Tải bản đầy đủ (.doc) (100 trang)

Pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình qua thực tiễn tỉnh thanh hoá

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (397.15 KB, 100 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ THU TRANG

PH¸P LUËT VÒ PHßNG, CHèNG B¹O LùC GIA
§×NH - QUA THùC TIÔN TØNH THANH HO¸

Chuyên ngành: Lí luận và Lịch sử Nhà nước và Pháp luật
Mã số: 60 38 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. VŨ CÔNG GIAO

HÀ NỘI - 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu của
riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất
kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận
văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn
thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài
chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN


Nguyễn Thị Thu Trang


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT.................................................3


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt
AECID
ANTT
BLGĐ
CAGA
CEDAW
CSĐT
HĐND
HNGĐ
OHCHR
PCBLGĐ
TGPL
TTXH
UBND
UNFPA
XPVPHC


Nội dung chữ viết tắt
: Cơ quan phát triển và hợp tác Quốc tế Tây Ban Nha tại
Việt Nam
: An ninh trật tự
: Bạo lực gia đình
: Trung tâm nghiên cứu và ứng dụng khoa học về giới, gia
đình, phụ nữ và vị thành niên.
: Công ước Quốc tế về xoá bỏ mọi hình thưc phân biệt đối
với phụ nữ.
: Cảnh sát điều tra
: Hội đồng nhân dân
: Hôn nhân gia đình
: Văn phòng cao uỷ Liên hợp quốc về quyền con người
: Phòng, chống bạo lực gia đình
: Trợ giúp pháp lý
: Trật tự xã hội
: Uỷ ban nhân dân
: Quỹ dân số Liên hợp quốc
: Xử phạt vi phạm hành chính


DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu bảng
Tên bảng
Bảng 2.1: Thống kê kết quả điều tra xã hội học về phòng, chống
bạo lực gia đình ở tỉnh Thanh Hoá năm 2012

Trang
Error:

Refere
nce
source
not

Bảng 2.2: Bảng thống kê kết quả điều tra tội phạm BLGĐ

found
Error:
Refere
nce
source
not

Bảng 2.3:

Thống kê tiếp nhận hỗ trợ ban đầu cho nạn nhân bạo lực

found
Error:

gia đình tỉnh Thanh Hoá

Refere
nce
source
not

Bảng 2.4:


Thống kê công tác hỗ trợ nạn nhân, nhân chứng trong

found
Error:

hoạt động tố tụng tỉnh Thanh Hoá 2013

Refere
nce
source
not
found


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Gia đình là tế bào của xã hội. Trong mỗi gia đình, việc các thành viên
sống bình đẳng, yêu thương, đùm bọc lẫn nhau và không có bạo hành là nền
tảng tiến tới một xã hội phát triển bền vững.
Xuất phát từ ý nghĩa gia đình là tổ ấm và thực tiễn đã cho thấy những
thành quả phát triển đất nước có được phần lớn từ sự đóng góp của mỗi gia
đình; trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đặc biệt tới
việc xây dựng và bảo vệ gia đình. Ban Bí thư Trung ương Đảng về xây dựng
gia đình trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã đề ra mục tiêu: “Mỗi
gia đình Việt Nam thực sự là tổ ấm của mỗi người và là tế bào lành mạnh của
xã hội”. Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật điều chỉnh quan hệ
gia đình, trong đó có vấn đề phòng, chống bạo lực gia đình như Luật Hôn
nhân và Gia đình, Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, Luật bình đẳng
giới, Luật phòng, chống bạo lực gia đình …
Mặc dù vậy, trong thực tế, tình trạng bạo lực gia đình vẫn đang diễn ra

ở nhiều nơi. Số vụ bạo hành gia đình gây hậu quả nghiêm trọng có chiều
hướng tăng cao.
Ví dụ, trong năm 2005 có tới hơn 39,7% số vụ ly hôn có nguyên nhân
từ bạo hành trong tổng số gần 65 nghìn vụ án về hôn nhân và gia đình ở Việt
Nam. Trong 5 năm, từ năm 2000- 2005, có 186.954 vụ ly hôn do bạo lực gia
đình; hành vi đánh đập, ngược đãi chiếm 53,1% trong các nguyên nhân dẫn
tới ly hôn [38].
Thực trạng về bạo lực gia đình không những trái với truyền thống văn
hóa tốt đẹp từ ngàn xưa của dân tộc ta mà quan trọng hơn là xâm phạm
nghiêm trọng đến quyền con người.

1


Để thực hiện mục tiêu mỗi gia đình Việt Nam thực sự là tổ ấm của mỗi
người và là tế bào lành mạnh của xã hội, một yêu cầu không thể thiếu là phải
hoàn thiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình. Về vấn đề này, Nghị
quyết số 48/NQ-TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng
và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đã nêu rõ, cần xây dựng và hoàn
thiện pháp luật về gia đình, trẻ em và chính sách xã hội. Nhằm góp phần thực
hiện mục tiêu trên, học viên đã chọn chủ đề “Pháp luật về phòng, chống bạo
lực gia đình - Qua thực tiễn tỉnh Thanh Hóa” làm đề tài nghiên cứu cho luận
văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong xu thế hội nhập quốc tế hiện nay, phòng, chống bạo lực gia đình
được coi là một trong những tiêu chí quan trọng để đánh giá mức độ dân chủ
và tiến bộ xã hội của một quốc gia. Chính vì vậy, vấn đề phòng, chống bạo
lực gia đình nói chung, pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình nói riêng
đã được nhiều nhà khoa học ở nước ta quan tâm, nghiên cứu, trong đó có thể
kể đến một số công trình sau:

