Tải bản đầy đủ (.doc) (116 trang)

Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về bảo vệ quyền con người thông qua chế định người bào chữa trong tố tụng hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (457.74 KB, 116 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
----------

NGUYỄN ĐÔNG KHÁNH

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI
THÔNG QUA CHẾ ĐỊNH NGƯỜI BÀO CHỮA
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội – 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
----------

NGUYỄN ĐÔNG KHÁNH

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI
THÔNG QUA CHẾ ĐỊNH NGƯỜI BÀO CHỮA
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành

: Luật hình sự

Mã số



: 60 38 40

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. Đỗ Thị Phượng

Hà Nội – 2014


MỤC LỤC

Trang phụ bìa

Trang

Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Mở đầu ……………………………………………………

1

Một số vấn đề lý luận về bảo vệ quyền con người bằng chế
định người bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam ……

7

Nhận thức chung về bảo vệ quyền con người thông qua chế
định người bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam ……


7

Khái niệm về người quyền con người và bảo vệ quyền con
người trong tố tụng hình sự Việt Nam ……………………

7

Khái niệm về người bào chữa và chế định người bào chữa
trong tố tụng hình sự Việt Nam ……………………………

13

Khái niệm về bảo vệ quyền con người thông qua chế định
người bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam …………

18

Vị trí, vai trò của chế định người bào chữa trong tố tụng
hình sự Việt Nam …………………………………………

22

1.2.1

Vị trí của người bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam…

22

1.2.2


Vai trò của người bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam.

30

Kết luận chương 1 ………………………………………….

36

Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về bảo vệ
quyền con người thông qua chế định người bào chữa và
thực tiễn áp dụng …………………………………………

38

Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về bảo vệ
quyền con người thông qua chế định người bào chữa …….

38

Bảo vệ quyền con người thông qua các quy định của pháp
luật tố tụng hình sự về quyền của người bào chữa …………

38

Bảo vệ quyền con người thông qua các quy định của pháp
luật tố tụng hình sự về nghĩa vụ của người bào chữa ………

51


Chương 1
1.1
1.1.1
1.1.2
1.1.3
1.2

Chương 2

2.1
2.1.1
2.1.2
2.2

Thực tiễn áp dụng những quy định của pháp luật tố tụng
hình sự Việt Nam trong việc bảo vệ quyền con người thông


qua chế định người bào chữa ……………………………….

58

2.2.1

Một số kết quả đạt được và nguyên nhân ………………….

58

2.2.2


Một số hạn chế và nguyên nhân ……………………………

71

Kết luận chương 2 ………………………………………….

82

Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc bảo vệ
quyền con người thông qua chế định người bào chữa trong
tố tụng hình sự Việt Nam …………………………………..

84

Phương hướng xây dựng cơ chế bảo vệ quyền con người
thông qua chế định người bào chữa trong tố tụng hình sự
Việt Nam……………………………………………………

84

Hoàn thiện các quy định của pháp luật về bảo vệ quyền con
người thông qua chế định người bào chữa trong tố tụng hình
sự Việt Nam ......................................................................

85

3.2.1

Sửa đổi, bổ sung các quy định về người bào chữa …………


85

3.2.2

Sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật tố tụng hình sự về
trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành
tố tụng trong việc bảo đảm quyền của người bào chữa…….

95

3.2.3

Hoàn thiện các quy định pháp luật khác ……………………

97

3.3

Các kiến nghị khác …………………………………………

99

Kết luận …………………………………………………….

104

Danh mục tài liệu tham khảo ……………………………….

107


Chương 3

3.1

3.2


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BCVND

: Bào chữa viên nhân dân

BLHS

: Bộ luật hình sự

BLTTHS

: Bộ luật tố tụng hình sự

CQĐT

: Cơ quan điều tra

CQTHTT

: Cơ quan tiến hành tố tụng

ĐTV


: Điều tra viên

HĐXX

: Hội đồng xét xử

HLPL

: Hiệu lực pháp luật

KSV

: Kiểm sát viên

NBC

: Người bào chữa

TAND

: Tòa án nhân dân

TANDTC

: Tòa án nhân dân tối cao

THTT

: Tiến hành tố tụng


TNHS

: Trách nhiệm hình sự

TTHS

: Tố tụng hình sự

VAHS

: Vụ án hình sự

VKS

: Viện kiểm sát

VKSNDTC

: Viện kiểm sát nhân dân tối cao

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đảm bảo quyền con người cũng là một trong những nội dung, mục đích
của xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Tinh thần đó
được thể hiện đầy đủ trong các văn kiện của Đảng qua các kỳ Đại hội và trong

từng văn bản Nghị quyết. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ
chính trị “Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” khẳng định: “Đòi
hỏi của công dân và xã hội đối với cơ quan tư pháp ngày càng cao; các cơ
quan tư pháp phải thật sự là chỗ dựa của nhân dân trong việc bảo vệ công lý,
quyền con người, đồng thời phải là công cụ hữu hiệu bảo vệ pháp luật và pháp
chế xã hội chủ nghĩa, đấu tranh có hiệu quả với các loại tội phạm và vi
phạm”. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X cũng đặt ra nhiệm vụ
“Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ
công lý, quyền con người”; Cương lĩnh Đại hội lần thứ XI của Đảng mới đây
cũng đã chỉ rõ: “Con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời
là chủ thể phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con
người với quyền và lợi ích của dân tộc, của đất nước và quyền làm chủ của
nhân dân” và “Đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
trong đó đẩy mạnh việc thực hiện chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020,
xây dựng hệ thống tư pháp trong sạch vững mạnh, bảo vệ công lý, tôn trọng
và bảo vệ quyền con người”. [7, tr. 76]
Đảm bảo quyền con người trong lĩnh vực tư pháp hình sự nói chung và
hoạt động tố tụng hình sự nói riêng luôn là vấn đề quan trọng và phức tạp. Bởi
các hoạt động đó trực tiếp ảnh hưởng đến các quyền dân chủ của công dân.
Đó là trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án và cả quá trình giam
giữ, quản lý, giáo dục người chịu án phạt tù, bảo đảm rằng mọi hành vi phạm


