A. LỜI MỞ ĐẦU
Trước khi vào vấn đề, chúng ta sẽ cùng trả lời câu hỏi này nhé! Đã bao giờ
bạn đặt câu hỏi xung quanh một hành vi xảy ra trong cuộc sống thường ngày của
mình ví như việc bạn thỏa thuận với ai đó để trao đổi với họ một vật ngang giá hay
đơn giản là thỏa thuận để mua một chiếc áo chưa? Nếu như bạn đã từng làm một
việc tương tự như vậy thì tại sao bạn không tự hỏi mình đã tham gia vào những quan
hệ pháp lý gì? Tại sao bạn lại có thể thỏa thuận được với người khác? Khi thỏa
thuận với họ bạn được làm và không được làm những gì? Khi bạn làm trái những gì
mà pháp luật và xã hội cho phép thì bạn có trách nhiệm gì không? Và bạn đã bảo vệ
quyền lợi chính đáng của mình như thế nào? Tôi cam đoan rằng trong số các bạn
chỉ một số rất ít đặt ra câu hỏi cho mình như vậy. Trong một xã hội ngày càng phát
triển thì người ta phải tham gia vào nhiều quan hệ hơn, phức tạp hơn, nhiều khi và
rất thường xuyên bạn là người trực tiếp tham gia vào các quan hệ đó mà đặc biệt và
phổ biến nhất là những quan hệ giao dịch dân sự. Vậy thì tại sao chúng ta không tìm
hiểu vấn đề này thông qua việc nghiên cứu đề tài: “Giao kết hợp đồng dân sự theo
quy định của pháp luật hiện hành – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” để tự trả
lời câu hỏi cho mình nhỉ ?!
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. LÝ LUẬN VỀ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG DÂN SỰ THEO QUY ĐỊNH CỦA
PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH
1. Nguyên tắc giao kết hợp đồng dân sự
Giao kết hợp đồng dân sự là việc các bên bày tỏ ý chí của mình theo những
nguyên tắc nhất định để qua đó xác lập quyền và nghĩa vụ dân sự. Xuất phát từ
nguyên tắc cơ bản của Bộ luật Dân sự, quyền tự do thỏa thuận, cam kết của các chủ
thể phù hợp với các quy định của pháp luật trong việc xác lập quyền và nghĩa vụ
được pháp luật đảm bảo. Xét bản chất hợp đồng, thì vấn đề lợi ích cần đạt được là
1
động lực nội tại thúc đẩy các bên thiết lập quan hệ. Trong giao lưu dân sự, các bên
hoàn toàn tự nguyện, không bên nào được áp đặt, cấm đoán, cưỡng ép, đe dọa, ngăn
cản bên nào và luôn phải tôn trọng đạo đức, truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Việc
giao kết hợp đồng dân sự đã được Bộ luật Dân sự 2005 quy định cụ thể tại Điều 389
như sau:
“1. Tự do giao kết hợp đồng nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã
hội;
2. Tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay thẳng.”
Có thể thấy, điều luật trên đã cho thấy sự hoàn thiện của pháp luật dân sự và
hợp đồng ở nước ta. Đó là việc khẳng định quyền tự do hợp đồng của chủ thể.
1.1. Nguyên tắc tự do giao kết hợp đồng, nhưng không được trái với pháp
luật, đạo đức xã hội
Quyền tự do hợp đồng luôn thể hiện một phần quan trọng trong quyền tự chủ
để tạo ra một phạm vi tự do hoạt động của mỗi người. Trong phạm vi này mỗi người
đều có thể xác lập, thực hiện các quan hệ theo ý muốn và mục đích của mình. Trong
phạm vi quyền tự do hợp đồng thì chỉ quyết định của cá nhân mới có hiệu lực. Cơ sở
khách quan đảm bảo cho quyền tự do giao kết hợp đồng là tiền đề pháp lý, tiền đề
vật chất mà pháp luật thừa nhận dựa trên điều kiện kinh tế xã hội hiện tại. Tự do
giao kết hợp đồng thể hiện ở sự tự do ý chí của các chủ thể khi đàm phán, ký kết
hợp đồng. Theo đó, việc giao kết hợp đồng giữa các chủ thể với nhau phải do chính
các chủ thể đó quyết định, bất kỳ một cá nhân, tổ chức nào hay Nhà nước cũng
không được can thiệp một cách trái pháp luật vào quá trình đó. Các bên có quyền
quyết định tham gia hay không tham gia, có quyền thay đổi, tạm thời hoãn, chấm
dứt, hủy bỏ hợp đồng xuất phát từ lợi ích của xã hội hay của chính mình.
Ai cũng có thể hiểu rằng để có thể tự do khi giao kết hợp đồng, người tham
gia giao kết hợp đồng phải có quyền sở hữu với đối tượng trao đổi. Không có tài sản
thì không thể tự do giao kết hợp đồng và quyền tự do giao kết hợp đồng kia chỉ là sự
2
ghi nhận về hình thức, mà trong đó nội dung vật chất quyết định cho sự tồn tại của
hình thức chưa được bảo đảm.
Bởi việc ký kết và thực hiện hợp đồng không phải chỉ liên quan đến lợi ích
của những chủ thể tham gia ký kết hợp đồng, mà nó còn ảnh hưởng đến lợi ích
chung của xã hội, của cộng đồng và thuần phong mỹ tục của xã hội. Vì vậy, mặc dù
các chủ thể được tự do giao kết hợp đồng, nhưng pháp luật cũng yêu cầu những
hành vi của họ không được trái với pháp luật và đạo đức xã hội. Nghĩa là các bên
không được giao kết hợp đồng mà đối tượng của nó là tài sản bị pháp luật cấm giao
dịch. Đối với những tài sản pháp luật cho phép giao dịch nhưng phải có điều kiện
nhất định, thì khi giao kết hợp đồng các bên phải tuân thủ những điều kiện đó.