- Lê Thị Quý – Đặng Vũ Cảnh Linh (2007), “Bạo lực gia đình – một sự
sai lệch giá trị”, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
- Ủy ban về các vấn đề xã hội của Quốc hội XI, Ban Soạn thảo Luật
Phòng, chống bạo lực gia đình (2007), Luật Phòng, chống bạo lực gia đình
của một số nước trên thế giới, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
- Phạm Văn Dũng – Nguyễn Đình Thơ (2009), “Tìm hiểu và thực hiện
Luật Phòng, chống bạo lực gia đình”, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
- Trần Thị Hòe (2010), “Pháp luật quốc tế về phòng, chống bạo lực gia
đình đối với phụ nữ”, Tạp chí Khoa học Chính trị, (2), tr. 48
- Nguyễn Phương Lan, “Hành vi xâm phạm tình dục trẻ em và vấn đề
bảo vệ quyền trẻ em”, Tạp chí Luật học, số 9 năm 2013, tr.23.

2


- Phan Thị Luyện, “Nguyên nhân li hôn và một số giải pháp hạn chế li
hôn”, Tạp chí Luật học, tr. 32.
- Luận văn thạc sĩ luật học (Nguyễn Thị Lệ), "Luật phòng, chống bạo
lực gia đình với việc hạn chế ly hôn do bạo lực gia đình", học viên trường Đại
học Luật Hà Nội (Hà Nội, 2010);
- Khoá luận tốt nghiệp (Nguyễn Thị Bình), "Tìm hiểu hành vi bạo lực
gia đình – nguyên nhân, giải pháp hạn chế", học viên trường Đại học Luật Hà
Nội (Hà Nội, 2010).
Những công trình nêu trên đã cung cấp một lượng kiến thức, thông tin
lớn về nhiều khía cạnh cụ thể của việc phòng, chống bạo lực gia đình, tuy
nhiên thực tế cho thấy vẫn còn thiếu những công trình nghiên cứu toàn diện,
chuyên sâu về thực thi pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình ở cấp cơ
sở. Luận văn này góp phần khỏa lấp khoảng trống nghiên cứu đó.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích

Mục đích của luận văn là trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận
và thực trạng thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình ở tỉnh
Thanh Hóa để đề xuất các quan điểm và giải pháp nhằm đảm bảo thực hiện có
hiệu quả pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình ở tỉnh Thanh Hóa trong
thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên, luận văn có các nhiệm vụ sau đây:
- Một là, phân tích làm rõ cơ sở lý luận và khung pháp luật quốc gia và
khung pháp luật quốc tế về phòng, chống bạo lực gia đình.
- Hai là, phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về phòng,
chống bạo lực gia đình ở tỉnh Thanh Hóa hiện nay, chỉ ra những thành tựu, bất
cập, hạn chế và nguyên nhân.

3


- Ba là, trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, đề xuất một số quan
điểm và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về phòng,
chống bạo lực gia đình ở tỉnh Thanh Hóa hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng
Luận văn nghiên cứu các quy định của pháp luật về phòng, chống bạo
lực gia đình ở Việt Nam và thực trạng thực hiện pháp luật về phòng, chống
bạo lực gia đình ở tỉnh Thanh Hóa; những thành tích và hạn chế để có cơ sở
đề xuất một số quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật
về phòng, chống bạo lực gia đình ở tỉnh Thanh Hóa.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận và khung pháp luật về
phòng, chống bạo lực gia đình và trên cơ sở đó đánh giá thực trạng thực hiện pháp
luật về phòng, chống bạo lực gia đình ở tỉnh Thanh Hóa từ năm 2007 - 2013.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn vận dụng các phương pháp luận duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan
điểm cơ bản của Đảng và nhà nước ta về Nhà nước và Pháp luật về phòng,
chống bạo lực gia đình ở Việt Nam hiện nay.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở áp dụng các phương pháp thống kê,
tổng hợp, để phân tích, so sánh các quy định của pháp luật về phòng chống
bạo lực gia đình ở Việt Nam và số liệu tại địa bàn nghiên cứu nhằm phát hiện
những bất cập, thách thức trong việc thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo
lực gia đình ở tỉnh Thanh Hóa.
Luận văn kế thừa và phát triển một số vấn đề lý luận trong các công
trình nghiên cứu có liên quan đến những nội dung của đề tài.

4


6. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Mặc dù từ trước đến nay đã có một số đề tài nghiên cứu về phòng,
chống bạo lực gia đình ở Việt Nam, tuy nhiên chưa có công trình nào tiếp cận
vấn đề từ góc độ luật nhân quyền và đi sâu nghiên cứu một cách cụ thể qua
thực tiễn ở địa phương từ đó đưa ra những giải pháp cụ thể để việc triển khai
pháp luật phù hợp với đặc trưng phong tục, tập quán văn hóa vùng miền. Vì
vậy, từ góc nhìn và cách tiếp cận mới, luận văn sẽ đưa ra những nhận xét,
đánh giá và giải pháp mới nhằm góp phần hoàn thiện khuôn khổ pháp luật
Việt Nam về phòng, chống bạo lực gia đình.
Cụ thể:
- Luận văn góp phần hệ thống hóa và làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực
tiễn pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình ở Việt Nam;

- Luận văn nghiên cứu xác định đặc điểm về việc thực hiện pháp luật
về phòng, chống bạo lực gia đình ở tỉnh Thanh Hóa; đánh giá hệ thống và cụ
thể thực trạng việc triển khai thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia
đình ở địa phương;
- Luận văn đề xuất một số quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình ở tỉnh Thanh Hóa,
đưa pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình vào cuộc sống, từ đó góp
phần nâng cao nhận thức tiến tới thay đổi hành vi của cộng đồng để ngăn
ngừa và xóa bỏ tình trạng bạo lực gia đình hiện nay.
Với đóng góp như vậy, luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo
cho các cơ quan nhà nước và cơ quan chức năng ở tỉnh Thanh Hóa trong
việc thực thi pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình. Ngoài ra, luận
văn còn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho hoạt động giảng dạy,
nghiên cứu ở ngành luật và quản lý nhà nước về văn hóa tại các cơ sở đào
tạo có liên quan của Việt Nam.