tội đều được phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh, không được làm oan
người vô tội. Đây là yêu cầu rất cơ bản để bảo đảm quyền con người trong
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Thực tiễn giải quyết các vụ án hình sự trong thời gian qua cho thấy tình
trạng vi phạm các quyền tố tụng của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, xử oan
người vô tội, xét xử sai,… vẫn còn diễn ra khá phổ biến. Một số người THTT
vẫn chưa nhận thức hết được việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công

dân, minh oan cho người vô tội cũng có ý nghĩa quan trọng như việc xử lý
nghiêm minh người phạm tội. Tuy nhiên, để bảo đảm các quyền dân chủ của
công dân trong lĩnh vực TTHS không phải là điều dễ dàng đối với các
CQTHTT nhất là trong tình hình tính chất phức tạp, nghiêm trọng của tội
phạm ngày càng cao.
Xây dựng và hoàn thiện chế định NBC trong TTHS cũng chính là một
trong những biện pháp đảm bảo quyền con người trong TTHS. Quyền bào
chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là quyền Hiến định và được thể chế
thành một trong những Nguyên tắc cơ bản trong Luật TTHS. Đồng thời, pháp
luật TTHS cũng quy định chế định NBC nhằm góp phần đảm bảo nguyên tắc
này.
Việc nghiên cứu về chế định NBC trong TTHS để từ đó kịp thời đưa ra
giải pháp khắc phục những hạn chế, thiếu sót là cần thiết đối với việc đảm bảo
quyền công dân trong các hoạt động TTHS. Vì vậy, tôi chọn đề tài: “Một số
vấn đề lý luận và thực tiễn về bảo vệ quyền con người thông qua chế định
người bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam” để làm luận văn thạc sỹ
của mình.
2. Tình hình nghiên cứu


Trong thời gian gần đây, vấn đề bảo đảm quyền con người trong hoạt
động tư pháp nói chung, quyền con người trong TTHS nói riêng đã được
nhiều tác giả nghiên cứu từ các góc độ với mức độ khác nhau. Hầu hết các
công trình nghiên cứu đó đều cho thấy vai trò, tầm quan trọng cũng như sự
cần thiết của NBC đối với việc bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân trong TTHS. Có thể kể tên những công trình nổi tiếng, chuyên sâu như
Luận án tiến sỹ luật học năm 2011 của tác giả Lại Văn Trình: “Đảm bảo
quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự
Việt Nam”; Luận án tiến sỹ luật học của tác giả Nguyễn Hoàng Huy: “Bảo
đảm quyền con người trong hoạt động tư pháp ở Việt Nam hiện nay”; Một số

công trình nghiên cứu như: Đề tài khoa học cấp Đại học quốc gia năm 2006
do các tác giả GS.TSKH. Lê Văn Cảm, PGS.TS. Nguyễn Ngọc Chí, PGS.TS.
Trịnh Quốc Toản đồng chủ trì: “Bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật
hình sự và pháp luật tố tụng hình sự trong giai đoạn xây dựng Nhà nước
pháp quyền Việt Nam”; Báo cáo của PGS.TS. Nguyễn Thái Phúc tại Hội thảo
về Quyền con người trong TTHS (do VKSNDTC và Ủy ban nhân quyền
Australia tổ chức tháng 3/2010): “Bảo đảm quyền con người trong tố tụng
hình sự trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam”; Bài viết của GS.TSKH. Lê Văn Cảm “Những vấn đề lý luận và thực
tiễn về bảo vệ quyền con người bằng pháp luật trong lĩnh vực tư pháp hình
sự”; Bài viết của TS. Nguyễn Văn Tuân trên Tạp chí Dân chủ và pháp luật số
11/2008 “Địa vị pháp lý và mối quan hệ của người bào chữa với bị can, bị
cáo trong tố tụng hình sự”.
Mỗi công trình nghiên cứu, bài viết khoa học đều có một cách tiếp cận
khác nhau khi viết về bảo vệ quyền con người trong TTHS. Có tác giả thì
nghiên cứu về việc đảm bảo quyền con người trong các nguyên tắc tố tụng;
Có tác giả thì đi sâu vào nghiên cứu quyền cụ thể là quyền bào chữa của bị


can, bị cáo; Cũng có tác giả chỉ đi sâu tìm hiểu về địa vị pháp lý của NBC
thông qua việc tập trung phân tích về quyền, nghĩa vụ của NBC được quy
định trong pháp luật hiện hành. Chưa có công trình nghiên cứu nào tập trung
vào vấn đề bảo vệ quyền con người thông qua chế định NBC trong TTHS.
3. Mục đích, nhiệm vụ của Luận văn
a. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận về chế định NBC trong TTHS
Việt Nam và nghiên cứu thực trạng áp dụng các quy định pháp luật TTHS về
NBC trong việc bảo vệ quyền con người, nhằm làm sáng tỏ những bất cập hạn
chế, để đưa ra những kiến nghị, giải pháp nâng cao hiệu quả của việc đảm bảo
quyền con người trong TTHS thông qua chế định NBC.

b. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, nhiệm vụ nghiên cứu được đặt
ra là:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về bảo vệ quyền con người trong TTHS
thông qua chế định NBC, cụ thể là làm rõ khái niệm quyền con người và
quyền con người trong TTHS Việt Nam; khái niệm bảo vệ quyền con người
thông qua thông qua chế định NBC. Phân tích các quy định của Bộ luật TTHS
hiện hành liên quan đến quyền bào chữa và quyền, nghĩa vụ của NBC trong
TTHS Việt Nam.
- Phân tích, đánh giá thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật
hiện hành về chế định NBC trong việc bảo vệ quyền con người trong TTHS.
- Kiến nghị, đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định
pháp luật TTHS Việt Nam và các biện pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả
bảo vệ quyền con người trong TTHS thông qua chế định NBC.


4. Phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài Luận văn là những quy định của Bộ
luật TTHS hiện hành về chế định NBC và thực tiễn áp dụng các quy định
pháp luật tố tụng về NBC trong việc bảo vệ quyền con người của người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo.
Phạm vi nghiên cứu là các quy định pháp luật TTHS và các quy định
pháp luật hiện hành về chế định NBC trong giai đoạn từ khi Bộ luật TTHS có
hiệu lực đến thời điểm hiện tại.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận nghiên cứu
khoa học của triết học Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm,
đường lối của Đảng và Nhà nước ta về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, về công cuộc cải cách tư pháp và đảm bảo quyền con người trong
TTHS.

Các phương pháp nghiên cứu chủ yếu được sử dụng là phương pháp
nghiên cứu phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê v.v…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần rõ thêm nhiều vấn đề lý luận
về chế định NBC trong TTHS nói chung và bảo vệ quyền con người thông
qua chế định NBC trong TTHS nói riêng.
Trên cơ sở phân tích có hệ thống và tương đối toàn diện các quy định
của BLTTHS, đánh giá việc áp dụng các quy định đó vào thực tiễn, từ đó tìm
ra những hạn chế, bất cập trong bảo vệ quyền con người thông qua chế định
NBC trong TTHS và nguyên nhân của những bất cập, hạn chế.


Kết quả nghiên cứu của đề tài còn là một tài liệu tham khảo trong công
tác nghiên cứu, học tập và hoạt động thực tiễn cho những ai quan tâm đến vấn
đề này.
7. Kết cấu của luận văn
Kết cấu luận văn: ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài
liệu tham khảo, nội dung luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về bảo vệ quyền con người bằng chế
định người bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam.
Chương 2: Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về bảo vệ
quyền con người thông qua chế định người bào chữa và thực tiễn áp dụng.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc bảo vệ
quyền con người thông qua chế định người bào chữa trong tố tụng hình sự
Việt Nam.


CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI
BẰNG CHẾ ĐỊNH NGƯỜI BÀO CHỮA TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ

VIỆT NAM
1.1.

Nhận thức chung về bảo vệ quyền con người thông qua chế

định người bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
1.1.1. Khái niệm về quyền con người và bảo vệ quyền con người trong
tố tụng hình sự Việt Nam
Quyền con người (tiếng Anh: Human rights) là một phạm trù đa diện,
do đó có nhiều định nghĩa khác nhau. Theo một tài liệu của Liên hợp quốc, từ
trước đến nay có đến gần 50 định nghĩa về quyền con người đã được công bố
[45], mỗi định nghĩa tiếp cận vấn đề từ một góc độ nhất định, chỉ ra những
thuộc tính nhất định, nhưng không định nghĩa nào bao hàm được tất cả các
thuộc tính của quyền con người.
Tính phù hợp của các định nghĩa hiện có về quyền con người phụ thuộc
vào sự nhìn nhận chủ quan của mỗi cá nhân, tuy nhiên, ở cấp độ quốc tế, có
một số định nghĩa của Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc về quyền con người
(Office of High Commissioner for Human Rights – OHCHR) thường được
trích dẫn bởi các nhà nghiên cứu. Theo định nghĩa này, quyền con người là
những bảo đảm pháp lý toàn cầu (universal legal guarantees) có tác dụng bảo
vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động (actions) hoặc sự bỏ
mặc (omissions) mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép
(entilements) và tự do cơ bản (fundamental freedoms) của con người [44, tr.1].
Bên cạnh định nghĩa kể trên, một định nghĩa khác về quyền con người
mang dấu ấn của học thuyết về các quyền tự nhiên là: “quyền con người là