Có thể nói, nguyên tắc này đã phản ánh được quyền lợi tuyệt đối của chủ thể
khi giao kết hợp đồng, nhưng quyền lợi đó bị ràng buộc bởi quy định của pháp luật
và đạo đức xã hội. Hợp đồng giao kết phải có mục đích, nội dung không được trái
với đạo đức xã hội. Đối với những hợp đồng có mục đích trái với những chuẩn mực
ứng xử chung giữa người với người trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa
nhận và tôn trọng; đi ngược lại với lợi ích chung của xã hội, gây thiệt hại cho lợi ích
hợp pháp của người khác,… đều bị coi là trái đạo đức xã hội. Những hợp đồng có
nội dung như vậy, theo quy định tại Điều 127 Bộ luật Dân sự đều vô hiệu.
Sự tồn tại đa lợi ích trong xã hội và xu hướng lấn át của chúng đòi hỏi pháp
luật phải tạo ra được một giới hạn phát triển hợp lý cho các lợi ích đó, tạo ra được
sự hài hóa cho các lợi ích đang tồn tại trong một mối liên hệ chung. Sự đấu tranh và
thống nhất giữa các lợi ích chính là động lực cho sự phát triển kinh tế – xã hội. Điều
này đòi hỏi tạo ra phạm vi giới hạn cho quyền tự do giao kết hợp đồng phù hợp với
yêu cầu của xã hội, với đòi hỏi của pháp luật.
1.2. Nguyên tắc tự nguyên, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và
ngay thẳng
Đây là nguyên tắc được xác định rên cơ sở pháp lý của hợp đồng. Bảo đảm
nguyến tắc khi giao kết hợp đồng cũng là bảo đảm hiệu lực của hợp đồng trên thực
3
tế. Điểm c, khoản 1, Điều 122 Bộ luật Dân sự quy định về điều kiện có hiệu lực của
giao dịch dân sự: “Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện”. Như vậy một
hợp đồng được hình thành trên cơ sở ý chí của chủ thể và ý chí đó hoàn toàn tự
nguyện,
về nguyên tắc, bất cứ một vi phạm nào về sự tự nguyện cũng có thể dẫn đến hậu quả
giao dịch sẽ bị vô hiệu.
Tự nguyện là sự thể hiện thống nhất giữa ý chí và hành động của các chủ thể
khi giao kết hợp đồng. Điều này có nghĩa là ý chí được biểu lộ ra bên ngoài bằng lời
nói, cử chỉ, hành động cụ thể, là ý chí thực sự của bên giao kết hợp đồng. Vi phạm
nguyên tắc tự nguyện trong luật dân sự nước ta xác định có thể do bị nhầm lẫn, bị
lừa dối, đe dọa buộc phải giao kết hợp đồng; hoặc trong trường hợp người có năng
lực hành vi dân sự nhưng lại giao kết hợp đồng đúng vào thời điểm mất năng lực
hành vi.
Tự nguyện ở đây còn biểu hiện ở chỗ các chủ thể hoàn toàn tự quyết định có
tham gia hay không tham gia vào giao dịch dân sự. Họ có quyền lựa chọn nội dung,
hình thức của hợp đồng phù hợp với điều kiện hoàn cảnh, trừ trường hợp mà nội
dung và hình thức do pháp luật quy định bắt buộc phải tuân theo khi giao kết hợp
đồng. Mọi lý do dẫn đến việc biểu lộ ý chí ra bên ngoài cho người khác nhận biết
không đúng với ý chí của họ đều bị coi là không hoàn toàn tự nguyện. Khi giao kết
hợp đồng vi phạm sự tự nguyện có thể dẫn đến việc tòa án xét lại hợp đồng và tuyên
bố hợp đồng bị vô hiệu.
Nguyên tắc giao kết hợp đồng phải bình đẳng cũng là nguyên tắc cơ bản của
luật dân sự. Bình đẳng nghĩa là các chủ thể khi tham gia vào quan hệ hợp đồng đều
có địa vị pháp lý như nhau mà không bên nào được lấy lý do có sự khác biệt về dân
tộc, giới tính, thành phần xã hội, hoàn cảnh kinh tế, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ
văn hóa, nghề nghiệp để đối xử không bình đẳng với bên kia. Sự bình đẳng pháp lý
giữa các chủ thể trong quan hệ trao đổi; không ngoài yếu tố có tính chất quyết định
chi phối; đó là quyền sở hữu với tài sản của mình, qua các nội dung chiếm hữu, sử
4
dụng, định đoạt. Với tư cách là chủ sở hữu tài sản thì giữa họ phải bình đẳng “Dùng
vật ngang giá đổi lấy vật ngang giá”. Nội dung của nguyên tắc bình đẳng trong giao
kết hợp đồng thể hiện: Khi thỏa thuận các bên được bình đẳng đưa ra các điều kiện,
những nội dung phù hợp với lợi ích của mình để đạt được mục đích đặt ra. Sự
hưởng quyền và thực hiện nghĩa vụ là tương ứng trong phạm vi mà các bên thỏa
thuận. Điều này rất có ý nghĩa trong giao kết hợp đồng bởi một khi giữa các bên
tham gia hợp đồng không có sự bình đẳng về địa vị pháp lý thì sự tự nguyện giao
kết hợp đồng cũng dễ bị vi phạm.
Thiện chí, hợp tác là việc các bên khi tham gia hợp đồng không chỉ quan tâm,
chăm lo đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình mà còn phải tôn trọng, quan tâm đến
lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác,
giúp đỡ tạo điều kiện cho nhau thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự. Nguyên tắc này
đảm bảo được bản chất pháp lý của hợp đồng là sự “thỏa thuận” giữa các bên. Sự
giao lưu ý chí đi đến thống nhất đòi hỏi thái độ thiện chí, hợp tác từ cả hai phía. Sự
thiện chí, hợp tác có ý nghĩa trong việc nhanh chóng thiết lập quan hệ hợp đồng với
nội dung công bằng, hợp lý hơn và xét đến cùng nó cũng là hậu quả tất yếu trong
việc đáp ứng thỏa mãn nhu cầu của con người.