5


7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, phụ lục và danh mục tài liệu
tham khảo, luận văn được cấu trúc làm ba chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận và khung pháp luật về phòng, chống bạo lực
gia đình.
Chương 2. Thực trạng thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia
đình ở tỉnh Thanh Hóa.
Chương 3. Quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp
luật về phòng, chống bạo lực gia đình ở tỉnh Thanh Hóa.

6



Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KHUNG PHÁP LUẬT
VỀ PHÒNG, CHỐNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH
1.1. Khái niệm gia đình và bạo lực gia đình
1.1.1. Khái niệm gia đình
Dưới góc độ xã hội học, gia đình được coi là tế bào của xã hội. Không
giống bất cứ nhóm xã hội nào khác, gia đình có sự đan xen các yếu tố sinh
học, kinh tế, tâm lý, văn hóa... Những mối liên hệ cơ bản của gia đình bao
gồm vợ chồng, cha mẹ và con, ông bà và cháu, ngoài ra còn có những mối
liên hệ khác như cô, dì, chú, bác với cháu, cha mẹ chồng và con dâu, cha mẹ
vợ và con rể... Mối quan hệ gia đình được thể hiện ở các khía cạnh như: có
đời sống tình dục, sinh con và nuôi dạy con cái, lao động tạo ra của cải vật
chất để duy trì đời sống gia đình và đóng góp cho xã hội. Mối liên hệ này có
thể dựa trên những căn cứ pháp lý hoặc có thể dựa trên những căn cứ thực tế
một cách tự nhiên.
Dưới góc độ pháp lý “gia đình là tập hợp những người gắn bó với
nhau qua quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc quan hệ nuôi dưỡng,
làm phát sinh nghĩa vụ và quyền giữa họ với nhau” [34, Điều 3, Khoản 2].
Tuy nhiên, trong thực tế đời sống cũng có nhiều cách hiểu khác nhau về khái
niệm gia đình, ví dụ: gia đình là tập hợp những người cùng có tên trong một
sổ hộ khẩu; gia đình là tập hợp những người cùng chung sống với nhau dưới
một mái nhà …
Từ những góc độ nghiên cứu khác nhau, gia đình được chia thành nhiều
dạng thức khác nhau như: gia đình hiện đại và gia đình truyền thống; gia đình
hạt nhân và gia đình đa thế hệ; gia đình khuyết thiếu và gia đình đầy đủ …
Xuất phát từ những quan niệm khác nhau về gia đình dẫn tới những
quan niệm khác nhau về thành viên gia đình.


7


Quan điểm phổ biến cho rằng thành viên gia đình là những người gắn
bó với nhau bằng quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng; tuy nhiên, cũng
có quan điểm cho rằng thành viên gia đình là những người cùng được ghi tên
trong một sổ hộ khẩu hoặc là những người cùng sống trong một gia đình …
Thành viên gia đình hiểu theo nghĩa truyền thống là tất cả những người
trong cùng dòng họ, trong một đại gia đình, từ cụ, kỵ, ông bà, cha mẹ, vợ
chồng, con cái, cháu chắt... (bao gồm cả con dâu, con rể, cháu dâu, cháu rể...)
Thành viên gia đình hiểu theo nghĩa hiện đại là những người sống trong
cùng một gia đình, có đời sống chung về mặt vật chất và tinh thần, cụ thể như
cha mẹ và con cái, vợ và chồng, những người khác sống cùng, ví dụ như người
giúp việc, những người sống chung với nhau như vợ chồng. Những người này
có một khoảng thời gian sống chung với nhau ổn định, có sự quan tâm chia sẻ
với nhau những công việc của gia đình và xã hội, từ đó hình thành nên mối liên
hệ đặc biệt về tâm lý, tình cảm, tạo nên cách ứng xử giữa họ với nhau. Theo
chúng tôi, đây là quan niệm đúng đắn về thành viên gia đình, có thể áp dụng
trong các quan hệ pháp lý, bởi vì sự điều chỉnh của pháp luật trong lĩnh vực
hôn nhân và gia đình cần xuất phát từ mối quan hệ, sự ảnh hưởng, tác động lẫn
nhau giữa những cá nhân là thành viên gia đình chứ không đơn thuần xuất phát
từ những quan hệ như hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng.
1.1.2. Khái niệm bạo lực gia đình
Gia đình là tế bào của xã hội, là hình thức thu nhỏ của xã hội. Bạo lực
gia đình là một dạng thức của bạo lực xã hội. Bạo lực gia đình là một trong
những hình thức bạo lực trong xã hội. Bạo lực gia đình làm ảnh hưởng đến sự
phát triển bền vững của gia đình cũng như sự phát triển của xã hội. Vì vậy,
nhận thức rõ và thống nhất về khái niệm bạo lực gia đình là điều kiện để ngăn
chặn và đẩy lùi bạo lực gia đình trong xã hội.
Có nhiều định nghĩa về "bạo lực gia đình" (domestic violence, hay còn


