Tải bản đầy đủ (.doc) (117 trang)

Thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo qua thực tiễn tỉnh bắc ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (447.58 KB, 117 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ TUYẾT

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
QUA THỰC TIỄN TỈNH BẮC NINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội – 2014

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ TUYẾT

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
QUA THỰC TIỄN TỈNH BẮC NINH

Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số

: 60 38 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: GS.TSKH. Đào Trí Úc



Hà Nội – 2014

2


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các
số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung
thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài
chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo
vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Thị Tuyết

3


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...........................................................................................................1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ GIÁO
DỤC VÀ ĐÀO TẠO.........................................................................................7
1.1. Khái niệm và các hình thức thực hiện pháp luật........................................7
1.1.1. Khái niệm thực hiện pháp luật................................................................7
1.1.2. Hình thức thực hiện pháp luật.................................................................8
1.2. Vị trí, vai trò của thực hiện pháp luật.......................................................10

1.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện pháp luật............................12
1.3.1. Những yếu tố tác động bên trong..........................................................12
1.3.2. Những yếu tố tác động bên ngoài..........................................................13
1.4. Thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo.............................................15
1.4.1. Khung pháp luật về giáo dục và đào tạo...............................................15
1.4.2. Đặc điểm thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo...........................19
1.4.3. Nội dung và các hình thức thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo 22
1.4.5. Chủ thể và yêu cầu của việc thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo....29
1.5. Vai trò của thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo............................34
1.5.1. Thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo góp phần tích cực đưa pháp
luật vào đời sống thực tiễn, thúc đẩy sự nghiệp giáo dục và đào tạo phát triển
đúng quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước......................................34
1.5.2. Thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo góp phần ngăn ngừa và hạn chế
các vi phạm pháp luật, giải quyết kịp thời những vi phạm pháp luật, tăng cường
pháp chế xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo............................35
1.5.3. Thông qua thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo góp phần phổ
biến, giáo dục pháp luật, xây dựng thói quen, ý thức của công dân sống và
làm việc theo Hiến pháp và pháp luật.............................................................36

4


Kết luận chương 1...........................................................................................38
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ GIÁO DỤC
VÀ ĐÀO TẠO Ở TỈNH BẮC NINH..............................................................39
2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế -xã hội và một số tình hình về giáo dục và
đào tạo ở tỉnh Bắc Ninh...................................................................................39
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên.................................................................................39
2.1.2. Đặc điểm về kinh tế - xã hội.................................................................40
2.2. Thực trạng thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo ở tỉnh Bắc Ninh

trong thời gian qua..........................................................................................42
2.2.1. Thực trạng thực hiện qui định của pháp luật về tổ chức hệ thống giáo
dục và đào tạo ở tỉnh Bắc Ninh.......................................................................42
2.2.2. Thực trạng thực hiện qui định của pháp luật đối với hoạt động giáo dục
và đào tạo ở tỉnh Bắc Ninh..............................................................................48
2.2.3. Thực trạng thực hiện các nội dung quản lý nhà nước về giáo dục và đào
tạo ở tỉnh Bắc Ninh.........................................................................................57
2.2.4. Nguyên nhân của những kết quả, tồn tại và một số kinh nghiệm.........64
Kết luận chương 2...........................................................................................73
CHƯƠNG 3: CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ
GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO Ở TỈNH BẮC NINH HIỆN NAY......................74
3.1. Đảm bảo thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo ở tỉnh Bắc Ninh là
yêu cầu cấp bách hiện nay...............................................................................74
3.1.1. Xuất phát từ yêu cầu thực hiện mục tiêu của giáo dục và đào tạo theo
quan điểm và chủ trương của Đảng và Nhà nước...........................................74
3.1.2. Xuất phát từ vị trí, vai trò và ý nghĩa của việc thực hiện pháp luật giáo
dục và đào tạo..................................................................................................76
3.1.3. Xuất phát từ yêu cầu khắc phục những hạn chế, tồn tại của việc thực
hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo ở tỉnh Bắc Ninh hiện nay....................78

5


3.2. Các giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo ở tỉnh
Bắc Ninh hiện nay...........................................................................................79
3.2.1. Nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò, ý nghĩa của vấn đề thực hiện pháp
luật về giáo dục và đào tạo để thực hiện mục tiêu của Đảng và Nhà nước ta:
giáo dục là quốc sách hàng đầu.......................................................................79
3.2.2. Hoàn thiện pháp luật về giáo dục và đào tạo và các văn bản pháp quy về
giáo dục và đào tạo nói chung và tại Bắc Ninh nói riêng................................81

3.2.3. Đẩy mạnh công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về giáo dục và đào tạo
ở tỉnh Bắc Ninh...............................................................................................83
3.2.4. Kiện toàn tổ chức và hoạt động về giáo dục và đào tạo ở tỉnh Bắc Ninh....86
3.2.5. Xây dựng cơ chế phù hợp và tạo lập môi trường xã hội thuận lợi cho
việc thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo ở tỉnh Bắc Ninh...................88
3.2.6. Bảo đảm điều kiện vật chất cho việc thực hiện pháp luật về giáo dục và
đào tạo ở tỉnh Bắc Ninh...................................................................................92
3.2.7. Tăng cường công tác quản lý của Nhà nước trong việc thực hiện pháp
luật về giáo dục và đào tạo ở tỉnh Bắc Ninh...................................................94
3.2.8. Đẩy mạnh hoạt động kiểm tra, thanh tra, giám sát và xử lý các vi phạm
trong việc thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo ở tỉnh Bắc Ninh..........96
3.2.9. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với vấn đề thực hiện pháp luật về
giáo dục và đào tạo ở tỉnh Bắc Ninh...............................................................98
Kết luận chương 3.........................................................................................101
KẾT LUẬN...................................................................................................102

