Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

GIỚI THIỆU NGUYỄN DU VÀ TRUYỆN KIỀU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (164.44 KB, 8 trang )

Giới thiệu Nguyễn Du, cuộc đời & tác phẩm.

Nguyễn Du (阮阮; 1765-1820) tên tự Tố Như (阮阮), hiệu Thanh Hiên (阮阮), biệt hiệu Hồng Sơn
lạp hộ (阮阮阮阮), là một nhà thơ nổi tiếng thời Lê mạt, Nguyễn sơ ở Việt Nam.
Nguyễn Du được xem như là một nhà thơ lớn của Việt Nam, được người Việt kính trọng gọi là Đại thi
hào dân tộc. Năm 1965, ông được UNESCO tôn vinh là danh nhân văn hóa thế giới.
I. Cuộc đời:
Nguyễn Du sinh năm Ất Dậu (1765), niên hiệu Cảnh Hưng, tại Thăng Long. Tổ tiên ông vốn từ làng
Canh Hoạch, huyện Thanh Oai, trấn Sơn Nam (thuộc Hà Tây và nay thuộc Hà Nội) sau di cư vào xã
Nghi Xuân, huyện Tiên Điền (nay là làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân), tỉnh Hà Tĩnh.
Nguyễn Du thuộc về một gia đình khoa hoạn nổi danh ở làng Tiên Điền về thời Lê mạt. Trước ông,
sáu bảy thế hệ viễn tổ đã từng đỗ đạt làm quan.
Đến thân phụ ông là Nguyễn Nghiễm (1708-1775), đậu Nhị giáp tiến sĩ, làm quan đến chức Đại tư
đồ (Tể tướng), tước Xuân Quận Công dưới nhà Hậu Lê... Ngoài là một đại thần, ông Nghiễm còn là
một nhà thơ, một nhà nghiên cứu sử học.
Ông Nghiễm có cả thảy tám vợ và 21 người con trai (ghi theo Thơ chữ Hán Nguyễn Du, tr. 18).
Người con trưởng là Nguyễn Khản (1734-1786) đỗ Tam giáp tiến sĩ, làm quan tới chức Tham Tụng,
tước Toản Quận Công (con bà chính, rất mê hát xướng, nổi tiếng phong lưu một thời, thân với chúa
Trịnh Sâm), người con thứ hai là Nguyễn Điều đỗ Hương cống, từng làm trấn thủ Sơn Tây. Nếu kể
theo thứ tự này, thì Nguyễn Du đứng hàng thứ bảy, nên còn được gọi là Chiêu Bảy.
Mẹ Nguyễn Du là bà Trần Thị Tần (1740-1778), con gái một người thuộc hạ làm chức câu kế (Từ
điển văn học bộ mới ghi: xuất thân từ giới bình dân. (tr.1120), người xã Hoa Thiều, huyện Đông
Ngàn, xứ Kinh Bắc, nay thuộc tỉnh Bắc Ninh.
Bà Tần là vợ thứ ba của Nguyễn Nghiễm, trẻ hơn chồng 32 tuổi. Bà sinh được năm con, bốn trai và
một gái. Thứ tự như sau: Nguyễn Trụ, Nguyễn Nễ (hơn Nguyễn Du 4 tuổi), Nguyễn Du, Nguyễn Ức
(kém Nguyễn Du 2 tuổi) và Nguyễn Thị Niên. Năm 1775, người con đầu của bà Tần mất, mới 18
tuổi, năm sau chồng mất, hai cái tang liền làm cho bà đau buồn rồi lâm bệnh mất ngày 27 tháng 7
năm 1778, khi mới 39 tuổi (theo Thơ chữ Hán Nguyễn Du, tr 19 và Từ điển văn học bộ mới, tr.
1120.).
Thuở nhỏ Nguyễn Du sống trong nhung lụa, nhưng cuộc sống này kéo dài không quá mười năm. Vì
10 tuổi đã mồ côi cha, năm 13 tuổi, mồ côi mẹ, ông và các anh em ruột phải đến sống với người