1


những sự được phép mà tất cả các thành viên của cộng đồng nhân loại,

không phân biệt giới tính, chủng tộc, tôn giáo, địa vị xã hội...; đều có ngay từ
khi sinh ra, đơn giản chỉ vì họ là con người.” [25, tr. 37].
Hay một cách ngắn gọn nhất theo Bách khoa toàn thư mở (Wikipedia)
thì: Nhân quyền, hay Quyền con người (tiếng Anh: Human rights) là những
quyền tự nhiên của con người và không bị tước bỏ bởi bất cứ ai và bất cứ
chính thể nào [45].
Thuật ngữ “Human Rights” trong tiếng Anh được dịch sang tiếng Việt
là “quyền con người” (theo tiếng thuần Việt) hoặc “nhân quyền” (theo Hán –
Việt). Theo Đại từ điển Tiếng Việt, “nhân quyền” chính là “quyền con
người” [42, tr. 1239].
Trong một cuộc khảo sát gần đây do CNN (một trong các cơ quan
truyền thông nổi tiếng nhất thế giới) tiến hành, Nhân quyền được xem là một
trong mười sáng kiến làm thay đổi thế giới, cùng với nông nghiệp, phân tâm
học, thuyết tương đối, vắc xin, thuyết tiến hóa, World Wide Web, xà phòng, số
không, và lực hấp dẫn. [43].
Theo quan điểm của các nhà triết học thế kỷ 17 và 18 thì các quyền
không thể tước bỏ được là các quyền tự nhiên do Tạo hóa ban cho họ. Các
quyền này không bị phá hủy khi xã hội dân sự được thiết lập và không một xã
hội hay một Chính phủ nào có thể “xóa bỏ” hoặc “chuyển nhượng” các quyền
này. Các quyền không thể tước bỏ bao gồm: Quyền được sống; Quyền tự do
(quyền tự do ngôn luận, quyền tự do tín ngưỡng, quyền tự do lập hội,…);
Quyền mưu cầu hạnh phúc và Quyền được bảo vệ bình đẳng trước pháp luật.
Tuy nhiên, đây chưa phải là bản liệt kê đầy đủ các quyền mà công dân có
được trong một nền dân chủ. Các xã hội dân chủ đồng thời thừa nhận các
quyền dân sự như quyền được xét xử công bằng, và còn lập nên các quyền
2


chủ chốt mà bất kỳ xã hội dân chủ nào cũng phải duy trì. Vì các quyền này
tồn tại không phụ thuộc vào Nhà nước, do đó chúng không thể bị luật pháp

bãi bỏ cũng như không phụ thuộc vào ý muốn nhất thời của đa số cử tri nào
đó. Các nội dung chi tiết và các thủ tục của luật pháp liên quan tới quyền con
người cần phải thay đổi tùy theo xã hội, nhưng tất cả các nền dân chủ đều
được giao trọng trách trong việc xây dựng các cấu trúc xã hội lập hiến, lập
pháp để bảo đảm cho các quyền con người đó.
Hiện nay, quyền con người được các nước trên thế giới công nhận và
bảo đảm thực hiện thông qua cơ chế, pháp luật quốc gia và quốc tế, đặc biệt là
các công ước của Liên hợp quốc. Trong các văn kiện nhân quyền của Liên
hợp quốc, Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền và hai công ước quốc tế về quyền
con người được thông qua năm 1966, cùng hai nghị định thư bổ sung của
Công ước dân sự, chính trị được gọi là Bộ luật nhân quyền quốc tế.
Đảng và Nhà nước ta khẳng định quyền con người là thành quả và khát
vọng chung của nhân loại. Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta thừa nhận, tôn trọng
và bảo vệ những giá trị cao quý về quyền con người được thế giới thừa nhận
rộng rãi. Cương lĩnh Đại hội lần thứ XI của Đảng chỉ rõ: "Con người là trung
tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển. Tôn trọng và
bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân
tộc, của đất nước và quyền làm chủ của nhân dân" [7, tr.76].
Nhà nước Việt Nam luôn coi con người là mục tiêu và động lực của
mọi chính sách phát triển kinh tế - xã hội và luôn nhất quán trong việc đảm
bảo và thúc đẩy các quyền con người. Hiến pháp năm 1992, văn bản có hiệu
lực pháp lý cao nhất, đảm bảo mọi công dân có quyền bình đẳng về chính trị,
kinh tế, văn hóa, xã hội, bình đẳng trước pháp luật; quyền tham gia quản lý
công việc của Nhà nước và xã hội; quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; quyền tự

3


do đi lại và cư trú trên đất nước Việt Nam; quyền khiếu nại và tố cáo; quyền
lao động, học tập, chăm sóc sức khỏe,... không phân biệt giới tính, sắc tộc, tôn

giáo. Trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật Việt Nam tiếp tục cụ thể hóa các quyền
này, phù hợp với các chuẩn mực pháp lý quốc tế về nhân quyền.
Quyền con người là một giá trị thiêng liêng bất khả tước đoạt. Nó hiện
hữu trong nhiều lĩnh vực của đời sống trong đó có lĩnh vực tố tụng hình sự.
Không phổ biến, không rộng lớn, không diễn ra hàng ngày hàng giờ như các
lĩnh vực hành chính, kinh tế, môi trường..., nhưng có thể nói, quyền con
người trong TTHS là quyền dễ bị xâm phạm và tổn thương nhất và hậu quả để
lại cũng nghiêm trọng nhất khi nó động chạm đến quyền được sống, quyền tự
do và sinh mệnh chính trị của một cá nhân. Bởi lẽ, TTHS với tư cách là quá
trình Nhà nước đưa một người ra xử lý trước pháp luật khi họ bị coi là tội
phạm, quá trình này luôn thể hiện đậm nét tính quyền lực nhà nước với sức
mạnh cưỡng chế nhà nước, với sự thiếu quân bình về thế và lực của các bên
tham gia quan hệ TTHS mà sự yếu thế luôn thuộc về những người bị buộc tội.
Chính vì vậy, hoạt động TTHS, trong bất cứ Nhà nước nào đều được xếp vào
“nhóm nguy cơ cao” khi người ta nói đến vấn đề bảo vệ quyền con người [9].
Bảo vệ quyền con người trong TTHS, đó là trong quá trình điều tra,
truy tố, xét xử, thi hành án và cả quá trình giam giữ, quản lý, giáo dục người
chịu án phạt tù, bảo đảm rằng mọi hành vi phạm tội đều được phát hiện kịp
thời và xử lý nghiêm minh, không được làm oan người vô tội. Người phạm tội
phải bị đưa ra xét xử, chịu hình phạt tương ứng với hành vi phạm tội. Mục
đích của hình phạt không chỉ là trừng trị mà còn chủ yếu là để giáo dục, cải
tạo, răn đe và phòng ngừa tội phạm. Đây là yêu cầu rất cơ bản để bảo đảm
quyền con người trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

