Tải bản đầy đủ (.docx) (108 trang)

Quyền về môi trường trong pháp luật quốc tế và pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (355.28 KB, 108 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ THU HẰNG

QUYỀN VỀ MÔI TRƯỜNG TRONG PHÁP LUẬT
QUỐC TẾ VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội – 2016


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ THU HẰNG

QUYỀN VỀ MÔI TRƯỜNG TRONG PHÁP LUẬT
QUỐC TẾ VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM
Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số:

60 38 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS TƯỜNG DUY KIÊN

Hà Nội – 2016


2


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các luận
điểm, nội dung nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nghiên cứu nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính
chính xác, tin cậy và trung thực.
Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo
vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

NGUYỄN THỊ THU HẰNG


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan


LỜI MỞ ĐẦU

1.Tính cấp thiết của đề tài
Môi trường đã, đang và sẽ trở thành một trong những vấn đề nóng bỏng
nhất đối với các nước phát triển cũng như đang phát triển. Vấn đề quyền con
người về môi trường cũng vì thế mà dần trở thành mối quan tâm hàng đầu của

các quốc gia, vì chỉ khi môi trường trong lành, quyền con người về môi trường
nói riêng và quyền con người nói chung mới có thể được đảm bảo một cách hiệu
quả.
Thật vậy, môi trường có sự ảnh hưởng rất lớn đến đời sống của mỗi con
người. Hiểu theo cách thuần túy nhất, môi trường ở đây chính là nguồn nước, là
cây xanh hay chính là không khí mà chúng ta hít thở hàng ngày…Nó là các yếu
tố tác động và ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của mỗi con người. Theo
nghiên cứu của các nhà khoa học thế giới, con số 3 là con số chuẩn để đo
ngưỡng giới hạn cuối cùng của con người bình thường trong hoạt động nhịn thở
và nhịn uống. Tức là nếu như không có nước uống trong 3 ngày, không có oxi để
thở quá 3 phút thì con người sẽ chết. Chỉ một ví dụ đơn giản đã có thể chứng
minh cho chúng ta thấy được, môi trường chính là yếu tố quyết định đến chất
lượng sống và quyền sống của con người.
Trái đất nóng lên, băng tan, hiệu ứng nhà kính, ô nhiễm môi trường…đang
là những vấn đề vô cùng nghiêm trọng ảnh hưởng từng ngày đến toàn thế giới.
Đứng trước thực trạng đáng báo động của môi trường buộc cộng đồng quốc tế
phải có những cái nhìn đúng đắn về tầm quan trọng của môi trường, quyền con
người về môi trường. Nhận thức được điều đó, rất nhiều các quốc gia đã ban
hành các đạo luật cho riêng mình nhằm bảo vệ môi trường. Nhiều công ước quốc
5


tế được ban hành nhằm gắn kết và nâng cao tính bảo vệ môi trường liên kết và có
được những kết quả đáng ghi nhận.
Tại Việt Nam, cùng với xu hướng Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa, với
những kết quả đã đạt được của một đất nước đang phát triển như tốc độ phát
triển kinh tế tăng, đời sống của con người được nâng cao, hội nhập quốc tế đạt
nhiều kết quả đáng tự hào…thì cũng kéo theo rất nhiều các vấn đề về môi trường
như ô nhiễm không khí, ô nhiễm môi trường nước, sự suy giảm nghiêm trọng đa
dạng sinh học…và rất nhiều vấn đề khác liên quan đến môi trường, có những

ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống con người. Đặc biệt, đối với các nước đang
phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng thì nguy cơ môi trường lại càng nóng
bỏng khi có sự xung đột mạnh mẽ giữa nhu cầu cuộc sống hàng ngày và nhu cầu
phát triển của xã hội với sự cần thiết phải bảo vệ môi trường, đảm bảo quyền con
người về môi trường đang là dấu hỏi lớn được đặt ra, phải làm sao để có được sự
cân bằng và phát triển bền vững.
Hiến pháp năm 2013 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam lần
đầu tiên quy định về quyền con người về môi trường tại Điều 43 “Mọi người có
quyền được sống trong môi trường trong lành và có nghĩa vụ bảo vệ môi
trường". Điều đó cho thấy, quyền được sống trong môi trường trong lành là
quyền căn bản của con người được quy định cụ thể và rõ ràng trong Hiến pháp
bên cạnh các quyền khác như quyền được sống, quyền được học tập, quyền tự
do, quyền được nghiên cứu khoa học…Xuyên suốt chiều dài lịch sử, đã có rất
nhiều các văn bản quy phạm pháp luật về môi trường được ban hành như Luật
bảo vệ môi trường năm 1993, Luật bảo vệ môi trường sửa đổi bổ sung năm 2005,
Luật bảo vệ môi trường năm 2014, Luật đa dạng sinh học, Luật bảo vệ và phát
triển rừng, Luật đất đai, Luật tài nguyên nước…và rất nhiều các văn bản dưới
6


luật khác như: Tiêu chuẩn phát thải cho các phương tiện, tiêu chuẩn môi trường
quốc gia, về phí bảo vệ môi trường đối với nước thải, chiến lược bảo vệ môi
trường quốc gia đến năm 2010, định hướng đến năm 2020…cho thấy tầm quan
trọng trong việc bảo vệ môi trường, đảm bảo quyền con người về môi trường
trong các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, nhằm đảm bảo con
người thực sự được sống trong môi trường trong lành, với những tiêu chuẩn chất
lượng cuộc sống cao nhất.
Tuy nhiên, những giải pháp đề ra vẫn chưa thực sự đạt được hiệu quả rõ
rệt, các quy định của pháp luật vẫn chưa được thực thi một cách triệt để, nhận
thức của người dân chưa thực sự được nâng cao về môi trường, về quyền con

