Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

Cảm Hứng Và Giọng Điệu Nghệ Thuật Trong Thơ Trần Nhuận Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (899.5 KB, 95 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

BÙI MẠNH NGỌC

CẢM HỨNG VÀ GIỌNG ĐIỆU NGHỆ THUẬT
TRONG THƠ TRẦN NHUẬN MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM

THÁI NGUYÊN - 2019


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

BÙI MẠNH NGỌC

CẢM HỨNG VÀ GIỌNG ĐIỆU NGHỆ THUẬT
TRONG THƠ TRẦN NHUẬN MINH

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 8220121

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Kiến Thọ

Thái Nguyên - 2019




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu trích dẫn đều có nguồn gốc rõ ràng. Các kết quả nghiên cứu trong luận
văn đều trung thực và chưa từng được công bố ở bất kỳ công trình nào khác.
Thái Nguyên, ngày

tháng

Tác giả luận văn

Bùi Mạnh Ngọc

i

năm 2019


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn thạc sĩ này, tác giả xin trân trọng cảm
ơn Ban Giám hiệu, Khoa Sau đại học, Khoa Báo chí – Truyền thông và Văn
học, Trường Đại học Khoa học, Đại học Thái Nguyên và các Thầy, Cô giáo
đã trực tiếp giảng dạy, giúp đỡ trong suốt quá trình học tập.
Đặc biệt, tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới giảng viên
hướng dẫn TS. Nguyễn Kiến Thọ đã luôn tận tình hướng dẫn, chỉ bảo trong
suốt thời gian tác giả nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Cuối cùng, xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, người thân, bạn bè và đã
giúp đỡ, động viên, tạo điều kiện để tác giả hoàn thành luận văn.
Thái Nguyên, ngày


tháng

Tác giả luận văn

Bùi Mạnh Ngọc

ii

năm 2019


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN .............................................................................................. i
LỜI CẢM ƠN ................................................................................................... ii
MỤC LỤC ........................................................................................................ iii
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................................................. 4
3.1. Đối tượng nghiên cứu................................................................................. 4
3.2. Phạm vi nghiên cứu .................................................................................... 4
4. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................... 5
5. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................... 5
6. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 5
7. Đóng góp của luận văn .................................................................................. 6
8. Cấu trúc của luận văn .................................................................................... 6
NỘI DUNG....................................................................................................... 7
Chương 1. THƠ TRẦN NHUẬN MINH TRONG NỀN THƠ VIỆT NAM
HIỆN ĐẠI ......................................................................................................... 7

1.1. Nhà thơ Trần Nhuận Minh ......................................................................... 7
1.1.1. Tiểu sử và quá trình hoạt động sáng tác.................................................. 7
1.1.2. Quan điểm sáng tác ................................................................................. 9
1.1.3. Các giải thưởng đạt được ...................................................................... 11
1.2. Thơ Trần Nhuận Minh trong nền thơ Việt Nam hiện đại ........................ 12
1.2.1. Một số vấn đề chung về nền thơ Việt Nam hiện đại ............................. 12
1.2.2. Vị trí, đóng góp của thơ Trần Nhuận Minh .......................................... 16
Chương 2. CẢM HỨNG TRONG THƠ TRẦN NHUẬN MINH .................. 21
2.1. Vấn đề Cảm hứng trong thơ ..................................................................... 21
2.1.1. Khái niệm Cảm hứng ............................................................................ 21
iii


2.1.2. Cảm hứng trong thơ .............................................................................. 22
2.2. Cảm hứng trong thơ Trần Nhuận Minh ................................................... 23
2.2.1. Cảm hứng trữ tình ................................................................................. 23
2.2.2. Cảm hứng thế sự ................................................................................... 32
2.2.3. Cảm hứng đối thoại ............................................................................... 52
Chương 3. GIỌNG ĐIỆU NGHỆ THUẬT TRONG THƠ TRẦN NHUẬN
MINH .............................................................................................................. 65
3.1. Vấn đề Giọng điệu nghệ thuật trong thơ .................................................. 65
3.1.1. Khái niệm Giọng điệu nghệ thuật ......................................................... 65
3.1.2. Giọng điệu nghệ thuật trong thơ ........................................................... 66
3.2. Giọng điệu nghệ thuật trong thơ Trần Nhuận Minh ................................ 67
3.2.1. Giọng điệu ngợi ca, yêu thương, chia sẻ ............................................... 67
3.2.2. Giọng điệu phản tỉnh thực tại ................................................................ 72
3.2.3. Giọng điệu tự vấn cá nhân .................................................................... 77
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ ........................................................................... 83
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 86
PHỤ LỤC ....................................................................................................... 89


iv


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Để tạo nên diện mạo của nền thơ ca Việt Nam hiện đại, cần có cả một
quá trình với sự đóng góp của nhiều thế hệ, nhiều tác giả. Tất nhiên, thực tế
cho thấy không có nhiều tác giả thể hiện được gương mặt riêng, thể hiện được
cá tính và phong cách trong sáng tạo. Trong khi đó, có một số tác giả (có thể
không nhiều) lại ghi dấu ấn đậm nét, có vị trí không thể thiếu, mà nếu không
có họ thì nền thơ ca sẽ có những khoảng trống nhất định. Vì vậy, muốn nhận
diện một nền thơ ca, cần phải đặc biệt quan tâm nhận diện và phân tích một số
tác giả đặc sắc, có tầm vóc và bề dày sáng tác, tạo được dấu ấn và có những
đóng góp quan trọng vào đời sống thơ ca. Đặt trong góc nhìn đó, có thể thấy
thơ ca hiện đại Việt Nam đã ghi nhận những nhà thơ có vị trí và đóng góp
quan trọng, một trong số đó có nhà thơ Trần Nhuận Minh. Nghiên cứu thơ ca
Trần Nhuận Minh, vì thế, không chỉ là nghiên cứu về một cá nhân, mà còn là
một cách tiếp cận để nhận diện các vấn đề của nền thơ hiện đại Việt Nam nói
chung.
Nhà thơ Trần Nhuận Minh là một tác giả có bề dày sáng tác với hơn hai
mươi tập thơ – một khối lượng đồ sộ đáng nể mà không có nhiều tác giả có
được. Những tác phẩm của Trần Nhuận Minh đã tạo ra một gương mặt tác giả
thực sự đặc sắc, vừa thống nhất vừa đa dạng, vừa thách thức vừa mời gọi. Thơ
ca Trần Nhuận Minh hứa hẹn sẽ đặt ra cho những người nghiên cứu phê bình
nhiều vấn đề ý nghĩa, hữu ích, thậm chí phức tạp, và vì vậy cũng vô cùng hấp
dẫn và đầy gợi mở.
1.3. Hành trình sáng tạo thơ của Trần Nhuận Minh trải dài qua những
giai đoạn lịch sử khác nhau, khởi nguồn từ phong cách thơ truyền thống, ngày
càng hướng đến phong cách thơ hiện đại. Phân tích diễn trình đó, qua sự thay

