Tải bản đầy đủ (.doc) (107 trang)

Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về hoạt động sau phiên tòa xét xử vụ án hình sự theo pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (443.07 KB, 107 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

PHẠM THANH DUNG

MéT Sè VÊN §Ò Lý LUËN Vµ THùC TIÔN
VÒ HO¹T §éNG SAU PHI£N TßA XÐT Xö Vô ¸N
H×NH Sù THEO PH¸P LUËT VIÖT NAM

Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. ĐẶNG QUANG PHƯƠNG

HÀ NỘI - 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn thạc sỹ luật học này là công trình
nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa
được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ
và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và
trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học
Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét và
cho phép tôi được bảo vệ Luận văn thạc sỹ luật học của mình theo
quy định của Đại học Quốc gia Hà Nội.
Tôi xin chân thành cảm ơn!



NGƯỜI CAM ĐOAN

Phạm Thanh Dung


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
HÀ NỘI - 2014..........................................................................................................................................................1
LỜI CAM ĐOAN.....................................................................................................................................................1
TÔI XIN CAM ĐOAN LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC NÀY LÀ CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU
CỦA RIÊNG TÔI. CÁC KẾT QUẢ NÊU TRONG LUẬN VĂN CHƯA ĐƯỢC CÔNG BỐ TRONG
BẤT KỲ CÔNG TRÌNH NÀO KHÁC. CÁC SỐ LIỆU, VÍ DỤ VÀ TRÍCH DẪN TRONG LUẬN VĂN
ĐẢM BẢO TÍNH CHÍNH XÁC, TIN CẬY VÀ TRUNG THỰC. TÔI ĐÃ HOÀN THÀNH TẤT CẢ
CÁC MÔN HỌC VÀ ĐÃ THANH TOÁN TẤT CẢ CÁC NGHĨA VỤ TÀI CHÍNH THEO QUY ĐỊNH
CỦA KHOA LUẬT ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI........................................................................................1
VẬY TÔI VIẾT LỜI CAM ĐOAN NÀY ĐỀ NGHỊ KHOA LUẬT XEM XÉT VÀ CHO PHÉP TÔI
ĐƯỢC BẢO VỆ LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC CỦA MÌNH THEO QUY ĐỊNH CỦA ĐẠI HỌC
QUỐC GIA HÀ NỘI...............................................................................................................................................1
TÔI XIN CHÂN THÀNH CẢM ƠN!...................................................................................................................1
NGƯỜI CAM ĐOAN..............................................................................................................................................1
PHẠM THANH DUNG..........................................................................................................................................1
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT....................................................................................................................1
MỞ ĐẦU...................................................................................................................................................................1
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
1

2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
4
3. MỤC ĐIC
́ H VÀ NHIÊM
̣ VỤ NGHIÊN CƯU
́
6
3.1. Mục đích nghiên cứu..........................................................................................................................6
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu..........................................................................................................................6
4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
7
4.1. Đối tượng nghiên cứu.........................................................................................................................7
4.2. Phạm vi nghiên cứu............................................................................................................................7
5. PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
7
5.1. Phương pháp luận..............................................................................................................................7
6. Ý NGHIA
̃ CUA
̉ LUÂN
̣ VĂN
8
CHƯƠNG 1............................................................................................................................................................10
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG................................................................................................10
SAU PHIÊN TÒA XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ................................................................................................10
CHƯƠNG 2............................................................................................................................................................24
HOẠT ĐỘNG SAU PHIÊN TÒA XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ.....................................................................24
THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ 2003...................................................................24
2.1.1.1. Hoạt động của Tòa án................................................................................................................25
2.1.1.2. Hoạt động của Viện kiểm sát......................................................................................................31
2.1.1.3. Hoạt động của một số chủ thể khác............................................................................................38



2.1.2. Hoạt động sau phiên tòa trong trường hợp Hội đồng xét xử ra Quyết định tạm đình chỉ hoặc
đình chỉ xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.....................................................................................................44
2.2. HOAṬ ĐÔN
̣ G SAU PHIÊN TOA
̀ XET́ XỬ PHUC
́ THÂM
̉ VỤ AN
́ HIN
̀ H SỰ
57
2.2.1. Hoạt động sau phiên tòa trong trường hợp Hội đồng xét xử phúc thẩm ra Bản án......................57
2.2.1.1. Hoạt động của Tòa án................................................................................................................58
2.2.1.2. Hoạt động của Viện kiểm sát......................................................................................................60
2.2.1.3. Hoạt động của một số chủ thể khác............................................................................................64
2.2.2. Hoạt động sau phiên tòa trong trường hợp Hội đồng xét xử ra Quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ
xét xử phúc thẩm......................................................................................................................................66
2.2.3. Hoạt động sau phiên tòa trong trường hợp Hội đồng xét xét xử ra Quyết định hoãn phiên tòa...70
CHƯƠNG 3............................................................................................................................................................75
CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THI HÀNH...............................................................................75
CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2003..............................................................75
VỀ HOẠT ĐỘNG SAU PHIÊN TÒA XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ...............................................................75
3.1. THỰC TIỄN THI HÀNH CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2003 VỀ HOẠT ĐỘNG SAU
PHIÊN TOA
̀ XET́ XỬ VỤ AN
́ HIN
̀ H SỰ
75
3.2. NGUYÊN NHÂN CỦA CÁC HẠN CHẾ TRONG VIỆC ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA BLTTHS VỀ HOẠT

ĐỘNG SAU PHIÊN TÒA XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ.
80
3.3. CAC
́ GIAỈ PHAṔ NÂNG CAO HIÊU
̣ QUẢ HOAṬ ĐÔN
̣ G SAU PHIÊN TOA
̀ XET́ XỬ VỤ AN
́ HIN
̀ H SỰ
82
3.3.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật.....................................................................................................82
3.3.2. Giải pháp đối với Cơ quan tiến hành tố tụng................................................................................87
3.3.4. Giải pháp đối với các chủ thể khác...............................................................................................93