Trung thực, ngay thẳng là không bên nào được lừa dối bên nào, không được
lợi dụng lòng tin của người khác để trục lợi; nếu một bên cho rằng bên kia không
trung thực thì phải có chứng cứ. Việc thực hiện nguyên tắc này nhằm mục đích bảo
đảm hiệu lực của hợp đồng đã giao kết. Hậu quả của sự không trung thực, ngay
thẳng là sự gian dối, lừa lọc khi giao kết hợp đồng làm thiệt hại quyền lợi một bên.
Những nguyên tắc cơ bản giao kết hợp đồng được ghi nhận trong Bộ luật Dân
sự nhằm tạo ra sự an toàn pháp lý cho các bên tham gia giao kết hợp đồng,hướng
dẫn xử sự của chủ thể trong quá trình giao kết, bảo đảm thiết lập quan hệ hợp đồng
hợp pháp.
5
2. Chủ thể giao kết hợp đồng dân sự
Trong hoạt động giao kết hợp đồng, các chủ thể phải đảm bảo các điều kiện
có hiệu lực của giao dịch theo quy định (Điều 122 BLDS 2005)
Điều kiện thứ nhất là: “Người tham gia giao dịch phải có năng lực hành vi
dân sự”. Pháp luật đã khẳng định quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật,
trong đó khả năng của cá nhân được hưởng quyền công dân và phải thực hiện những
nghĩa vụ dân sự là như nhau. Khả năng có quyền dân sự, nghĩa vụ dân sự chính là
năng lực pháp luật dân sự của cá nhân và năng lực pháp luật dân sự là bình đẳng đối
với mọi công dân. Năng lực hành vi dân sự của mỗi cá nhân phụ thuộc vào khả năng
nhận thức của cá nhân và căn cứ vào khả năng nhận thức để phân biệt mức độ năng
lực hành vi.
Điều kiện thứ hai là mục đích hay nội dung của hợp đồng không được trái với
pháp luật, đạo đức xã hội.
Quyền tự do ý chí được pháp luật tôn trọng, đảm bảo thực hiện ngoại trừ trường
hợp liên quan đến lợi ích chung của xã hội, đó cũng là điều kiện thứ yếu cần được
đảm bảo khi giao kết hợp đồng. Mục đích của giao dịch dân sự được xác định là lợi
ích hợp pháp mà các bên mong muốn đạt được khi lập giao dịch. Nội dung của giao
dịch không trái pk và đạo đức xã hội cũng không ngoài nguyên tắc cơ bản của luật
dân sự. Khi nhìn nhận toàn diện vấn đề thì những mục đích riêng mà các bên đặt ra
trong quan hệ hợp đồng, không chỉ tác động đến lợi ích của mỗi cá nhân đó. Mà ở
những mức độ khác nhau đều ảnh hưởng đến từng lĩnh vực của đời sống xã hội.
Điều kiện thứ ba được ghi nhận đó là: Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự
nguyện.
Điều kiện này cũng không ngoài việc đảm bảo bản chất pháp lý của hợp đồng.
Trong quan hệ hợp đồng, yếu tố tự nguyện của chủ thể là tuyệt đối, mọi biểu hiện
trái với sự tự nguyện do bị nhầm lẫn, bị lừa dối, bị đe dọa, hay ở trạng thái mất năng
lực hành vi dân sự đều có thể dẫn đến hậu quả hợp đồng vô hiệu. Tựu chung lại, sự
6
tự nguyện của chủ thể giao kết hợp đồng là điều kiện không thể thiếu để đảm bảo
cho hợp đồng đã giao kết có hiệu lực pháp luật.
Điều kiện thứ tư: Hình thức của giao dịch phù hợp với quy định của pháp luật.
Hình thức của hợp đồng là phương thức biểu hiện nội dung của hợp đồng. Hình thức
chính là căn cứ bảo đảm cho các bên phải thực hiện đúng những cam kết của mình.
Hình thức hợp đồng đặc biệt có ý nghĩa trong hoạt động tố tụng dân sự, nó được
xem là chứng cử để có thể xác định việc các bên giao kết hợp đồng. Về nguyên tắc
thì các bên có thể tự nguyện thỏa thuận về hình thức của hợp đồng. Tuy nhiên, trong
một số trường hợp nhất định, pháp luật bắt buộc hợp đồng phải được giao kết theo
quy định của pháp luật. Như vậy, việc giao kết hợp đồng đảm bảo điều kiện hình
thức phù hợp với quy định của pháp luật là cơ sở đánh giá hợp đồng có hiệu lực
pháp luật.
3. Trình tự giao kết hợp đồng dân sự
Trình tự giao kết hợp đồng là quá trình mà trong đó các bên chủ thể bày tỏ ý
chí với nhau bằng cách trao đổi ý kiến để đi đến thỏa thuận trong việc cùng nhau
làm xác lập những quyền và nghĩa vụ dân sự đối với nhau. Thực chất, đó là quá
trình mà hai bên “mặc cả” về những điều khoản trong nội dung của hợp đồng. Quá
trình này diễn ra thông qua hai giai đoạn:
3.1. Đề nghị giao kết hợp đồng
Hoạt động đầu tiên khi một người muốn thiết lập một hợp đồng dân sự thì ý
muốn đó phải thể hiện ra bên ngoài thông qua một hành vi nhất định. Chỉ có như
vậy, phía đối tác mới có thể nhận biết được ý muốn của họ và từ đó mới có thể đi
đến việc giao kết hợp đồng. Đề nghị giao kết hợp đồng là việc một bên bày tỏ ý chí
của mình muốn giao kết hợp đồng với một người cụ thể và chịu sự ràng buộc về đề
nghị này đối với bên đã được xác định cụ thể đó.
Việc đề nghị giao kết hợp đồng được thực hiện bằng nhiều cách khác nhau.
Người đề nghị có thể trực tiếp (đối mặt) với người được đề nghị để trao đổi, thỏa
thuận hoặc có thể thông qua điện thoại, internet,… Trong những trường hợp này,
7
thời hạn trả lời là một khoảng thời gian do hai bên thỏa thuận ấn định. Ngoài ra, đề
nghị giao kết còn có thể được thực hiện bằng việc chuyển công văn, giấy tờ qua
đường bưu điện. Trong những trường hợp này, thời hạn trả lời là khoảng thời gian
do hai bên ấn định.