người được sống trong môi trường trong lành.
Có thể thấy rằng, vấn đề quyền con người về môi trường với thế giới nói
chung và Việt Nam nói riêng đang còn rất nhiều vướng mắc, trở ngại buộc chúng
ta phải phân tích, tìm hiểu, nhằm đưa ra những giải pháp tốt nhất, hiệu quả nhất
góp phần giải quyết vấn đề môi trường triệt để theo hướng có lợi và gắn liền với
sự phát triển bền vững. Trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam có rất
nhiều các quy định quyền con người về môi trường. Để có thể đưa ra hướng đi
tối ưu nhằm bảo vệ môi trường, đảm bảo quyền con người về môi trường thì việc
hiểu đủ, đúng và rõ về các quy định trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt
Nam là điều rất cần thiết. Từ đó chúng ta có thể đưa ra những phân tích từ các
Công ước quốc tế về quyền con người về môi trường, sau đó lĩnh hội, kế thừa
sao cho phù hợp với pháp luật Việt Nam - một quốc gia đang phát triển thực sự
quan tâm đến vấn đề quyền con người về môi trường và phát triển bền vững,
đồng thời làm cơ sở lý luận và thực tiễn phục vụ cho việc hoàn thiện hệ thống
pháp luật về quyền con người về môi trường, pháp luật môi trường trong thời
7


gian tới. Chính từ những lý do và vấn đề đã nêu trên, học viên lựa chọn cho mình
đề tài: “Quyền về môi trường trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam” để
nghiên cứu luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu
Cùng với thực tiễn xã hội, môi trường đã, đang và sẽ trở thành vấn đề
được nhiều nhà khoa học quan tâm, từng có rất nhiều các công trình nghiên cứu
xoay quanh vấn đề này. Tuy nhiên, nghiên cứu môi trường dưới góc nhìn quyền
con người về môi trường lại là vấn đề mới mẻ, đặc biệt quyền con người về môi
trường trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam - một vấn đề xoay quanh
và tìm hiểu quyền con người về môi trường trong pháp luật quốc tế và pháp luật
Việt Nam lại là chủ đề rất mới trong việc tiếp cận và nghiên cứu. Theo tìm hiểu,
chỉ có một số bài viết, tham luận, nghiên cứu khoa học, tài liệu tập huấn tại một

số hội thảo khoa học, trong đó nổi bật có thể kể đến:
- Tiếp cận quyền trong bảo vệ môi trường, TS. Nguyễn Đức Thùy chủ
biên, Tài liệu tập huấn của IUCN Việt Nam, Hà Nội – 2012
- Một số vấn đề pháp lý về quyền được sống trong môi trường trong lành
ở Việt Nam hiện nay, Th.S Bùi Đức Hiển
- Quyền về môi trường – một quyền con người mới trong thời kì hiện đại,
Lưu Mẫn, Quyền con người ở Trung Quốc và Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị
Quốc gia, Hà Nội – 2003
- Mấy góp ý về quyền được sống trong môi trường trong lành trong dự
thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, Th.S Bùi Đức Hiển, Tạp chí Nhà nước và
pháp luật, Viện Nhà nước và Pháp luật, Số 6/2013, tr.12-18.
- Một số vấn đề cơ bản về quyền con người với môi trường và điều kiện
đảm bảo thực thi ở Việt Nam giai đoạn 2011-2020 vì mục tiêu phát triển con
8


người, Đào Thị Minh Hương, Đề tài khoa học cấp Bộ, Viện nghiên cứu con
người, Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội – 2012
- Pháp luật Quốc tế về quyền tiếp cận thông tin, ThS. Thái Anh Hùng, Hà
Nội – 2015
- Hoàn thiện pháp luật về môi trường để phát triển bền vững, ThS. Bùi
Đức Hiển, Tạp chí Cộng Sản, Hà Nội – 2016
- Môi trường với quyền con người và quyền con người trong bảo vệ môi
trường ở Việt Nam, ThS. Phạm Thị Tính, Tạp chí nghiên cứu Lập pháp số 172,
tr.18-25
Những công trình nêu trên đã cung cấp một lượng kiến thức căn bản
quyền con người về môi trường. Tuy nhiên, chưa có một công trình nào nghiên
cứu một cách toàn diện từ quy định pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam về
vấn đề này, đồng thời lồng ghép thực tiễn và đưa ra đánh giá về tính thực thi của
pháp luật quyền về môi trường trong các lĩnh vực liên quan, phân tích cụ thể

nguyên tắc Hiến định, từ đó đưa ra giải pháp khắc phục toàn diện, giúp cho
quyền về môi trường được kế thừa và thực thi một cách hiệu quả. Vì vậy, việc
nghiên cứu quyền về môi trường trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam
là một đề tài mang tính mới, có ý nghĩa nhất định về lý luận và thực tiễn.
3. Mục tiêu nghiên cứu
3.1. Mục tiêu tổng quát
Làm rõ những vấn đề lý luận quyền về môi trường được quy định trong
pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam hiện nay, từ đó chỉ ra được những tiến
bộ, bất cập, hạn chế, đưa ra những phương hướng, giải pháp nhằm giúp pháp luật
quyền về môi trường đi vào thực tế một cách hiệu quả hơn, góp phần thực thi
nguyên tắc Hiến định quyền con người được sống trong môi trường trong lành.
9