2


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết tắt

Chữ đầy đủ

BLHS

Bộ luật Hình sự

BLTTHS

Bộ luật Tố tụng hình sự


HĐXX

Hội đồng xét xử

TAND

Tòa án nhân dân

TTHS

Tố tụng hình sự

VKS

Viện kiểm sát

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đấu tranh phòng chống tội phạm là một trong những nhiệm vụ quan
trọng, hàng đầu mà bất kỳ một nhà nước nào, một xã hội nào cũng cần phải
quan tâm. Để việc đấu tranh này được thực hiện một cách kiên quyết, kịp
thời, có hiệu quả, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật
quan trọng, trong đó có các văn bản về pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng
hình sự. Pháp luật hình sự mà trọng nhất là Bộ luật hình sự quy định hành vi

nào là nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm và phải chịu hình phạt, tức là
đưa ra các căn cứ giúp cho việc phát hiện, xác định tội phạm và người phạm
tội. Tuy nhiên, để đảm bảo cho việc phát hiện, xác định tội phạm và người
phạm tội được chính xác, xử lý nghiêm minh, không để lọt tội phạm, không
làm oan người vô tội đồng thời bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân thì pháp luật tố tụng hình sự nói chung, Bộ luật tố tụng hình sự nói
riêng lại đóng vai trò quan trọng. Bởi lẽ, Bộ luật tố tụng hình sự quy định
trình tự, thủ tục khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự.
Như vậy, diễn tiến giải quyết một vụ án sẽ diễn ra theo các giai đoạn:
giai đoạn khởi tố, giai đoạn điều tra, giai đoạn truy tố, giai đoạn xét xử và giai
đoạn thi hành án. Đan xen giữa những giai đoạn chính đó là những “giai đoạn
phụ”, những hoạt động nhỏ khác nhưng rất quan trọng. Hoạt động sau phiên
tòa xét xử vụ án hình sự là “một trong những giai đoạn như thế”. Hoạt động
này bắt đầu sau khi Hội đồng xét xử đưa ra một bản án hoặc quyết định tố
tụng và kết thúc sau khi các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng
và người tham gia tố tụng thực hiện hết các hoạt động mà luật tố tụng hình sự
quy định họ phải thực hiện. Như vậy, về mặt thời gian hoạt động sau phiên tòa
xét xử vụ án hình sự có thể có sự đan xen với giai đoạn xét xử sau và giai
đoạn thi hành án.

1


Các hoạt động sau phiên tòa xét xử các vụ án hình sự là một chuỗi các
hoạt động đa phần không mang nhiều tính chất tố tụng, mà thông thường
mang tính chất hành chính tư pháp, báo cáo. Tuy nhiên, những hoạt động này
lại giữ một vai trò quan trọng, mà thiếu đi những hoạt động này, việc giải
quyết vụ án hình sự sẽ không được khách quan, minh bạch, có thể dẫn đến
những hậu quả nghiêm trọng, thậm chí khiến cho những giai đoạn tố tụng
trước đó trở nên vô nghĩa. Điều đó dẫn đến mục đích đấu tranh, phòng chống

tội phạm của Đảng và Nhà nước ta không đạt được.
Khi xã hội càng phát triển, trình độ pháp luật của người dân được nâng
cao và khi các phương tiện truyền thông luôn theo sát với từng vụ án, đặc biệt
là những vụ án hình sự nhạy cảm như an ninh quốc gia, giết người,... thì hoạt
động sau phiên tòa xét xử vụ án hình sự lại càng trở nên quan trọng và cần
được chú trọng hơn.
Song song sự phát triển dân trí đó là quá trình phát triển toàn diện của
đất nước trên các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội và qua thực tiễn áp
dụng, nhiều quy định hoạt động sau phiên tòa xét xử vụ án hình sự của Bộ
luật tố tụng hình sự năm 2003 vẫn còn một số bất cập và hạn chế (như: chưa
quy định về thời hạn gửi bản án của Viện kiểm sát cấp dưới tới Viện kiểm sát
cấp trên trực tiếp, chưa quy định rõ quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố
tụng sau khi kết thúc phiên tòa, các quy định về hoạt động sau phiên tòa xét
xử vụ án hình sự trong quy chế của các ngành Tòa án, Viện kiểm sát còn cần
được bổ sung và quy định cụ thể hơn; v.v...).
Một số tồn tại và hạn chế nêu trên về mặt pháp luật đã gây ra những
vướng mắc, lúng túng trong hoạt động sau phiên tòa xét xử vụ án hình sự của
cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng người tham gia tố tụng và
các tổ chức, cá nhân khác trong thực tiễn. Dẫn tới hệ quả, hoạt động sau phiên
tòa chưa được chú trọng, còn mang tính hình thức, đối phó, làm cho có mà
chưa phát huy được tối qua hiệu quả, mục đích của hoạt động này.

2


Hiện nay, khoa học luật tố tụng hình sự trong nước mới chỉ có các công
trình nghiên cứu nghiên cứu về hoạt động xét xử vụ án hình sự nói chung
hoặc hoạt động xét xử sơ thẩm, hoạt động xét xử phúc thẩm hình sự, trong đó
phần nào đề cập tới một số quy định về hoạt động sau phiên tòa xét xử vụ án
hình sự. Tuy nhiên, sự đề cập đó mới chỉ dừng lại ở việc liệt kê ra các quy

định trong Bộ luật tố tụng hình sự mà chưa có một công trình nghiên cứu độc
lập nào nghiên cứu có hệ thống, toàn diện về hoạt động sau phiên tòa xét xử
vụ án hình sự, đề cập tới những mặt được và những mặt hạn chế, vướng mắc
của hoạt động này.
Về mặt thực tiễn công tác, với vị trí là một chuyên viên của Viện kiểm
sát nhân dân, một kiếm sát viên tương lai, việc nghiên cứu vấn đề hoạt động
sau phiên tòa xét xử vụ án hình sự lại càng có ý nghĩa quan trọng, nhất là
trong bối cảnh pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện nay vẫn đang duy trì
chức năng kiểm sát hoạt động xét xử đối với Tòa án của Viện kiểm sát. Quá
trình nghiên cứu sẽ giúp người thực hiện đề tài có tầm nhìn bao quát về những
hoạt động cần phải thực hiện sau phiên tòa của các cơ quan, tổ chức có liên
quan, từ đó xác định cần kiểm sát những vấn đề gì, những vấn đề gì hay bị vi
phạm, những vấn đề nào không cần sự kiểm sát của Viện kiểm sát, v.v.. Mặt
khác, luận văn cũng sẽ giúp các cơ quan, người tiến hành tố tụng hiểu rõ hơn
về hoạt động của ngành bạn, từ đó có thể hỗ trợ, phối hợp giúp đỡ nhau thực
hiện có hiệu quả các hoạt động sau phiên tòa. Đặc biệt, công trình nghiên cứu
sẽ giúp người tham gia tố tụng, tổ chức, cá nhân khác có thêm những kiến
thức về quyền, nghĩa vụ của mình sau phiên tòa, từ đó có thể thuận lợi thực
hiện quyền, nghĩa vụ của mình trên thực tế.
Với những lý do trên cho thấy việc nghiên cứu các quy định của pháp luật
tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành về hoạt động sau phiên tòa xét xử vụ án hình
sự và thực tiễn áp dụng để làm sáng tỏ về mặt khoa học và đưa ra giải pháp