6


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Nhà nước ta là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân
dân, là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp
giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp và tư pháp. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Mọi cơ quan, tổ
chức, cán bộ, công chức, mọi công dân có nghĩa vụ chấp hành Hiến pháp và
pháp luật. Bởi pháp luật là công cụ điều chỉnh mang tính quy phạm và tính bắt
buộc chung, pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội mang tính phổ biến, điển
hình trong hầu hết các lĩnh vực quan trọng của đời sống xã hội, đáp ứng ngày

một tốt hơn những nhu cầu, đòi hỏi của mỗi cá nhân cũng như của toàn xã
hội. Tuy nhiên, ở nước ta hiện nay việc triển khai thực hiện đường lối, chủ
trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước còn nhiều tồn tại, hạn
chế; kỷ luật, kỷ cương chưa nghiêm, tình trạng thiếu hiểu biết pháp luật, coi
thường pháp luật, vi phạm pháp luật diễn ra tương đối phổ biến. Do đó, yêu
cầu cấp thiết trong giai đoạn hiện nay là việc đề cao pháp luật, tôn trọng tính
tối cao của pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo đảm cho
pháp luật được thực hiện nghiêm.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII năm 1996 của Đảng đã quyết
định đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Muốn
tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá thắng lợi phải phát triển mạnh giáo
dục - đào tạo, phát huy nguồn lực con người, yếu tố cơ bản của sự phát triển
nhanh và bền vững, đã thực sự coi phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo là
quốc sách hàng đầu, đầu tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư cho phát triển.

1


Từ đó cho đến nay, hệ thống giáo dục quốc dân đã được xây dựng ngày càng
hoàn chỉnh, góp phần vào việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng
nhân tài, đáp ứng yêu cầu cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bên
cạnh những thành tựu đó, giáo dục và đào tạo nước ta còn nhiều mặt yếu kém,
bất cập, chưa đáp ứng kịp thời những yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa và
hội nhập kinh tế khu vực và thế giới.
Từ khi tái lập tỉnh năm 1997, tỉnh Bắc Ninh đã ra sức phấn đấu và đạt
được những thành tựu trên các mặt của đời sống xã hội, đặc biệt là lĩnh vực
giáo dục - đào tạo với quy mô trường lớp tiếp tục tăng, mạng lưới trường lớp
phát triển rộng khắp, trình độ dân trí được nâng lên rõ rệt, chất lượng và hiệu

quả giáo dục đã có những chuyển biến tích cực, ngân sách đầu tư cho giáo
dục và đào tạo tăng mạnh, huy động được nhiều nguồn vốn trong xã hội để
xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật nhà trường, chủ trương xã hội hóa bước đầu
có tác dụng, làm cho giáo dục và đào tạo thực sự là sự nghiệp của Đảng, của
Nhà nước và của toàn dân. Công tác thực hiện pháp luật về giáo dục và đào
tạo ở tỉnh Bắc Ninh đã đạt được nhiều kết quả trên cả ba phương diện: tổ
chức, hoạt động và quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo.
Bên cạnh đó, vấn đề thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo ở tỉnh
Bắc Ninh cũng còn những khiếm khuyết và yếu kém, dẫn đến tình trạng chất
lượng và hiệu quả giáo dục còn thấp; những biểu hiện tiêu cực, thiếu kỷ
cương trong giáo dục chưa ngăn chặn kịp thời; công tác quản lý đối với giáo
dục và đào tạo còn có những biểu hiện tùy tiện chưa tuân thủ pháp luật... nên
ảnh hưởng đến yêu cầu ổn định, phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo của
tỉnh. Mặt khác, trên thực tế, việc thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo ở
tỉnh Bắc Ninh chưa có cơ quan, tổ chức, cá nhân nào nghiên cứu, đánh giá
một cách bài bản, khoa học, kết hợp giữa lý luận và thực tiễn để tổng kết, rút

2


kinh nghiệm, cũng như đề ra phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng công tác này.
Từ những điểm đã phân tích trên đây, tác giả cho rằng việc nghiên cứu đề
tài: “Thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo ở tỉnh Bắc Ninh hiện nay” là
hoàn toàn cần thiết, đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn quản lý nhà nước.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong những năm qua, nghiên cứu về thực hiện pháp luật nói chung đã
được nhiều nhà khoa học quan tâm và đã có nhiều công trình nghiên cứu như:
- TS. Nguyễn Minh Đoan, Thực hiện và áp dụng pháp luật ở Việt Nam.
- PGS.TS Nguyễn Văn Mạnh (Chủ biên năm 2009), Một số vấn đề lý

luận và thực tiễn về thực hiện pháp luật.
Riêng trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, đã có rất nhiều công trình
khoa học nghiên cứu về các khía cạnh khác nhau như:
- TS. Phạm Văn Kha, “Tổ chức thực hiện chiến lược phát triển giáo
dục 2001-2010 ”, Tạp chí Giáo dục, số 53, tháng 3-2003.
- PGS.TS. Đặng Quốc Bảo, “Nhận diện một số khó khăn trong quản lý
nhà nước đối với giáo dục ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Giáo dục số 66, tháng
9-2003.
- PGS.TS.Trần Khánh Đức, “Quản lý nhà nước về chất lượng giáo
dục-chính sách và các mô hình ”, Tạp chí Giáo dục số 67, tháng 9-2003.
- “Về phát triển sự nghiệp giáo dục-đào tạo, khoa học-công nghệ, các
lĩnh vực văn hóa-xã hội ”, Tạp chí Giáo dục, số 81, tháng 3-2004.
- “Hoàn thiện pháp luật về giáo dục ở Việt Nam hiện nay ” của Lê Thị
Kim Dung, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí
Minh, năm 2004.
Các công trình nghiên cứu trên đây chủ yếu tập trung vào các vấn đề về:
chính sách hoàn thiện hệ thống giáo dục và đào tạo; chính sách nâng cao chất