anh cả khác mẹ là Nguyễn Khản (khi ấy ông Khản đã hơn Nguyễn Du 31 tuổi).
Năm 1780, Nguyễn Du mới 15 tuổi thì xảy ra “Vụ mật án Canh Tý”: Chúa Trịnh Sâm lập con thứ là
Trịnh Cán làm thế tử, thay cho con trưởng là Trịnh Tông. Ông Khản giúp Trịnh Tông, việc bại lộ, bị
giam. Đến khi Trịnh Tông lên ngôi, ông Khản được cử lên làm Thượng thư Bộ Lại và Tham tụng.
Quân lính khác phe (sử gọi là “kiêu binh”) không phục, kéo đến phá nhà, khiến ông Khản phải cải
trang trốn lên Sơn Tây sống với em là Nguyễn Điều rồi về quê ở Hà Tĩnh. Thế là anh em Nguyễn Du
từ bấy lâu đã đến nương nhờ ông Khản, mỗi người phải mỗi ngã.
Năm 1783, Nguyễn Du thi Hương đỗ tam trường (tú tài), sau đó không rõ vì lẽ gì không đi thi nữa.
Trước đây, một võ quan họ Hà (không rõ tên) ở Thái Nguyên, không có con nên đã nhận ông làm
con nuôi. Vì thế, khi người cha này mất, Nguyễn Du được tập ấm (Tập có nghĩa truyền lại đời sau,
ấm có nghĩa là nhờ ơn người trước để lại mà con cháu được phong tặng chức tước hoặc miễn cho
một trách nhiệm nào đó.) một chức quan võ nhỏ ở Thái Nguyên.
Năm 1786, Tây Sơn bắt đầu đưa quân ra Bắc Hà.
Năm 1789, Nguyễn Huệ, một trong ba thủ lĩnh của nhà Tây Sơn đã kéo quân ra Bắc đánh tan hai
mươi mấy vạn quân nhà Thanh sang tiến chiếm Đại Việt. Nguyễn Du cũng chạy theo vua Lê Chiêu
Thống (1766-1793) nhưng không kịp, đành trở về quê vợ (vợ Nguyễn Du, sách Ngữ văn 10 không
ghi tên, chỉ cho biết là con gái Đoàn Nguyễn Thục, quê ở Quỳnh Côi, trấn Sơn Nam, nay thuộc tỉnh
Thái Bình) ở Quỳnh Côi ở Thái Bình, sống nhờ nhà người anh vợ là danh sĩ Đoàn Nguyễn Tuấn
(1750-?).
Khi đến sống ở đây, vài tác giả như Phạm Thế ngũ (sách ghi bên dưới, tr. 349) cho biết Nguyễn Du
có mưu chống lại Tây Sơn, nhưng việc không thành nên bỏ về Nghệ An. Nhưng theo Từ điển văn
học (bộ mới), căn cứ vào những sáng tác viết vào khoảng thời gian này trong Thanh Hiên thi tập, thì
hình như Nguyễn Du chủ yếu là trốn tránh để giữ mình, chứ không có âm mưu chống đối gì.
Được vài năm, Nguyễn Du về Nghệ An.
Năm 1796, nghe tin ở Gia Định, chúa Nguyễn Ánh (1762-1819) đang hoạt động mạnh, ông định vào
theo, nhưng chưa đi khỏi địa phận Nghệ An thì đã bị quân Tây Sơn do tướng Nguyễn Thuận chỉ huy,
bắt giữ ba tháng.
Trở về Tiên Điền (Hà Tĩnh), ông sống chật vật một thời gian dài cho đến mùa thu năm 1802, khi
chúa Nguyễn Ánh lên ngôi lấy niên hiệu Gia Long, thì ông được gọi ra làm quan cho nhà Nguyễn.
Năm 1802, ông nhậm chức Tri huyện tại huyện Phù Dung (nay thuộc Khoái Châu, Hưng Yên). Tháng