3


hoàn thiện pháp luật và những giải pháp nâng cao hiệu quả của việc áp dụng
những quy định đó có ý nghĩa lý luận, thực tiễn và pháp lý quan trọng. Chính vì
vậy, người nghiên cứu đã lựa chọn đề tài "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
về hoạt động sau phiên tòa xét xử vụ án hình sự theo quy định pháp luật

Việt Nam" làm luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong nước đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học ở những mức
độ khác nhau, những khía cạnh, phương diện khác nhau về các hoạt động của
cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong các giai đoạn xét xử,
trong đó ít nhiều cũng đã đề cập đến những hoạt động sau phiên tòa xét xử vụ
án hình sự.
Cấp độ luận văn thạc sỹ Luật học có các đề tài của các tác giả như: Tôn
Thất Cẩm Đoàn, Thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự: Lý luận và thực tiễn
áp dụng tại tỉnh Thừa Thiên Huế, Khoa luật, 2002; Nguyễn Thị Hoàng, Xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự trong công cuộc cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay,
Khoa luật, 2006; Nguyễn Hồng Phương, Xét xử phúc thẩm vụ án hình sự theo
quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, Khoa luật, 2012; Nguyễn Thị Lan Hương,
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử
phúc thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân, Khoa luật, 2012, Ngô
Huyền Nhung, Giai đoạn xét xử sơ thẩm trong Tố tụng hình sự Việt Nam, Khoa
luật, 2012; Nguyễn Thị Tuyết Nhung, Chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát
trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Hải Phòng – một số vấn đề lý
luận và thực tiễn, Khoa luật, 2012; v.v..
Bên cạnh đó sách chuyên khảo, đề tài nghiên cứu khoa học có các công
trình sau: Mai Thanh Hiếu - Nguyễn Chí Công, Trình tự, thủ tục giải quyết vụ
án hình sự, Hà Nội – 2008; Đinh Văn Quế, Trình tự thủ tục xét xử các vụ án
hình sự: xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm, Nxb Tp Hồ Chí

4


Minh – 2003; Hoàng Văn Hạnh, Giai đoạn xét xử trong tố tụng hình sự Việt
Nam – những vấn đề lý luận và thực tiễn – Đề tài nghiên cứu khoa học cấp
trường, Trường đại học Luật Hà Nội, 2003; v.v..

Ngoài ra, một số tác giả cũng đã công bố những bài báo khoa học có
một phần nội dung đề cập đến những hoạt động sau phiên tòa xét xử vụ án
hình sự: Th.s Nguyễn Thị Thủy, Hoàn thiện thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay, Tạp chí Nhà nước và
pháp luật, số 7/2009; Thái Chí Bình, Hoàn thiện một số quy định của Bộ luật
Tố tụng hình sự năm 2003 về xét xử phúc thẩm, Tạp chí Nhà nước và pháp
luật, số 5/2003; Nguyễn Huy Tiến, Hoàn thiện quy định của Bộ luật Tố tụng
hình sự về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Viện kiểm sát trong giai
đoạn xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số
1/2010; Đinh Thế Hưng, Quan hệ giữa các cơ quan công tố với điều tra và
xét xử trong tố tụng hình sự Việt Nam, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số
12/2011; Phạm Văn An, Một số kinh nghiệm trong công tác thực hành quyền
công tố, kiểm sát xét xử hình sự tại phiên tòa hình sự theo yêu cầu cải cách tư
pháp, Tạp chí Kiểm sát, số 10/2011, v.v..
Như vậy, ở nước ta đã có nhiều công trình nhiên cứu về các vấn đề xung
quanh giai đoạn xét xử vụ án hình sự, nhưng nhìn một cách tổng quan có thể
khẳng định hiện chưa có một công trình nào nghiên cứu về hoạt động sau phiên
tòa xét xử vụ án hình sự theo pháp luật hiện hành. Bởi các công trình đó chủ yếu
chỉ đề cập đến thủ tục tố tụng, các hoạt động diễn ra trước và trong phiên tòa;
hoạt động diễn ra sau phiên tòa được đề cập tới rất ít và không có sự phân tích,
bình luận, nhận xét về thực trạng cũng như phương hướng hoàn thiện các quy
định pháp luật về hoạt động sau phiên tòa xét xử vụ án hình sự.
Tình hình nghiên cứu trên đây lại một lần nữa cho phép khẳng định
việc nghiên cứu đề tài "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về hoạt động sau

5


phiên tòa xét xử vụ án hình sự theo pháp luật Việt Nam" là đòi hỏi khách
quan, cấp thiết, vừa có tính lý luận, vừa có tính thực tiễn.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nêu và phân tích các quy định của Bộ luật TTHS cũng như
các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên hoạt động sau phiên tòa xét xử
vụ án hình sự nhằm mục đích: đưa ra khái niệm và đặc điểm của hoạt động
sau phiên tòa xét xử vụ án hình sự, từ đó phân biệt với các hoạt động tố tụng
khác; đánh giá được sự hình thành và phát triển các quy định về hoạt động sau
phiên tòa xét xử vụ án hình sự từ sau năm 1945 đến nay. Từ kết quả đó,
nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy định về hoạt động sau phiên tòa xét xử
vụ án hình sự trên thực tế, những tồn tại, hạn chế; nguyên nhân của những tồn
tại đó và đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của
pháp luật về hoạt động sau phiên tòa xét xử vụ án hình sự.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở mục đích nghiên cứu, luận văn tập trung vào các nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu làm sáng tỏ một số vấn đề chung về hoạt động sau phiên
tòa xét xử vụ án hình sự như: Khái niệm, đặc điểm của hoạt động sau phiên
tòa xét xử vụ án hình sự; phân biệt hoạt động sau phiên tòa xét xử vụ án hình
sự với hoạt động xét xử và hoạt động thi hành án;
- Nghiên cứu các quy định cụ thể về hoạt động sau phiên tòa xét xử vụ
án hình sự trong các văn bản pháp luật tố tụng hình sự hiện hành của Việt
Nam, từ đó rút ra những nhận xét, đánh giá;
- Nghiên cứu, đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định hiện hành về
hoạt động sau phiên tòa xét xử vụ án hình sự, đồng thời phân tích làm rõ
những tồn tại, hạn chế xung quanh việc áp dụng và những nguyên nhân cơ
bản của nó;