đổi và vận động mạch thơ Trần Nhuận Minh cũng là một cách để chúng ta có
1


thêm góc nhìn về những thay đổi và vận động của thơ ca Việt Nam hiện đại
nói chung. Vì vậy, việc nghiên cứu thơ Trần Nhuận Minh là một đề tài mang
tính khoa học và có nhiều ý nghĩa.
2. Lịch sử vấn đề
Với một quá trình bề dạy trong hành trình sáng tác hàng nửa thế kỉ (từ
những năm 1960 cho đến nay), thơ của Trần Nhuận Minh đã thu hút sự quan
tâm nghiên cứu, đánh giá, nhận diện của khá đông đảo bạn đọc cũng như
đồng nghiệp và các nhà nghiên cứu - phê bình.
Trong cuốn tiểu luận phê bình Trần Nhuận Minh và một hƣớng tìm
diện mạo mới cho thơ (Nxb Hội Nhà văn, 2015), nhà phê bình văn học Đỗ
Ngọc Yên đã có những nhận diện khái quát về vị trí, đóng góp và chỉ ra một
số đặc điểm quan trọng trong thơ Trần Nhuận Minh: “Trần Nhuận Minh là
người mạnh mẽ đến quyết liệt không chỉ trong việc đổi mới thơ, mà quan
trọng hơn là làm lại chính mình với tư cách là một chủ thể thơ, một sự làm
lại nhọc nhằn, quằn quại và đau đớn. Ông không cần quan tâm đến lý
thuyết về các trào lưu, trường phái hay chủ nghĩa nào, mà có lẽ chỉ quan
tâm làm sao đem đến cho thơ Việt một diện mạo mới và một hơi thở, sức
sống mới [14.tr11].
Trong một công trình nghiên cứu rất công phu với nhan đề Trần
Nhuận Minh và ba lần định vị cho thơ, GS. Phong Lê đã chỉ ra con đường
thơ Trần Nhuận Minh với ba chặng lớn: Áp tải sự thật; Đi tìm hoa và cỏ, và
hoa cỏ; Hành trình về với bản thân. Nó tương ứng với ba cuộc định vị: từ
Nông dân đến Công nhân, từ Công nhân đến Nhân dân, và từ Nhân dân đến
Con người [30.tr5-31].
Khi giới thiệu cuốn sách Trần Nhuận Minh, thi ca tinh tuyển tập (Nxb
Phát thanh Truyền hình Trung ương Trung Quốc, 2014), dịch giả người Trung

Quốc – GS.TS. văn học Phùng Trọng Bình đã có những đánh giá mang tính
2


khái quát chung về sự nghiệp thơ ca Trần Nhuận Minh: “Từ chỗ là một nhà
thơ viết về đề tài công nhân rồi đến nhân dân, rồi sau đó lại chuyển sang đề tài
về nhân loại, bước ngoặt lớn về cả tư tưởng nghệ thuật đến bút pháp này đã
phần nào thể hiện sự đồng nhất và hài hòa trong cuộc sống và sáng tác của
Trần Nhuận Minh… Thời gian sáng tác của những tác phẩm này cách nhau
rất xa, bao gồm rất nhiều nội dung phong phú về xã hội, cuộc sống, lối thể
hiện văn học vô cùng độc đáo và thú vị, thể hiện được sự trưởng thành về tư
tưởng và nghệ thuật của nhà thơ [14.tr206-207].
Trong luận văn thạc sĩ Ngữ Văn Thơ Trần Nhuận Minh (Nguyễn Văn
Hưng, Đại học Sư phạm Thái Nguyên, 2011), tác giả đã đi vào phân tích,
đánh giá một cách khá tổng thể về thơ của Trần Nhuận Minh. Đồng thời, tác
giả cũng đã có những nhận định rất cụ thể về những đặc điểm riêng biệt và
nổi bật nhất trong thế giới thơ ca Trần Nhuận Minh. Tác giả cho rằng: “Đặc
điểm nổi bật trong thơ Trần Nhuận Minh là sự đan kết thực – hư trong việc
xây dựng thế giới hình tượng đã mở ra khả năng chiếm lĩnh, nắm bắt và giải
thích hiện thực, đồng thời diễn tả thế giới tâm linh vốn nhiều bí ẩn và những
dấu hiệu mong manh mơ hồ, khó nắm bắt. Người đọc vì thế khi tiếp cận thơ
ông phải tiếp cận trong tính chất đa chiều, khái quát và phong phú. Thơ ông,
quả là một thứ thơ có màu sắc riêng, có phong cách riêng và có một vị trí
riêng trong đời sống thơ ca hiện đại” [19.tr2]. Cùng với luận văn này, có thể
kể đến một số luận văn khác cũng đã góp phần đưa ra những cách tiếp cận và
đánh giá khá phong phú, đa diện về thơ Trần Nhuận Minh, như Cảm hứng thế
sự và đời tƣ trong thơ Trần Nhuận Minh (Chung Thị Thúy, Đại học Vinh,
2009), Chủ thể trữ tình trong thơ Trần Nhuận Minh (Lê Thị Hải Hà, Đại học
Sư phạm Hà Nội, 2008).v.v..
Bên cạnh đó, có khá nhiều bài viết nghiên cứu phê bình về cuộc đời

thơ, các tập thơ, các mảng đề tài thơ nổi bật của Trần Nhuận Minh, như: Trần
Nhuận Minh (PGS.TS. Vũ Văn Sỹ); “Nhà thơ và hoa cỏ” – tập thơ thế sự về
3