8


gọi là bạo hành gia đình), tuy nhiên, một trong những định nghĩa được sử
dụng khá phổ biến là của Hiệp hội Luật sư Hoa Kỳ (American Bar
Association - ABA), trong đó cho rằng "bạo lực gia đình chỉ những hình thức
ngược đãi mà một thành viên trong gia đình, một người sống chung trong hộ
gia đình, hoặc một bạn tình gây ra cho một thành viên khác trong gia đình,
cho một người chung sống khác, hoặc cho bạn tình kia [13].
Ngoài ra, thuật ngữ bạo lực gia đình đôi khi còn dùng để chỉ những
hình thức ngược đãi mà một người gây ra cho một người khác trong những
mối quan hệ tình cảm hẹn hò (tình yêu), trong đó bao gồm các hành vi như:
hãm hại hoặc tìm cách hãm hại người khác; làm cho người khác lo sợ về
những nguy cơ sắp xảy ra cho họ; đe dọa, gây áp lực hoặc ép buộc người khác
phải quan hệ tình dục với mình.
Theo Luật mẫu về bạo lực gia đình của Uỷ ban nhân quyền của Liên
Hợp Quốc ngày 02/ 02/1996 thì:
Bạo lực gia đình là tất cả các hành vi lạm dụng thể chất, tinh
thần, tình dục dựa trên cơ sở giới đối với một thành viên, một người
phụ nữ trong gia đình, từ hành vi đánh đập giản đơn đến gây thương
tích nặng, bắt cóc, đe doạ, doạ dẫm, cưỡng bức, quấy rối, lăng nhục
bằng lời nói, dùng vũ lực để vào nhà trái pháp luật, phóng hoả, huỷ
hoại tài sản, bạo lực tình dục, hiếp dâm trong hôn nhân, bạo lực liên
quan đến thách cưới hoặc của hồi môn, cắt bộ phận sinh dục nữ,
bạo lực liên quan đến bóc lột mại dâm, bạo lực đối với người giúp
việc trong gia đình... [51].
Luật Phòng ngừa và điều chỉnh bạo lực gia đình B.E của Thái Lan quy định:
Bạo lực gia đình là bất kỳ hành vi nào được thực hiện một
cách cố ý nhằm gây ra những thương tích về thân thể, sức khoẻ

hoặc tinh thần hoặc các hành vi có khả năng gây nguy hiểm cho

9


thân thể, sức khoẻ hoặc tinh thần của các thành viên hộ gia đình
hoặc cưỡng ép lạm dụng quyền lực để các thành viên hộ gia đình
phải thực hiện, không thực hiện hoặc phải chấp nhận thực hiện
những hành vi sai trái, bỏ mặc... [39].
Theo Luật bảo vệ chống bạo lực gia đình của Bun-ga-ri ngày 29-3-2005 thì:
Bạo lực gia đình là bất kỳ hành vi bạo lực về thể chất, tinh
thần hay tình dục nào, kể cả những hành vi trên trong giai đoạn chưa
đạt, cũng như việc áp đặt hạn chế tự do và sự riêng tư cá nhân, nhằm
vào các cá nhân đang hay đã có quan hệ gia đình hoặc họ hàng sống
chung như vợ chồng hoặc sống chung trong một nhà... [7].
Theo Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007 của Việt Nam thì:
"Bạo lực gia đình là hành vi cố ý của thành viên gia đình gây tổn hại hoặc có
khả năng gây tổn hại về thể chất, tinh thần, kinh tế đối với các thành viên khác
trong gia đình ” [31, Điều 1, khoản 2].
1.2. Đặc điểm và hình thức thể hiện của bạo lực gia đình
1.2.1. Đặc điểm của bạo lực gia đình
Mặc dù được định nghĩa với nhiều cách khác nhau nhưng khi xem xét
các hành vi bạo lực gia đình, chúng ta đều có thể thấy các đặc điểm sau đây:
+ Thứ nhất, bạo lực gia đình là hành vi bạo lực xảy ra giữa các thành
viên trong gia đình. Điều đó có nghĩa là chủ thể có hành vi bạo lực gia đình
(người gây ra bạo lực gia đình) phải là thành viên trong gia đình và nạn nhân
của bạo lực gia đình là một trong những thành viên còn lại của gia đình đó.
+ Thứ hai, bạo lực gia đình được thực hiện bởi lỗi cố ý chứ không thể
là lỗi vô ý.
+ Thứ ba, bạo lực gia đình là hành vi gây tổn hại hoặc có khả năng gây

tổn hại về thể chất, tinh thần, kinh tế đối với thành viên khác trong gia đình.
+ Thứ tư, bạo lực gia đình khó bị phát hiện, khó can thiệp bởi nó

10


thường xảy ra trong môi trường kín là khung cảnh sinh hoạt của gia đình. Do
ảnh hưởng từ phong tục tập quán, quan niệm của người Việt Nam là “đèn
nhà ai nhà ấy rạng” hay “tốt đẹp phô ra, xấu xa đậy lại”, chính vì vậy khi có
bạo lực gia đình trong nhiều trường hợp chính thành viên hoặc người bị hại
lại là người giấu không khai báo, hoặc có khai báo nhưng ở mức độ nói
tránh, nói giảm đi rất nhiều so với thực tế. Đây là nguyên nhân chính gây
khó khăn cho việc can thiệp của cơ quan công quyền khi muốn bảo vệ nạn
nhân bị bạo lực gia đình.
Bạo lực gia đình từ lâu đã là vấn đề được dư luận quốc tế và dư luận ở
nhiều quốc gia quan tâm sâu sắc. Đây không phải là vấn đề mang tính địa
phương, vùng miền mà là một vấn đề toàn cầu, ở đâu cũng có, từ các nước
nghèo, nước đang phát triển cho đến nước giàu có, đã phát triển về kinh tế và
xã hội. Mọi gia đình thuộc mọi tầng lớp của xã hội đều có thể gặp phải tệ nạn
này. Đối tượng của các hành vi bạo lực gia đình có thể là bất kỳ ai, trong đó
có cả nam giới, nhưng thường là những thành viên yếu đuối, dễ bị tổn thương
như phụ nữ, người già và trẻ em.
Mọi hình vi bạo lực gia đình đều ảnh hưởng lâu dài đến sức khoẻ,
tâm lý, tình cảm của cá nhân nạn nhân. Đặc biệt, đối với trẻ em, bạo lực
gia đình còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự hình thành nhân cách, hạn chế
những cơ hội để trẻ em có một cuộc sống bình thường và nhất là tương lai
của các em sau này.
1.2.2. Hình thức thể hiện của bạo lực gia đình
Pháp luật quốc tế, cụ thể là Luật mẫu về bạo lực gia đình của Liên hợp
quốc, quy định tất cả những hành vi lạm dụng thể chất, tâm lý, tình dục dựa