3


lượng và hiệu quả đào tạo; nghiên cứu lý luận và thực tiễn để xác định phương
hướng và nội dung hoàn thiện pháp luật về giáo dục và đào tạo ở Việt Nam...
Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách riêng lẻ, cụ thể về vấn
đề thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo ở địa phương một cách cập nhật
nhất (tính đến thời điểm hiện nay) và ở một địa bàn cụ thể: tỉnh Bắc Ninh.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo là vấn đề rộng và được thông
qua các hình thức: tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật, sử dụng pháp luật và áp

dụng pháp luật về giáo dục và đào tạo. Nhưng chủ yếu vẫn là hình thức thi hành
(chấp hành) pháp luật và áp dụng pháp luật, do đó thi hành pháp luật và áp dụng
pháp luật được xác định là đối tượng nghiên cứu chính của luận văn.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi vấn đề nghiên cứu chủ yếu tập trung làm rõ việc thực hiện
pháp luật về giáo dục và đào tạo về các nội dung: Tổ chức, hoạt động và quản
lý nhà nước về giáo dục đào tạo trên tinh thần Luật Giáo dục năm 2005, sửa
đổi, bổ sung năm 2009, Nghị định số 75/2006/NĐ-CP ngày 02/8/2006 hướng
dẫn Luật Giáo dục, Nghị định số 31/2011/NĐ-CP ngày 11/05/2011 về sửa đổi,
bổ sung Nghị định số 75/2006/NĐ-CP, Nghị định số 115/2010/NĐ-CP ngày
24/12/2010 quy định trách nhiệm quản lý nhà nước về giáo dục, Nghị định số
07/2013/NĐ-CP ngày 09/01/2013 sửa đổi Nghị định số 31/2011/NĐ-CP ngày
11/05/2011 về sửa đổi, bổ sung Nghị định số 75/2006/NĐ-CP.
Phạm vi không gian nghiên cứu là địa bàn Tỉnh Bắc Ninh trong khoảng
5 năm gần đây: từ 2010-2014
4. Điểm mới của luận văn
Luận văn đề cập khá toàn diện các vấn đề lý luận và thực tiễn của việc
thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo trong bối cảnh Việt Nam đang từng

4


bước nỗ lực xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, thực hiện quản
lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế - đặc biệt trên địa
bàn tỉnh Bắc Ninh. Với những kết quả mà luận văn đạt được, tác giả hy vọng
sẽ góp một phần nhỏ vào việc nâng cao chất lượng, hiệu quả của thực hiện
pháp luật về giáo dục - đào tạo nói chung, trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh nói riêng.
5. Mục đích, nhiệm vụ và ý nghĩa của luận văn
5.1. Mục đích của luận văn
Mục đích nghiên cứu của luận văn là đề xuất một số giải pháp nhằm

góp phần bảo đảm thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo ở tỉnh Bắc Ninh
trong giai đoạn hiện nay.
5.2. Nhiệm vụ của luận văn
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ sau:
- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận của thực hiện pháp luật về giáo dục
và đào tạo với tư cách là những phương thức để đưa pháp luật về giáo dục và
đào tạo vào cuộc sống thực tiễn, là biện pháp cơ bản để thực hiện mục tiêu
giáo dục và đào tạo mà Đảng và Nhà nước đề ra, góp phần phòng ngừa, hạn
chế các vi phạm pháp luật về giáo dục và đào tạo nói chung và ở tỉnh Bắc
Ninh nói riêng.
- Luận cứ sự cần thiết phải đảm bảo vấn đề thực hiện pháp luật về giáo
dục và đào tạo trong phạm vi cả nước nói chung và ở tỉnh Bắc Ninh nói riêng
trong giai đoạn hiện nay.
- Đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo ở tỉnh
Bắc Ninh bao gồm cả những mặt đã làm được, những mặt chưa làm được, xác
định nguyên nhân của những kết quả đạt được và những hạn chế, thiếu sót, từ
đó rút ra những kinh nghiệm thực tiễn.
- Trên cơ sở thực trạng thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo ở
tỉnh Bắc Ninh, cùng với những quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước,

5


luận văn bước đầu xây dựng các giải pháp nhằm góp phần bảo đảm thực hiện
pháp luật về giáo dục và đào tạo ở tỉnh Bắc Ninh hiện nay.
5.3. Ý nghĩa của luận văn
Luận văn có ý nghĩa lý luận và thực tiễn trong việc làm rõ các vấn đề:
Thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo là gì? Thực trạng công tác thực
hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo hiện nay của tỉnh Bắc Ninh? Làm gì và
làm thế nào để đổi mới nâng cao công tác thực hiện pháp luật về giáo dục và

đào tạo tại tỉnh Bắc Ninh hiện nay.
6. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện dựa trên việc vận dụng phương pháp luận của
chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, phép biện chứng của
Chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật.
Ngoài ra luận văn còn kết hợp các phương pháp như: lôgíc, phân tích, tổng
hợp, thống kê, so sánh,...
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo,
phụ lục, nội dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo
Chương 2: Thực trạng thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo ở tỉnh
Bắc Ninh
Chương 3: Các giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về giáo dục và
đào tạo ở tỉnh Bắc Ninh hiện nay.