4


Chúng ta có thể tìm thấy trong các văn kiện quốc tế các ghi nhận về
quyền con người trong TTHS như: Tuyên ngôn nhân quyền thế giới năm 1948
(UHDR); Những nguyên tắc cơ bản trong việc đối xử với tù nhân; Công ước

chống tra tấn, đối xử vô nhân đạo và hạ nhục con người năm 1985,…. Nghiên
cứu các văn bản này đưa đến một khẳng định quyền con người trong TTHS
chẳng qua là sự cụ thể quyền được sống, quyền được tự do, trong lĩnh vực
TTHS. Đây được coi là tiêu chuẩn về nhân quyền trong TTHS. Theo đó (Điều
10, 11 Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền – UHDR, Điều 14, 15 và 11 Công ước
Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị - ICCPR) quyền con người trong
TTHS bao gồm những quyền sau:
- Quyền được xét xử công bằng bởi một thủ tục TTHS và tòa án công
bằng, công khai.
- Quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm
và quyền tự do cá nhân khác. Mọi trường hợp áp dụng các biện pháp cưỡng
chế TTHS phải trên cơ sở luật định.
- Quyền được suy đoán vô tội.
- Quyền được bào chữa và biện hộ, quyền không bị xét xử quá mức
chậm trễ.
- Người chưa thành niên phải được áp dụng thủ tục TTHS đặc biệt.
- Quyền kháng cáo bản án để xét xử phúc thẩm, quyền được nhanh
chóng minh oan. Quyền không bị kết tội hai lần về cùng 1 hành vi.…
- Các quyền con người trong thi hành án hình sự và sau xét xử.
Những quyền trên là những quyền của người bị buộc tội, đối tượng quan
trọng nhất cần bảo vệ trong TTHS. Tuy nhiên, tham gia vào quá trình TTHS
không chỉ có những người bị buộc tội mà còn nhiều người khác mà lâu nay
5


khi nghiên cứu về quyền con người trong TTHS, chúng ta hay ít chú ý đó là
quyền của nạn nhân của tội phạm (người bị hại), quyền của người làm chứng
và những người liên quan khác, quyền con người của những người THTT như
điều tra viên, công tố viên và thẩm phán. Những người này họ cũng có quyền
con người của họ như quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, danh dự, nhân

phẩm, quyền được bảo vệ các quyền chính trị, dân sự, kinh tế của mình bằng
con đường TTHS.
Cho đến nay, Việt Nam đã tham gia phần lớn và cam kết thực hiện ở cả
hai phương diện lập pháp và thực tiễn các văn kiện về quyền con người. Điều
đó được thể hiện trong Bộ luật TTHS của nước CHXHCN Việt Nam ở mức
độ khác nhau: có thể trang trọng quy định là nguyên tắc cơ bản, có thể thấp
thoáng trong các quy định cụ thể. Bộ luật TTHS hiện hành có các nguyên tắc
như: Tòa án là cơ quan duy nhất có quyền xét xử các vụ án hình sự, tôn trọng
và bảo vệ quyền cơ bản của công dân; bảo vệ quyền bất khả xâm phạm về
tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm, suy đoán vô tội (tuy còn chưa
rõ), quyền bào chữa, quyền kháng cáo, quyền minh oan… Nghiên cứu quyền
con người trong TTHS không thể không đưa ra định nghĩa về nó. Hiện nay, có
một số khái niệm về quyền con người trong TTHS đã được đưa ra nhưng chủ
yếu là nhấn mạnh đến quyền của người bị buộc tội mà chưa chú ý đến quyền
của những người khác tham gia TTHS.
Đồng quan điểm với tác giả đề tài nghiên cứu “Bảo vệ quyền của người
bị buộc tội”, Ths. Đinh Thế Hưng, Viện Nhà nước và pháp luật – Viện KHXH
Việt Nam. Khái niệm do Ths. Đinh Thế Hưng đưa ra về quyền con người
trong TTHS như sau: “Quyền con người trong TTHS là những giá trị thiêng
liêng chỉ dành cho con người khi họ tham gia quan hệ pháp luật TTHS mà
nhà nước có nghĩa vụ phải ghi nhận trong Hiến pháp, pháp luật và bảo đảm
thực hiện và bảo vệ khi bị xâm hại.” [9].
6