thân phận con ngƣời (Trọng Khang); Thử bàn về sự hiền minh trong “Nhà
thơ và hoa cỏ” của Trần Nhuận Minh (Triệu Đàm); Nhà thơ Trần Nhuận
Minh - khởi sự từ công cuộc đổi mới (Phạm Khải); Đọc thơ Trần Nhuận Minh
(GS.TS. Mai Quốc Liên); Khát vọng về một tình yêu thần thánh (Đặng Văn
Sinh).v.v..
Như vậy qua các công trình nghiên cứu, các bài viết..., chúng ta nhận
thấy các tác giả đã có những đóng góp nhất định trong việc xác định và chỉ ra
một số đặc điểm về nội dung, nghệ thuật cơ bản trong thơ Trần Nhuận Minh.
Nhìn chung các công trình và các bài viết này vừa đi vào hướng nghiên cứu
một cách tổng thể, khái quát, vừa đi sâu khảo sát, nghiên cứu về một trong
những khía cạnh cụ thể có ý nghĩa quan trọng và nổi bật trong thơ Trần
Nhuận Minh. Dù chưa có công trình hay bài viết nào trước đây trùng lặp với
vấn đề cảm hứng và giọng điệu nghệ thuật của luận văn này, nhưng những
nhận định và kết quả nghiên cứu đó sẽ là những tư liệu tiền đề hết sức đáng
quý, gợi mở cho chúng tôi nhiều vấn đề để triển khai đề tài nghiên cứu này
của mình.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Tiến hành thực hiện luận văn, chúng tôi tập trung tìm hiểu nét đặc sắc ở
phương diện cảm hứng và giọng điệu nghệ thuật của thơ Trần Nhuận Minh.
Từ đó, luận văn chỉ ra thành công, hạn chế và đóng góp của thơ Trần Nhuận
Minh với thơ ca Việt Nam hiện đại nói chung.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Để thực hiện đề tài, chúng tôi nghiên cứu, khảo sát, phân tích, đánh giá
chủ yếu trong tập thơ Trần Nhuận Minh – thơ (Nxb Văn học, 2007), vì đây là

tuyển tập khá tiêu biểu và đầy đủ những bài thơ quan trọng của nhà thơ.
Ngoài ra tham khảo thêm một số tập thơ khi cần thiết như: Nhà thơ và hoa cỏ,
4


Bản sonate hoang dã, Gửi lại dọc đƣờng, 45 khúc đàn bầu của kẻ vô danh,
Miền dân gian mây trắng.v.v..
Đồng thời, sự dụng một số tác phẩm thơ của một số nhà thơ Việt Nam
hiện đại khác nhằm so sánh, đối chiếu làm nổi bật những nét riêng trong thơ
Trần Nhuận Minh.
4. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài “Cảm hứng và giọng điệu nghệ thuật trong thơ Trần
Nhuận Minh”, luận văn nhằm chỉ rõ sự phong phú đa dạng và mạch vận động
của tư duy nghệ thuật trong thơ Trần Nhuận Minh. Đồng thời, qua việc
nghiên cứu đề tài, chúng tôi muốn khẳng định vị trí cũng như những đóng góp
của thơ Trần Nhuận Minh đối với thơ ca Việt Nam hiện đại nói chung.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu hai khía cạnh quan trọng là cảm hứng và
giọng điệu nghệ thuật, qua đó làm rõ những giá trị về nội dung cũng như
những giá trị về nghệ thuật của thơ Trần Nhuận Minh, đồng thời chỉ ra được
cá tính sáng tạo, vị trí và những đóng góp, mặt thành công thành công và mặt
hạn chế của thơ Trần Nhuận Minh.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện luận văn, chúng tôi tích hợp đồng bộ một số phương
pháp sau:
- Phƣơng pháp nghiên cứu liên ngành: Kết hợp đồng bộ phương pháp
nghiên cứu nghiên cứu lịch sử, nghiên cứu xã hội học để tìm hiểu những
“nguồn cội” góp phần làm nên đặc điểm thơ Trần Nhuận Minh như quê hương,
gia đình, tiểu sử của nhà thơ.
- Phƣơng pháp tiếp cận văn hóa học: Văn hóa và văn học có những

mối quan hệ tương hỗ, biện chứng. Muốn giải quyết vấn đề của luận văn, cần
5


tiếp cận từ giác độ văn hóa học. Sử dụng phương pháp tiếp cận này, chúng tôi
khai thác những vẻ đẹp và đặc trưng của văn hóa dân tộc thể hiện trong thơ
Trần Nhuận Minh.
- Phƣơng pháp phân t ch tác ph m văn học theo thể loại Từ những đặc
trưng của tác phẩm trữ tình mà “soi chiếu” vào thơ Trần Nhuận Minh, chỉ ra
những nét đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của thơ Trần Nhuận Minh.
- Phƣơng pháp phân t ch tác ph m văn học theo thi pháp học: Sử dụng
lí thuyết về thi pháp học, đặc biệt là với loại hình thơ trữ tình, để phân tích
những vấn đề chính như cảm hứng nghệ thuật, giọng điệu nghệ thuật.
- Các thao tác nghiên cứu khác: Ngoài việc sử dụng thao tác phân tích
tác phẩm theo loại thể, chúng tôi kết hợp sử dụng một số thao tác như tổng
hợp, thống kê, so sánh nhằm khảo sát tác phẩm một cách chi tiết và hệ thống.
7. Đóng góp của luận văn
Đây là công trình nghiên cứu đầu tiên khảo sát, phân tích, đánh giá toàn
bộ sự nghiệp sáng tác, đồng thời cũng đi vào những vấn đề quan trọng và
nổi bật trong thơ của nhà thơ Trần Nhuận Minh (cụ thể: cảm hứng và giọng
điệu nghệ thuật). Từ đó, khẳng định thành tựu, đóng góp cũng như hạn chế
của thơ Trần Nhuận Minh khi đặt trong tương quan với nền thơ Việt Nam
hiện đại nói chung.
8. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn có cấu trúc gồm 3 chương:
Chƣơng 1: Thơ Trần Nhuận Minh trong nền thơ Việt Nam hiện đại
Chƣơng 2: Cảm hứng trong thơ Trần Nhuận Minh
Chƣơng 3: Giọng điệu nghệ thuật trong thơ Trần Nhuận Minh

6



NỘI DUNG
Chƣơng 1
THƠ TRẦN NHUẬN MINH
TRONG NỀN THƠ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI

1.1. Nhà thơ Trần Nhuận Minh
1.1.1. Tiểu sử và quá trình hoạt động sáng tác
Nhà thơ Trần Nhuận Minh sinh ngày 20/8/1944, dân tộc Kinh, quê
quán tại Điền Trì, Quốc Tuấn, Nam Sách, Hải Dương. Ông hiện đang sống và
viết tại thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh. Ông là Đảng viên Đảng Cộng
Sản Việt Nam từ năm 1984, là Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam từ năm 1982.
Từ 1960 đến 1962, ông học Trung học Sư phạm Hải Dương. Từ 1962
đến 1969, ông dạy học tại Quảng Ninh. Từ năm 1969 đến 2005, ông đi học
khoa Ngữ Văn tại Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, lần lượt là thành viên
sáng lập, ủy viên Ban chấp hành, Ủy viên Ban thường vụ, Phó Chủ tịch rồi
Chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Quảng Ninh, Tổng biên tập báo Hạ
Long. Ông cũng là Chi hội trưởng Chi hội Nhà văn Việt Nam tại Quảng Ninh;
Ủy viên Ủy ban Toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam;
Đại diện Báo Tiền Phong tại Quảng Ninh (1993 – 2008); Ủy viên Ban Công
tác Nhà văn trẻ và Hội đồng thơ của Hội Nhà văn Việt Nam một số khóa.
Trần Nhuận Minh cũng là một nhà thơ sống trong một gia đình gia thế
rất đáng chú ý khi có nhiều người theo con đường văn chương nghệ thuật.
Điển hình trong đó có: nhà thơ Trần Đăng Khoa - “thần đồng thơ Việt
Nam”(em trai ruột), nhà thơ Phạm Thị Diễm (vợ).v.v.. Điều đó đã cho thấy
gia đình ông rất có truyền thống về văn chương nghệ thuật, đặc biệt là truyền
thống về thơ ca. Có thể nói đây là một yếu tố tích cực bởi vì nó chính là một
7



môi trường thuận lợi, tốt lành cho tình yêu thơ ca cũng như con đường nghệ
nghiệp trong sáng tác.
Nhà thơ Trần Nhuận Minh làm thơ từ rất sớm, có thơ được đăng báo từ
năm 1960. Trải qua nhiều công tác khác nhau, với quá trình dài trên những
chặng đường và giai đoạn sáng tác, đến nay ông đã xuất bản 44 tập sách,
trong đó có 22 tập thơ, 3 tập truyện vừa, 2 tập tiểu luận, 9 tập biên khảo.v.v..
Một số tập tác phẩm chính, quan trọng và để lại nhiều dấu ấn trong đời
sống văn chương của ông có thể kể đến như:
- Các tập thơ: Đấy là tình yêu (1971), Âm điệu một vùng đất (1980, in
lần thứ 2, năm 2016), Thành phố bên này sông (1982), Nhà thơ áp tải (1989),
Hoa cỏ (1992), Nhà thơ và hoa cỏ (1993, in lần thứ 22, năm 2015), Giọt phù
sa vạn dặm (2000), Bản Sonate hoang dã (2003, in lần thứ 13, năm 2015),
Trần Nhuận Minh - Thơ với tuổi thơ (2003), Gửi lại dọc đƣờng (2005, in lần
thứ 6, năm 2011), Trần Nhuận Minh, tuyển tập thơ (2005, in lần thứ 2, năm
2007), 45 khúc đàn bầu của kẻ vô danh (2007, in lần thứ 5, năm 2013), Miền
dân gian mây trắng (2008, in lần thứ 5, năm 2014), Bốn mùa - Four seasons
(2008), Bốn mùa (2009, in lần thứ 2, năm 2011), Miền dân gian mây trắng The white cloud popular area (2011), Cánh rừng đã bay về trời (2012),
Thành phố Dịu Dàng (2015, in lần thứ 2, năm 2017), Liệu có kiếp sau (2017),
Qua sóng Trƣờng Giang (2017); và Trong hy vọng khôn cùng, Maxcơva
(1992), do Iuri Konhetxki tuyển chọn và giới thiệu, Trần Nhuận Minh - Thi ca
tinh tuyển tập do Phùng Trọng Bình và Dương Hạ Nguyệt giới thiệu, Nhà
xuất bản Phát thanh và Truyền hình Trung ương Trung Quốc, Bắc Kinh
(2014), Liệu có kiếp sau (2017), Qua sóng Trƣờng Giang (2017).
- Các tập truyện vừa: Trƣớc mùa mƣa bão (1980, in lần thứ 7, năm
2016), Hòn đảo ph a chân trời (2000, in lần thứ 6, năm 2015), Truyện chọn
lọc cho thiếu nhi (2002).
8



- Các tập tiểu luận: Đối thoại văn chƣơng (2012 - chung với nhà thơ,
nhà phê bình văn học Canada Nguyễn Đức Tùng), Thời gian lên tiếng (2013),
Đi tìm Sự Thật (2017).
- Các tập biên khảo: Tuyển tập thơ Hạ Long (1977, in lần thứ 3 năm
2000), Tuyển tập thơ Bạch Đằng Giang (1988), Tuyển tập Nửa thế kỉ thơ
Quân Khu Ba (1995) và Tuyển chọn, giới thiệu thơ của 6 thi hào trong 6 tập
Khuất Nguyên, Xergây Exênhin, Raxun Gamzatốp, Yanit R txốt, Nicôla
Ghiden, Oan Uytman trong bộ sách Thi ca thế giới chọn lọc (2004).
- Hợp tuyển: Đá cháy (2016)
Ngoài ra, nhà thơ Trần Nhuận Minh còn viết và công bố nhiều bài báo
khảo luận, phê bình về các vấn đề văn chương, lịch sử.
1.1.2. Quan điểm sáng tác
Nhà thơ Trần Nhuận Minh là một tác giả có ý thức rất sâu sắc về sáng
tạo chuyên nghiệp. Ông đã trải qua hai giai đoạn lớn trong sáng tác: 1960 đến
1986; 1986 đến nay. Mỗi giai đoạn, ông có những quan niệm nhất định về
sáng tạo.
Nói về quan niệm sáng tác trong giai đoạn trước 1986, ông nhận ra
rằng: “Trước đó, tôi viết theo yêu cầu của nhiệm vụ chính trị. Và viết theo
yêu cầu của chính trị tôi viết cũng tận tâm và chân thành hết lòng mình. Chỉ
có điều, những bài thơ đó, tôi gọi nó đến theo yêu cầu của tôi, có khi nó đến
sớm, có khi nó đến muộn, thường thì nó không tìm tôi mà tôi phải tự đi tìm
nó. Nhưng nó đã đến, đều đến trong một tư thế đã tương đối hoàn chỉnh”
[14.tr285].
Giai đoạn từ 1986 về sau, khởi đầu từ công cuộc đổi mới, Trần Nhuận
Minh cũng thay đổi tư duy nghệ thuật trong thơ. Ông quan niệm: “Tôi viết về
những cái mà mình cần phải có ở tác phẩm của mình… Tôi chỉ gọi đúng tên
sự vật. Mà sự vật trong bản chất của nó không lạc quan cũng không bi quan,
9