6


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
VỀ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
1.1. Khái niệm và các hình thức thực hiện pháp luật
1.1.1. Khái niệm thực hiện pháp luật
Các văn bản quy phạm pháp luật đã được ban hành cần được thực hiện
trong cuộc sống thì chúng mới có ý nghĩa. Mục đích của việc ban hành văn
bản pháp luật chỉ có thể đạt được khi các quy phạm pháp luật do Nhà nước
đặt ra được các tổ chức và cá nhân trong xã hội thực hiện một cách chính xác
và đầy đủ. Do vậy, vấn đề không phải chỉ là xây dựng và ban hành thật nhiều
các văn bản pháp luật, điều quan trọng là phải thực hiện pháp luật, làm cho

những yêu cầu, quy định của chúng trở thành hiện thực. Thực hiện pháp luật
là hành vi (hành động hoặc không hành động) của con người phù hợp với
những quy định của pháp luật. Thực hiện pháp luật có thể là hành vi của mỗi
cá nhân nhưng cũng có thể là hoạt động của các cơ quan nhà nước, các tổ
chức xã hội, các tổ chức kinh tế…
Theo giáo trình Lý luận Nhà nước và pháp luật của Trường Đại học
Luật Hà Nội thì: “Thực hiện pháp luật là một quá trình hoạt động có mục đích
làm cho những quy định của pháp luật đi vào cuộc sống, trở thành những
hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật” [12].
Theo giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật của Học viện
Hành chính Quốc gia thì: “Thực hiện pháp luật là hoạt động, là quá trình làm
cho những quy tắc của pháp luật trở thành hoạt động thực tế của các chủ thể
pháp luật” [22].
Theo giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và Pháp luật của Khoa Luật
- Đại học Quốc gia Hà Nội thì: “Thực hiện pháp luật là một quá trình hoạt động

7


có mục đích làm cho những quy định của pháp luật đi vào cuộc sống, trở thành
những hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật” [14].
Dưới góc độ pháp lý, thực hiện pháp luật là quá trình các tổ chức và cá
nhân (chủ thể pháp luật) khi gặp phải tình huống thực tế mà pháp luật đã dự
liệu, trên cơ sở nhận thức của mình chuyển hóa một cách sáng tạo các quy
định pháp luật vào tình huống cụ thể của cuộc sống thông qua hành vi hợp
pháp của mình. Nói cách khác, những đòi hỏi, cấm đoán, hay cho phép của
pháp luật đối với các tổ chức, cá nhân đã được biểu hiện thành các hành vi
thực tế sử dụng quyền, thực hiện nghĩa vụ của các chủ thể pháp luật thì đó là
thực hiện pháp luật. Về bản chất, thực hiện pháp luật là tạo lập các hành vi
hợp pháp (những hành vi không trái pháp luật, nằm trong giới hạn cho phép

của pháp luật, phù hợp với những mệnh lệnh (chỉ dẫn) của pháp luật) của các
tổ chức, cá nhân trong xã hội.
Có thể nhận xét rằng, các quan niệm đều có những điểm tương đối
đồng nhất về những nội dung cơ bản của thực hiện pháp luật và cá nhân tôi
đồng tình với nội dung này, đó là: Thực hiện pháp luật là hoạt động có mục
đích nhằm thực hiện những yêu cầu của pháp luật, thực hiện pháp luật là hoạt
động thực tế, hợp pháp của các chủ thể pháp luật làm cho những quy định của
pháp luật trở thành hiện thực trong cuộc sống.
1.1.2. Hình thức thực hiện pháp luật
Các quy phạm pháp luật rất phong phú, đa dạng cho nên hình thức thực
hiện chúng cũng rất phong phú, đa dạng. Căn cứ vào tính chất của các hoạt
động thực hiện pháp luật, khoa học pháp lý đã xác định thực hiện pháp luật có
thể được tiến hành thông qua các hình thức sau:
Tuân theo (tuân thủ) pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật,
trong đó các chủ thể pháp luật kiềm chế không tiến hành những hành động mà
pháp luật ngăn cấm. Những qui phạm pháp luật cấm trong luật hình sự, luật

8


hành chính... được thực hiện dưới hình thức này. Ví dụ: pháp luật quy định:
“Nghiêm cấm mọi hành vi phân biệt đối xử với phụ nữ, xúc phạm nhân phẩm
phụ nữ”. Các tổ chức, cá nhân thực hiện quy định này dưới hình thức tuân
thủ, nghĩa là không tiến hành bất kỳ một hành vi nào nhằm phân biệt đối xử
với phụ nữ, xúc phạm nhân phẩm phụ nữ.
Thi hành (chấp hành) pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật,
trong đó các chủ thể pháp luật thực hiện nghĩa vụ pháp lý của mình bằng hành
động tích cực. Những qui phạm pháp luật bắt buộc (những quy định nghĩa vụ
phải thực hiện những hành vi tích cực nhất định) được thực hiện ở hình thức
này. Ví dụ: công dân T kinh doanh nông sản và đã thực hiện việc nộp thuế cho

nhà nước theo quy định của pháp luật.
Sử dụng pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các
chủ thể pháp luật thực hiện quyền chủ thể của mình (thực hiện những hành vi
mà pháp luật cho phép). Hình thức này khác với hình thức tuân thủ pháp luật
và thi hành pháp luật ở chỗ chủ thể có thể thực hiện hoặc không thực hiện
quyền được pháp luật cho phép theo ý chí của mình, mà không bị bắt buộc
phải thực hiện. Ví dụ: Pháp luật qui định công dân có quyền kết hôn. Trên
thực tế, công dân có thể kết hôn (hoặc không kết hôn). Như vậy công dân đó
đã sử dụng (hoặc không sử dụng) pháp luật (quyền được kết hôn).
Áp dụng pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật đặc biệt, luôn
gắn với công quyền, vì nó chỉ được thực hiện bởi các cơ quan nhà nước hoặc
nhà chức trách có thẩm quyền. Bằng hoạt động này, các cơ quan nhà nước
hoặc nhà chức trách đã cá biệt hoá các qui định của pháp luật vào các trường
hợp cụ thể đối với các đối tượng cụ thể làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt
các quan hệ pháp luật.. Ví dụ: Luật Hôn nhân và gia đình qui định: việc kết
hôn phải được đăng ký tại Uỷ ban nhân dân cấp xã. Như vậy khi Uỷ ban nhân
dân cấp giấy đăng ký kết hôn cho công dân, tức là Uỷ ban nhân dân đã thay