1.1.2. Khái niệm người bào chữa và chế định người bào chữa trong tố
tụng hình sự Việt Nam
Theo từ điển giải thích luật học: “Người bào chữa là người tham gia tố
tụng để bênh vực, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo”.
Trong khoa học luật TTHS tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về khái

niệm NBC. Nhìn chung các quan điểm đều dựa vào các qui định của BLTTHS
để đưa ra khái niệm NBC. Tuy nhiên, với cách tiếp cận khác nhau nên mỗi
quan điểm hoặc nhấn mạnh ở một số dấu hiệu của NBC hoặc mang tính liệt
kê các qui định của BLTTHS mà chưa phải là một khái niệm hoàn chỉnh về
NBC có ý nghĩa quan trọng trong khoa học luật TTHS. Có thể kể ra mấy quan
điểm về NBC như sau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng: “NBC trong tố tụng hình sự là người tham
gia tố tụng để chứng minh sự vô tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
của người bị buộc tội, giúp người bị buộc tội về mặt pháp lý nhằm bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của họ, thông qua đó góp phần bảo vệ pháp chế xã
hội chủ nghĩa”. “Là người giúp đỡ Tòa án trong việc xác định tất cả các tình
tiết về vụ án để cuối cùng toà án ra một bản án có căn cứ và đúng pháp luật”
[40, tr. 1].
Quan điểm thứ hai, “NBC là người tham gia tố tụng theo yêu cầu của bị
can, bị cáo, của CQTHTT (nếu thuộc trường hợp bắt buộc) hoặc theo yêu cầu
của những người thân thích của bị can, bị cáo để bảo vệ các lợi ích hợp pháp
của bị can, bị cáo đồng thời giúp cho bị can, bị cáo về mặt pháp lý để đảm bảo
quyền và lợi ích hợp pháp của họ trong quá trình tố tụng” [29, tr. 34].
Quan điểm thứ ba, “NBC là người được người bị tạm giữ, bị can, bị cáo,
người đại diện hợp pháp của họ, những người khác được người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo uỷ quyền mời hay được CQTHTT yêu cầu Đoàn luật sư phân công
7


Văn phòng luật cử hoặc đề nghị Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức
thành viên của Mặt trận cử để bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
nhằm làm sáng tỏ những tình tiết gỡ tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình
sự cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và giúp đỡ họ về mặt pháp lý” [11,
tr.17].
Cùng chung quan điểm với tác giả Đinh Văn Quế (quan điểm thứ ba),

trên cơ sở phân tích các dấu hiệu đặc trưng của NBC theo qui định của
BLTTHS hiện hành có thể đưa ra một định nghĩa khái quát về chế định NBC
trong TTHS như sau:
“Người bào chữa là người tham gia tố tụng với mục đích làm sáng tỏ
những tình tiết liên quan đến sự thật của vụ án nhằm chứng minh về sự vô tội
hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và
giúp họ về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ khi
được người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người đại diện hợp pháp của họ mời
hoặc được CQTHTT yêu cầu và được CQTHTT chứng nhận”.
Để có thể đưa ra khái niệm về chế định NBC như trên, là kết quả của
việc xác định các dấu hiệu của NBC trên cơ sở các qui định của BLTTHS Việt
Nam hiện hành. Các dấu hiệu đặc trưng của NBC đó là:
Một là, NBC là người tham gia tố tụng không có quyền và lợi ích liên
quan đến vụ án. Họ tham gia tố tụng là nhằm để bảo vệ các quyền và lợi ích
hợp pháp cho người bị buộc tội. NBC không phải là người THTT mà chỉ là
người tham gia tố tụng. Từ “tham gia” nói lên tính chất, vai trò của NBC.
“Người tham gia” chỉ là người góp phần hoạt động của mình vào một hoạt
động chung nào đó, do những chủ thể khác chủ động và chính thức tiến hành.
Hơn nữa, NBC không phải là người được nhân danh quyền lực nhà nước và
không được sử dụng quyền lực nhà nước như những người THTT.
8


Dấu hiệu này đã được quy định tại Chương IV của BLTTHS năm 2003.
Cho phép phân biệt NBC với những người THTT (gồm: Thủ trưởng, Phó thủ
trưởng CQĐT, Điều tra viên; Viện trưởng, Phó viện trưởng Viện kiểm sát,
Kiểm soát viên; Chánh án, Phó chánh án Toà án, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư
ký toà án), những người trong các cơ quan hỗ trợ tư pháp và những người
khác được các CQTHTT mời [28, tr.107].
Hai là, NBC tham gia TTHS với nghĩa vụ và mục đích là để làm sáng tỏ

những tình tiết xác định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo vô tội, những tình tiết
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo và giúp người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo về mặt pháp lý cần thiết nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của họ.
Dấu hiệu này cho phép xác định rõ nhiệm vụ, mục đích tham gia TTHS
của NBC và cũng đã được cụ thể hoá trong BLTTHS. Theo qui định của
BLTTHS năm 2003, NBC được tham gia tố tụng từ khi có quyết định tạm giữ.
Và phạm vi đối tượng bảo vệ của NBC hiện nay bao gồm: người bị tạm giữ,
bị can, bị cáo.
Tuy nhiên, vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau của các chuyên gia pháp lý
về vấn đề phạm vi đối tượng bảo vệ của NBC. Ví dụ, có ý kiến cho rằng,
người bị kết án cũng là đối tượng bảo vệ của NBC [33]. Mặc dù giai đoạn thi
hành án cũng được coi là một giai đoạn trong TTHS và chịu sự điều chỉnh của
BLTTHS. Tuy nhiên, với những qui định của BLTTHS hiện hành về quá trình
thi hành án thì chưa đủ cơ sở để khẳng định người bị kết án cũng là đối tượng
bảo vệ của NBC.
Cũng có ý kiến lại cho rằng quyền được tiếp cận và sử dụng trợ giúp
pháp lý của NBC không nên chỉ giới hạn khi có quyết định bắt người tạm giữ
hoặc khi quyết định khởi tố vụ án hình sự, mà ngay cả khi người bị tình nghi
9