nó chỉ tồn tại” [14.tr293]. Nhà thơ nhấn mạnh về cội nguồn của sáng tạo: “Có
một nỗi niềm nào đó thực sự ám ảnh anh, buộc anh phải viết ra, để giữ thăng
bằng cho chính bản thân mình” [14.tr306]. Ông đúc kết rằng, sau suốt hơn
nửa thế kỉ cầm bút, bài học rút ra là “Hãy bắt đầu đi từ chõ dân tộc mình đi.
Còn chỗ đến, phải đến với toàn nhân loại” [14.313], và điều thấm thía nhất là
“Không dối trá”. Điều cuối cùng để làm nên một tác giả, theo ông là nằm ở
câu hỏi then chốt nhất: “Bạn có dám đánh cược cuộc đời mình vào tác phẩm
mà bạn đang viết hay không?” [14.tr317].
Tại Liên hoan Thơ Châu Á - Thái Bình Dương lần thứ 2, năm 2015,
nhà thơ Trần Nhuận Minh đã có tham luận rất công phu, tâm huyết. Ông nhấn
mạnh: “Tôi chủ trương làm thơ dễ hiểu, nhưng người đọc không hiểu một lúc
hết được điều mình muốn nói. Họ tưởng là đã hiểu, nhưng vẫn hình như
còn có một cái gì đấy, khiến họ phải tìm đọc lần sau, và cứ thế, mỗi lần họ
lại thấy vỡ ra một cái gì đấy, ngộ thêm một điều gì đấy mà tôi có nghĩ đến
khi tạo dựng tác phẩm, nhưng tôi không viết ra. Rồi đọc thêm, họ thấy cái
mà tôi chỉ gợi ý ra cho họ và cuối cùng, họ nghĩ tới cái mà tôi chưa từng
nghĩ tới... Và như thế, nếu thơ tôi chỉ có 300 người đọc với chiều sâu như
thế, tôi đã có 300 tập thơ khác nhau và tập của tôi sẽ là tập 301. Cũng đã có
nhà văn bàn về điều này, vì cho đến bây giờ, vẫn còn có người rất e ngại tính
đa nghĩa của thơ.
Có người băn khoăn về cách giải quyết vấn đề của thơ. Tôi nghĩ đó
không phải là nhiệm vụ của thơ. Trước đây, hiện nay, và cả sau này, thơ chỉ
có một nhiệm vụ thôi là phải hay. Còn nhà thơ, chỉ có một nhiệm vụ thôi là
phải viết hay. Có nhiều kiểu hay khác nhau, càng hay - càng hay khác nhau,
lại càng hay hơn nữa. Chỉ có thơ hay mới cứu được thơ. Chỉ có thơ hay mới
có bạn đọc. Không có bạn đọc thì thơ chết và nhà thơ cũng chết. Nhưng làm
được thơ hay, bao giờ cũng là một việc rất khó.

10



Bất cứ cái gì ra đời, đều có cái lí do chính đáng của nó. Những tìm tòi
không ngừng của các nhà thơ là nhằm khai thác và thăng hoa cái phần còn
tiềm ẩn trong sáng tạo những giá trị tinh thần của con người. Và đi theo cái
này, ủng hộ cái này, không bao giờ nên bài xích hoặc ruồng bỏ cái kia, như
tôn giáo và màu da, chúng cần phải được cùng tồn tại và bình đẳng trong mọi
giá trị. Tôi nghĩ thế và không hề lạnh nhạt hay thành kiến với các sáng tác
theo các khuynh hướng nghệ thuật khác tôi, thậm chí trái ngược với tôi. Bởi
thơ là của muôn nhà, đến từ muôn nẻo đường khác nhau, không chỉ của hiện
thực cuộc sống mà còn của cả cõi tâm linh xa xăm… Nhưng tôi có hai yêu cầu.
Một, anh viết theo kiểu nào cũng phải làm cho con người sống với con người
tốt hơn và như thế, cái thước để đo nó vẫn là giá trị nhân văn. Hai, làm giàu
thêm cho văn hoá, chứ không chống lại văn hoá”.
Như vậy có thể thấy, Trần Nhuận Minh là một nhà thơ vô cùng tâm
huyết, nghiêm khắc với mình, với nghề khi đặt ra những tiêu chí và cách nhìn
nhận rất rõ ràng, quyết liệt. Những quan niệm và cách nhìn nhận có sự khác
biệt qua các giai đoạn cũng cho thấy ông có sự dấn thân, dám tìm tòi, dám
thay đổi, có sự đổi mới và vận động đáng chú ý trong tư duy nghệ thuật. Điều
đó sẽ là một cơ sở để lí giải tại sao hành trình thơ Trần Nhuận Minh lại trải
qua nhiều khúc ngoặt và đột phá đầy bất ngờ thú vị đến như vậy.
1.1.3. Các giải thưởng đạt được
Với những sáng tạo bền bỉ và tâm huyết của mình, Trần Nhuận Minh
đã được ghi nhận và tôn vinh bằng nhiều thành tựu, giải thưởng khác nhau.
Ông đã đạt: Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật năm 2007;
Hơn hai chục giải thưởng văn học khác nhau, trong đó có giải thưởng của Hội
Nhà văn Việt Nam, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Ủy ban toàn quốc
Liên hiệp các Hội văn học nghệ thuật Việt Nam, giải thưởng văn nghệ Hạ
Long của UBND tỉnh Quảng Ninh.v.v..
11