trên cơ sở giới do một thành viên gia đình thực hiện với một người phụ nữ
trong gia đình, bao gồm các hành vi từ đánh đập giản đơn đến gây thương tích
nặng, bắt cóc, đe dọa, cưỡng bức, quấy rối, lăng nhục, hủy hoại tài sản, đột

11


nhập vào nhà ở trái phép, bạo lực tình dục, hiếp dâm, bóc lột mại dâm, cắt bỏ
bộ phận sinh dục nữ..., cho dù đã được thực hiện hay chủ định thực hiện
nhưng chưa đạt, đều cấu thành hành vi bạo lực gia đình.
Luật về phòng, chống bạo lực gia đình của một số nước và lãnh thổ
như Nhật Bản, Niu Di lân, Nam Phi, Cam pu chia, Đài Loan, Đông Ti-mo và
Cô-xô-vô... xác định phạm vi các hành vi cấu thành bạo lực gia đình khá
rộng, trong đó bao gồm bạo lực thể chất, bạo lực tình dục, bạo lực về tâm lý
tình cảm, và trong một số trường hợp, gồm cả sự lạm dụng về kinh tế và sự
quấy rối, theo đuổi...
Mặc dù nhận thức về các hình thức bạo lực gia đình ở những xã hội
khác nhau ít nhiều có sự khác nhau, tuy nhiên có thể quy vào những dạng
chính như sau:
Bạo lực thể chất: Thể hiện ở những hành vi như ngược đãi, đánh đập
hoặc những hành vi cố ý khác xâm hại đến tính mạng, sức khỏe của một trong
các thành viên trong gia đình, nhất là người phụ nữ, bất kể đã hay chưa gây ra
hậu quả thực sự cho nạn nhân. Ví dụ: Đánh nạn nhân bằng tay, chân hoặc sử
dụng hung khí...; Bắt nạn nhân phải ăn đói hoặc ăn/uống những thứ có độc tố
ảnh hưởng đến sức khỏe; Bắt nạn nhân phải mặc rét hay bỏ mặc nạn nhân ốm
đau mà không chữa trị...
Bạo lực về tinh thần: Thể hiện ở những hành vi ghẻ lạnh, lăng mạ, xỉ
nhục, nhạo báng, đe dọa... khiến người nạn nhân phải sống trong trạng thái
căng thẳng, lo âu, sợ hãi hay đau khổ. Vi dụ: Chửi bới, mắng nhiếc, đay
nghiến, gây áp lực hay các hành động khác làm cho nạn nhân lo âu, căng

thẳng, xấu hổ, cảm thấy nhục nhã; Ngăn cản nạn nhân thực hiện các quyền,
nghĩa vụ với những người thân khác trong gia đình; Gây áp lực để buộc nạn
nhân phải cắt đứt một mối quan hệ hay sự giao tiếp nhất định, kiểm soát các
mối quan hệ của họ, cô lập họ.

12


Bạo lực về tình dục: Thể hiện ở các hành vi như quấy rối tình dục,
khiêu dâm, cưỡng bức hay gây sức ép để nạn nhân phải quan hệ tình dục trái
với ý muốn của họ. Trong gia đình, bạo lực tình dục thông thường thể hiện ở
việc một người áp đặt ý muốn về tình dục của mình với người khác, coi người
khác như đồ chơi, không quan tâm đến nhu cầu tâm, sinh lý hay tình trạng sức
khỏe của nạn nhân. Ngoài ra, bạo lực tình dục còn thể hiện dưới dạng các
hành vi như: Cố tình đụng chạm cơ thể hay tán tỉnh nạn nhân; Khiêu dâm và
đòi hỏi nạn nhân quan hệ tình dục (bằng lời nói hay hành động); Không cho
nạn nhân sử dụng các biện pháp tránh thai; Cưỡng bức nạn nhân quan hệ tình
dục; Cưỡng ép nạn nhân mang thai hoặc nạo hút thai...
Bạo lực về kinh tế: Thể hiện ở việc dùng sức mạnh để chiếm hữu tài
sản, áp đặt ý chí về kinh tế với thành viên khác trong gia đình [3]. Ví dụ: Bao
vây kinh tế, kiểm soát tiền bạc, thu nhập của nạn nhân, không cho nạn nhân
giữ tiền và đi làm; Bắt nạn nhân phải hỏi xin tiền và chứng minh mọi mua
sắm, chi tiêu dù lớn hay nhỏ; Cưỡng đoạt tiền, tài sản, thu nhập, phá hoại tài
sản của nạn nhân; Cưỡng ép nạn nhân lao động hoặc đóng góp tài chính quá
khả năng của họ...
Trong Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007 xác định các hành
vi bạo lực gia đình, bao gồm:
- Hành hạ, ngược đãi, đánh đập hoặc hành vi cố ý khác xâm
hại đến sức khoẻ, tính mạng;
- Lăng mạ hoặc hành vi cố ý khác xúc phạm danh dự, nhân phẩm;