phạm tội bị triệu tập mời lên cơ quan công an do có đơn tố cáo hoặc có thông
tin tố giác tội phạm, họ được quyền mời luật sư tham gia tư vấn, trợ giúp về
pháp lý ngay từ đầu. Xuất phát từ thực trạng phổ biến việc CQĐT các cấp
thường từ chối sự có mặt của luật sư trong các hoạt động “tiền tố tụng”, gây
ra sự lo lắng và quan ngại cho những người bị triệu tập, bị câu lưu nhưng có
đơn “tự nguyện hợp tác với CQĐT”, bị thu giữ hộ chiếu, hạn chế đi lại,... Lý
do thường được đưa ra là vụ án chưa khởi tố, người bị tình nghi chưa có tư
cách là người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nên không chấp nhận cho luật sư tham

gia. Vì vậy, đối tượng bảo vệ của NBC bao gồm cả người bị tình nghi phạm
tội, bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, bị điều tra, truy tố, xét xử [36].
Ba là, NBC chỉ có thể tham gia tố tụng khi đáp ứng đủ các điều kiện do
pháp luật qui định. Không phải bất cứ ai cũng có thể tham gia TTHS với tư
cách là NBC vì theo qui định của BLTTHS hiện hành NBC chỉ có thể là Luật
sư; Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; Bào chữa
viên nhân dân. Đồng thời phải đáp ứng các điều kiện do BLTTHS quy định
như sau:
- Phải được người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; người đại diện hợp pháp của
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo mời hoặc được CQTHTT yêu cầu Đoàn luật
sư phân công Văn phòng luật sư cử hoặc đề nghị Ủy ban Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử để bào chữa cho bị can, bị cáo
(trong một số trường hợp).
- Không thuộc một trong những trường hợp những người không được
bào chữa.
Ngoài ra NBC còn phải đáp ứng các điều kiện khác do các văn bản pháp
luật khác qui định, chẳng hạn Luật sư phải đáp ứng các điều kiện do pháp luật
về Luật sư qui định; Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị
10


cáo phải đáp ứng các qui định của Bộ luật dân sự năm 1995 về đại diện. Và
một điều kiện không thể thiếu nữa là phải được CQTHTT chấp nhận bằng
việc cấp Giấy chứng nhận NBC.
Về khái niệm “Chế định” hay “Chế định pháp luật”.
Chế định hay chế định pháp luật là tập hợp một nhóm quy phạm pháp
luật có đặc điểm giống nhau để điều chỉnh nhóm quan hệ xã hội tương ứng
trong phạm vi một ngành luật hoặc nhiều ngành luật. Chế định có thể được
hiểu theo nghĩa rộng hoặc nghĩa hẹp. Nghĩa chung và rộng là các yếu tố cấu
thành cơ cấu pháp lí của thực tại xã hội, nghĩa hẹp là tổng thể các quy phạm,

quy tắc của một vấn đề pháp lí. [45]
Cơ cấu bên trong của pháp luật có đặc điểm ở tính đa dạng của các chế
định, trong đó có chế định liên ngành, nghĩa là có quan hệ đến một số ngành
luật. Các chế định pháp luật liên ngành được hình thành và hoạt động không
giống nhau. Hiến pháp là cơ sở pháp lí của tất cả các chế định pháp luật [45].
Việc xác định đúng tính chất chung của mỗi nhóm quan hệ xã hội từ đó đề ra
những quy phạm tương ứng có ý nghĩa quan trọng, đó là cơ sở pháp lý để tạo
ra cơ cấu pháp lý của một ngành luật. Không thể xây dựng được một văn bản
pháp luật tốt cũng như một ngành luật hoàn chỉnh nếu không xác định rõ giới
hạn và nội dung của các chế định pháp luật [45]. Nhiều chế định hợp lại sẽ
cấu thành ngành luật, các ngành luật hợp lại sẽ tạo thành một hệ thống pháp
luật.
Chế định pháp luật mang tính chất nhóm, mỗi chế định có một đặc điểm
riêng nhưng chúng đều có mối liên hệ nội tại và thống nhất với nhau, chúng
không tồn tại một cách biệt lập. Việc xác định ranh giới giữa các chế định
nhằm tạo ra khả năng để xây dựng hệ thống quy phạm pháp luật phù hợp với
thực tiễn đời sống xã hội. Và phải đặt các chế định trong mối liên hệ qua lại
11


trong một chỉnh thể thống nhất của pháp luật cũng như một ngành luật. Mỗi
chế định pháp luật dù mang đặc điểm riêng nhưng nó cũng phải tuân theo các
quy luật vật động khách quan, chịu sự ảnh hưởng và tác động của chế định
khác trong hệ thống pháp luật [45].
Từ những phân tích trên có thể đưa ra khái niệm về Chế định người bào
chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam như sau: “Chế định người bào chữa
trong tố tụng hình sự là nhóm các quy phạm pháp luật được quy định trong
pháp luật tố tụng hình sự về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa với vai
trò là người tham gia tố tụng hình sự nhằm mục đích làm sáng tỏ những tình
tiết liên quan đến sự thật của vụ án để chứng minh về sự vô tội hoặc giảm nhẹ

