên
tầu bay ký năm 1963 tại Tôkyô (Convention on Offences and
Certain Other Acts commited on Board Aircraft); Công ớc về
ngăn chặn sự chiếm đoạt bất hợp pháp tầu bay dân dụng ký
năm 1970 tại Lahay (Convention for the suppression of
Unlawful Seizure of Aircraft); Công ớc về ngăn chặn các hành
vi bất hợp pháp chống lại an toàn hàng không dân dụng ký
năm 1971 tại Môn-rê-an (Convention for the suppression of
Unlawful Acts Against the Safety of Civil Aviation); Nghị định
th về ngăn chặn các hành vi bạo lực bất hợp pháp tại các cảng
hàng khong phục vụ hàng không dân dụng quốc tế bổ sung
công ớc Môn-rê-an năm 1971 ký tại Môn-rê-an năm 1988.
Vào cuối thập kỷ 90, các nớc phát triển và các hãng hàng
không lớn trên thế giới đều có quan điểm chủ đạo loại bỏ
nguyên tắc trách nhiệm dựa trên cơ sở lỗi và thay vào đó là
trách nhiệm khách quan (không dựa trên cơ sở lỗi). Để thực
hiện ý tởng này, một sự kiện có ý nghĩa lịch sử trong lĩnh
vực pháp luật hàng không quốc tế là Hội nghị ngoại giao về

luật hàng không tổ chức tại Môn-rê-an ngày 28/5/1999 với
việc ký Công ớc thống nhất các qui tắc về vận chuyển hàng
không quốc tế nhằm thay thế cho 8 điều ớc quốc tế hiện
hành của hệ thống Vac-sa-va. Công ớc Môn-rê-an năm 1999
(Convention for the Unification of Certain Rules relating to
International Carriage by Air) đã có hiệu lực từ ngày
04/11/2003 đợc ghi nhận là sự thống nhất các điều ớc quốc
tế về vận chuyển hàng không quốc tế.

24


Nh vậy, thực tiễn hoạt động vận chuyển hàng không
quốc tế đã làm phát sinh nhiều vấn đề đòi hỏi cộng đồng
quốc tế cần phải đợc giải quyết. Khuynh hớng tiến tới quốc tế
hoá và toàn cầu hoá phản ánh sự hợp tác và tính liên kết ngày
càng tăng của các quốc gia. Ngời ta nhận thấy rằng hoạt
động vận chuyển hàng không ngày càng đợc các quốc gia và
cộng đồng quốc tế quan tâm bởi vì nó ảnh hởng trực tiếp
đến sự an toàn cho các đối tợng tham gia (đó là máy bay,
hành khách, hàng hoá, ngời thứ ba dới mặt đất ...), đến lợi
ích kinh tế của các chủ thể tham gia cũng nh lợi ích quốc gia,
chủ quyền và an ninh quốc phòng. Các qui định pháp lý có
liên quan đợc xây dựng làm sao vừa bảo đảm an toàn, hiệu
quả thúc đẩy hoạt động vận chuyển hàng không quốc tế
phát triển, đảm bảo sự cạnh tranh lành mạnh giữa các chủ
thể tham gia thị trờng, bảo vệ ngời tiêu dùng, cân bằng lợi
ích giữa các quốc gia thông qua việc ký kết các hiệp định,
trao đổi thơng quyền, hợp tác quốc tế trong lĩnh vực vận
chuyển quốc tế cũng nh đảm bảo sự phát triển của ngành

hàng không mỗi nớc.
1.4. Một số vấn đề về vận chuyển hàng không quốc
tế đợc đề cập trong các điều ớc quốc tế đa phơng:
1.4.1. Nguyên tắc thiết lập chuyến bay quốc tế:
Xuất phát từ nguyên tắc chủ quyền hoàn toàn và riêng
biệt đối với vùng trời trên lãnh thổ quốc gia, tầu bay nớc ngoài
chỉ đợc bay vào lãnh thổ quốc gia khác khi đợc sự cho phép
của quốc gia đó. Đây là nguyên tắc đợc cộng đồng hàng

25


×