3.2. Mục tiêu cụ thể
- Nêu và phân tích những nội dung quyền về môi trường trong pháp luật
quốc tế như: công ước quốc tế và trong pháp luật của một số quốc gia.
- Nêu và phân tích những nội dung quyền về môi trường trong pháp luật
Việt Nam, đặc biệt đi sâu và làm rõ nguyên tắc Hiến định quyền con người được
sống trong môi trường trong lành.
- Đưa ra những phân tích đánh giá quyền về môi trường trong pháp luật
quốc tế và pháp luật Việt Nam, từ đó làm cơ sở lý luận, giúp hoàn thiện hệ thống
pháp luật quyền con người về môi trường
- Nêu lên thực trạng bảo đảm thực thi quyền về môi trường trong pháp luật
Việt Nam, đưa ra những kiến nghị nhằm đảm bảo quyền con người về môi
trường trong pháp luật quốc tế nói chung và pháp luật Việt Nam nói riêng
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Quyền về môi trường là một quyền con người bên cạnh các quyền về dân
sự, kinh tế, xã hội khác… Chính vì vậy, quyền về môi trường trong đề tài nghiên
cứu này được tiếp cận dưới góc độ quyền con người về môi trường.

Đối tượng nghiên cứu của đề tài chính là các vấn đề lý luận và thực tiễn
quyền con người về môi trường trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam,
đặc biệt chú trọng về vấn đề quyền môi trường lần đầu tiên được quy định tại
Hiến pháp năm 2013.
5. Tính mới của đề tài
Vấn đề môi trường là một trong những vấn đề đã được các nhà khoa học
nghiên cứu từ nhiều góc nhìn và cho ra đời nhiều đề tài khác nhau. Tuy nhiên,
phần lớn mới chỉ dừng lại ở góc độ gắn liền môi trường với pháp luật và kinh tế.
Trong thời gian gần đây, khi nhận thức môi trường có mối quan hệ mật thiết tới
10


sức khỏe và quyền con người thì hướng tiếp cận quyền về môi trường dưới góc
độ quyền con người về môi trường là khá mới mẻ, hơn thế nữa, đề tài nghiên cứu
còn tiếp cận về quyền môi trường từ cả góc độ pháp luật quốc tế và pháp luật
Việt Nam, từ đó đưa ra cái nhìn tổng quát, nhằm hoàn thiện, kế thừa có chọn lọc
những điểm ưu việt của pháp luật quốc tế đối với pháp luật quyền con người về
môi trường của Việt Nam, với mục tiêu hòa nhập và bắt kịp xu thế thời đại. Đồng
thời, Hiến pháp năm 2013 được Quốc Hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 6 ngày 28 tháng 11 năm 2013 thông qua, là Hiến
pháp mới ban hành, trong đó quyền con người được sống trong môi trường trong
lành cũng là một trong những nguyên tắc Hiến định mới được đưa ra. Luận văn
nghiên cứu góp phần trong việc thực thi hiệu quả Hiến pháp 2013.
6. Nội dung và phương pháp nghiên cứu
6.1. Nội dung
Đưa ra và phân tích quyền về môi trường trong pháp luật quốc tế và pháp
luật Việt Nam dưới góc độ quyền con người về môi trường. Từ đó tìm ra phương
hướng hoàn thiện hệ thống pháp luật quyền về môi trường dưới góc độ tiếp cận
cũng như góp phần thực thi nguyên tắc Hiến định quyền con người được sống
trong môi trường trong lành.

6.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa MácLênin (duy vật biện chứng và duy vật lịch sử), tư tưởng Hồ Chí Minh và các
quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về Nhà nước và Pháp luật, về Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, đảm bảo quyền con người về môi trường. Việc nghiên
cứu được thực hiện từ góc độ lý luận chung, đặc biệt là vấn đề quyền con người
về môi trường trong đó chú trọng đến nguyên tắc Hiến định quyền con người
11


được sống trong môi trường trong lành và sử dụng cách tiếp cận liên ngành. Các
phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng là phân tích, tổng hợp, lịch sử, so
sánh, thống kê...
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, cấu trúc luận văn bao gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận Quyền về môi trường
Chương 2: Quyền về Môi trường trong Pháp luật Quốc tế
Chương 3: Quyền về môi trường trong Pháp luật Việt Nam

12


CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN QUYỀN VỀ MÔI TRƯỜNG

1.1. Lịch sử hình thành và phát triển khái niệm Quyền con người về
Môi trường
1.1.1. Nhận thức của cộng đồng quốc tế về Quyền con người về Môi
trường
Có thể nói rằng, từ phương Đông đến phương Tây, tư tưởng về quyền con
người đã xuất hiện, hình thành và phát triển trong tất cả các nền văn hóa. Đây

không phải là sản phẩm của một giai cấp, tầng lớp, dân tộc hay nền văn hóa nào
mà chính là sự kết tinh của nền văn minh nhân loại.
Trong thời đại ngày nay, ở bất kì một quốc gia nào, quyền con người cũng
được chú trọng và quan tâm hàng đầu, trong mọi lĩnh vực, từ vấn đề hoạch định
chính sách, pháp luật đến thiết lập quan hệ đối ngoại giữa các quốc gia.
Quyền con người là một giá trị cao quý, cả thế giới đang hướng tới xây
dựng một xã hội mà ở đó con người được hưởng một cách thực chất nhất các
quyền lợi của mình – một cách trọn vẹn.
Từ thời cổ đại, chúng ta cũng dễ dàng tìm thấy những văn bản pháp luật
chứa đựng, đề cập đến việc bảo vệ các giá trị, nhân phẩm của con người. Đó
chính là các quy định nhằm bảo vệ các quyền của thần dân chống lại các vi phạm
xâm phạm đến các quyền vốn có như quyền sống, quyền sở hữu, quyền tự do
thân thể…Điển hình là Bộ luật Hammurabi (khoảng năm 1780 TCN) - một trong
những bộ luật tiêu biểu nhất cho thời cổ đại với hình phạt vô cùng nghiêm khắc:
tội vu khống người khác, tội xâm phạm quyền sở hữu…Ngoài ra, có rất nhiều