9


mặt nhà nước áp dụng các qui định của Luật Hôn nhân và gia đình vào một
trường hợp cụ thể. Bằng hoạt động này, đã làm phát sinh quan hệ pháp luật về
hôn nhân và gia đình cho đối tượng xin đăng ký kết hôn.
Như vậy, thực hiện pháp luật được thực hiện thông qua bốn hình thức:
tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật, sử dụng pháp luật và áp dụng pháp luật.
Trong đó, hình thức áp dụng pháp luật có sự khác biệt với các hình thức tuân
thủ pháp luật, thi hành pháp luật và sử dụng pháp luật. Sự khác biệt này thể
hiện ở chỗ, nếu như tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật và sử dụng pháp
luật là những hình thức mà mọi chủ thể thực hiện pháp luật đều có thể thực

hiện thì áp dụng pháp luật là hình thức luôn luôn có sự tham gia của nhà nước
(thông qua các cơ quan nhà nước hoặc nhà chức trách có thẩm quyền).
1.2. Vị trí, vai trò của thực hiện pháp luật
Quản lý xã hội bằng pháp luật không đơn giản chỉ dừng lại ở việc nhà
nước xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh và đầy đủ, điều quan trọng
hơn cả là pháp luật của nhà nước phải được mọi thành viên trong xã hội tôn
trọng và chấp hành một cách nghiêm chỉnh và triệt để, pháp luật phải đi vào cuộc
sống, phải biến thành hành động của mọi công dân, mọi tổ chức trong xã hội.
Đối với hoạt động xây dựng pháp luật: để đánh giá chất lượng và hiệu quả
hoạt động xây dựng pháp luật phải căn cứ vào kết quả của hoạt động đó, tức là
chất lượng của hệ thống pháp luật. Chất lượng của hệ thống pháp luật thể hiện ở
sự toàn diện, đồng bộ, sự phù hợp của các quy định pháp luật đã được ban hành
mà điều này thì phải được kiểm nghiệm thông qua việc xem xét các quy định
pháp luật đã được thực hiện như thế nào trong đời sống xã hội. Thông tin thu
được từ thực tiễn thực hiện pháp luật sẽ là cơ sở vô cùng quý giá cho việc xây
dựng và hoàn thiện pháp luật trong tương lai, pháp luật cần được sửa đổi như thế
nào cho phù hợp với thực tế của đời sống xã hội.

10


Đối với pháp chế và dân chủ xã hội: chỉ thông qua việc nghiên cứu, đánh
giá thực tiễn thực hiện pháp luật mới có thể đánh giá đúng về thực trạng pháp
chế trong đời sống xã hội và thực chất của nền dân chủ xã hội. Bởi pháp chế
chính là sự tôn trọng và thực hiện pháp luật nghiêm minh của các tổ chức và cá
nhân trong đời sống xã hội. Còn dân chủ chỉ thực sự khi những quy định pháp
luật về quyền, tự do dân chủ của các tổ chức và cá nhân có điều kiện trở thành
hiện thực.
Đối với các yếu tố xã hội và các công cụ điều chỉnh quan hệ xã hội khác
như tập quán, đạo đức, tín điều tôn giáo… thông qua việc nghiên cứu, đánh giá

chính xác sự tác động của các yếu tố như kinh tế, chính trị… và các công cụ điều
chỉnh quan hệ xã hội khác đối với quá trình thực hiện pháp luật, thì từ đó mới có
thể giải quyết, sử dụng một cách khoa học mối liên hệ giữa chúng sao cho phù
hợp và có lợi nhất cho xã hội trong những điều kiện hiện tại.
Đối với cơ chế điều chỉnh pháp luật, thì thực hiện pháp luật là một khâu
quan trọng của cơ chế điều chỉnh pháp luật và đây thường là khâu tồn tại nhiều
bất cập nhất. Bởi, các tổ chức và cá nhân theo lẽ thường chỉ muốn thực hiện các
quyền, tự do pháp lý sao cho có lợi và đưa lại nhiều lợi ích cho mình nhất, còn
nghĩa vụ và trách nhiệm pháp lý của mình thì không muốn thực hiện. Vì vậy,
muốn cơ chế điều chỉnh pháp luật vận hành tốt, pháp luật phát huy được vai trò,
giá trị của mình trong đời sống xã hội thì quan trọng là phải thực hiện pháp luật
một cách đầy đủ, chính xác, triệt để và hiệu quả.
Thực hiện pháp luật nhằm đạt được những mục đích xã hội mà vì chúng
Nhà nước đã ban hành pháp luật; tạo ra trật tự pháp luật cần thiết để xã hội tồn tại
và phát triển; tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể pháp luật đạt được những
mong muốn của mình; kiểm nghiệm tính đúng đắn, xác định hiệu quả của các quy
phạm pháp luật. Nó cho phép làm rõ những hạn chế, bất cập của hệ thống pháp
luật thực định để từ đó có thể đưa ra những giải pháp hữu hiệu cho việc sửa đổi,

11


bổ sung hoàn thiện hệ thống pháp luật hiện hành và cơ chế đưa pháp luật vào cuộc
sống; góp phần nâng cao ý thức pháp luật trong cán bộ, nhân dân.
Vị trí, vai trò của thực hiện pháp luật không chỉ thể hiện trong toàn bộ
các hoạt động về pháp luật (xây dựng pháp luật, thực hiện pháp luật, bảo vệ
pháp luật) mà nó còn là “một mặt quan trọng của nền pháp chế ” [13]. Kết quả
của việc tổ chức thực hiện pháp luật là một trong những tiêu chuẩn để xác
định tính chất của nền pháp chế xã hội chủ nghĩa. Bởi vì pháp chế là một
phạm trù thể hiện những yêu cầu và sự đòi hỏi đối với các chủ thể pháp luật