6


- Từ đó đề xuất những định hướng và giải pháp hoàn thiện các quy

định về hoạt động sau phiên tòa xét xử vụ án hình sự trong các văn bản pháp
luật tố tụng hình sự của Việt Nam hiện hành, cũng như những giải pháp nâng
cao hiệu quả áp dụng của hình phạt này trong thực tiễn.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Theo quy định tại Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, nước ta thực hiện chế độ hai cấp xét xử; vì vậy Luận văn chỉ tập trung
nghiên cứu và giải quyết những vấn đề xung quanh hoạt động sau phiên tòa
xét xử sơ thẩm và phúc thẩm vụ án hình sự; nghiên cứu các quy định của
pháp luật về tố tụng hình sự hiện hành, kết hợp với việc nghiên cứu đánh giá
tình hình áp dụng các quy định này của các Cơ quan tiến hành tố tụng, người
tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng và các cá nhân, tổ chức khác trong
thực tiễn. Luận văn cũng sẽ làm rõ nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế để
kiến nghị những giải pháp hoàn thiện luật thực định và nâng cao hiệu quả của
các hoạt động sau phiên tòa xét xử vụ án hình sự.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tổng quan các quy định có liên quan trong lịch sử phát triển
của pháp luật tố tụng hình sự của nước ta từ năm 1945 đến nay; nghiên cứu
các quy định về hoạt động sau phiên tòa xét xử vụ án hình sự năm trong Luật
tố tụng hình sự 2003 và các văn bản pháp luật hướng dẫn khác. Đồng thời,
luận văn nghiên cứu các vấn đề liên quan đến đề tài từ các báo cáo tháng, năm
từ đơn vị nơi cá nhân công tác – Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội từ
năm 2011-2014.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật
lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng mác-xít, tư tưởng Hồ Chí Minh về

7



Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà
nước pháp quyền, về chính sách hình sự, về vấn đề cải cách tư pháp được thể
hiện trong các Nghị quyết Đại hội Đảng VIII, IX, X và các Nghị quyết số
08-NQ/TW ngày 02/01/2002, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 26/5/2005 về
Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 của Bộ Chính trị.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn đã sử dụng các
phương pháp cụ thể và đặc thù của khoa học luật tố tụng hình sự như: phương
pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp so sánh, đối chiếu; phương pháp
diễn dịch; phương pháp quy nạp; phương pháp thống kê, điều tra xã hội học
để tổng hợp các tri thức khoa học luật hình sự, luật tố tụng hình sự và luận
chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu trong luận văn.
6. Ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng về phương diện
lý luận và thực tiễn, vì đây là công trình nghiên cứu đầu tiên và có hệ thống ở
cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học về hoạt động sau phiên tòa xét xử vụ án
hình sự, mà trong đó giải quyết nhiều vấn đề quan trọng về lý luận và thực tiễn
liên quan tới hoạt động sau phiên tòa xét xử vụ án hình sự trong hệ thống pháp
luật tố tụng hình sự Việt Nam. Bên cạnh đó, luận văn sẽ là một tài liệu tham
khảo cần thiết và bổ ích dành cho không chỉ các nhà lập pháp, các nhà nghiên
cứu, học viên chuyên ngành Tư pháp hình sự tại các cơ sở đào tạo luật. Kết
quả nghiên cứu của luận văn còn phục vụ cho việc trang bị những kiến thức
chuyên sâu cho các cán bộ thực tiễn đang công tác tại các cơ quan tiến hành
tố tụng, đặc biệt là cơ quan Tòa án và Viện Kiểm sát để hoạt động sau phiên
tòa được thực hiện, góp phần phát huy tối đa hiệu quả của các hoạt động tố
tụng khác – hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Đặc
biệt luận văn sẽ giúp các tổ chức, công dân trong xã hội nhận thức rõ hơn

8



quyền – nghĩa vụ của mình, của các cơ quan tiến hành tố tụng – những vấn đề
được quy định rất ít và rải rác trong các văn bản pháp luật, từ đó thực hiện có
hiệu quả các quyền và nghĩa vụ này trên thực tế.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm có 3 chương:
Chương 1. Những vấn đề chung về hoạt động sau phiên tòa xét xử vụ
án hình sự.
Chương 2. Hoạt động sau phiên tòa xét xử vụ án hình sự theo quy định
của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003.
Chương 3. Các giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành quy định của Bộ
luật Tố tụng hình sự 2003 về hoạt động sau phiên tòa xét xử vụ án hình sự.

9


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG
SAU PHIÊN TÒA XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm hoạt động sau phiên tòa xét xử vụ án hình sự
Trình tự tố tụng hình sự (TTHS) bao gồm nhiều bước, diễn ra liên tục,
hỗ trợ nhau: giai đoạn khởi tố; giai đoạn điều tra; giai đoạn truy tố; giai đoạn
xét xử (bao gồm xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm); giai đoạn thi hành bản
án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án, trong đó, giai đoạn xét xử là
giai đoạn trung tâm. Chính vì tầm quan trọng của xét xử như vậy, mà đối với
một vụ án, dư luận không chỉ quan tâm tới nội dung diễn biến tại phiên tòa
mà còn quan tâm tới các hoạt động diễn ra sau phiên tòa đó.
Có thể nói rằng hoạt động sau phiên tòa xét xử vụ án hình sự là khái