13


các tác phẩm tôn giáo nổi tiếng thế giới cũng thể hiện tấm lòng yêu thương con
người như: Kinh Ko-ran, Luận ngữ, Kinh phật, Kinh thánh…
Tư tưởng quyền con người được hình thành từ rất sớm trong lịch sử nhân
loại. Tuy nhiên, đã có rất nhiều quan điểm trái chiều về quyền con người, rằng
nó là quyền tự nhiên hay quyền pháp lý. Trên thế giới đã đưa ra rất nhiều giả
thuyết từ những người theo các trường phái khác nhau. Cùng với sự phát triển
của thời đại, từ cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, tư tưởng quyền con người đã dần
trở thành một vấn đề mang tính chất toàn cầu, được thể chế hóa một cách toàn
diện và có tính hệ thống. Một loạt các tổ chức quốc tế ra đời như: Hội chữ thập
đỏ và Trăng lưỡi liềm đỏ Quốc tế ra đời năm 1863, Hội Quốc liên và Tổ chức
Lao động Quốc tế ra đời ra đời năm 1919. Và đặc biệt từ sau sự ra đời của Liên

hợp Quốc năm 1945 và ban hành Tuyên ngôn thế giới về Quyền con người năm
1948 thì vấn đề quyền con người đã trở thành mục tiêu chung của toàn nhân loại.
Mặc dù Tuyên ngôn không đưa ra định nghĩa về quyền con người mà đi
thẳng vào nội hàm của vấn đề, nhưng ngay ở lời nói đầu của Tuyên ngôn: “Việc
thừa nhận phẩm giá vốn có, các quyền bình đẳng và không thể tách rời của mọi
thành viên trong gia đình nhân loại là cơ sở cho tự do, công bằng và hòa bình
thế giới” đủ để cho chúng ta thấy quyền con người là một quyền tự nhiên, vốn có
nhưng phải được pháp luật ghi nhận và bảo vệ.[19]
Ở Việt Nam hiện nay, đã có một số định nghĩa về quyền con người được
đưa ra, nhưng về căn bản không phải định nghĩa nào cũng hoàn toàn giống nhau,
tựu chung lại chúng đều được hiểu theo hướng quyền con người là “những nhu
cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có và khách quan của con người được ghi nhận và bảo
vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế” [18, tr38]

14


Nói đến quyền về môi trường thực chất để nói tới quyền của con được
sống trong môi trường trong lành. Đây chính là sự phát triển dựa trên những lý
thuyết về quyền con người.
Có thể thấy rằng, trong những văn bản pháp luật đầu tiên về quyền con
người, mặc dù đã có rất nhiều các quy định bao hàm tư tưởng nhằm bảo vệ
những quyền căn bản như quyền được sống, quyền được sở hữu, quyền tự do
thân thể… quyền về môi trường lại chưa được các nhà làm luật nghĩ tới, bởi lẽ,
trong thời kì đầu của xã hội nguyên thủy, mục tiêu hướng tới của con người là
khai phá và làm chủ thiên nhiên.
Quyền về môi trường được phát sinh trên cơ sở lợi ích chung của toàn
nhân loại. Không phải chỉ vì lợi ích của một giai cấp, một nền văn hóa, một cá
nhân hay một quốc gia nào đó. Trong quá trình khai thác và làm chủ thiên nhiên,
để phục vụ cho cuộc sống của toàn nhân loại thì sự xung đột với thiên nhiên lại

diễn ra đồng thời. Khi mà nền kinh tế ngày càng phát triển, cùng với quá trình
Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa lại kéo theo sự suy thoái của môi trường tự
nhiên. Trong những năm gần đây, cơn giận dữ của mẹ thiên nhiên đã cho chúng
ta giật mình thấy những hậu quả nặng nề do chính chúng ta gây ra: biến đổi khí
hậu, hiệu ứng nhà kính, trái đất nóng lên…gây ra một loạt những hậu quả
nghiêm trọng mà chúng ta phải gánh chịu.
Con người đang ngày càng nhận thức được những hậu quả nghiệm trọng
mà ô nhiễm môi trường gây ra. Quyền sống căn bản đang bị đe dọa. Chính vì
vậy mà con người đã nảy ra ý tưởng về một môi trường trong lành, về quyền và
nghĩa vụ để giữ môi trường trong lành và phát triển bền vững. Làm sao để cải
thiện và giúp cho môi trường phát triển bền vững, đảm bảo cho sự phát triển của
thế hệ tương lai. Cũng chính từ đó quyền về môi trường ra đời.
15