trách nhiệm hình sự cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo”.
1.1.3. Khái niệm về bảo vệ quyền con người thông qua chế định NBC
trong TTHS Việt Nam
Tố tụng hình sự là hoạt động đặc biệt liên quan đến việc khởi tố, điều
tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự liên quan đến việc phát hiện, xử lý hành vi
nguy hiểm cho xã hội được quy định là tội phạm và xử phạt người phạm tội.
Vì vậy, để đạt được mục đích của tố tụng hình sự, pháp luật TTHS của bất kỳ
một quốc gia nào cũng có quy định về những biện pháp cưỡng chế tố tụng,
các hành vi, quyết định tố tụng đụng chạm đến quyền, lợi ích của công dân.
Hay nói cách khác, cưỡng chế tố tụng hình sự, khả năng ảnh hưởng của hoạt
động tố tụng hình sự tới các quyền con người của công dân là tất yếu.
Trong TTHS, nhiệm vụ không để lọt tội phạm phải đi liền với không
làm oan người không có tội; Nhiệm vụ phát hiện xử lý tội phạm phải đi liền
với việc đảm bảo quyền con người. Hoạt động TTHS phải được thực hiện trên
cơ sở coi trọng các yếu tố đó. Bỏ qua hoặc coi nhẹ yếu tố này hay yếu tố khác
nói trên đều ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc đạt được mục đích tố tụng.
12


Nếu muốn chứng minh tội phạm và xử lý tội phạm bằng bất cứ giá nào thì dễ
dẫn đến vi phạm quyền con người. Ngược lại, nếu quá chú ý đến việc đảm
bảo quyền con người thái quá mà không áp dụng các biện pháp cưỡng chế tố
tụng để phát hiện, chứng minh tội phạm thì sẽ làm cho hoạt động tố tụng thiếu
hiệu quả, không thể phát hiện, xử lý kịp thời người phạm tội, thậm chí bỏ lọt
tội phạm, v.v…
Không phổ biến, không rộng lớn, không diễn ra hàng ngày hàng giờ
như các lĩnh vực hành chính, kinh tế, môi trường..., nhưng có thể nói, quyền
con người trong TTHS là quyền dễ bị xâm phạm và bị tổn thương nhất và hậu
quả để lại cũng nghiêm trọng nhất khi nó động chạm đến quyền được sống,
quyền tự do và sinh mệnh chính trị của một cá nhân. Bởi lẽ, TTHS với tư cách

là quá trình nhà nước đưa một người ra xử lý trước pháp luật khi họ bị coi là
tội phạm, quá trình này luôn thể hiện đậm nét tính quyền lực nhà nước với sức
mạnh cưỡng chế nhà nước, với sự thiếu quân bình về thế và lực của các bên
tham gia quan hệ TTHS mà sự yếu thế luôn thuộc về những người bị buộc tội.
Chính vì vậy, hoạt động tố tụng hình sự, trong bất cứ nhà nước nào đều được
xếp vào “nhóm nguy cơ cao” khi người ta nói đến vấn đề bảo vệ quyền con
người.
Quyền con người trong TTHS bao gồm: Quyền được xét xử công bằng
bởi một thủ tục TTHS và tòa án công bằng, công khai; Quyền bất khả xâm
phạm về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và quyền tự do cá nhân
khác; Quyền bào chữa; Quyền kháng cáo bản án để xét xử phúc thẩm, v.v…
Bản chất của quyền bào chữa là chống lại sự buộc tội và bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của mình trước các biểu hiện xâm phạm đến từ các chủ
thể đại diện cho Nhà nước. Từ khi một người bị tạm giữ hay khởi tố về hình
sự thì quyền và lợi ích hợp pháp của họ đã có nguy cơ bị xâm phạm bởi các

13


chủ thể đại diện cho nhà nước do vậy họ phải được hưởng quyền bào chữa để
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Không thể nói Nhà nước của
chúng ta là Nhà nước của dân, do dân và vì dân nếu người dân không có
quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước các Cơ quan nhà
nước.
Quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là quyền Hiến
định (Điều 132 Hiến pháp năm 1992), được cụ thể hóa bằng nguyên tắc cơ
bản của BLTTHS và được quy định chi tiết thông qua các điều luật về quyền,
nghĩa vụ của NBC và các điều luật khác của BLTTHS. Bào chữa là một trong
những chức năng quan trọng không thể thiếu trong quá trình giải quyết VAHS
nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Tuy vậy,

trong thực tiễn, vì những lý do khác nhau nên không phải bất cứ người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo nào cũng có khả năng tự bào chữa một cách có hiệu quả.
Do đó, pháp luật tạo điều kiện để họ thực hiện quyền bào chữa của mình bằng
việc có thể nhờ người khác bào chữa. Nhờ người khác bào chữa là một hình
thức thực hiện quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có hiệu
quả và góp phần không nhỏ vào việc giúp CQTHTT giải quyết vụ án được
khách quan. Đồng thời, pháp luật quy định các CQTHTT phải áp dụng tất cả
các biện pháp cần thiết để tạo điều kiện cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
thực hiện quyền bào chữa của họ.
Bảo vệ quyền con người thông qua chế định người bào chữa trong
TTHS chính là bảo vệ quyền được bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo, đối tượng quan trọng nhất cần bảo vệ trong TTHS. Đảm bảo quyền bào
chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là đảm bảo một trong những quyền
cơ bản của công dân.

14


×