Thời điểm mà đề nghị giao kết hợp đồng có hiệu lực do bên đề nghị ấn định.
Trong trường hợp bên đề nghị không ấn định thì đề nghị giao kết hợp đồng bắt đầu
có hiệu lực kể từ khi bên được đề nghị nhận được đề nghị đó. Bên được đề nghị
được coi là đã nhận được đề nghị giao kết hợp đồng khi đề nghị được chuyển đến
trụ sở, nếu là pháp nhân. Khi đề nghị được đưa vào hệ thống thông tin chính thức
của bên được đề nghị hoặc khi bên được đề nghị biết được đề nghị giao kết hợp
đồng thông qua các phương thức khác cũng được coi là đã nhận được đề nghị.
3.2. Thay đổi, hủy bỏ, chấm dứt đề nghị giao kết hợp đồng
Để bảo đảm quyền lợi cho người được đề nghị, theo quy định tại khoản 2
Điều 390 Bộ luật Dân sự: “Trong trường hợp đề nghị giao kết hợp đồng có nêu rõ
thời hạn trả lời, nếu bên đề nghị lại giao kết hợp đồng với người thứ ba trong thời
hạn chờ bên được đề nghị trả lời thì phải bổi thường thiệt hại cho bên đề nghị mà
không được giao kết hợp đồng nếu có thiệt hại phát sinh”.
Như vậy, lời đề nghị mặc dù chưa phải là một hợp đồng nhưng ít nhiều đã có
tính chất ràng buộc đối với người được đề nghị. Tuy nhiên, bên đề nghị vẫn có thể
thay đổi hoặc rút lại đề nghị trong các trường hợp sau:
- Bên được đề nghị chưa nhận lời đề nghị;
- Bên đề nghị có nêu rõ điều kiện được thay đổi hoặc rút lại đề nghị và điều
kiện đó đã đến.
Khi bên được đề nghị đã chấp nhận giao kết hợp đồng, nhưng có nêu điều
kiện hoặc sửa đổi đề nghị, thì cũng coi như bên được đề nghị đưa ra đề nghị mới.
Người được đề nghị có thể chấp nhận toàn bộ nội dung đề nghị, cũng có thể chỉ
chấp nhận một phần trong nội dung đó hoặc cũng có thể chỉ chấp nhận việc giao kết
hợp đồng nhưng không đồng ý với nội dung mà bên đề nghị đã đưa ra. Nghĩa là
8
trong những trường hợp này, người được đề nghị muốn sửa đổi hoặc thay đổi nội
dung mà người đề nghị đã đưa ra. Vì vậy, họ sẽ trở thành người đề nghị mới và
người đã đề nghị trước đó lại trở thành người được đề nghị. Người đề nghị mới cũng
chịu sự ràng buộc của mình về những nội dung đã đề nghị. Sự hoán vị này có thể
xảy ra nhiều lần cho đến khi nào các bên thống nhất thỏa thuận được với nhau toàn
bộ nội dung của hợp đồng thì sẽ đi đến chính thức giao kết hợp đồng.
Bên đề nghị cũng có quyền hủy bỏ đề nghị trong đề nghị giao kết hợp đồng.
Tuy nhiện, bên đề nghị đó phải thông báo cho bên được đề nghị. Thông báo này chỉ
có hiệu lực khi bên được đề nghị nhận được thông báo trước khi bên được đề nghị
trả lời chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng.
Đề nghị giao kết hợp đồng hợp đồng được coi là chấm dứt khi có một trong
những trường hợp sau đây ( Điều 394 Bộ luật Dân sự):
- Bên nhận được đề nghị không chấp nhận;
- Hết thời hạn trả lời chấp nhận;
- Khi thông báo về việc thay đổi hoặc rút lai đề nghị có hiệu lức. Bên được
đề nghị giao kết hợp đồng có thể thay đổi hoặc rút lại thông báo đề nghị giao kết
hợp đồng, song thông báo thay đổi, rút lại đề nghị giao kết hợp đồng đó phải đến
trước hoặc cùng với thời điểm thông báo trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng. Khi
đó đề nghị giao kết hợp đồng được coi là chấm dứt;
- Khi thông báo về việc hủy bỏ đề nghị có hiệu lực;
- Theo thỏa thuận của bên đề nghị và bên nhận được đề nghị trong thời hạn
chờ bên được đề nghị trả lời.
3.3. Chấp nhận giao kết hợp đồng
Là việc bên được đề nghị nhận toàn bộ lời đề nghị và đồng ý tiến hành việc
giao kết hợp đồng với người đã đề nghị. Về nguyên tắc, bên được đề nghị phải trả
lời ngay về việc có chấp nhận giao kết hợp đồng hay không. Khi bên được đề nghị
giao kết hợp đồng chấp nhận đề nghị thì hợp đồng đó coi như đã được giao kết.
Trong những trường hợp cần phải có thời gian để bên đề nghị cân nhắc, suy nghĩ mà
9
các bên đã ấn định thời hạn trả lời thì bên được đề nghị phải trả lời trong thời hạn
đó. Nếu sau thời hạn nói trên, bên được đề nghị mới trả lời về việc chấp nhận giao
kết hợp đồng thì lời chấp nhận đó được coi như một lời đề nghị mới của bên chậm
trả lời.
Nếu việc trả lời được chuyển qua bưu điện thì ngày gửi đi theo dấu bưu điện
được coi là thời điểm trả lời. Căn cứ vào thời điểm đó để bên đã đề nghị xác định
việc trả lời có chậm hay không so với thời hạn đã ấn định.
Bên được đề nghị giao kết hợp đồng có thể rút lại thông báo chấp nhận giao
kết hợp đồng nếu như thông báo rút lại thông báo chấp nhận đó đến trước hoặc cùng
với thời điểm bên đề nghị nhận được trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng.