niệm chưa được nghiên cứu sâu và đầy đủ trong khoa học luật tố tụng hình sự
Việt Nam từ trước tới nay. Để đưa ra được khái niệm này, cần thiết nghiên
cứu một số khái niệm liên quan như: hoạt động, hoạt động tố tụng hình sự,
hoạt động hành chính tư pháp.
Theo Triết học, hoạt động là mối quan hệ tác động qua lại giữa con
người và thế giới để tạo ra sản phẩm cả về thế giới và cả về phía con người.
Hoạt động được Luận văn nghiên cứu là những hoạt động diễn ra sau phiên
tòa xét xử các vụ án hình sự. Hiện nay, kết thúc phiên tòa xét xử có hai cách
hiểu khác nhau: kết thúc phiên tòa theo lịch công việc và kết thúc phiên tòa
theo bản chất công việc.
Kết thúc phiên tòa theo lịch công việc là sự kết thúc đã được định sẵn
theo kế hoạch, thường được thể hiện trong lịch phiên tòa, quyết định đưa vụ
án ra xét xử. Hết thời điểm được định sẵn đó, phiên tòa được coi là kết thúc.
Cụ thể, đến thời điểm này, vụ án được đưa ra xét xử và kết thúc khi Tòa án ra
một quyết định tố tụng bất kỳ (bản án, quyết định hoãn phiên tòa, quyết định
trả hồ sơ để điều tra bổ sung, ...), quyết định này có thể đã giải quyết được nội

10


dung vụ án hoặc cũng có thể chưa; sau khi kết thúc phiên tòa, vụ án có thể
được xóa khỏi sổ thụ lý (trường hợp ra bản án, đình chỉ xét xử,...), nhưng
cũng có thể vẫn là án tồn tại Tòa (trường hợp tạm đình chỉ, hoãn phiên tòa, ...)
Kết thúc phiên tòa theo bản chất công việc là sự chấm dứt hoàn toàn vụ
án, được biểu hiện bằng việc đưa ra một quyết định giải quyết nội dung của
vụ án như: bản án, quyết định đình chỉ, quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ
sung, v.v.. Lúc này, Tòa án chấm dứt việc giải quyết đối với vụ án. Hay nói
cách khác, sau khi kết thúc phiên tòa, vụ án không còn được coi là án chưa
giải quyết (án tồn) tại Tòa án nữa.
Như vậy, theo phân tích trên, khái niệm kết thúc phiên tòa theo bản chất

công việc hẹp hơn khái niệm kết thúc phiên tòa theo lịch công việc. Thời điểm
kết thúc phiên tòa được luận văn nghiên cứu được hiểu theo nghĩa thứ nhất.
Theo nguyên tắc hai cấp xét xử được quy định trong Hiến Pháp và Bộ
luật tố tụng hình sự (BLTTHS) hiện hành, Tòa án thực hiện nguyên tắc hai
cấp xét xử nên thuật ngữ “phiên tòa” được đề cập trong Luận văn là phiên tòa
sơ thẩm và phiên tòa phúc thẩm xét xử vụ án hình sự.
Các hoạt động sau phiên tòa xét xử vụ án hình sự bao gồm các hoạt
động tố tụng hình sự, hoạt động hành chính tư pháp và các hoạt động khác.
Hoạt động tố tụng hình sự sau phiên tòa là toàn bộ hoạt động của các
chủ thể TTHS sau phiên tòa xét xử vụ án hình sự nhằm hướng tới việc giải
quyết cũng như kết quả vụ án khách quan, công bằng, góp phần đấu tranh
chống và phòng ngừa tội phạm.
Hoạt động hành chính tư pháp sau phiên tòa được hiểu là các quy
trình, thủ tục mang tính chất hành chính hỗ trợ cho hoạt động của các cơ
quan tiến hành tố tụng, giải quyết các yêu cầu của người dân sau các phiên
tòa xét xử và các hoạt động quản lý, chỉ đạo điều hành của lãnh đạo của các
cơ quan tiến hành tố tụng. Hoạt động này bao gồm các công việc như: việc
tiếp dân; tiếp nhận và xử lý đơn khởi kiện, cấp sao lục bản án, quyết định

11


của Tòa án, v.v..
Các hoạt động khác sau phiên tòa là hoạt động của những người bị kết
án, bị cáo, người giám hộ của họ, luật sư, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của người bị kết án, bị cáo,... Trong thực tế, một vụ án mang theo sự quan
tâm của rất nhiều người, của cả xã hội, vì vậy, bên cạnh các những chủ thể tiến
hành tố tụng được thực hiện những hoạt động tố tụng hình sự, hoạt động hành
chính tư pháp thì một bộ phận lớn các chủ thể khác: người tham gia tố tụng, cơ
quan báo chí, các cá nhân, cơ quan, tổ chức xã hội khác liên quan đến vụ án.

Tuy nhiên thể hiện quyền và nghĩa vụ sau phiên tòa rõ nét nhất chính là các chủ
thể đã đề cập đến ở trên: người bị kết án, bị cáo, người đại diện, luật sư, người
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kết án, bị cáo.
Từ những phân tích ở trên, có thể đưa ra khái niệm sau về hoạt động sau
phiên tòa xét xử vụ án hình sự: hoạt động sau phiên tòa xét xử vụ án hình sự là
các hoạt động diễn ra giữa hai giai đoạn chính của tố tụng hình sự là xét xử và
thi hành án hoặc xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm, trong đó, Cơ quan tiến
hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, bị cáo và các tổ chức, cá nhân khác thực
hiện các hoạt động tố tụng, hoạt động hành chính tư pháp hoặc thực hiện các
quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của BLTTHS và các văn bản pháp
luật khác để việc giải quyết vụ án theo đúng trình tự, thời gian do pháp luật
quy định, bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong TTHS.
1.2.

Đặc điểm của hoạt động sau phiên tòa xét xử vụ án hình sự.

Thứ nhất, các hoạt động sau phiên tòa bao gồm đa dạng các hoạt động:
tố tụng hình sự, hành chính tư pháp và các hoạt động khác. Như đã phân tích
trong phần khái niệm, hoạt động sau phiên tòa có thể là hoạt động kháng cáo
bản án, quyết định hình sự sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật hoặc hoạt động
kháng nghị phúc thẩm đối với bản án, quyết định hình sự chưa có hiệu lực
pháp luật hoặc kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định hình sự