phải tôn trọng và triệt để thực hiện pháp luật trong đời sống xã hội. Có thể
khẳng định rằng sự thực hiện pháp luật là trung tâm của pháp chế.
Như vậy, có thể khẳng định rằng, thực hiện pháp luật có vị trí và tầm
quan trọng đặc biệt trong toàn bộ các hoạt động về pháp luật. Thực hiện pháp
luật là hoạt động đưa pháp luật vào cuộc sống, biến những qui phạm pháp luật
thành những hành vi, xử sự thực tế, hợp pháp của cá nhân, tập thể trong thực
tiễn xã hội. Nếu không tổ chức tốt việc thực hiện pháp luật thì ý chí của nhà
nước sẽ không thể đi vào đời sống thực tiễn, pháp luật sẽ không phát huy
được hiệu lực, sẽ không đạt hiệu quả trong điều chỉnh các quan hệ xã hội.
1.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện pháp luật
Nhằm đưa pháp luật từ trên văn bản giấy tờ vào thực tiễn cuộc sống , thực
hiện pháp luật là hoạt động diễn ra một cách phổ biến, thường xuyên trong
đời sống thường ngày trong những điều kiện và hoàn cảnh khác nhau. Thực
hiện pháp luật trên thực tế bị chịu nhiều tác động từ các yếu tố khác nhau của
hoàn cảnh xã hội, có thể nhìn nhận chúng dưới góc độ những tác động bên
trong và những tác động bên ngoài như sau:
1.3.1. Những yếu tố tác động bên trong
- Trình độ nhận thức của chủ thể thực hiện pháp luật :Từ nhận thức đúng dẫn
đến hành động đúng và ngược lại. Có thể khẳng định đây là nhân tố tác động

12


trực tiếp đến hoạt động thực hiện pháp luật. Trình độ dân trí cao sẽ khiến chủ
thể nhận thức đúng đắn các chủ trương, chính sách, văn bản luật do nhà nước
ban hành từ đó dẫn đến những hành động đúng đem lại hiệu quả cho xã hội.
Ngựơc lại, trình độ văn hoá thấp hoặc không biết chữ sẽ ảnh hưởng đến việc
tiếp thu tinh thần các văn bản luật, rất dễ dẫn đến hiểu sai, hiểu không đúng
tinh thần của nhà làm luật dẫn đến những hành vi phạm pháp luật.
- Yếu tố tâm lý của chủ thể thực hiện pháp luật: Yếu tố tâm lý cũng có những tác

động nhất định đến việc thực hiện pháp luật. Việc trọng tình cảm, duy trì tình
nghĩa, tôn trọng tình cảm trong quan hệ dòng tộc, họ hàng ở Việt Nam là một
yếu tố tích cực trong việc thực hiện pháp luật. Vì không muốn mang tiếng với
người thân, họ hàng, gia đình nên việc thực hiện pháp luật của chủ thể được thực
hiện tích cực hơn, hợp pháp hơn. Ngược lại, yếu tố tâm lý này cũng chính là một
nhân tố cản trở trong việc thực hiện pháp luật. Cụ thể trong trường hợp vì muốn
bảo vệ người thân và không tố giác tội phạm, bao che tội phạm. Điều này gây
khó khăn cho công tác quản lý và hội và thực hiện pháp luật.
- Yếu tố phong tục tập quán: Cũng giống như những yếu tố khác, phong tục
tập quán có những tác động tích cực và tiêu cực đến hoạt động thực hiện pháp
luật. Những phong tục tập quán tiến bộ phù hợp với quy định của pháp luật
được nhà nước thừa nhận sẽ trở thành nguồn của pháp luật và là yếu tố thúc
đẩy thực hiện pháp luật. Ví dụ phong tục tập quán ăn tết nguyên đán của
nguời Việt nam. Thực hiện pháp lụât nguời lao động sẽ được nghỉ trong dịp
tết này. Ngược lại những phong tục lạc hậu, đi ngược lại chủ trương chung
của nhà nước, của pháp luật như phong tục đốt pháo gây nguy hiểm cho tính
mạng và kinh tế cần phải bài trừ, thanh toán dẫn đến nhà nước phải ban hành
quy định cấm sản xuất và đốt pháo để loại trừ phong tục này.
1.3.2. Những yếu tố tác động bên ngoài.
- Sự phát triển của kinh tế xã hội: Quá trình thực hiện pháp luật chịu ảnh
hưởng mạnh mẽ bởi yếu tố kinh tế. Kinh tế xã hội phát triển, đời sống vật chất
13


được cải thiện thì thực hiện pháp luật mới có cơ hội và khả năng thực hiện
được. Điều kiện văn hoá xã hội không ngừng phát triển và biến chuyển tác
động đến trình độ dân trí của người dân. Họ có cơ hội tiếp xúc với các
phương tiện truyền thông như loa đài, sách, báo, internet…Trình độ nhận thức
về pháp luật được nâng cao từ đó họ sẽ dễ dàng thực hiện pháp luật và tuân
theo pháp luật. Ngược lại tại những nơi kinh tế còn nghèo đói chậm phát thì ở

đó tình trạng vi phạm pháp luật còn nhiều bởi miếng cơm manh áo với họ
đựoc đặt lên hàng đầu, thậm chí họ sẵn sàng bất chấp pháp luật, vi phạm pháp
luật vì miếng cơm manh áo. Vì vậy chúng ta phải chú ý đầu tư phát triển kinh
tế ở các vùng miền, đặc biệt là vùng sâu, vùng sa.
- Hệ thống pháp luật: Có thế nói pháp lụât là đời sống xã hội được khái quát
hoá và nâng lên thành luật thông qua ý chí và lý trí của con người. Người dân
sẽ thực hiện pháp luật tốt hơn nếu chúng ta có một hệ thống pháp luật đầy đủ,
toàn diện (hệ thống pháp luật đáp ứng được nhu cầu điều chỉnh pháp luật trên
các lĩnh vực quan trọng), đồng bộ (không được chồng chéo, không được mâu
thuẫn nhau), và phù hợp (nội dung thực hiện pháp luật luôn có sự tương quan
với trình độ phát triển kinh tế xã hội). Thực tế hiện nay hệ thống pháp luật của
chúng ta chưa đáp ứng được những yêu cầu này, ít nhiều ảnh hưởng đến việc
thực hiện pháp luật của người dân.
- Yếu tố chính trị : Yếu tố chính trị có ảnh hưởng mạnh mẽ đến hiệu quả của
thực hiện pháp luật của các chủ thể, đặc biệt là các cá nhân, cơ qua nhà nước
có thẩm quyền áp dụng pháp luật. Một nền chính trị ổn định là điều kiện
thuận lợi cho việc thực hiện pháp luật bởi nó củng cố niềm tin của nhân dân
và sự lãnh đạo của Đảng. Ngược lại một đất nước có nền chính trị không ổn
định thì sẽ khiến người dân luôn hoang mang, lo lắng, dao động…dẫn đến
việc thực hiện pháp luật không tốt.