Đối với trường hợp sau khi bên được đề nghị giao kết hợp đồng trả lời chấp
nhận giao kết hợp đồng mà bên đề nghị chết hoặc mất năng lực hành vi dân sự thì đề
nghị giao kết hợp đồng của bên đề nghị đã chết hoặc mất năng lực hành vi dân sự
vẫn được coi là có giá trị. Ngược lại, đối với những trường hợp mà sau khi giao kết
hợp đồng, bên được đề nghị giao kết hợp đồng chết hoặc mất năng lực hành vi dân
sự thì chấp nhận giao kết hợp đồng của bên được đề nghị đã chết hoặc mất năng lực
hành vi dân sự cũng được coi là có giá trị.
4. Thời điểm giao kết hợp đồng dân sự
Việc xác định thời điểm giao kết hợp đồng có ý nghĩa quan trọng đối với các
bên tham gia giao kết hợp đồng. Bởi thông thường, nếu các bên không có sự thỏa
thuận khác thì thời điểm giao kết hợp đồng cũng là thời điểm phát sinh hiệu lực hợp
đồng. Kể từ thời điểm đó hợp đồng có hiệu lực bắt buộc đối với các bên. Có nghĩa
khi xác định được thời điểm giao kết hợp đồng là xác định được thời điểm phát sinh
quyền và nghĩa vụ dân sự cảu các bên trong hợp đồng, nếu các bên tham gia giao kết
hợp đồng không có thỏa thuận khác hoặc pháp luật không có quy định khác.
Về nguyên tắc hợp đồng được giao kết vào thời điểm bên ddeeef nghị nhận
được trả lời chấp nhận đề nghị hoặc khi các bên thỏa thuận xong nội dung chủ yếu
của hợp đồng. Ở đây pháp luật cũng dự liệu trường hợp chấp nhận đề nghị bằng sự
10
im lặng khi đã hết thời bạn trả lời nếu các bên có thỏa thuận. Điều này cho tháy
trong mọi trường hợp, sự thỏa thuận, sự tự nguyện của các bên luôn được pháp luật
dân sự tôn trọng và đảm bảo thực hiện. Trong Bộ luật Dân sự thời điểm giao kết hợp
đồng được xác định theo yếu tố hình thức của hợp đồng: Hợp đồng miệng hay hợp
đồng văn bản đều phải có chứng thực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, chứng
nhận, đăng ký, xin phép. Điều này cũng phản ánh sự đa dạng, phong phú về hình
thức của hợp đồng và sự cần thiết phải xác định thời điểm giao kết hợp đồng theo
hình thức đó. Quy định này trong Bộ luật Dân sự cũng thể hiện nét phong tục tập
quán khi kết ước hợp đồng, nó được kết hợp hài hòa với nguyên tắc pháp lý hiện
đại.
Với hợp đồng miệng thời điểm giao kết được xác định là thời điểm các bên
trực tiếp thỏa thuận xong nội dung của hợp đồng. Quy định này hoàn toàn phù hợp
với tập quán mua bán, trao đổi thông thường diễn ra hàng ngày trong đời sống. Đối
với hợp đồng bằng văn bản, thì thời điểm giao kết là thời điểm bên sau cùng ký vào
văn bản. Quy định này chỉ ra một thời điểm giao kết hợp đồng một cách đích xác
của hình thức này.
Thời điểm giao kết hợp đồng không chỉ có ý nghĩa thực tiễn mà điều quan
trọng là giá trị pháp lý khi xác định thời điểm. Nó là cơ sở để xác định thời điểm có
hiệu lực của hợp đồng.
5. Địa điểm giao kết hợp đồng dân sự
Việc xác định địa điểm giao kết hợp đồng cũng có ý nghĩa quan trọng trong
việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của các bên đã thỏa thuận trong hợp đồng. Về
nguyên tắc, các bên có quyền thỏa thuận lấy bất cứ nơi nào làm địa điểm giao kết
hợp đồng. Trường hợp các bên không có thỏa thuận khác thì địa điểm giao kết hợp
đồng được xác định là nơi cư trú của cá nhân hoặc trụ sở của pháp nhân đã đưa ra
lời đề nghị giao kết hợp đồng.
Nơi đặt trụ sở của pháp nhân là nơi đặt cơ quan điều hành của pháp nhân đó
(Điều 90 Bộ luật Dân sự). Còn nơi cư trú của cá nhân theo quy định tại Điều 52 Bộ
11
luật Dân sự là “nơi người đó thường xuyên sinh sống”.
Nơi cư trú của người chưa thành niên là nơi cư trú của cha, mẹ. Nếu cha, mẹ
có nơi cư trú khác nhau thì nơi cư trú của người đó là nơi cư trú của cha hoặc mẹ.
Nơi cư trú của người giám hộ là nơi cư trú của người giám hộ. Nơi cư trú cảu quân
nhân đang làm nghĩa vụ quân sự là nơi đơn vị đóng quân, trừ trường hợp họ có nơi
thường xuyên cư trú. Nơi cư trú của người làm nghề lưu động trên tàu, thuyền,
phương tiện hành nghề lưu động khác là nơi đăng ký tàu, thuyền, phương tiện đó,
nếu họ không có nơi cư trú thường xuyên.
II. THỰC TIỄN VỀ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG DÂN SỰ
1. Kết quả đạt được
Việc giao kết hợp đồng dân sự là việc xác lập quan hệ hợp đồng giữa các chủ
thể. Và khi hợp đồng được giao kết hợp pháp thì phát sinh hiệu lực của hợp đồng.
Thực tiễn giao kết hợp đồng cho thấy, phần lớn các chủ thể tham gia giao kết nắm
được căn cứ cơ bản của việc giao kết. Những quy định của pháp luật cũng phù hợp
với tập quán, “văn hóa mua bán” của người dân Việt, vì thế, việc giao kết hợp đồng
phần lớn đã đảm bảo được các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự theo quy
định của pháp luật.