Theo giáo trình Lý luận và pháp luật về quyền con người của nhà xuất bản
chính trị quốc gia năm 2009 thì “Quyền về môi trường là quyền được sống trong
môi trường trong lành hay khi nói quyền về môi trường là muốn đề cập đến
quyền của mọi người trong thế hệ hiện tại và tương lai được sống trong môi
trường trong lành, có lợi cho sức khỏe”. Như chúng ta đã biết, các khái niệm căn
bản liên quan đến quyền con người chủ yếu gắn với quyền cá nhân và quyền tài
sản. Trong đó quyền cá nhân bao gồm quyền sống, quyền tự do còn quyền tài sản
liên quan đến quyền sở hữu. Ở đây, bản chất của các quyền này thể hiện mối
quan liên hệ giữa con người với con người, còn quyền về môi trường lại đề cập
đến mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên.
Chỉ khi chúng ta có những vấn đề về môi trường, ảnh hưởng tới đời sống
và các quyền căn bản của con người, chúng ta mới xác lập quyền về môi trường.
Ban đầu, quyền về môi trường không được coi là một quyền con người độc lập
mà nó được coi là một quyền phát sinh từ quyền con người truyền thống như
quyền được sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc…Tức là quyền về môi

trường trước đây không phải là một quyền độc lập.
Thực chất có thể xếp quyền về môi trường vào nhóm quyền con người,
nhưng lại không có quyền nào giống như quyền về môi trường. Quyền về môi
trường có thể rất gần với quyền sống, nhưng lại khác xa quyền sống thông
thường, bởi quyền về môi trường vượt xa quyền sống. Tại sao lại nói vậy, bởi vì
môi trường có ảnh hưởng mật thiết đến chất lượng cuộc sống của con người. Môi
trường có trong lành thì chất lượng cuộc sống của con người mới được nâng cao,
các hoạt động sản xuất nông nghiệp với thuận lợi, thiên tai dịch bệnh khó có cơ
hội bùng phát…Chính vì vậy mà quyền về môi trường cần thiết được ra đời, nó
xuất phát từ chính nhu cầu của thời đại.
16


Mặc dù vấn đề quyền về môi trường đã được quan tâm nhưng nó được
quan tâm đúng mức hay chưa lại là vấn đề cần lời giải đáp. Tất cả các quốc gia
đều thừa nhận quyền về môi trường , nhưng nó đã được thực hiện hay chưa lại là
chuyện khác. Hiện nay mới chỉ có rất ít quốc gia thực hiện, một phần bởi quyền
về môi trường là một quyền mới, tuy nhiên với tầm quan trọng và dài lâu thì các
quốc gia nên chú trọng và coi nó là một quyền căn bản. Hiện tại, quyền về môi
trường đã được công nhận trên bình diện quốc tế nhưng mới chỉ dừng lại ở
nguyên tắc chỉ đạo trong các tuyên bố hay nghị quyết không bắt buộc với tất cả
các nước. Quyền về môi trường thực tế nên được quy định trong pháp luật của
từng quốc gia. Bởi lẽ nó xuất phát từ thực tế, quyền có một môi trường trong
lành chính là để đáp ứng nhu cầu sống của con người. Để có thể thỏa mãn những
quyền cơ bản thì con người cần đạt được và duy trì một tiêu chuẩn sống tốt nhất,
mà điển hình là vấn đề môi trường. Hơn nữa, nhu cầu về môi trường trong lành,
lành mạnh là vô cùng quan trọng đối với việc bảo vệ cuộc sống, bảo tồn, nâng
cao chất lượng và điều kiện sống. Những chuẩn mực về sức khỏe và phúc lợi sẽ
không thể bền vững trong một môi trường đã bị vắt kiệt những yếu tố duy trì sự
sống. Cần làm sao để có thể vừa khai thác thiên nhiên phục vụ cho nhu cầu cuộc

sống nhưng vẫn phải đảm bảo sự phát triển bền vững cho tương lai. Sự can thiệp
quá sâu vào môi trường sinh thái có thể dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng,
thậm chí đẩy lùi con người về quá khứ, tước đi môi trường xã hội, trí tuệ và công
nghệ mà con người đã dày công xây dựng những năm qua. Con người muốn phát
triển ổn định thực sự cần có sự hậu thuận của thiên nhiên, muốn vậy, chúng ta
cần có trách nhiệm bảo vệ môi trường sống một cách bền vững.
Tuyên ngôn Quyền con người thế giới năm 1948, Tuyên bố của Liên hợp
Quốc về Môi trường và Phát triển năm 1972, Tuyên bố Rio năm 1992…là những
17


cơ sở pháp lý quan trọng quyền con người về môi trường trên thế giới. Trước và
sau khi có Dự thảo Tuyên ngôn Quyền con người về môi trường năm 1994,
nhiều nước trên thế giới đã tiếp cận quyền về môi trường thông qua việc ban
hành các quy định, điều luật công nhận quyền con người đối với môi trường
cũng như xây dựng cơ chế thực thi quyền. Bảo vệ môi trường theo hướng cho
phép nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống và tạo cơ hội bình đẳng cho mọi
người tiếp cận môi trường như nguồn lực phát triển và môi trường sống. Đây
chính là cách tiếp cận quyền căn bản và dần trở thành cơ sở trong việc ban hành
các chính sách pháp luật nói chung và các chính sách, pháp luật về môi trường
nói riêng.
Việc xây dựng cơ sở pháp lý và thực thi quyền con người với môi trường
căn bản dựa trên ba bước tiếp cận:
- Thứ nhất: Huy động và sử dụng các quyền đang có đã đạt được mục đích
bảo vệ môi trường
- Thứ hai: Giải thích lại các quyền hiện có, tính đến các mối quan tâm đến
môi trường
- Thứ ba: Tạo ra các quyền mới bao gồm đủ các đặc tính về môi trường
Bên cạnh đó còn có rất nhiều cách tiếp cận khác nhau. Bảo vệ môi trường
có thể đạt được kết quả không chỉ thông qua việc khẳng định các quyền con

người hiện tại mà còn có thể qua sự phát triển của quyền con người mới liên
quan đến môi trường hoặc một quyền chung đối với môi trường. Chính điều đó
đòi hỏi quyền con người về môi trường cần được nâng tầm sao cho bình đẳng
với các quyền khác của con người. Không chỉ từ nguồn gốc của quyền con người
phát triển lên mà còn có sự ngang tầm cần thiết đúng với xu thế phát triển của
thời đại ngày nay.
18