12


đã có hiệu lực pháp luật,... – đây là những hoạt động TTHS. Hoạt động sau
phiên tòa còn có thể là các hoạt động như đánh máy, chỉnh sửa bản án, quyết
định hình sự, tống đạt các quyết định,... – đây là những hoạt động hành chính
tư pháp. Cả hai hoạt động này đều có sự tham gia của các chủ thể là đại diện

của Cơ quan tư pháp nhà nước là Tòa án và Viện kiểm sát. Tuy nhiên, sau
phiên tòa còn có sự tham gia của các chủ thể khác nữa như người bị kết án, bị
can, bị cáo trong việc viết các đơn khiếu nại, tố cáo, hoạt động thông tin vụ án
của các phương tiện truyền thông đại chúng, v.v.. Đây là những hoạt động
không mang cả tính chất tố tụng và hành chính tư pháp nên được Luận văn
gọi là các hoạt động khác.
Thứ hai, chủ thể của hoạt động sau phiên tòa đa dạng: Cơ quan tiến
hành tố tụng mà chủ yếu là Tòa án, Viện kiểm sát; người tiến hành tố tụng; bị
cáo, người đại diện hợp pháp, người bào chữa của bị cáo và những người
tham gia tố tụng khác, v.v.. Các hoạt động sau phiên tòa chủ yếu là các hoạt
động tố tụng hình sự và các hoạt động hành chính tư pháp nên các chủ thể
tham gia hoạt động sau phiên tòa cũng chủ yếu là các chủ thể có thẩm quyền
tiến hành hoạt động tố tụng hình sự và hoạt động hành chính tư pháp. Các
hoạt động của các chủ thể là bị cáo, người đại diện hợp pháp, người bào chữa
của họ và những người tham gia tố tụng khác rất hạn chế. Vì vậy, đối với các
hoạt động này, Luận văn chủ yếu đi sâu phân tích hoạt động của các chủ thể là
bị cáo, người đại diện hợp pháp, người bào chữa của bị cáo.
Thứ ba, hoạt động sau phiên tòa xét xử vụ án hình sự có thể được coi là
một giai đoạn của tố tụng hình sự, mặc dù còn chưa được xem xét là một giai
đoạn chính, một giai đoạn độc lập trong chế định của Luật TTHSVN. Một
giai đoạn của TTHS thường được xác định bởi hai thời điểm là bắt đầu và kết
thúc. Hoạt động sau phiên tòa đáp ứng được cả hai thời điểm đó. Hoạt động
này bắt đầu sau khi tại phiên tòa, Tòa án tuyên một trong các văn bản tố tụng

13


sau: Bản án, Quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ xét xử đối với vụ án hoặc đối
với bị cáo, Quyết định hoãn phiên tòa, Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ
sung. Thời điểm kết thúc của hoạt động này là khi Bản án có hiệu lực pháp

luật, Tòa án cùng cấp ra Quyết định thi hành án hoặc Tòa án cấp tiếp theo thụ
lý vụ án để xét xử phúc thẩm, xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm, tái
thẩm. Như vậy, giai đoạn sau phiên tòa xét xử vụ án hình sự là một giai đoạn
độc lập trong TTHS VN. Tuy nhiên, giai đoạn này hiện nay còn có sự bỏ ngỏ,
chưa được quy định riêng biệt và các thiếu nhiều quy định điều chỉnh hành vi
của các chủ thể tham gia các hoạt động trong giai đoạn này. Vì vậy, điều này
sẽ dẫn đến rất nhiều vướng mắc khi các chủ thể hoạt động này trên thực tiễn.
Mặc dù vậy, là một giai đoạn độc lập nhưng giai đoạn sau phiên tòa lại không
phải là một giai đoạn chính của TTHS. TTHS Việt Nam chỉ bao gồm các giai
đoạn chính như: khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án. Bởi lẽ, đây là
những hoạt động thể hiện rõ nét nhất bản chất của TTHS, nhiệm vụ, vai trò
của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố
tụng; tập trung đầy đủ và chủ yếu nhất các hoạt động TTHS - hoạt động đặc
trưng của TTHS.
Thứ tư, mục đích của hoạt động sau phiên tòa là nhằm mục đích tạo
bước đệm giữa các giai đoạn tố tụng khác, đảm bảo cho kết quả của các giai
đoạn tố tụng trước được công bằng, minh bạch, có căn cứ, đúng pháp luật,
đảm bảo quyền con người; để việc giải quyết vụ án theo đúng trình tự, thời
gian do pháp luật quy định, bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong TTHS.
1.3.

Phân loại hoạt động sau phiên tòa xét xử vụ án hình sự.

Dựa vào các tiêu chí khác nhau mà có nhiều cách phân loại các hoạt
động sau phiên tòa xét xử vụ án hình sự khác nhau. Dựa theo nguyên tắc hai
cấp xét xử, hoạt động sau phiên tòa bao gồm: hoạt động sau phiên tòa xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự và hoạt động sau phiên tòa xét xử phúc thẩm vụ án

14



hình sự. Dựa vào chủ thể tham gia, hoạt động sau phiên tòa gồm: hoạt động
của Tòa án, hoạt động của Viện kiểm sát, hoạt động của các chủ thể khác.
Dựa vào tính chất của hoạt động, hoạt động sau phiên tòa xét xử các vụ án
hình sự bao gồm: các hoạt động tố tụng hình sự, các hoạt động hành chính tư
pháp và các hoạt động khác.
Luận văn có sự kết hợp của cả ba cách phân loại trên, trong đó, lấy
cách phân loại thứ nhất để thể hiện trong kết cấu.
1.4. Vai trò và ý nghĩa của hoạt động sau phiên tòa xét
xử vụ án hình sự
1.4.1. Vai trò của hoạt động sau phiên tòa xét xử vụ án hình sự
Các hoạt động sau phiên tòa xét xử vụ án hình sự có vai trò rất quan
trọng trong tố tụng hình sự nói riêng và trong đời sống pháp luật, đời sống xã
hội nói chung. Tuy nhiên, có thể điểm lại ở ba vai trò chính sau:
Thứ nhất, hoạt động sau phiên tòa xét xử vụ án hình sự thực hiện nhiệm
vụ là cầu nối cho các hoạt động của các giai đoạn khác. Điển hình nhất là sự
nối tiếp cho giai đoạn xét xử và giai đoạn thi hành án. Các hoạt động sau
phiên tòa không những là sự nối tiếp về mặt thời gian (kết thúc phiên tòa –
các hoạt động sau phiên tòa – thi hành án) mà còn là sự nối tiếp về mặt nội
dung công việc. Trong một vài trường hợp, nếu không có hoạt động sau phiên
tòa nào đó thì hoạt động thi hành án sẽ không thể diễn ra. Ví dụ, nếu có hoạt
động bắt tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án của Hội đồng xét xử trong
giai đoạn xét xử thì các hoạt động trong giai đoạn thi hành án đối với bị cáo
sẽ diễn ra suôn sẻ, tránh được những trường hợp phải tạm đình chỉ do bị cáo
trốn. Hay nếu không có hoạt động chuyển hồ sơ kháng cáo cho Tòa án cấp
phúc thẩm đúng thời hạn thì tất yếu hoạt động xét xử phúc thẩm sẽ bị ảnh
hưởng rất lớn.
Bên cạnh đó, hoạt động sau phiên tòa còn là cầu nối cho các giai đoạn