Tùy vào từng chủ thể tham gia và mục đích ký kết hợp đồng mà việc áp dụng
pháp luật vào giao kết hợp đồng có sự khác nhau. Trong những năm qua, cùng với
sự phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, những quy định về hợp
đồng dân sự mà cụ thể là việc giao kết hợp đồng đã phát huy vai trò quan trọng
trong việc tạo lập hành lang pháp lý điều chỉnh các giao dịch dân sự, góp phần thúc
đẩy phát triển kinh tế, xã hội, bảo vệ quyền, lợi ích pháp cảu cá nhân, tổ chức, lợi
ích của Nhà nước và lợi ích công cộng. Chế định hợp đồng trong Bộ luật Dân sự
được coi là một chế định quan trọng bởi nó được coi là nền tảng cho pháp luật về
hợp đồng nói chung, điều chỉnh các quan hệ hợp đồng được xác lập trên nguyên tắc
bình đẳng, tự nguyện, tự thỏa thuận và tự chịu trách nhiệm.
12
Việc đưa ra các quy định về giao kết hợp đồng dân sự đã đánh dấu bước phát
triển hoàn thiện của pháp luật dân sự về hợp đồng ở nước ta. Những quy định cụ thể
nêu ra trong Bộ luật Dân sự đã giúp cá nhân, tổ chức,… các chủ thể tham gia giao
kết hợp đồng thực hiện việc giao kết một cách tự do, tự nguyện trong khuôn khổ
pháp luật quy định.
2. Các vi phạm trong việc giao kết hợp đồng qua thực tiễn xét xử của Tòa án
nhân dân
Trên thực tế không ít những trường hợp giao kết không bảo đảm được các
điều kiện có hiêu lực của hợp đồng. Việc vi phạm một trong các điều kiện có hiệu
lực của hợp đồng, hoặc thiếu một trong những điều kiện đó dẫn đến hợp đồng bị vô
hiệu.
Đối với loại hợp đồng vô hiệu tương đối trên thực tế xem xét loại hợp đồng
vô hiệu này cho thấy: việc vi phạm ý chí tự nguyện của các bên do bị nhầm lẫn hoặc
bị lừa dối thường xảy ra. Lý do hợp đồng vô hiệu do bị đe dọa là rất hiếm, hay nói
cách khác rất ít khi xảy ra. Trường hợp hợp đồng được giao kết khi một trong các
bên không bảo đảm điều kiện về năng lực hành vi cũng thường xảy ra trên thực tế.
Nhưng ở những trường hợp này, người đại diện cho người chưa có năng lực hành vi
khi phát hiện có thể khởi kiện để hủy hợp đồng, hoặc không khởi kiện hủy hợp đồng
bởi thực tế hợp đồng tuy không đảm bảo điều kiện năng lực hành vi có thể nhưng
việc thực hiện hợp đồng không có thiệt hại xảy ra, hợp đồng vẫn đảm bảo sự công
bằng về lợi ích giữa các bên tham gia. Phần nhiều hợp đồng vô hiệu tương đối là do
nguyên nhân bị lừa dối, ví dụ trong một hợp đồng mua bán nhà ở giữa anh Lê Hữu
và chị Tôn Ngọc Nhã. Ngày 27/9/2007 anh Hữu bán căn nhà KP4/97a thị trấn Gò
Dầu Tây Ninh với diện tích 6m x 18m cho chị Tôn Ngọc Nhã với giá 20 lượng
vàng. Chị Nhã đa trả cho anh Mậu 18 lượng vàng, còn lại hai lượng thì thỏa thuận
khi nào nhận nhà sẽ giao nốt. Giấy mua bán đã được ủy ban nhân dân thị trấn chứng
nhận, nhưng chưa làm thủ tục chứng nhận trước bạ sang tên. Sau hai tháng, ngày 27-
11-2007 anh Hữu bán 1/2 căn nhà trên cho anh Nguyễn Văn Đức, diện tích 3 x 18m
13
với giá 15 lượng vàng. Việc mua bán này đã được sang tên, anh Đức dọn đến ở thì
xảy ra tranh chấp.
Tòa án nhân dân Tây Ninh đã hủy hợp đồng mua bán giữa anh Hữu và anh
Đức; công nhận hợp đồng mua bán giữa anh Hữu và chị Nhã. Trong vụ kiện trên
cho thấy việc mua bán giữa anh Hữu và chị Nhã là hoàn toàn tự nguyện và chị Nhã
đã thực hiện nghĩa vụ gần như hoàn thành trên thực tế, mặc dù chưa làm thủ tục
trước bạ sang tên. Việc anh Hữu thực hiện mua bán với anh Đức vi phạm nguyên tắc
tự nguyện, trong quan hệ này anh Hữu có ý thức lừa dối vì mục đích tư lợi. Về thực
chất, quyền đinh đoạt của anh Hữu với ngôi nhà đã gần như không còn, nó bị hạn
chế bởi quyền được sở hữu của chị Nhã, khi đã hợp thức về thủ tục. Quan hệ mua
bán đã hoàn thành trên thực tế, chỉ con chờ sự ghi nhận của pháp luật mà thôi. Bản
án quyết đinh hủy hợp đồng mua bán giữa anh Hữu và anh Đức của tòa án nhân dân
tỉnh Tây Ninh là phù hợp với pháp luật.
Đối với loại hợp đồng vô hiệu tuyệt đối là trường hợp giao kết vi phạm điều
cấm của pháp luật, giao kết do giả tạo và giao kết do vi phạm về hình thức. Đây là
trường hợp hợp đồng dương nhiên bị vô hiệu và về nguyên tắc phải hủy hợp đồng.
Trong Bộ luật Dân sự cũng xác định thời hiệu khởi kiện để yêu cầu xác định hợp
đồng bị vô hiệu là vô thời hạn. Mức độ hợp lý của quy định đã được bàn đến trong
phần hợp đồng vô hiệu. Trên thực tế nếu đối tượng của hợp đồng là vật không được
phép giao dịch (vi phạm điều cấm của pháp luật), thì trong mọi trường hợp đều dẫn
đến hậu quả hợp đồng vô hiệu. Ví dụ như các giao dịch có đối tượng giao dịch là
thuốc phiện, vũ khí, là những hàng hóa mà Nhà nước thống nhất quản lý không
được phép lưu thông trong thị trường tự do. Thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân
đã có những vụ án vi phạm điều kiện này.