Việc sử dụng một phần các quyền con người sẵn có từ dân sự, chính trị,
kinh tế, xã hội và văn hóa là vô cùng cần thiết. Điều đó đã được quy định cụ thể
trong Tuyên ngôn thế giới về Quyền con người năm 1948, Công ước Quốc tế về
các quyền dân sự, chính trị ( ICCPR) hay Công ước Quốc tế về các quyền kinh
tế, xã hội và văn hóa năm 1966 (ICESCR)
Điều 1 của Công ước Quốc tế về các quyền dân sự, chính trị ( ICCPR) và
Công ước Quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966 (ICESCR)
quy định: “Vì lợi ích của mình, các dân tộc có quyền tự do định đoạt nguồn tài
nguyên thiên nhiên và của cải của mình miễn là không làm phương hại đến các
nghĩa vụ phát sinh từ hợp tác kinh tế, quốc tế mà dựa trên nguyên tắc các bên
cùng có lợi và nguyên tắc của luật pháp quốc tế. Trong bất kì hoàn cảnh nào
cũng không được phép tước đi những phương tiện sinh tồn của một dân tộc”
[20,21]
Đây chính là một sự cảnh báo thể hiện tầm quan trọng về vấn đề bảo vệ
môi trường và lên án các quốc gia đang góp phần gây nên tình trạng ô nhiễm môi
trường khi mà vào những năm 1960, các vấn đề môi trường bị xếp vào hàng thứ
yếu, các chính sách về môi trường chủ yếu mang tính nhỏ lẻ nhằm chống lại
những ô nhiễm cục bộ theo thời gian và không gian. Nguyên nhân của chúng dễ
dàng có thể nhận thấy, đó chính là các chất thải, nước thải gây ra các vấn đề như
ô nhiễm khí quyển dẫn đến các rủi ro về nông nghiệp, công nghệ… hầu như
không được xử lý. Điển hình là thảm họa về môi trường do các hoạt động kinh tế

gây nên như: tác động ô nhiễm do thủy ngân ở Nhật Bản vào những năm 1950 và
dẫn đến ảnh hưởng lâu dài tới môi trường. Chính vì vậy đã dẫn đến nhiều tranh
cãi về vấn đề môi trường song song với vấn đề phát triển kinh tế. Các tranh luận
về tình trạng cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên bắt đầu tạo ra nhận thức rằng với
19


những điều kiện hiện tại của sự tăng trưởng không thể tiếp tục tồn tại nếu như
không có những biện pháp, giải pháp nhằm tạo sự phát triển bền vững cũng như
bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường.
Chính vì vậy, từ các quyền con người căn bản, tại hai công ước trên chúng
ta có thể tận dụng và gắn kết với việc bảo vệ môi trường, đảm bảo quyền về môi
trường. Đơn cử là quyền tham gia chính trị, tham gia hiệp hội, quyền tự do ngôn
luận, tự do cá nhân… sẽ cho phép chúng ta được nói lên các vấn đề về ô nhiễm
môi trường khi mà hàng ngày, hàng giờ họ đang phải đối mặt. Với công ước
quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966 đã đưa ra khuôn khổ
pháp lý và đạo đức bảo vệ môi trường thông qua một loạt các quy định, các
quyền về sức khỏe, quyền được hưởng lợi từ các tài nguyên thiên nhiên, quyền
có điều kiện sống tối thiểu…
Có thể thấy Tuyên ngôn về Nhân quyền (UDHR) năm 1948 cùng với hai
công ước ra đời năm 1966 là Công ước Quốc tế về các quyền dân sự và chính trị
(ICCPR) và Công ước về các quyền kinh tế xã hội và văn hóa (ICESCR) đã tạo
thành một hành lang vững chắc với những quy định về nhân quyền quốc tế. Đây
chính là những quy định, cũng chính là sự đảm bảo cho một loạt các quyền con
người về các vấn đề trên nhiều lĩnh vực như bảo vệ quyền về sức khỏe, vệ sinh,
thực phẩm và tiếp cận nước sạch… Là tiền để vững chắc để có thể đảm bảo
quyền về môi trường sau này.
Tại Stockholm năm 1972, Hội nghị về Môi trường và phát triển của Liên
hợp Quốc đã thừa nhận quyền được hưởng một cuộc sống với mức sống đủ cho
sức khỏe và hạnh phúc, quyền lương thực, nước sạch…Với Tuyên bố: “Con

người có các quyền cơ bản về tự do, bình đẳng và điều kiện sống đầy đủ trong
môi trường chất lượng, cho phép con người có cuộc sống khỏe mạnh”. Về căn
20