15



khác như giai đoạn phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm. Sự xuất hiện của
hoạt động kháng cáo của bị cáo, kháng nghị của Viện kiểm sát sẽ làm tiền đề
cho một loạt các hoạt động tố tụng ở giai đoạn phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái
thẩm như: tiếp nhận hồ sơ, phân công thẩm phán, xét xử phúc thẩm, xét lại
bản án theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm, v.v..
Thứ hai, hoạt động sau phiên tòa xét xử vụ án hình sự góp phần cho vụ
án được giải quyết hoàn thiện đúng trình tự, thủ tục, thời gian. Nếu như các
giai đoạn tố tụng trước đó đã được thực hiện đúng trình tự thủ tục, nhưng đến
sau khi phiên tòa kết thúc, các hoạt động sau phiên tòa không được thực hiện
một cách đầy đủ thì vụ án vẫn chưa được coi là đã được giải quyết triệt để.
Đối với các hoạt động sau phiên tòa mà Bộ luật TTHS có quy định, nếu các
hoạt động này không được thực hiện theo đúng trình tự, thủ tục thì vẫn có thể
bị coi là vi phạm tố tụng, mặc dù không bị kháng cáo, kháng nghị nhưng vẫn
có thể bị khiếu nại, tố cáo. Và quay trở lại, chính việc khiếu nại, tố cáo này sẽ
khiến cho vụ án bị dây dưa, kéo dài, gây mất niềm tin của nhân dân, xã hội
vào các cơ quan tiến hành tố tụng. Vì vậy, thực hiện đúng và đầy đủ các hoạt
động sau phiên tòa sẽ giúp vụ án được hoàn thiện hơn, hoàn thiện cả về mặt
thủ tục và về mặt thời gian.
Thứ ba, hoạt động sau phiên tòa góp phần tăng cường pháp chế, đảm
bảo quyền con người. Một trong những hoạt động sau phiên tòa được biết đến
là hoạt động kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm và hoạt động phát hiện ra các
vi phạm pháp luật để kháng nghị hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền kháng
nghị giám đốc thẩm, tái thẩm. Đây là những hoạt động biểu hiện rõ ràng nhất
cho công cuộc phát hiện những khiếm khuyết, thậm chí là những vi phạm
pháp luật, từ đó có thể khắc phục được các vi phạm đó, góp phần tăng cường
pháp chế. Ngoài ra, việc thực hiện đúng các quy định của pháp luật hiện hành
về hoạt động sau phiên tòa xét xử vụ án hình sự cũng là thể hiện sự tôn trọng


16


pháp luật, đề cao tính tối cao của pháp luật, gìn giữ pháp chế trong xã hội.
Đảm bảo mọi chủ thể liên quan đến vụ án đều tuân theo pháp luật khi thực
hiện quyền và nghĩa vụ của mình sau phiên tòa cũng chính là cơ chế để bảo vệ
quyền con người. Bởi lẽ quyền của chủ thể này chính là nghĩa vụ của chủ thể
khác. Các chủ thể khi tham gia hoạt động sau phiên tòa phải tôn trọng và tạo
điều kiện cho các chủ thể còn lại thực hiện quyền của mình. Quyền được
kháng cáo là một ví dụ. Nếu bị cáo thấy bản án còn có vi phạm hoặc chưa
tương xứng với hành vi của mình thì bị cáo có quyền kháng cáo trong thời
hạn luật định để tìm lại sự công bằng. Trên thực tế, rất nhiều vụ án được đưa
ra xét xử nhiều lần, ở nhiều cấp khác nhau, và quyết định cuối cùng lại khác
với quyết định ban đầu. Như vậy, phải chăng là công lý đã được tìm thấy,
quyền con người của bị cáo đã được bảo vệ. Ngoài ra các hoạt động khác như
hoạt động được nhận bản án, các quyết định tố tụng, hoạt động bắt tạm giam
đúng pháp luật của Tòa án đối với bị cáo để đảm bảo thi hành án, quyền thực
hiện việc khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự, v.v.. đều mang trong mình
các nội dung về việc đảm bảo quyền con người và thể hiện tính dân chủ trong
Tố tụng hình sự của Nhà nước ta.
1.4.2. Ý nghĩa của hoạt động sau phiên tòa xét xử vụ án hình sự
Về mặt lý luận, hoạt động sau phiên tòa xét xử vụ án hình sự góp phần
thực hiện đúng đắn các quy định của BLTTHS. Bên cạnh đó, đa phần các hoạt
động sau phiên tòa được quy định trong các văn bản nghiệp vụ nội bộ, vì vậy
tiến hành các hoạt động sau phiên tòa sẽ giúp hoàn thiện, thực hiện triệt để
được các hoạt động sau phiên tòa đã được quy định trong Luật, từ đó, các quy
định nghiệp vụ tiến bộ dần dẫn có thể được pháp điển hóa thành các quy định
của pháp luật TTHS.
Về mặt pháp lý, thứ nhất, hoạt động sau phiên tòa xét xử vụ án hình sự