Trường hợp hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều kiện về hình thức. Về nguyên
tắc, hình thức của hợp đồng do các bên thỏa thuận. Nhưng đối với một số loại hợp
đồng do tầm quan trọng của nó pháp luật quy định hình thức bắt buộc của loại hợp
đồng đó mà khi giao kết hợp đồng các bên phải tuân thủ. Nổi lên trong các trường
14
hợp này là hình thức của hợp đồng mua bán nhà ở, luật pháp có quy định đối với
loại hợp đồng vi phạm hình thức, Tòa án dành cho một thời gian nhất định để hoàn
tất hình thức thủ tục theo quy định của pháp luật. Nếu hết thời hạn quy định mà hình
thức của hợp đồng vẫn bị vi phạm thì Tòa án có thể hủy hợp đồng. Trên thực tế hợp
đồng vi phạm hình thức có thể do các bên thiếu sự hiểu biết cần thiết về pháp luật.
Có thể vì trốn tránh nộp thuế mà các bên bỏ qua việc tuân thủ hình thức này. Do đó
nhiều trường hợp một trong các bên đã lợi dụng sơ hở về hình thức để xin hủy hợp
đồng. Vì vậy, trên thực tế, khi xét xử hợp đồng vi phạm điều kiện hình thức các tòa
án luôn tính đến yếu tố tự nguyện của chủ thể khi giao kết hợp đồng, nhất là khi hợp
đồng được hoàn thành trên thực tế, hoặc gần như đã hoàn thành trên thực tế. Điều
này không ngoài mục đích ổn định giao lưu dân sự, bảo vệ lợi ích chính đáng của
các bên trong hợp đồng.
Việc giải quyết hợp đồng vô hiệu trong nhiều trường hợp rất phức tạp. Qua
thực tiễn xét xử của các tòa án cho thấy không phải ngay sau khi hợp đồng được
giao kết các bên phát hiện ngay vi phạm và tự nguyện xin hủy hợp đồng. Không ít
các trường hợp hợp đồng đã được thực hiện toàn bộ hoặc một phần các bên mới
phát hiện ra vi phạm và xin hủy hợp đồng. Thường là việc các bên xin hủy hợp đồng
không phải hoàn toàn do các bên tự nguyện, mà là bên có lợi xin hủy hợp đồng. Do
đó vấn đề giải quyết tranh chấp về hậu quả hợp đồng vô hiệu gặp nhiều khó khăn.
Quy định về xử lý hậu quả hợp đồng vô hiệu được Bộ luật Dân sự quy định khá cụ
thể. Tuy nhiên trên thực tế còn có rất nhiều vấn đề phải xử lý mà pháp luật không
thể giải quyết hết được.
Ví dụ: Mua bán nhà 368 Tây Sơn, Đống Đa, Hà Nội là di sản thừa kế chưa
chia của bà Linh, ông Thực, ông Thanh, bà Loan, bà Liên gồm hai phòng, 16m
2
và
20m
2
. Năm 2006 ông Thực bán phòng 20m
2
cho ông Hoàng với giá hai tỷ đồng; ông
Thực đã nhận 1 tỷ 600 triệu còn lại 400 triệu, hẹn khi nào hoàn tất thủ tục ông
Hoàng trả nốt. Tháng 4/2007, chị em ông Thực phát hiện ra việc mua bán, bà Linh
đã đứng ra ngăn cản, nên ông Hoàng không được vào nhà.
15
Tháng 11/2010, Ủy ban phường giải quyết kéo dài đến tháng 3/2011. Ông
Thực phải trả tiền cho ông Hoàng. Ông Thực không đồng ý trả trượt giá nên ủy ban
phường cho ông Hoàng ở phòng 20m
2
. Án phúc thẩm đã chấp nhận ông Hoàng được
mua 1/2 phòng 20m
2
. Ông Thực phải trả lại cho ông Hoàng 1/2 số tiền đã nhận
tương đương với giá trị đồng tiền khi xử sơ thẩm. Tòa án tối cao xử hủy hợp đồng
mua bán buộc các thừa kế hoàn tiền mua nhà cho ông Hoàng theo giá nhà lúc xử sơ
thẩm lại.
Trường hợp do vi phạm hợp đồng dẫn đến thiệt hại xảy ra, Tòa án căn cứ vào
mức độ lỗi của các bên để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Trên thực tế
việc đánh giá mức độ lỗi của các bên và trách nhiệm dân sự đối với thiệt hại là vấn
đề khó khăn, không ít vụ kiện kéo dài tranh chấp và qua nhiều lần, nhiều cấp xét xử
về việc quy trách nhiệm chịu thiệt hại đã xảy ra.
Xét về nguyên lý giao kết hợp đồng vi phạm các điều kiện có hiệu lực của
hợp đồng, các TAND đều xét xử theo phương hướng hủy hợp đồng. Tuy nhiên trong
thực tiễn xét xử căn cứ vào tính chất vô hiệu tuyệt đối, vô hiệu tương đối, căn cứ
hợp đồng đã hoàn thành trong thời hạn quá lâu, hậu quả của hợp đồng đã không thể
khắc phục được. Và để ổn định giao lưu dân sự trong những trường hợp nhất định có
thể tòa án vẫn duy trì hiệu lực hợp đồng, hoặc xem xét chấp nhận một phần hợp
đồng như trong trường hợp đối tượng là di sản thừa kế chưa chia, Tòa án chấp nhận
phần hợp đồng tương đương với kỷ phần thừa kế mà bên tham gia hợp đồng được
hưởng. Hoặc trường hợp tài sản chung của nhiều đồng sở hữu, nhưng hợp đồng đã
thực hiện quá lâu, Tòa án có thể chấp nhận hợp đồng và giải quyết hâu quả thông
qua việc bồi thường cho các đồng sở hữu chủ bị thiệt hại.