- Cô lập, xua đuổi hoặc gây áp lực thường xuyên về tâm lý gây
hậu quả nghiêm trọng;
- Ngăn cản việc thực hiện quyền, nghĩa vụ trong quan hệ gia đình
giữa ông, bà và cháu; giữa cha, mẹ và con; giữa vợ và chồng; giữa anh,
chị, em với nhau;

13


- Cưỡng ép quan hệ tình dục;
- Cưỡng ép tảo hôn; cưỡng ép kết hôn, ly hôn hoặc cản trở hôn
nhân tự nguyện, tiến bộ;
- Chiếm đoạt, huỷ hoại, đập phá hoặc có hành vi khác cố ý làm
hư hỏng tài sản riêng của thành viên khác trong gia đình hoặc tài
sản chung của các thành viên gia đình;
- Cưỡng ép thành viên gia đình lao động quá sức, đóng góp tài
chính quá khả năng của họ; kiểm soát thu nhập của thành viên gia
đình nhằm tạo ra tình trạng phụ thuộc về tài chính;
- Có hành vi trái pháp luật buộc thành viên gia đình ra khỏi
chỗ ở [31 Điều 2, Khoản 1].
Như vậy, từ những phân tích ở trên cho thấy khái niệm “bạo lực gia
đình” và các hình thức thể hiện của bạo lực gia đình trong pháp luật quốc tế
có nghĩa rộng hơn rất nhiều so với trong pháp luật Việt Nam, song nhìn chung
cả hai khung pháp lý đều mang mục đích chung là bảo vệ nhân quyền.
Ngoài khái niệm về bạo lực gia đình, còn một số khái niệm gần gũi
nhưng không hoàn toàn đồng nhất với khái niệm bạo lực gia đình nhưng đều
nhằm mục đích hướng tới bảo vệ nhân quyền, đó là: bạo lực trên cơ sở giới;
bạo lực chống lại phụ nữ; bạo lực trẻ em và bạo lực người già.
+ Bạo lực trên cơ sở giới:
Bạo lực trên cơ sở giới là một vấn đề mang tính toàn cầu. Nó xảy ra ở

mọi xã hội và dưới nhiều hình thức như bạo lực gia đình, tấn công và cưỡng
bức tình dục, buôn bán phụ nữ và quấy rối tình dục ở trường học và nơi làm
việc. Mặc dù nam giới và trẻ em trai cũng bị ảnh hưởng, nhưng phụ nữ và trẻ
em gái là những đối tượng chính phải chịu đựng bạo lực trên cơ sở giới. Tuy
chưa thể đo lường hết nỗi thống khổ do nạn bạo lực gây ra, nhưng chúng ta đã
biết cái giá quá lớn phải trả về mặt sức khoẻ, thiệt hại về tài sản, mất mát về

14


thu nhập và đổ vỡ gia đình. Con số ước tính của các nước đang phát triển và
các nước phát triển cho thấy cái giá này có thể lên đến “hàng chục tỷ đô la
mỗi năm ở mỗi quốc gia, thậm chí có thể nhiều hơn nữa” [52]. Đó là bằng
chứng rõ ràng cho thấy bạo lực gây thiệt hại to lớn cho sự nghiệp phát triển
kinh tế cũng như phát triển con người.
Tuyên bố của Liên Hợp Quốc về xoá bỏ bạo lực đối với phụ nữ do Đại
hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua năm 1993 đã định nghĩa bạo lực trên cơ
sở giới như sau:
Bất kỳ một hành động bạo lực nào dựa trên cơ sở giới dẫn
đến, hoặc có khả năng dẫn đến, những tổn thất về thân thể, tình dục,
tâm lý hay những đau khổ của phụ nữ, bao gồm cả sự đe doạ có
những hành động như vậy, sự cưỡng bức hay tước đoạt một cách
tuỳ tiện sự tự do, dù nó xảy ra ở nơi công cộng hay trong cuộc sống
riêng tư đều gọi là bạo lực trên cơ sở giới [19].
Bạo lực trên cơ sở giới được miêu tả tiếp trong Báo cáo về Chấm dứt
bạo lực đối với Phụ nữ (1999), như sau:
Khái niệm bạo lực trên cơ sở giới được xác định bởi vì xuất
phát một phần từ vị trí thấp kém hơn của người phụ nữ trong xã hội.
Phần khác, nhiều nền văn hoá có các niềm tin, chuẩn mực và thể
chế xã hội làm chính đáng hoá bạo lực đối với phụ nữ và bởi vậy

gây ra bạo lực đối với phụ nữ. Cùng là những hành động như nhau
nhưng nếu nó xảy ra với người chủ lao động, người hàng xóm hoặc
người quen thì sẽ bị trừng phạt, nhưng lại không có vấn đề gì nếu
nam giới có các hành động đó đối với phụ nữ, đặc biệt trong phạm
vi gia đình [19].
Theo Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc (UNFPA), bạo lực trên cơ sở giới là
những hình thức bạo hành giữa nam giới và phụ nữ mà trong đó phụ nữ