14


- Bộ máy nhà nước: Bộ máy nhà nước có ảnh hưởng nhất định đến việc thực
hiện pháp luật. Các cơ quan nhà nước có trách nhiệm trong việc tổ chức thực
hiện pháp luật phải được tổ chức khoa học, phải có sự phân công nhiệm vụ,
quyền hạn rõ ràng tránh chồng chéo lên nhau. Nếu không rất dễn dẫn đến sự
chồng chéo, đùn đẩy lẫn nhau khi giải quyết công việc.
Tóm lại các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện pháp luật rất phong phú và

đa dạng. Pháp luật của chúng ta muốn thực hiện được tốt thì phải phát huy vai
trò của nó trên cơ sở phát huy những mặt tích cực, hạn chế các mặt tiêu cực
của các yếu tố kể trên.
1.4. Thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo
1.4.1. Khung pháp luật về giáo dục và đào tạo
1.4.1.1. Tư tưởng chỉ đạo của Đảng về giáo dục và đào tạo
Vấn đề phát triển giáo dục và đào tạo luôn được toàn xã hội quan tâm.
Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách chỉ đạo kịp thời về
giáo dục và đào tạo. Tại hội nghị TW4 khoá VII (tháng 01/1993) có Nghị
quyết “Tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục - đào tạo” và chỉ rõ vị trí của giáo
dục là quốc sách hàng đầu [15]; Nghị quyết TW2 khoá VIII (năm 1996) nêu
rõ “Muốn tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hóa thắng lợi phải phát triển
ngành giáo dục - đào tạo, phát huy nguồn lực con người, yếu tố cơ bản của sự
phát triển nhanh và bền vững” [16]; văn kiện đại hội Đảng lần thứ IX có nêu
quan điểm chỉ đạo: “Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đổi mới
nội dung, phương pháp dạy và học, hệ thống trường lớp và hệ thống quản lý
giáo dục; thực hiện “chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá” [18]; Văn kiện Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội
xác định:
Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu. Đổi mới căn bản, toàn diện
nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân

15


chủ hóa và hội nhập quốc tế, trong đó, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát
triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý là khâu then chốt. Tập trung nâng
cao chất lượng giáo dục, đào tạo, coi trọng giáo dục đạo đức, lối sống, năng
lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, khả năng lập nghiệp. Đổi mới cơ chế tài
chính giáo dục. Thực hiện kiểm định chất lượng giáo dục, đào tạo ở tất cả

các bậc học. Xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, kết hợp chặt chẽ giữa
nhà trường với gia đình và xã hội [19].
1.4.1.2. Khung pháp luật về giáo dục và đào tạo
Để tạo khung pháp lý định hướng cho việc thực hiện pháp luật về giáo
dục và đào tạo được tốt, các quan điểm, đường lối chỉ đạo của Đảng về giáo
dục và đào tạo đã được nhà nước thể chế hoá thành các quy định pháp luật cụ
thể. Ngay từ khi mới ra đời, nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà đã ban hành
một loạt các văn bản quy phạm pháp luật về giáo dục.
+ Hiến pháp 1946:
Ngay khi nước Việt nam dân chủ cộng hoà mới ra đời thì giáo dục đã
được nhắc đến như một vấn đề quan trọng. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói “một
dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Cách mạng tháng 8 thành công, cùng với
nhiệm vụ chống giặc ngoại xâm, giặc đói, chủ tịch Hồ Chí Minh đã chú tâm
ngay đến giặc dốt. Hiến pháp 1946, vấn đề giáo dục đào tạo đã được đề cập
đến trong Điều 15:
Nền sơ học cưỡng bách và không học phí ở các trường sơ
học địa phương, quốc dân thiểu số có quyền học bằng tiền của
mình. Học trò nghèo được Chính phủ giúp. Trường tư được mở tự
do và phải dạy theo chương trình của nhà nước [20, Điều 15].
Tuy chưa được quy định cụ thể, song nhận thức được tầm quan trọng
của Giáo dục nên Nhà nước đã ban hành hàng loạt các văn bản pháp luật như
Sắc lệnh số 17 ngày 08/09/1945 đặt ra một bình dân học vụ; Sắc lệnh số 19

16


ngày 08/09/1945 lập cho nông dân và thợ thuyền những lớp học bình dân buổi
tối; Sắc lệnh số 20 ngày 08/09/1945 quy định việc học chữ quốc ngữ từ nay
bắt buộc và không mất tiền; Sắc lệnh số 146 ngày 10/8/1946 đặt những
nguyên tắc căn bản của nền giáo dục mới.