Từ đó cho thấy, thực tiễn về giao kết hợp đồng rất phức tạp, những quy định
của pháp luật luôn ở trạng thái tĩnh, trong khi các giao dịch dân sự dẫn đến việc ký
kết lại diễn ra khá đa dạng và phức tạp qua từng ngày.
3. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả pháp luật về giao kết hợp đồng
dân sự
16
Sau khi nghiên cứu về thực trạng pháp luật về giao kết hợp đồng, nhận thấy
rằng việc giao kết hợp đồng dân sự còn có nhiều bất cập. Bởi vậy, cần thiết phải có
những điều chỉnh từ các nhà lập pháp và từ chính các chủ thể tham gia giao kết. Từ
đó, em xin đưa ra một vài kiến nghị như sau:
Thứ nhất, cần nâng cao ý thức pháp luật của mỗi người dân khi tham gia giao
kết hợp đồng dân sự. Biểu hiện cụ thể như việc tôn trọng đối tác, trung thực, không
lừa dối, đe dọa người khác để ép buộc họ ký kết hợp đồng. Việc ký kết và thực hiện
hợp đồng không chỉ là quan hệ đến lợi ích của những chủ thể tham gia ký kết hợp
đồng, mà nó còn ảnh hưởng đến lợi ích chung của xã hội, của cộng đồng và thuần
phong mỹ tục của xã hội. Vì vậy, các bên được tự giao kết hợp đồng nhưng mỗi chủ
thể khi tham gia giao kết hợp đồng cũng cần phải tự ý thức để việc ký kết của mình
không trái pháp luật và đạo đức xã hội.
Thứ hai, với các nhà lập pháp, cần có những biện pháp nghiêm trị đối với
những hành vi vi phạm quy định về giao kết hợp đồng. Bên cạnh đó, cần có những
quy định chi tiết, cụ thể về trình tự, phương thức giao kết. Mặc dù pháp luật tôn
trọng quyền tự do, tự nguyện ký kết hợp đồng của các chủ thể, nhưng quyền tự do
đó phải luôn trong một khuôn khổ pháp lý cụ thể và cần phải có hướng dẫn chi tiết
để tránh trường hợp hợp đồng vi phạm về nội dung hoặc hình thức do hiểu không
đúng những quy định của pháp luật.
Thứ ba, cần nâng cao hiệu quả của các cơ quan giải quyết tranh chấp, nhất là
Tòa án kinh tế, đảm bảo quyền và lợi ích của chủ thể đều được pháp luật bảo vệ.
Qua đó, tạo niềm tin đối với các chủ thể khi tham gia giao kết hợp đồng. Đồng thời
nâng cao trách nhiệm của mỗi chủ thể trong quan hệ dân sự được tạo lập.
Trên đây là một số kiến nghị của em với mong muốn góp một phần nhỏ của
mình vào việc hoàn thiện hơn cơ chế pháp lý về giao kết hợp đồng dân sự trong hệ
thống pháp luật hiện hành.
C. KẾT THÚC VẤN ĐỀ
17
Cùng với sự phát triển kinh tế thị trường và những bước tiến vượt bậc của nền
kinh tế nước ta trong nhiều năm qua, cho thấy, những quy định về hợp đồng dân sự
mà cụ thể là việc giao kết hợp đồng đã phát huy vai trò quan trọng trong việc tạo lập
hành lang pháp lý điều chỉnh các giao dịch dân sự, góp phần thúc đẩy phát triển kinh
tế, xã hội, bảo vệ quyền, lợi ích pháp của cá nhân, tổ chức, lợi ích của Nhà nước và
lợi ích công cộng. Chế định hợp đồng trong Bộ luật Dân sự được coi là một chế định
quan trọng bởi nó được coi là nền tảng cho pháp luật về hợp đồng nói chung, điều
chỉnh các quan hệ hợp đồng được xác lập trên nguyên tắc bình đẳng, tự nguyện, tự
thỏa thuận và tự chịu trách nhiệm. Nhận thức được tầm quan trọng của việc giao kết
hợp đồng, mỗi chủ thể tham gia và nhà lập pháp cần có những biện pháp đúng đắn
để bảo vệ lợi ích của các bên tham gia, của Nhà nước và của toàn xã hội.
18
MỤC LỤC
Trang
A. Lời mở đầu 1
B. Giải quyết vấn đề 1
I. Lý luận về giao kết hợp đồng dân sự theo quy định của pháp luật hiện hành 1
1. Nguyên tắc giao kết hợp đồng dân sự 1
1.1. Nguyên tắc tự do giao kết hợp đồng, nhưng không được trái với pháp
luật, đạo đức xã hội 2
1.2. Nguyên tắc tự nguyên, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay
thẳng 3
2. Chủ thể giao kết hợp đồng dân sự 6
3. Trình tự giao kết hợp đồng dân sự 7
3.1. Đề nghị giao kết hợp đồng 7
3.2. Thay đổi, hủy bỏ, chấm dứt đề nghị giao kết hợp đồng 8
3.3. Chấp nhận giao kết hợp đồng 9
4. Thời điểm giao kết hợp đồng dân sự 10
5. Địa điểm giao kết hợp đồng dân sự 11
II. Thực tiễn về giao kết hợp đồng 12
1. Kết quả đạt được 12
2. Các vi phạm trong việc giao kết hợp đồng qua thực tiễn xét xử của Tòa án
nhân dân 13
3. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả pháp luật về giao kết hợp đồng
dân sự 16
C. Kết thúc vấn đề 18
19
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật dân sự Việt Nam, Tập 2, Nxb.
CAND, Hà Nội, 2009.
2. Bộ luật Dân sự 2005.
3.
4. Đề nghị và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng, Hải Yến, Luật học, số
5/1998, trang 33-37.
5. Một số vấn đề về lý luận và thực tiễn về hợp đồng dân sự, Luận án thạc sỹ
luật học, Trần Kim Chi, Hà Nội, Trường Đại học Luật Hà Nội, 1997.
20