15


thường là nạn nhân. Những hình thức bạo hành này bắt nguồn từ các mối
quan hệ quyền lực bất bình đẳng giữa nam giới và phụ nữ.
Ở Việt Nam còn thiếu các thông tin và nghiên cứu về bạo lực trên cơ sở
giới bạo lực trên cơ sở giới có bằng chứng đáng tin cậy. Cho đến nay, mới chỉ
có các nghiên cứu định tính và nghiên cứu định lượng quy mô nhỏ về bạo lực
trên cơ sở giới bạo lực trên cơ sở giới ở Việt Nam. Mặc dầu sự phổ biến của
bạo lực trên cơ sở giới ở tầm quốc gia là chưa được biết đến, tuy nhiên, các
nghiên cứu hiện có cho thấy bạo lực trên cơ sở giới đang là một vấn đề hết
sức được quan tâm.
Các thái độ, chuẩn mực và hành vi văn hoá đang cản trở sự hiểu biết về
bạo lực trên cơ sở giới ở Việt Nam. Thuật ngữ “bạo lực” trong tiếng Việt là
một khái niệm rất mạnh và người dân thường ngần ngại sử dụng thuật ngữ
này để nói về các thành viên gia đình mình, trừ phi việc lạm dụng gây ra các
hậu quả nghiêm trọng về sức khoẻ và các hậu quả khác. Trong cuộc sống
hàng ngày, nhiều hình thức bạo lực ít nghiêm trọng, ví dụ như lạm dụng bằng
lời nói, tát, cưỡng ép hoặc ép buộc tình dục trái với mong mốn của người vợ
thường không được coi là bạo lực.
Nhìn chung, bạo lực trên cơ sở giới bạo lực trên cơ sở giới là một vấn
đề phức tạp, căn nguyên của nó là ở thái độ và hành vi đã ăn sâu, bám rễ vào

văn hoá và rất khó thay đổi. Nguyên nhân căn bản của bạo lực trên cơ sở giới
là tình trạng bất bình đẳng giới, là thái độ và niềm tin cố hữu cho rằng phụ nữ
thấp kém hơn so với nam giới, không đáng được hưởng các quyền cũng như
được kiểm soát cuộc sống và những lựa chọn của riêng mình. Mặc dù các yếu
tố khác như nghiện rượu, lạm dụng ma tuý và sức ép kinh tế cũng góp phần
làm gia tăng tình trạng bạo lực, nhưng chính những bất bình đẳng về quyền
lực, về tiếng nói và sự kiểm soát giữa nam giới và phụ nữ đã nâng đỡ và kéo
dài hành vi bạo lực. Ngăn chặn và chấm dứt bạo lực là trách nhiệm chung của
mọi thành viên trong xã hội.

16


+ Bạo lực chống lại phụ nữ
Tuyên bố của Liên hợp quốc về việc loại bỏ bạo lực đối với phụ nữ
ngày 20/12/1993 đã định nghĩa:
Bạo lực đối với phụ nữ là bất kỳ hành động bạo lực nào dựa
trên cơ sở giới gây ra hậu quả hoặc có thể gây ra hậu quả, làm tổn
hại hoặc gây đau khổ cho phụ nữ về thân thể, tình dục hay tâm lý,
kể cả những lời đe doạ hay độc đoán tước quyền tự do, dù xảy ra ở
nơi công cộng hay trong đời sống riêng tư [19].
Theo định nghĩa trên, bạo lực gia đình đối với phụ nữ bao gồm: các
hành vi bạo lực trên cơ sở giới gây ra hậu quả hoặc có thể gây ra hậu quả, làm
tổn hại hoặc gây đau khổ cho phụ nữ về thân thể, tình dục và tâm lý xảy ra
trong gia đình.
Nghiên cứu mấy năm gần đây cho thấy bạo lực gia đình đối với phụ
nữ đang xẩy ra khá phổ biến tại Việt Nam và đang tăng lên trong những năm
gần đây. Hình thức chủ yếu của bạo lực gia đình đối với phụ nữ là chồng
đánh đập, chửi mắng, hành hạ vợ. Phần lớn các vụ án xẩy ra trong gia đình
là do hành vi bạo lực của người chồng đối với người vợ. Hành vi bạo lực đối

với phụ nữ trong gia đình không chỉ là hành vi dùng bạo lực, hung khí tác
động vào người phụ nữ gây thương tích hoặc gây ra cái chết cho họ. Hành vi
bạo lực đối với phụ nữ trong gia đình còn xẩy ra dưới dạng sự tác động bạo
lực nhẹ hơn, chưa đến mức gây thương tích nhưng cứ lặp đi lặp lại nhiều
lần. Đó là những hành vi đánh đập, ngược đãi phụ nữ, xâm phạm đến danh
dự, nhân phẩm, làm cho họ sống không yên ổn về thể xác, dẫn đến người
phụ nữ có những hành vi tiêu cực.
Nguyên nhân sâu xa của các hành vi bạo lực gia đình đối với phụ nữ là
sự bất bình đẳng giới vẫn tồn tại trong xã hội, trong đầu óc gia trưởng của
nhiều người chồng. Hiện nay, ở chừng mực nào đó, xã hội vẫn coi bạo lực gia

17


đình đối với phụ nữ như một khía cạnh bình thường của cuộc sống vợ chồng.
Mọi người coi bạo lực gia đình là vấn đề của từng gia đình, sự tham gia của
người ngoài chỉ là cứu cánh cuối cùng, khi mức độ bạo lực được coi là nguy
hiểm hoặc người phụ nữ không chịu dựng được phải lên tiếng.
Với những dẫn chứng nêu trên, đứng trên phương diện pháp lý, bạo lực
gia đình đối với phụ nữ thực sự là một loại tội phạm nghiêm trọng. Thông
thường, để phòng chống tội phạm thì một trong những biện pháp hữu hiệu
nhất là dùng pháp luật trừng trị những kẻ có tội (ý kiến của các đại biểu tham
dự Diễn đàn truyền hình toàn cầu bàn về vấn đề phòng chống bạo lực đối với
phụ nữ do Liên hợp quốc tổ chức ngày 8/3/1999). Vậy pháp luật nước
CHXHCN Việt Nam đã thực sự bảo vệ được những người phụ nữ là nạn nhân
của bạo lực trong gia đình hay chưa?
Trong nhiều nghiên cứu về vấn đề bạo lực gia đình đối với phụ nữ Việt
Nam, các tác giả đều cho rằng chính sách, pháp luật của Việt Nam rất quan
tâm bảo vệ quyền lợi của phụ nữ, chống các hành vi bạo lực đối với phụ nữ.
Việt Nam là một trong những quốc gia chủ động và tiên phong tham gia các

Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em, Công ước về chống mọi hình
thức phân biệt đối xử với phụ nữ. Trong Hiến pháp, Luật hôn nhân và gia
đình, Luật bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em; Luật bình đẳng giới và Luật
phòng, chống bạo lực gia đình của Việt Nam đã có nhiều quy định cụ thể về
bảo vệ quyền bình đẳng giới trên mọi lĩnh vực và cấm mọi hành động bạo lực
chống lại phụ nữ và trẻ em.
+ Bạo lực với trẻ em
Với đặc điểm còn non nớt cả về thể chất và trí tuệ, trẻ em cần sự chăm
sóc và bảo vệ của gia đình và xã hội để có thể phát triển đầy đủ và hài hoà cả
về thể chất và nhân cách. Trẻ em cần được lớn lên trong một môi trường gia
đình, trong bầu không khí hạnh phúc, yêu thương và thông cảm.

18


Theo Công ước về quyền trẻ em quy định:
Các quốc gia thành viên phải thực hiện mọi biện pháp lập pháp,
hành chính, xã hội và giáo dục thích hợp để bảo vệ trẻ em khỏi mọi
hình thức bạo lực về thể chất hoặc tinh thần, bị thương tổn hay lạm
dụng, bị bỏ mặc hoặc sao nhãng trong việc chăm sóc, bị ngược đãi
hoặc bóc lột, gồm cả lạm dụng tình dục, trong khi trẻ em vẫn nằm
trong vòng chăm sóc của cha hay mẹ hoặc cả cha lẫn mẹ, của một hay
nhiều người giám hộ pháp lý, hoặc của bất kỳ người nào khác được
giao việc chăm sóc trẻ em [20, Điều 19, khoản 1].
Công ước qui định trẻ em có quyền được bảo vệ tránh khỏi mọi hình
thức bạo lực về thể chất hoặc tinh thần. Theo đó, các quốc gia có nghĩa vụ bảo
vệ trẻ em khỏi những hình thức vi phạm về thể chất hoặc vi phạm về tinh thần.
Theo quy định Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em số 25/204/QH11
ngày 15/6/2004 quy định các hành vi bị nghiêm cấm đối với trẻ em: “Hành
hạ, ngược đãi, làm nhục, chiếm đoạt, bắt cóc, mua bán, đánh tráo trẻ em;

lợi dụng trẻ em vì mục đích trục lợi; xúi giục trẻ em thù ghét cha mẹ, người
giám hộ hoặc xâm phạm tính mạng, thân thể, nhân phẩm, danh dự của
người khác” [29, Điều 7, Khoản 2].
Các hành vi hành hạ, ngược đãi, làm nhục trẻ em được cụ thể hoá
như sau:
- Xâm phạm thân thể, đánh đập, đối xử tồi tệ đối với trẻ
em; bắt trẻ em nhịn ăn, uống, mặc rách, hạn chế vệ sinh cá nhân;
giam hãm trẻ em; bắt trẻ em sống ở nơi có môi trường độc hại,
nguy hiểm.
- Gây tổn thương về tinh thần, xúc phạm nhân phẩm, danh
dự, lăng nhục, chửi mắng, đe dọa, làm nhục, cách ly, sao nhãng ảnh
hưởng đến sự phát triển của trẻ em.

19


- Dùng các biện pháp trừng phạt để dạy trẻ em, làm trẻ em
tổn thương, đau đớn để thể xác và tinh thần.
- Dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc dùng các thủ đoạn
khác để chiếm đoạt, bắt cóc trẻ em, cách ly trẻ em khỏi cha, mẹ,
người giám hộ.
- Thường xuyên đe dọa trẻ em bằng các hình ảnh, âm thanh,
con vật, đồ vật làm trẻ em sợ hãi, tổn thương về tinh thần.
- Mua, bán trẻ em dưới mọi hình thức.
- Đánh tráo trẻ em vì bất cứ mục đích gì.
- Xúi giục, kích động, lừa dối trẻ em dưới mọi hình thức làm
cho trẻ em thù ghét cha, mẹ, người giám hộ.
- Xúi giục, kích động, lừa dối trẻ em xâm phạm tính mạng,
thân thể, nhân phẩm và danh dự của người khác [10, Điều 8].
Như vậy có thể nhận định bạo hành trẻ em là hành vi phạm về thể chất

hoặc tinh thần hoặc cả thể chất lẫn tinh thần.
+ Bạo lực với người già
Người già (hay còn gọi là người cao tuổi) theo quy định của Pháp lệnh
về người cao tuổi số 23/2000/PL - UBTVQH10, ngày 28/4/2000 là người từ
60 tuổi trở lên.
Người cao tuổi có công sinh thành, nuôi dưỡng, giáo dục con cháu về
nhân cách và giữ vai trò quan trọng trong gia đình và xã hội. Việc chăm sóc
đời sống vật chất, tinh thần và tiếp tục phát huy vai trò của người cao tuổi
là trách nhiệm của cả gia đình, Nhà nước và toàn xã hội, là thể hiện bản
chất tốt đẹp, đạo lý, truyền thống của dân tộc ta. Vì vậy, pháp luật quốc tế
cũng như pháp luật Việt Nam nghiêm cấm mọi hành vi ngược đãi, hành hạ,
bắt người cao tuổi làm việc quá sức (Khoản 3, Điều 10 Pháp lệnh người
cao tuổi năm 2000).

20


×