Ông còn được trao một số phần thưởng cao quý khác: Huân chương
Kháng chiến hạng Ba; Huân chương Lao động hạng Ba, hạng Nhì; 8 Huy
chương, 4 Kỉ niệm chương, 3 Bằng Lao động sáng tạo về văn chương.
Những giải thưởng cao quý trên đã góp phần cùng với tác phẩm của
ông để khẳng định vị trí, tên tuổi, tài năng của tác giả, khẳng định giá trị và
đóng góp của thơ Trần Nhuận Minh cho đời sống thơ ca Việt Nam hiện đại
nói chung.
1.2. Thơ Trần Nhuận Minh trong nền thơ Việt Nam hiện đại
1.2.1. Một số vấn đề chung về nền thơ Việt Nam hiện đại
Nền thơ Việt Nam hiện đại Việt Nam là một chỉnh thể được cấu thành
bởi các bộ phận, các giai đoạn, các tác giả với những tác phẩm cụ thể. Nó
được đặt trong một diễn trình với những bối cảnh và điều kiện về lịch sử - xã
hội cụ thể.
Trong chiều dài lịch sử, ở những thời kỳ có giao lưu với văn hóa thế giới thì
văn hoá bản địa đều có những thay đổi. Sự vận động phát triển của thơ Việt
qua các thời kỳ cũng là một minh chứng cho điều đó. Thời trung đại, do chịu
ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa, ta có dòng thơ luật Đường; thời Pháp thuộc,
do ảnh hưởng thơ Pháp, phong trào thơ Mới xuất hiện; thời hai cuộc kháng
chiến chống Pháp và chống Mỹ, thơ Việt cách tân nhiều với sự tác động của
thơ Nga và thơ phương Tây; sau ngày thống nhất, điều kiện giao lưu càng
rộng mở, sự tiếp biến với nền thơ thế giới càng mạnh mẽ, các trào lưu thơ Âu
- Mỹ du nhập làm thay đổi nhiều diện mạo nền thơ Việt Nam đương đại.
Trong phạm vi đề tài luận văn này, chúng tôi sử dụng cách gọi thơ Việt
Nam hiện đại để nói về thơ thế kỉ XX và thập niên đầu của thế kỉ XXI, trong đó
chủ yếu nhấn mạnh hai giai đoạn: từ 1945 đến 1975 và từ sau 1975 đến nay.
Giai đoạn đầu thế kỉ XX đến 1945: Những năm đầu thế kỷ XX là giai
đoạn giao thời, dấu vết thơ ca trung đại vẫn rõ nét, các bài thơ luật gò bó
12



được thay dần bằng những biến thể thơ ca dân tộc. Năm 1932 là mốc bắt đầu
thời kỳ Thơ mới, các nhà thơ đả kích thơ cũ, khẳng định cái tôi cá nhân trong
sáng tạo nghệ thuật. Phong trào Thơ mới là sự bừng nở của nhiều phong cách
nghệ thuật độc đáo, trong đó có những phong cách sẽ sống mãi với thời gian.
Có thể kể đến một loạt các tên tuổi như: Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu,
Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử, Nguyễn Bính,.. Trong Thơ mới, con
người cá nhân được tự do bộc lộ mình, phơi trải lòng mình, âm điệu buồn là
âm điệu chủ đạo trong các bài Thơ mới. Thơ mới đã có nhiều đóng góp về
mặt cách tân nghệ thuật đối với nền thơ ca dân tộc.
Thơ ca cách mạng thời kỳ này cũng phát triển mạnh và đạt nhiều thành
tựu nhưng chủ yếu đóng góp là về mặt nội dung.
Giai đoạn từ 1945 đến 1975: Hầu hết thể thơ quen thuộc trong thơ ca
truyền thống và hiện đại đều được các nhà thơ ở thời kì này đã sử dụng nhuần
nhuyễn, linh hoạt, thể thơ nào cũng có những thành công rực rỡ. Trong đó,
đặc biệt phải kể đến thể thơ tự do, thể thơ văn xuôi và thể trường ca. Ngôn
ngữ thơ thời kì 1955 - 1975 xuất phát từ ngôn ngữ đời sống xây dựng chủ
nghĩa xã hội và kháng chiến chống Mĩ của dân tộc. Cho nên, trong thơ xuất
hiện một hệ thống từ ngữ không có ở thơ ca trước đó. Sức gợi cảm, gợi liên
tưởng của ngôn ngữ thơ thời kì này ngày càng đậm nét. Về giọng điệu thơ,
xuất hiện nhiều giọng điệu đáp ứng nhu cầu thẩm mĩ của thời đại, đó là giọng
hào sảng, lạc quan, giọng tâm tình, giọng châm biếm, mỉa mai,... Tuy nhiên,
điểm chung mà các nhà thơ đều hướng đến là khẳng định, ngợi ca vẻ đẹp tâm
hồn, tính cách của con người Việt Nam.
Ở năm đầu sau Cách mạng, thơ ca tập trung thể hiện niềm vui lớn của
dân tộc, ca ngợi Ðảng và Bác Hồ, ca ngợi con người mới, chế độ mới. Thơ
càng ở giai đoạn sau càng đậm đà tính thời sự và tính chiến đấu, phản ánh một
cách kịp thời, chân thật, hiện thực cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mĩ và

13



khí thế sôi nổi hào hùng của đời sống xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.
Bên cạnh đó, thơ còn giàu chất trữ tình và chất anh hùng ca. Thơ bộc lộ
những cảm nhận chân thành, giản dị mà rất sâu lắng tình yêu, niềm tự hào về
quê hương đất nước, về cuộc sống quá khứ, hiện tại và hướng về tương lai.
Những tên tuổi lớn đóng góp cho thơ ca giai đoạn này phải kể đến
những Tố Hữu, Phạm Tiến Duật, Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Khoa Điềm, Thu
Bồn, Nguyễn Duy, Hữu Thỉnh, Thanh Thảo, Bằng Việt, Lưu Quang Vũ, Xuân
Quỳnh, Lâm Thị Mĩ Dạ, Hoàng Hưng, Trần Dần, Lê Đạt, .v.v..
Có thể nói rằng, thơ kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ (và cả chặng
nối dài của nó đến khoảng 1980) đã đưa nền thơ cách mạng đến giai đoạn
phát triển cao và đạt được nhiều thành tựu xuất sắc. Chặng đường thơ ấy đã
đáp ứng được những đòi hỏi của thời đại mình, đồng thời cũng là một giai
đoạn không thể bỏ qua trong tiến trình thơ hiện đại Việt Nam. Từ sau 1980,
cùng với cả nền văn học, thơ cũng phải tự làm mới mình, tìm lại vị trí trong
đời sống hàng ngày của con người, cái hàng ngày không hề giản đơn mà chứa
đựng bao sự phức tạp, những xung đột, những sóng ngầm và những khát vọng
không cùng. Thơ đã đi tìm những hướng mới, tạo nên diện mạo và giọng điệu
mới. Nhưng thơ kháng chiến không hề mất đi những giá trị bền vững của nó.
Không phải nó chỉ sống trong tiềm thức và kỉ niệm của những lớp người đã đi
qua cuộc chiến tranh, mà vẫn nằm sâu ở những lớp đáy của đời sống tinh thần
toàn xã hội, góp phần tạo dựng nền tảng tinh thần cho những thế hệ hiện nay
và sau này. Còn đối với tiến trình vận động của thơ, thì những thành công và
hạn chế của thơ kháng chiến có thể là sự gợi mở, kích thích cho những tìm
tòi, đổi mới thơ về sau.
Giai đoạn từ sau 1975 đến nay: Nét nổi bặt của thơ sau 1975 đến nay là
sự khẳng định con người cá tính, trong đó con người không tự thoả mãn, tự
bằng lòng mà luôn trên hành trình tìm kiếm các giá trị tinh thần.