+ Hiến pháp 1959: Tại bản Hiến pháp này đã có một điều luật cụ thể
dành cho giáo dục, Điều 33:
Công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hoà có quyền học tập. Nhà nước
thực hiện từng bước chế độ giáo dục cưỡng bách, phát triển dần các trường
đại học và cơ quan văn hoá phát triển hình thức giáo dục bổ túc văn hoá, kỹ
thuật, nghiệp vụ tại các cơ quan, xí nghiệp và các tổ chức khác ở thành thị và
nông thôn để đảm bảo cho công dân được hưởng quyền đó [20, Điều 33].
+ Hiến pháp 1980: Giáo dục bắt đầu được tách riêng ra và đưa vào
trong một chế định cụ thể, những quy định về giáo dục cũng cụ thể và hoàn
thiện hơn, thể hiện trong Điều 40 và 41.
+ Hiến pháp 1992: Những quy định cơ bản về giáo dục thể hiện rõ tính
kế thừa Hiến pháp 1980, đồng thời là một bước phát triển tiến lên. Tuy chỉ thể
hiện trong 2 Điều 35 và Điều 36 những nội dung trong đó tương đối đầy đủ,
hoàn thiện và sát yêu cầu thực tế.
- Hiến pháp mới năm 2013: “Phát triển giáo dục là quốc sách hàng
đầu nhằm nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân
tài…” [33, Điều 61].
Những văn bản quy phạm pháp luật nói trên đã kịp thời xác định khung
pháp lý cho các vấn đề quản lý nhà nước về giáo dục, cho vấn đề thực hiện
pháp luật về giáo dục phù hợp từng giai đoạn.
Để phát triển sự nghiệp giáo dục, tăng cường công tác thực hiện pháp
luật về giáo dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực bồi dưỡng nhân tài
phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, ngày 14/6/2005

17


Quốc hội đã ban hành Luật Giáo dục, có hiệu lực ngày 01/01/2006 (sửa đổi
năm 2009) quy định về tổ chức và hoạt động giáo dục. Luật Giáo dục là văn
bản thể chế hoá đường lối giáo dục, làm cơ sở pháp lý chính cho việc thực

hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo tại nước ta.
Nhằm thực thi Luật Giáo dục được hiệu quả trên thực tế, Chính phủ và
cơ quan quản lý đã ban hành hàng loạt các văn bản dưới luật để hướng dẫn thi
hành Luật Giáo dục như: Nghị định số 75/2006/NĐ-CP ngày 02/8/2006
hướng dẫn Luật Giáo dục, Nghị định số 31/2011/NĐ-CP ngày 11/05/2011 về
sửa đổi, bổ sung Nghị định số 75/2006/NĐ-CP, Nghị định số 115/2010/NĐCP ngày 24/12/2010 quy định trách nhiệm quản lý nhà nước về giáo dục,
Nghị định số 07/2013/NĐ-CP ngày 09/01/2013 sửa đổi Nghị định số
31/2011/NĐ-CP và các văn bản quy định về ngân sách dành cho giáo dục,
chương trình giáo dục, sách giáo khoa, giáo trình, mạng lưới tổ chức hoạt
động, cơ sở vật chất của nhà trường, điều lệ trường, công tác giáo viên thỉnh
giảng, chế độ thi đua khen thưởng và khẳng định Nhà nước thống nhất quản
lý hệ thống giáo dục quốc dân về mục tiêu, chương trình, nội dung, kế hoạch
giáo dục, tiêu chuẩn giáo viên, quy chế thi cử và hệ thống văn bằng; ghi nhận
việc xã hội hóa sự nghiệp giáo dục - Giáo dục là sự nghiệp của toàn dân,
trong đó Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, thực hiện đa dạng hóa các loại hình
trường và các hình thức giáo dục, khuyến khích, huy động và tạo điều kiện để
tổ chức, cá nhân tham gia phát triển sự nghiệp giáo dục. Đồng thời pháp luật
cũng đề ra các chính sách ưu tiên của nhà nước để đảm bảo phát triển giáo
dục ở miền núi, các vùng dân tộc thiểu số, vùng đặc biệt khó khăn: trợ cấp và
miễn, giảm học phí cho người học là đối tượng được hưởng chính sách xã hội,
người dân tộc thiểu số ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn,
người mồ côi không nơi nương tựa, người tàn tật, khuyết tật có khó khăn về
kinh tế, người có hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn vượt khó học tập. Nhà

18


nước dành riêng chỉ tiêu tuyển cử đối với những dân tộc thiểu số chưa có hoặc
có rất ít cán bộ có trình độ đại học, cao đẳng, trung cấp; có chính sách tạo nguồn
tuyển sinh trên cơ sở tạo điều kiện thuận lợi để học sinh các dân tộc vào học

trường phổ thông dân tộc nội trú…
1.4.2. Đặc điểm thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo
Thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo là quá trình hoạt động có mục
đích làm cho các quy phạm pháp luật về giáo dục và đào tạo đi vào cuộc sống,
trở thành những hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật nhằm phát
huy tính tích cực, chủ động trong thực hiện pháp luật, phòng ngừa, phát hiện và
xử lý kịp thời, nghiêm minh các vi phạm pháp luật để phát triển vững chắc sự
nghiệp giáo dục và đào tạo, thực hiện mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực,
bồi dưỡng nhân tài cho đất nước, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Do đó, thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo có những đặc điểm sau:
- Thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo vừa mang tính quyền lực
nhà nước vừa mang tính xã hội rộng lớn.
Thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo là quá trình hoạt động có
mục đích làm cho những qui phạm pháp luật về giáo dục và đào tạo đi vào
cuộc sống. Các qui phạm pháp luật về giáo dục và đào tạo là những qui tắc xử
sự chung do nhà nước ban hành và đảm bảo thực hiện để điều chỉnh các quan
hệ về giáo dục và đào tạo phát triển theo định hướng nhất định.
Các qui phạm pháp luật về giáo dục và đào tạo là những qui tắc xử sự
của mọi công dân, của các nhà chức trách có thẩm quyền, là những qui định
về nội dung chương trình, cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động, về bộ
máy quản lý nhà nước, là những qui định về địa vị pháp lý của các chủ thể
khác... trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo. Do đó nó có tính bắt buộc thực
hiện đối với mọi cá nhân và tổ chức trong xã hội, bảo đảm tính quyền lực của
nhà nước được thực thi trong đời sống thực tiễn.

19


×