bản thì với Tuyên bố này, cũng đã có sự xác nhận quyền về môi trường là một
quyền căn bản và cần phải có của nhân loại.
Tiếp sau đó, năm 1986, với Tuyên ngôn về Quyền phát triển cũng đã đưa
ra khẳng định quyền phát triển là quyền phổ biến và không thể chuyển nhượng,
là bộ phận thiết yếu của quyền con người, vì vậy các quốc gia cần áp dụng các
biện pháp cần thiết để hiện thực hóa quyền phát triển, bảo đảm bình đẳng về cơ
hội cho tất cả mọi người trong tiếp cận các nguồn tài nguyên cơ bản. Và trong
Nghị quyết 54/175 cũng đã một lần nữa khẳng định “Quyền thực phẩm và nước
sạch là các quyền con người cơ bản và thúc đầy các quyền này là yêu cầu đạo
đức bắt buộc cho cả các chính phủ và cộng đồng quốc tế”. Ở đây có thể thấy rất
rõ mối quan hệ giữa quyền phát triển và quyền về môi trường là một trong những
mối quan hệ mật thiết. Con người, muốn đảm bảo quyền phát triền cần phải có
một môi trường trong lành, đảm bảo tiêu chuẩn sạch đáp ứng những nhu cầu cơ
bản nhất như hít thở, nguồn nước…[41]
Sau đó, với kế hoạch Mar de Plata cũng thừa nhận nước là một quyền con
người: Tất cả mọi người có quyền tiếp cận bình đẳng về nước uống, đủ về số
lượng và chất lượng, đáp ứng nhu cầu cơ bản của con người.
Đến năm 1990 tại Hội nghị thượng đỉnh Thế giới về trẻ em, trong kế
hoạch hành động cũng đã kêu gọi sự hợp tác giữa các quốc gia và quốc tế nhằm
đạt được sự tiếp cận toàn cầu đối với nước uống và các phương tiện vệ sinh vì sự
sống còn và phát triển của trẻ em. Cũng trong năm 1990 này, trong Nghị quyết
45/94, sự cần thiết về môi trường một lần nữa được khẳng định: “Tất cả các cá
nhân có quyền sống trong môi trường được bảo đảm tối thiểu cho sức khỏe và
hạnh phúc”. Như vậy, cùng theo thời gian và các vấn đề phát sinh thì môi trường
đang ngày càng được các quốc gia và toàn thế giới quan tâm. Họ cũng đã nhận

21


thức được rằng, để đảm bảo các quyền căn bản của con người, để con người có
thể sống hạnh phúc thì phải đảm bảo một môi trường trong lành và lành mạnh.
Năm 1992 cũng đánh dấu nhiều sự chuyển biến tích cực trong chính nhận
thức của cộng đồng quốc tế. Với tuyên bố Dublin của Hội nghị về nước vì sự
phát triển bền vững đã tái khẳng định quyền về nước là một quyền căn bản của
con người, quyền được tiếp cận với nước sạch, vệ sinh và giá hợp lý tại nguyên
tắc thứ tư. Cũng trong năm 1992, trong Hội nghị thượng đỉnh về Môi trường và
Phát triển tại Rio de Janeiro, ở nguyên tắc đầu tiên cũng đưa ra những quy định
thể hiện sự quan tâm và cần thiết đối với quyền về môi trường. Nguyên tắc 1 có
nói: “Con người có quyền có cuộc sống lành mạnh trong sự hòa hợp với thiên
nhiên”. Không chỉ ở Hội nghị Rio năm 1992, quyền con người được sống trong
môi trường lành mạnh và có sự hòa hợp với thiên nhiên còn được đề cập ở rất
nhiều các văn kiện khác nhau như: Công ước khung về Biến đổi khí hậu, Công
ước về Đa dạng sinh học…[42]
Bên cạnh đó, tại Hội nghị Rio năm 1992 còn nhấn mạnh sự tham gia của
đông đảo các thành phần từ phụ nữ, thanh niên cho đến các cộng đồng địa
phương…Đây là một sự móc nối quan trọng, là yếu tố tiên quyết giúp cho quyền
về môi trường được vững chắc và đạt được hiệu quả nhất định khi có sự ủng hộ,
tham gia thực hiện một cách hiệu quả nhất với đông đảo các giai cấp, tầng lớp.
Đây cũng chính là điều kiện tiên quyết tạo nên sự phát triển bền vững mà chúng
ta đang hướng tới.
Vấn đề môi trường trong thời gian này đã được quan tâm một cách đúng
mức nhất, các quốc gia đã có sự nhìn nhận sâu sắc và lường trước hậu quả khi bà
mẹ thiên nhiên nổi giận, một loạt các văn kiện quốc tế được ban hành như: Công

22



ước về kiểm soát chất thải nguy hại xuyên biên giới, bảo vệ tầng ô zôn; Nghị
quyết về tiếp cận nước sạch…
Quyền về môi trường trong cộng đồng quốc tế đang ngày càng được ghi
nhận mạnh mẽ. Ở cấp độ khu vực, trong Hiến chương của Châu Phi về quyền
con người; Nghị định thư bổ sung Công ước nhân quyền liên Mỹ về các quyền
kinh tế, văn hóa và xã hội, Công ước Châu Âu về tiếp cận thông tin, sự tham gia
và tiếp cận tư pháp trong các vấn đề môi trường…Ở cấp độ quốc gia, đã có hơn
100 quốc gia ghi nhận quyền về môi trường hoặc nghĩa vụ của các quốc gia
trong việc ngăn chặn sự tổn hại môi trường.
Tiếp đó năm 2003, Hiến chương Trái đất đã thông qua, bao gồm những
nguyên tắc về việc xây dựng một xã hội công bằng, bền vững và hòa bình. Trong
đó có rất nhiều các quyền liên quan đến vấn đề môi trường như quyền tiếp cận
nước, không khí, nơi ở và đất đai không bị ô nhiễm…
Đến năm 2010, Nghị quyết 64/292 – Nghị quyết về Quyền con người với
nước sạch và vệ sinh môi trường đã được thông qua, nhằm tái khẳng định tầm
quan trọng đối với vấn đề nước sạch và vệ sinh môi trường. Môt trong những
vấn đề đã được khẳng định ở rất nhiều các văn kiện trước đó.
Trong những năm tiếp theo, cùng với sự phát triển về kinh tế, xã hội thì
vấn đề môi trường ngày càng được thế giới quan tâm. Một loạt các vấn đề phát
sinh từ môi trường, những hậu quả song song với sự phát triển đòi hỏi chúng ta
làm thế nào để có sự phát triển bền vững, để những thế hệ tương lai vẫn có thể
được sống trong môi trường trong lành? Đó là câu hỏi lớn đặt ra không chỉ với
cá nhân, một quốc gia mà là toàn xã hội, chúng ta cần chung tay bảo vệ môi
trường nhằm đảm bảo quyền con người về môi trường.