17


góp phần làm cho hoạt động tố tụng trong giai đoạn xét xử của người, cơ quan
có thẩm quyền tiến hành tố tụng được thực hiện đúng pháp luật, kịp thời phát
hiện và khắc phục các vi phạm pháp luật trong các quyết định, hành vi tố tụng
đó. Thứ hai, hoạt động sau phiên tòa xét xử vụ án hình sự là bước đệm, tạo
điều kiện thuận lợi cho các hoạt động ở các giai đoạn tố tụng tiếp theo.
Về mặt xã hội, hoạt động sau phiên tòa xét xử vụ án hình sự góp phần
bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của Cơ quan, tổ
chức, cá nhân, phát huy quyền tự do, dân chủ của các chủ thể này. Không có
các hoạt động sau phiên tòa thì quyền và lợi ích của các chủ thể nêu trên
chưa được thực hiện triệt để. Trong quá trình tố tụng, đa phần các chủ thể
đều phải thực hiện các nghĩa vụ nhiều hơn là được hưởng quyền: cung cấp
thông tin, khai báo, giao nộp tài liệu, bị tạm giam, v.v.. Chỉ đến khi sau
phiên tòa, các quyền của các chủ thể mới được thể hiện nhiều hơn như: tìm
lại sự công bằng cho người bị hại, người có quyền lợi bị xâm phạm thì được
bồi thường, ngay cả bị cáo cũng có các quyền như: được giao nhận bản án,
được gặp người thân thích trước khi chấp hành hình phạt,v.v.. Tất cả những
hoạt động này đồng thời cũng thể hiện ý nghĩa, chủ trương nhân đạo xã hội
chủ nghĩa của Đảng và Nhà nước ta.
1.5. Tổng quan pháp luật Tố tụng hình sự về hoạt động sau phiên
tòa xét xử vụ án hình sự từ năm 1945 đến năm 2003
Hoạt động sau phiên tòa xét xử vụ án hình sự là một bộ phận không thể
tách rời của tố tụng hình sự, cho dù chúng có được quy định một cách chính
thức trong các văn bản pháp luật hay không. Về mặt pháp luật, từ năm 1945
đến nay, cùng với sự thay đổi của các thời kỳ lịch sử, các quy định về các hoạt
động sau phiên tòa xét xử vụ án hình sự đã và đang có sự phát triển rõ rệt, từ
chỗ chưa được ghi nhận trong các văn bản pháp lý đến chỗ được ghi nhận một
cách khái quát, rồi quy định ngày càng chi tiết và tiến bộ hơn.


18


Trước Cách mạng tháng Tám hệ thống pháp luật TTHS đã có những quy
định về chế độ xét xử, số lượng, nhiệm vụ của các thẩm phán, lục sự, thư ký,
tần suất tổ chức một phiên tòa, v.v… [8]. Tuy nhiên, tại các văn bản này, những
hoạt động sau phiên tòa lại chưa được đề cập, quy định một cách chính thức.
Mặc dù vậy, các hoạt động này vẫn diễn ra như một phần không thể tách rời sau
khi kết thúc một vụ án hình sự, tất nhiên là những hoạt động này được thực
hiện một các tùy nghi, theo kinh nghiệm, tiền lệ của chính các cơ quan đó.
Sau khi kháng chiến chống Pháp thắng lợi, miền Bắc tiến hành xây
dựng các thể chế xã hội chủ nghĩa, trong đó pháp luật tố tụng hình sự dần
được chú ý. Đỉnh cao của thời kỳ này là việc Quốc hội quyết định Tòa án
nhân dân tối cao và hệ thống các Tòa án địa phương, Viện công tố trung ương
cùng hệ thống Viện công tố các cấp vào năm 1958. Để rồi trên cơ sở Hiến
pháp 1959, Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1960 và Luật tổ chức Viện
kiểm sát nhân dân năm 1960 được ban hành. Ở Miền Nam, sau ngày giải
phóng, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam đã ban
hành Sắc lệnh số 01 ngày 15/3/1976 về tổ chức Tòa án nhân dân và Viện kiểm
sát nhân dân các cấp. Tại các văn bản này, ít nhiều đã có quy định gián tiếp về
các hoạt động sau phiên tòa. Ví dụ, theo Điều 9 và Điều 10 Luật tổ chức Tòa
án nhân dân 1960 thì các hoạt động sau phiên tòa xét xử vụ án hình sự bao
gồm một số hoạt động như:
- Hoạt động chống án của đương sự: Sau phiên tòa, đương sự có quyền

chống bản án hoặc quyết định của Toà án nhân dân xử sơ thẩm lên Toà án
nhân dân trên một cấp.
- Hoạt động kháng nghị của Viện Kiểm sát.
- Hoạt động duyệt lại các bản án tử hình – được tiến hành bởi Hồi đồng

toàn thể thẩm phán của Toà án nhân dân tối cao duyệt lại trước khi thi hành.
- Hoạt động phát hiện những sai lầm trong bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật để thực hiện việc xét xử lại [26].

19


Hoặc theo quy định tại các Điều 3, 11, 17 và 18 Luật tổ chức Viện kiểm
sát nhân dân năm 1960 cho thấy có các hoạt động sau phiên tòa bao gồm:
- Trách nhiệm tiếp nhận, giải quyết các việc khiếu nại và tố cáo của

nhân dân về việc vi phạm pháp luật và trả lời người khiếu nại hoặc tố cáo
của Viện KSND;
- Kháng nghị phúc thẩm những bản án hoặc quyết định sơ thẩm của Toà
án nhân dân cùng cấp và cấp dưới một cấp;
- Báo cáo lên VKSND TC về các sai lầm trong bản án hoặc các quyết
định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp mình hoặc cấp dưới để Viện
kiểm sát nhân dân tối cao để kháng nghị [27].
Như vậy, dù quy định một cách trực tiếp hay gián tiếp nhưng những nội
dung trên về hoạt động sau phiên tòa cũng đã góp phần vào công cuộc bảo vệ
chế độ dân chủ nhân dân, trật tự xã hội, tài sản công cộng và những quyền lợi
hợp pháp của công dân, góp phần bảo đảm cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở miền Bắc và sự nghiệp đấu tranh nhằm thực hiện thống nhất nước
nhà được tiến hành thắng lợi.
Năm 1980, Quốc hội thông qua Hiến Pháp mới. Trên cơ sở đó, Luật tổ
chức Tòa án nhân dân và Luật tổ chức VKSND năm 1981 thay thế các Luật
này từ năm 1960. Các văn bản pháp luật mới đã có sự quy định chi tiết hơn,
góp phần đáng kể vào việc khắc phục những thiếu sót, sai lầm trong việc giải
quyết vụ án hình sự, tuy nhiên hầu hết các nội dung này vẫn được hiểu một
cách gián tiếp như những quy định trong các văn bản trước đây.

Theo quy định tại Luật tổ chức Tòa án nhân dân 1981 thì các hoạt động
sau phiên tòa xét xử vụ án hình sự bao gồm:
- Hoạt động kháng cáo của bị cáo và đương sự khác, hoạt động kháng

nghị của Viện KSND đối với những bản án và quyết định sơ thẩm của Tòa án

20


×