11 cùng năm, đổi làm Tri phủ Thường Tín (Hà Tây, nay thuộc Hà Nội).
Kể từ đó, Nguyễn Du lần lượt đảm đương các chức việc sau:
Năm 1803: đến cửa Nam Quan tiếp sứ thần nhà Thanh, Trung Quốc.
Năm 1805: thăng hàm Đông Các điện học sĩ.
Năm 1807: làm Giám khảo trường thi Hương ở Hải Dương.
Năm 1809: làm Cai bạ dinh Quảng Bình.
Năm 1813: thăng Cần Chánh điện học sĩ và giữ chức Chánh sứ đi Trung Quốc.
Sau khi đi sứ về vào năm 1814, ông được thăng Hữu tham tri Bộ Lễ.
Năm 1820, Gia Long mất, Minh Mạng (1791-1840) lên ngôi, Nguyễn Du lại được cử làm Chánh sứ đi
Trung Quốc, nhưng chưa kịp lên đường thì mất đột ngột (trong một trận dịch khủng khiếp làm chết
hàng vạn người lúc bấy giờ) ở kinh đô Huế vào ngày 10 tháng 8 năm Canh Thìn tức 16 tháng 9 năm
1820 (Ngữ văn 10 tập 2 năm 2008, ghi ngày 18 tháng 9).
Lúc đầu (1820), Nguyễn Du được táng ở xã An Ninh, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên. Bốn năm
sau mới cải táng về Tiên Điền (Hà Tĩnh).(1)
II.Tác phẩm:
2.1 Khái quát:
Lược theo bài Một vài đặc điểm về nội dung và nghệ thuật của thơ văn Nguyễn Du:
Xét về nội dung, qua các sáng tác của Nguyễn Du, nét nổi bật chính là sự đề cao xúc cảm, tức đề
cao “tình”. Điều quan trọng hàng đầu, là sự cảm thông sâu sắc của tác giả đối với cuộc sống và con
người, đặc biệt là những con người nhỏ bé, bất hạnh (Văn tế thập loại chúng sinh, Sở kiến hành,
Thái Bình mại ca giả v.v.). Cái nhìn nhân đạo này khiến ông được đánh giá là “ tác giả tiêu biểu của
trào lưu nhân đạo chủ nghĩa trong văn học cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19”. Riêng Truyện Kiều, kiệt
tác này còn “thấm đẫm tinh thần ngợi ca, trân trọng vẻ đẹp kì diệu của tình yêu lứa đôi.”
Về mặt nghệ thuật, Nguyễn Du là nhà thơ có học vấn uyên bác, nắm vững nhiều thể thơ của Trung
Quốc, như: ngũ ngôn cổ thi, ngũ ngôn luật , thất ngôn luật, ca, hành...nên ở thể thơ nào, ông cũng
có bài xuất sắc.
Đặc biệt hơn cả là tài làm thơ bằng chữ Nôm của ông, mà bằng chứng là ở Truyện Kiều, đã cho thấy
thể thơ lục bát “có khả năng chuyển tải nội dung tự sự và trữ tình to lớn của thể loại truyện
thơ.”(Ngữ văn 10, tr. 95-96.)
2.2 Tác phẩm bằng chữ Hán:

Tính đến tháng 5 năm 2008, giới chuyên môn đã sưu tập được 249 bài thơ chữ Hán của Nguyễn Du,
được chia ra như sau:
-Thanh Hiên thi tập (Tập thơ của Thanh Hiên) gồm 78 bài, viết chủ yếu trong những năm tháng
trước khi làm quan nhà Nguyễn.
-Nam Trung tạp ngâm (Các bài thơ ngâm khi ở phương Nam) gồm 40 bài, viết khi làm quan ở Huế,
Quảng Bình và những địa phương ở phía nam Hà Tĩnh.
-Bắc hành tạp lục (Ghi chép trong chuyến đi sang phương Bắc) gồm 131 bài thơ, viết trong chuyến
đi sứ sang Trung Quốc.
Nhận xét về mảng thơ này, Ngữ văn 10 tập 2 viết:
“Thơ chữ Hán của Nguyễn Du thể hiện tư tưởng, nhân cách của ông. Các bài thơ trong ''Thanh Hiên
thi tập'' và ''Nam trung tạp ngâm'' tuy biểu hiện một tâm trạng buồn đau, day dứt nhưng đã cho
thấy rõ khuynh hướng quan sát, suy ngẫm về cuộc đời, về xã hội của tác giả. Trong Bắc hành tạp
lục, những điểm đặc sắc tư tưởng, tình cảm của Nguyễn Du được thể hiện rõ ràng hơn. Có ba nhóm
đáng chú ý: Một là ca ngợi, đồng cảm với các nhân cách cao thượng và phê phán những nhân vật
phản diện. Hai là phê phán xã hội phong kiến chà đạp quyền sống con người. Ba là cảm thông với
những thân phận nhỏ bé dưới đáy xã hội, bị đọa đày hắt hủi...” (tr. 94)
2.3Tác phẩm bằng chữ Nôm
Sáng tác của Nguyễn Du gồm có:
-Đoạn trường tân thanh (Tiếng kêu mới về nỗi đan đứt ruột. Tên phổ biến là Truyện Kiều), được viết
bằng chữ Nôm, gồm 3.254 câu thơ theo thể lục bát. Nội dung của truyện dựa theo tác phẩm Kim
Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, Trung Quốc. Nội dung chính của truyện xoay quanh
quãng đời lưu lạc sau khi bán mình chuộc cha của Thuý Kiều, nhân vật chính trong truyện, một cô
gái có tài sắc.
Về thời điểm sáng tác, Từ điển văn học (bộ mới) ghi:
Có thuyết cho rằng Nguyễn Du viết ra sau khi ông đi sứ Trung Quốc (1814-1820), có thuyết cho nói
ông viết trước khi đi sứ, có thể vào khoảng thời gian làm Cai bạ ở Quảng Bình (1804-1809). Thuyết
sau được nhiều người chấp nhận hơn (tr. 1844)
Ngữ văn 10 tập 2 đánh giá: “Trên nền tảng nhân đạo chủ nghĩa vững chãi, với tài năng điêu luyện,
với sự lựa chọn thể loại truyện thơ kết hợp nhuẫn nhuyễn cả chất tự sự và chất trữ tình, với sự am
hiểu đồng thời cả ngôn ngữ bình dân cũng như ngôn ngữ văn học bác học, Nguyễn Du đã sáng tạo

nên một kiệt tác độc nhất vô nhị của văn học trung đại Việt Nam.” (tr.94)
-Văn chiêu hồn (tức Văn tế thập loại chúng sinh, dịch nghĩa: Văn tế mười loại chúng sinh), hiện
chưa rõ thời điểm sáng tác. Trong văn bản do Đàm Quang Thiện hiệu chú có dẫn lại ý của ông Trần
Thanh Mại trên “Đông Dương tuần báo” năm 1939, thì Nguyễn Du viết bài văn tế này sau một mùa
dịch khủng khiếp làm hằng triệu người chết, khắp non sông đất nước âm khí nặng nề, và ở khắp các
chùa, người ta đều lập đàn giải thoát để cầu siêu cho hàng triệu linh hồn. Ông Hoàng Xuân Hãn cho
rằng có lẽ Nguyễn Du viết Văn chiêu hồn trước cả Truyện Kiều, khi ông còn làm cai bạ ở Quảng Bình
(1802-1812). Tác phẩm được làm theo thể song thất lục bát, gồm 184 câu thơ chữ Nôm.
Ngữ văn 10 tập 2 nhận xét:
“Nguyễn Du viết bài thơ chiêu hồn cho nhiều hạng người khác nhau, kể cả những người thuộc tầng
lớp phong kiến quý tộc. Song tấm lòng nhân ái của nhà thơ vẫn hướng về những thân phận nhỏ bé,
dưới đáy xã hội...Do giá trị nhân đạo sâu sắc mà Văn Chiêu hồn đã được phổ biến rộng rãi, kể cả
trong phạm vi nhà chùa.” (tr. 95)
-Thác lời trai phường nón: 48 câu, được viết bằng thể lục bát. Nội dung là thay lời anh con trai
phường nón làm thơ tỏ tình với cô gái phường vải.
-Văn tế sống Trường Lưu nhị nữ: 98 câu, viết theo lối văn tế, để bày tỏ nỗi uất hận vì mối tình với
hai cô gái phường vải khác.
Hai bài này được sáng tác khoảng thời gian Nguyễn Du về sống ở Nghệ An, sau bị quân Tây Sơn bắt
giữ rồi thả.
Theo Từ điển văn học (bộ mới) thì:
Bài Thác lời trai phường nón rất tình tứ, mang âm hưởng của ca dao, của vè còn đậm nét. Bài Văn
tế sống Trường Lưu nhị nữ, tác giả cũng học tập ở ca dao, tục ngữ, thành ngữ nhưng chưa được
nhuần nhuyễn; nhiều chổ tác giả tỏ ra quá lệ thuộc, làm giảm tính sáng tạo của mình.
III.Nỗi lòng Nguyễn Du:
Nỗi lòng của Nguyễn Du rất phức tạp. Để hiểu nó, các nhà nghiên cứu văn học thường dựa vào “Gia
phả họ Nguyễn Tiên Điền” và các tác phẩm của ông (đặc biệt là ''Truyện Kiều'') để rút ra một số
nhận định. Nhưng những nhận định ấy đến nay vẫn chưa thống nhất, thậm chí còn mâu thuẫn với
nhau một cách sâu sắc.
Trích một số ý kiến:
Năm 1963, GS. Phạm Thế Ngũ viết:

“Một thuyết thịnh hành từ lâu do Trần Trọng Kim xướng ra rằng “Truyện Kiều chứa đựng một tâm
sự tha thiết nhất của Nguyễn Du, ấy là cái tâm sự của kẻ hàng thần nhớ chúa cũ (hoài Lê)”. Thuyết
trên không phải là điều bị đặt mà có sở cứ rõ ràng. Thái độ phò Lê của ông được tỏ rõ trong những
mưu toan chống Tây Sơn. Về sau, bất đắc dĩ phải ra hợp tác với Nguyễn, ông thường tỏ ra kín đáo,
nếu không nói là lãnh đạm, lúc nào cũng như mang nặng trong lòng một bầu u uất khó nói. Nỗi lòng
ấy chỉ có thể là, như lời ai điếu của Bùi Kỷ trong bài “Truy điệu cụ Tiên Điền” vào năm 1927:
Dở dang thay cái tu mi.
Cực trăm nghìn nỗi trong khi tòng quyền.
Hành vi của tác giả chứng tỏ, mà văn chương của tác giả nhiều khi cũng hé lộ rõ ràng. Nhiều bài thơ
chữ Hán của ông trong ''Thanh Hiên tập'', ''Bắc hành tập'', đầy ý điếu cổ thương kim, giọng khảng
khái bi đát. Cho đến bao nhiêu câu trong chính ''Truyện Kiều'' tả thân thế người con gái lưu lạc cũng
gióng lên tiếng đau buồn ấy của tác giả...”(tr. 360)
Năm 1967, GS. Thanh Lãng viết:
“Anh em Nguyễn Du đã từng cầm quân ủng hộ nhà Lê, tỏ ra khí phách hơn người. Nhưng công việc
không thành, nhà chính trị trẻ tuổi (Nguyễn Du) bỏ về quê, lấy thú chơi săn bắn ở núi Hồng Lĩnh...
Và như phần đông nho sĩ đương thời, ông cho cái đời làm quan dưới một triều đại mới là một trạng
thái “thất tiết”, thành ra suốt đời lúc nào ông cũng buồn rầu, ân hận...”(tr. 612)
Năm 1973, nhà phê bình Thạch Trung Giả viết:
“Điều hiển nhiên là niềm tưởng nhớ nhà Lê, nỗi uất ức của người dồn phải dồn vào thế hàng thần.
Như chúng ta đã biết, Nguyễn Du là một con người có khí tiết nên đã từng mưu sự cần vương chống
Quang Trung. Đến khi nhà Tây Sơn đổ vì nhà Nguyễn, đám cố Lê hết chính nghĩa để chống lại,
nhưng những người như Nguyễn Du vẫn không quên mình và ông cha mình đã từng ăn lộc nhà Lê.
Vậy việc phải làm tôi cho Gia Long là một vạn bất đắc dĩ, một sự đau lòng, một sự tủi nhục...”(tr.
370)
Năm 1978, GS. Trương Chính viết:
“Đọc ba tập thơ chữ Hán của Nguyễn Du, chúng ta có thể giải quyết được một vấn đề trước nay ý

×