14


Giai đoạn này có sự xuất hiện của nhiều bài thơ theo xu hướng hiện đại
chủ nghĩa hoà nhập với nền thơ hiện đại của thế giới, đem lại cho thơ nhiều
phẩm chất mới: thơ có thực nhưng cũng có ảo, có ý thức và cả vô thức, tiềm
thức, tâm linh.
Thời kỳ này, xuất hiện nhiều bài thơ rất ngắn, thơ văn xuôi, ngôn ngữ
vừa đi gần hơn với đời sống vừa giàu sức gợi, hàm ngôn.
Sau hai mươi năm, thơ Việt Nam hiện đại đã có sự vươn lên không
ngừng. Trong bất cứ hoàn cảnh nào của đời sống, các nhà thơ vẫn luôn tìm
tòi, thể nghiệm ở nhiều phương diện, có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa truyền
thống và hiện đại, để ngày càng đạt được những thành tựu rực rỡ, góp phần
không nhỏ vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời tạo nên vẻ
đẹp phong phú, đa dạng, nhiều hương sắc mới cho thơ ca Việt Nam hiện đại.
Những nhà thơ nổi bật trong giai đoạn này có thể kể đến như: Thi
Hoàng, Trúc Thông, Y Phương, Dư Thị Hoàn, Hoàng Trần Cương, Nguyễn
Lương Ngọc, Dương Kiều Minh, Nguyễn Quang Thiều, Mai Văn Phấn,
Nguyễn Bình Phương, Vũ Quần Phương, Trần Quang Quý, Nguyễn Linh
Khiếu, Trần Hùng, Inra Sara, Dương Thuấn, Trương Đăng Dung, Đỗ Trọng
Khơi, Trần Anh Thái, Nguyễn Việt Chiến, Trần Hòa Bình, Phạm Công Trứ,
Nguyễn Trọng Tạo, Trần Hữu Dũng, Bùi Chí Vinh, Đỗ Minh Tuấn.v.v..
Nhìn một cách khái quát, thơ Việt Nam mười năm đầu thế kỷ XXI là
tiếp nối mạch thơ đổi mới cuối thế kỷ XX với cảm hứng thế sự và đời tư giữ
vai trò là cảm hứng chủ đạo. Hai dòng cảm hứng này đã chiếm lĩnh thơ ca
Việt Nam từ sau năm 1975, đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới sau 1986. Nhưng
trong những năm gần đây, với việc toàn cầu hoá diễn ra mạnh mẽ, với bao
biến cố lớn mà nhân loại nói chung và đất nước nói riêng đang phải đối mặt,
nội dung thế sự, đời tư trong thơ ca cũng có nhiều thay đổi so với giai đoạn
trước.

15


Trong những năm gần đây, thơ đương đại Việt Nam chứng kiến sự vận
động, phát triển hết sức mạnh mẽ, đa dạng, sự mở rộng và đột phá trong tư
duy và hình thức nghệ thuật. Thơ trẻ từ đầu thế kỷ mới ít cất lên tiếng nói đại
diện cho lý tưởng tập thể, mà chủ yếu khẳng định cái tôi cá thể của mình, từ
nhu cầu xác lập căn cước cho mình. Việc ít phải chứng nghiệm các hậu quả
chiến tranh và hòa nhập nhanh chóng vào quá trình toàn cầu hóa khiến cho
những biểu hiện của thơ trẻ Việt Nam ngày càng khác lạ với truyền thống thơ
ca được kiến tạo từ giai đoạn trước. Màu sắc giáo huấn, đạo lí đã nhường chỗ
cho các sắc màu khác, những nhận thức và trải nghiệm mới, khi thơ ca hiện
diện như một sân chơi tinh thần chấp nhận tất cả các ý hướng dấn thân, ngẫu
hứng, phá phách. Thơ trẻ tìm đến những khám phá, thức nhận, giãi bày mang
tính cá nhân về đời sống và tình người, làm nên những đổi thay về quan niệm
nghệ thuật: giải trí và tiền phong xác tín những kinh nghiệm mới. Đã có một
diện mạo khá mới mẻ cho thơ hôm nay với những tác giả trẻ như Nguyễn
Hữu Hồng Minh, Vi Thùy Linh, Lê Vĩnh Tài, Văn Cầm Hải, Phan Huyền
Thư, Nguyễn Vĩnh Tiến, Trương Quế Chi, Ly Hoàng Ly, Đỗ Doãn
Phương.v.v..
Đặt trong một diễn trình và bối cảnh chung như thế, để nhìn nhận về
thơ ca Việt Nam hiện đại, cần có sự phân tích một số trường hợp cụ thể, quan
trọng, đó là những nhà thơ tạo ra phong cách riêng, có những đóng góp riêng,
giữ một vị trí riêng, trong nền thơ đó. Nhà thơ Trần Nhuận Minh là một
trường hợp tác giả như thế.
1.2.2. Vị trí, đóng góp của thơ Trần Nhuận Minh
Trong đời sống thơ ca và lịch sử một nền thơ, khi người ta nói đến một
nhà thơ thì thông thường cũng đồng nghĩa với việc nói về vị trí nhất định của
tác giả đó. Tức là, mỗi nhà thơ sẽ như một đại diện của đề tài hay thi pháp mà
mình sở trường nhất, có thành tựu nhất. Khi nói đến Xuân Diệu là nói đến nhà