23


Tại Hội nghị Rio+20 vào năm 2012, Liên hợp Quốc vẫn kêu gọi cộng

đồng quốc tế có những hành động quyết liệt hơn nhằm bảo vệ môi trường. Trong
những năm đầu thế kỉ XIX này, một loạt các vấn đề như khan hiếm nước ngọt,
giá lương thực tăng cao, sự khắc nghiệt của các thảm họa thiên nhiên ngày càng
gia tăng, kéo theo đó là chất lượng cuộc sống của con người cũng dần suy giảm
khi mà biến đổi khí hậu, hiệu ứng nhà kính, thủng tầng ô zôn… gây ra một loạt
các thiên tai dịch họa. Số người dưới ngưỡng nghèo trên thế giới có thể tăng lên
rất nhiều lần vào những năm tới nếu như chúng ta không tập trung giải quyết các
vấn đề về môi trường – vấn đề có sự ảnh hưởng nghiêm trọng và trực tiếp nhất
tới sự phát triển của con người.
Suốt những thập kỉ qua, quyền con người nói chung và quyền con người
về môi trường nói riêng đã phát triển và ngày càng được thế giới khẳng định tầm
quan trọng của nó đối với đời sống xã hội cũng như sự phát triển bền vững.
Trong Báo cáo phát triển con người năm 2011 đã khẳng định một cách rõ ràng
“Một môi trường sạch và an toàn là quyền chứ không phải ân huệ”. Từ đó có thể
thấy trong thời kì phát triển ngày nay, chất lượng cuộc sống tốt là điều mà mỗi cá
nhân, mỗi quốc gia và toàn thế giới đang hướng tới. Con người trong xã hội hiện
đại không chỉ hướng tới ăn no, mặc ấm mà còn hướng tới một xã hội mà chất
lượng cuộc sống được nâng cao, cơ sở vật chất, chế độ giáo dục phát triển và đặc
biệt là môi trường sống trong lành, đất, nước, không khí và thực phẩm sạch cũng
là những vấn đề vô cùng cần thiết.
1.1.2. Sự phát triển khái niệm Quyền về Môi trường
Quyền về môi trường được xuất phát từ chính thực tại xã hội, khi mà vấn
đề môi trường đang từng ngày từng giờ ảnh hưởng tới đời sống và sự phát triển
của loài người.
24


Theo giáo trình Lý luận và pháp luật về quyền con người của nhà xuất bản
chính trị quốc gia năm 2009 thì khái niệm quyền về môi trường được hiểu là
“quyền được sống trong môi trường trong lành hay khi nói quyền về môi trường

là muốn đề cập đến quyền của mọi người trong thế hệ hiện tại và tương lai được
sống trong môi trường trong lành, có lợi cho sức khỏe”.
Nếu như quyền con người đã được manh nha xuất hiện từ rất sớm thì
quyền về môi trường lại xuất hiện sau đó, khi mà vấn đề môi trường trở thành
mối quan ngại hàng đầu cho toàn xã hội. Mối quan hệ giữa con người với môi
trường xuất hiện từ rất sớm, khi xuất hiện xã hội loài người. Tuy nhiên trong thời
kì sơ khai, con người cần khai thác thiên nhiên để phát triển, để duy trì sự sống
và phục vụ cho chính những nhu cầu thiết yếu của xã hội loài người, để khẳng
định sự “cai trị” của con người đối với thiên nhiên thì mối quan hệ này vẫn chưa
xảy ra xung đột. Cho đến khi môi trường ô nhiễm, suy thoái và có sự ảnh hưởng
nặng nề tới toàn xã hội thì chúng ta mới bắt đầu quan tâm đến vấn đề phát triển
bền vững, mới thấy rằng để đảm bảo các quyền con người căn bản thì cần phải
có một môi trường sống trong lành và chất lượng, để tài nguyên thiên nhiên còn
có thể bền vững cho tương lai con em chúng ta. Ô nhiễm, suy thoái tài nguyên
thiên nhiên không còn dừng lại là vấn đề của một cá nhân, một địa phương, một
quốc gia mà nó chính là vấn đề của toàn nhân loại. Chúng ta bắt đầu nhận thấy
mối quan hệ hai chiều giữa sự phát triển của con người và môi trường, để có thể
phát triển bền vững, bên cạnh hành lang pháp lý chặt chẽ đưa vấn đề quyền môi
trường vào trong các văn bản pháp luật của từng quốc gia, các công ước quốc tế
có hiệu lực trên phạm vi toàn cầu, còn do chính tinh thần, trách nhiệm và nghĩa
vụ của mỗi cá nhân, cộng đồng.

25


×