thơ của tình yêu, tương tự như vậy, Nguyễn Bính là nhà thơ của người quê
16


làng quê, Phạm Tiến Duật là nhà thơ của Trường Sơn.v.v.. Nó như là một quy
luật của sáng tạo thơ ca.
Riêng vớ nhà thơ Trần Nhuận Minh, dường như đây là một trường hợp
đặc biệt, bởi thơ ông đã vượt qua quy luật ấy. Nói đến Trần Nhuận Minh
không thể định vị ông vào một vấn đề nhất định. Thơ ông không đơn thuần
như là đại diện của một mảng đề tài, một khuynh hướng, một thi pháp, mà nó
mang trong mình sự đa dạng đa chiều đa diện đầy biến ảo và phức tạp.
Trước hết, nói đến thơ Trần Nhuận Minh là nối đến một đại diện xuất
sắc của đề tài về ngành công nghiệp, người công nhân. Ông có những vần thơ
rất tình nghĩa về mảng đề tài này:
Nơi khúc dân ca nuối chúng tôi tuổi thơ
Là nóng bỏng tiếng xe gào ủi đất…
Núm ruột chúng tôi mẹ vùi sâu trong than
Day dứt chúng tôi là tình yêu đất than
(Lên tầng)
Những tập thơ vào khoảng thập niên 70 – 80 của thế kỉ XX như Đấy là
tình yêu, Âm điệu một vùng đất, Thành phố bên này sông.v.v.. đã nói lên tất cả
tình yêu, niềm tự hào, sự gắn bó máu thịt của nhà thơ với vùng đất mỏ và
người thợ nơi đây. Với những tác phẩm trước Đổi mới 1986 này, Trần Nhuận
Minh được xem như nhà thơ của công nghiệp – công nhân.
Công cuộc Đổi mới toàn diện của đất nước từ 1986 đã tác động sâu sắc đến
cách nhìn, quan niệm về cuộc đời và nghệ thuật của Trần Nhuận Minh, khiến ông
có những thay đổi vô cùng quan trọng trong sáng tác. Kể từ đây, ông giã từ hoàn
toàn với cách viết cũ, để bứt phá sang một bút pháp hoàn toàn mới. Đó không phải
là sự rũ bỏ quá khứ, mà là sự vượt thoát khỏi tư duy cũ, thức nhận cũ của chính
bản thân mình. Ông đã viết những câu thơ hết sức mới mẻ:


17


Hãy áp tải sự thật
Đến những bến cuối cùng
Chai rƣợu ngang dốc ngƣợc
Đứng cùng trời uống chung
(Nhà thơ áp tải)
Với những tập thơ Nhà thơ áp tải (1989) và Nhà thơ và hoa cỏ (1993), Trần
Nhuận Minh lại trình làng một quan niệm nghệ thuật mới một cách vô cùng quyết
liệt, khi ông nghiền ngẫm sâu sắc và không né tránh về hiện thực đất nước, hiện
thực thời đại. Đặc biệt, tập thơ Nhà thơ và hoa cỏ của ông đã được tái bản đến 22
lần – một kỉ lục trong thơ ca Việt Nam. Ông được trao Giải thưởng Nhà nước về
Văn học Nghệ thuật cũng chính là cho tập thơ xuất sắc này. Như vậy, Trần Nhuận
Minh lại được coi như một nhà thơ của hiện thực đất nước, hiện thực thời đại.
Đi đến tận cùng hiện thực, Trần Nhuận Minh bất ngờ đi vào một
chặng khám phá mới, đó là thế giới kì ảo của tâm tưởng, của vô thức, của tạo
hóa. Những vấn đề vô cùng thâm diệu biến ảo của cuộc đời, con người và
nghệ thuật được nhà thơ quan tâm, chiêm nghiệm, lí giải:
Những câu thơ mỏng tựa cánh chuồn
Ngàn năm bay ngƣợc bão
Mang sấm sét của những vùng chƣa qua
Mang ánh trăng của những thời chƣa tới
Cái mong manh thắng đƣợc cả sắt thép
Bền vững đến muôn đời
Cánh chuồn lấy thơ ở đâu ra
Từ hồn nhiên kh trời chăng
(Bản sonate hoang dã)
18



Hoặc như:
Đấng Mê Tơi đang nói
Trong im lặng khôn cùng
Trong sắc chiều bâng khuâng tận đáy
(Bản sonate hoang dã)
Với những tập thơ vô cùng đặc sắc như Bản sonate hoang dã (2003),
45 khúc đàn bầu của kẻ vô danh (2007), Miền dân gian mây trắng (2008),
Trần Nhuận Minh lại hiện ra như một thi sĩ - triết gia, thi sĩ - thiền gia. Ông
được xem như một nhà thơ dũng cảm dấn thân về phía bí ẩn vô tận của tạo
hóa, của con người, của sáng tạo nghệ thuật và thi ca.
Chính vì vậy, có thể thấy nhà thơ Trần Nhuận Minh là một trường hợp
độc đáo trong thơ ca Việt Nam hiện đại, không chỉ bởi quãng đường sáng tạo
hơn nửa thế kỉ qua các giai đoạn lịch sử khác nhau và một sự nghiệp sáng tác
đồ sộ hơn hai chục tập thơ nhiều giá trị, mà còn bởi sự đa dạng và biến ảo
không ngừng trong cùng một bản thể thi sĩ. Nó khẳng định sự đóng góp đặc
sắc, to lớn và quan trọng cùng một vị trí trang trọng của thơ Trần Nhuận Minh
trong nền thơ Việt Nam hiện đại.
Có thể nói, với những đóng góp ấn tượng và đậm nét của mình cho thơ
ca nước nhà, Trần Nhuận Minh đã trở thành một tên tuổi sáng giá làm nên
diện mạo thơ ca Việt Nam những thập niên cuối thế kỉ XX, những năm đầu
thế kỉ XXI. Đánh giá về Trần Nhuận Minh - tác giả và tác phẩm, nhà nghiên
cứu văn học người Trung Quốc – GS. Phùng Trọng Bình đã nhận định mang
tính khái quát cao: “Trần nhuận Minh rất tinh tế trong việc học hỏi, kế thừa và
vận dụng ý thơ của văn học truyền thống cổ đại. Tinh hoa của các tác giả nổi
tiếng như nhà thơ Trung Quốc Khuất Nguyên, Đỗ Phủ, nhà văn vĩ đại nước
Nga Lev Tolstoy, thi hào Sergei Esenin, tiểu thuyết gia – nhà soạn kịch Tây
Ban Nha Miguel de Cervantes, đặc biệt là văn học truyền htống Việt Nam với
19



×